2. Đối Tượng Của Pháp-Hành Thiền Tuệ

2. Đối Tượng Của Pháp-Hành Thiền Tuệ

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - THERAVĀDA

    NỀN TẢNG PHẬT GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN X

     Pháp-Hành Thiền-Tuệ

    Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)

    PAÑÑATTIDHAMMA VỚI PARAMATTHADHAMMA

    * Paññattidhamma: Chế-định-pháp luôn luôn nương nhờ nơi chân-nghĩa-pháp để chế định ra danh từ ngôn-ngữ gọi, nói chuyện, v.v…

    * Paramatthadhamma: Chân-nghĩa-pháp nương nhờ chế-định-pháp (paññattidhamma) để hiểu biết, phân biệt trạng-thái của mỗi chân-nghĩa-pháp.

    Trong mỗi đối-tượng có thể phân biệt về chế-định-pháp và chân-nghĩa-pháp.

    Ví dụ: “Con người” được phân biệt về chế-định-pháp chân-nghĩa-pháp như sau:

    * Paññattidhamma: Chế-định-pháp

    - Danh từ ngôn-ngữ gọi “con người” thuộc về saddapaññatti hoặc nāmapaññatti.

    - Hình dạng toàn thân thể con người thuộc về atthapaññatti, thuộc về paññattidhamma: Chế-định-pháp.

    * Paramatthadhamma: Chân-nghĩa-pháp

    -“Con người” có đủ ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn), có 2 pháp là sắc-pháp danh-pháp.

    -“Con người” có đầy đủ 6 thức (nhãn-thức-tâm, nhĩ-thức-tâm, tỷ-thức-tâm, thiệt-thức-tâm, thân-thức-tâm, ý-thