Chương Hai
VIPASSANA KAMMATTHANA
VIPASSANA KAMMATTHANA LÀ GÌ?
Mệnh đề Vipassana Kammatthana ở đây chia ra thành hai:
1. VIPASSANA: Chiếu Kiến (Minh Sát)
2. KAMMATTHANA: Nghiệp Xứ (Nền Tảng Hành)
Như vậy, Vipassana Kammatthana dịch là "Chiếu Kiến Nghiệp Xứ". Theo Ngài Anuruddha viết trong tập Abhidham-mattha Sangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận) thì có
- 7 Thanh Tịnh (Visuddhi),
- 3 Tướng (Lakkhana),
- 3 Tùy Quán (Anupassana),
- 10 Trí (Nana),
- 3 Giải Thoát (Vimokkha).
Ðó là những công thức cần phải được biết đến trong tiến trình giác ngộ Níp Bàn, nhưng không được cho hành giả biết trước, vì hành giả biết trước thì sẽ khởi tâm vọng mống. Tâm vọng mống là thuộc về giặc phiền não, mà phiền não thì phải sát trừ chứ không được nuôi dưỡng. Nếu nuôi dưỡng Tâm phiền não tức thì chấp thủ Cảnh phiền não. Nếu hành giả nuôi dưỡng Tâm phiền não và chấp thủ Cảnh phiền não thì đã đi sai Chánh Ðạo.
Bởi thế, ở đây chỉ trình bày những gì có thể trình bày cho hành giả biết, tức là cần cho biết những gì đáng biết, phải cần biết để hành, những gì chưa hành tới được xem như là chưa đúng lúc cần phải biết.
Chương Ba
ÐƯỜNG VÀO THỰC TẠI - AN TRÚ CHÁNH NIỆM
Trước hết, hành giả tập Chánh Niệm cho vững chắc:
- Khi đi, phải chú tâm biết rõ trạng thái đi.
- Khi đứng, phải chú tâm biết rõ trạng thái đứng
- Khi ngồi, phải chú tâm biết rõ trạng thái ngồi.
- Khi nằm, phải chú tâm biết rõ trạng thái nằm.
- Khi ăn, phải chú tâm biết rõ trạng thái ăn
- Khi uống, phải chú tâm biết rõ trạng thái uống
- Khi đại tiện, phải chú tâm biết rõ trạng thái đại tiện
- Khi tiểu tiện, phải chú tâm biết rõ trạng thái tiểu tiện.
Nói tóm lại, nhất cử, nhất động của Thân, hành giả phải chú tâm biết rõ. Trừ oai nghi Ði, còn lại ba oai nghi Ðứng, Nằm, Ngồi sau khi chú tâm biết rõ xong rồi, nếu không có động tác nào mới, thì hành giả chú tâm vào hơi thở:
- Khi thở vô dài, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở vô dài.
- Khi thở vô ngắn, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở vô ngắn.
- Khi thở ra dài, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở ra dài.
- Khi thở ra ngắn, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở ra ngắn.
- Khi thở vô thô, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở vô thô.
- Khi thở vô tế, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở vô tế.
- Khi thở ra thô, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở ra thô.
- Khi thở ra tế, phải chú tâm biết rõ trạng thái thở ra tế.
Tóm lại, hơi thở như thế nào, hành giả phải có Chánh Niệm (Sati) biết rõ như thế đó. Ngoài ra, còn các tiểu oai nghi khác như co tay, co chân, duỗi tay, duỗi chân, gật đầu, lắc đầu, nói, cười, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng ... hành giả đều phải tập chú Tâm biết rõ. Nếu Tâm phóng đi thì biết: Tâm phóng đi. Nếu lỡ quên Niệm, khi nào nhớ lại thì bắt đầu Niệm ngay những gì đang có mặt trong khi đó. Nên nhận thức rằng sự biết có 3 loại:
- Sự biết của TƯỞNG: Biết cái đã biết.
- Sự biết của THỨC: Biết cảnh hiện hữu.
- Sự biết của TRÍ: Biết rõ thực trạng của cảnh hiện hữu (Tức là biết cái chưa từng biết).
Trong khi Thiền Chỉ (SAMATHA) cần cái biết của Tưởng bao nhiêu thì trong Thiền Quán (VIPASSANA) lại cấm kỵ cái biết của Tưởng (SANNA) bấy nhiêu. Hành giả nên cần có Niệm (SATI) kềm Tâm trong cái biết của Thức (VINNANA) để chờ đợi cái biết của Trí (NANA). Bởi phương pháp Chiếu Kiến Nghiệp Xứ là phải lột bỏ Chế định (PANNATTI), và cần thấy rõ Pháp Thực Tướng (SABHAVADHANNA), tức là loại bỏ Tục Ðế (SAMMUTISACCA), để thấy rõ Chân Ðế (PARANATTHA-SACCA).
Trên phương diện Trí Tu (NANABHAVANA), Chế định hay Tục đế như lớp mây thịt, hay hột cườm che án con ngươi trong tròng con mắt. Nếu người nào bị mây hay cườm che bít con ngươi thì mắt người đó không thể trông thấy được vật gì trước mắt. Cũng như thế, khi hành giả chưa lột được lớp mây Chế định, Tuệ nhãn không thể thấy được bản thể của Pháp. Cảnh Chân đế là Sở tri của Niệm theo pháp Vipassana phải là Hiện tại. Nếu không phải là cảnh hiện tại thì không phải là đối tượng tu tập VIPASSANA. Như vậy, đối tượng tu tập Vipassana nhất định bắt buộc hành giả phải biết rõ đó là cảnh có thật (thực tướng) và là cảnh hiện tại, chứ không phải là cảnh chế định, hay cảnh quá khứ, hoặc cảnh vị lai.
Khi mặc áo, nếu chúng ta lỡ mặc lộn thì có thể mặc lại, nhưng nếu Niệm lộn thì không thể Niệm lại,. Bởi vì cái áo nếu chúng ta lỡ mặc trái thì vẫn còn đó; nhưng tâm thức, nếu quên thì nó đã trở thành quá khứ, nên không thể Niệm bổ túc như chúng ta bổ túc hồ sơ. Nếu hành giả đưa tay ra nhận một vật gì đó mà quên Niệm, khi chợt nhớ ra thì cứ Niệm ngay cái gì đang hiện hữu, chứ không cần phải co tay vào rồi từ từ đưa ra để Niệm, vì hành giả phải Niệm (ghi nhận) cái đang có mặt, chứ không cần phải chuộc lại được cái quên Niệm khi nãy, như người ta chuộc hay xin lại món đồ đã lỡ bỏ quên. Người mới tập chạy xe đạp, nếu lỡ té ngã, thì đứng lên tập chạy lai, chỉ có nghĩa là tập chạy cho được, chứ không phải làm lại để khỏi cái té ngã khi nãy. Nhưng có thể khỏi sợ bị té ngã nữa, vì mỗi lúc tập chạy ấy đã có thêm kinh nghiệm, nên rất chú tâm và hết sức thận trọng.
Ở đây, chúng ta cũng nên lưu ý rằng Pháp Học chỉ cho chúng ta hiểu biết về phương pháp thực hành mà thôi, còn sự thực chứng thì hành giả phải thực tập. Tuy nhiên, ta không thể chối bỏ Pháp Học được. Có nhiều vị thiền sư lý luận rằng: "Ðứng trước một con sư tử thật (ngũ uẩn) thì cần gì phải nhìn vào bức ảnh (Pháp Học) chụp hình sư tử". Nếu lý luận như vậy thì chúng ta thử nghĩ: Nếu Pháp Học (bức ảnh) không cần thiết thì tại sao Ðức Phật lại dạy? Chẳng lẽ hồi thời Ðức Phật, chúng sinh không có ngũ uẩn (con sư tử thật) hay sao?
Trong Kinh Ðại Bát Níp Bàn (MAHA PARINIBBANA) Ðức Phật có dạy rằng "Sau này sẽ có những vị tỳ khưu tuyên bố rằng: Chính tôi được thọ trì Pháp của Ðức Thế Tôn như vầy... như vầy... Lúc ấy, các người không nên vội vàng chấp nhận, cũng không nên vội vàng bác bỏ, mà nên đem những điều đó đối chiếu với Kinh, so sánh với Luật, nếu thấy tương ưng với Kinh, khế hợp với Luật thì nên thọ trì; bằng trái với Kinh, sai với Luật thì nên bác bỏ". Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Ðức Phật dạy rằng: "Dù thuộc nhiều kinh điển, nhưng không hành trì, lại phóng dật, thì chẳng khác đếm bò người, không hưởng Sa môn hạnh" và trái lại: "Dù thuộc ít kinh điển, nhưng y giáo phụng hành, từ bỏ tham, sân, si, giác tỉnh, tâm giải thoát, thì tất sẽ hưởng Sa môn hạnh." Như vậy, chỉ có nghĩa là Ðức Phật khiển trách người Học mà không Hành, chứ đâu phải Ngài bác bỏ Pháp Học.
Mà Pháp Học là gì? Chính là những lời chỉ dạy để Hành kia mà! Ngay cả những vị thiền sư chủ trương "bất lập văn tự" thì những gì các vị ấy chỉ dạy cho người khác đều được ghi chép lại, đó chẳng thuộc về Pháp Học ư? Và nếu "không cần học" thì những lời lẽ của các vị ấy nói cũng phải bỏ luôn? Sự thật chúng ta học để hành, chứ không phải chỉ học suông. Nếu học suông thì không thực chứng được đạo quả. Và bổn phận của Pháp Sư hay Thiền Sư là nên làm cho sáng tỏ Phật ngôn bằng cả lý thuyết lẫn thực hành chứ không nên làm cho người đời sau hoang mang về Phật Pháp.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.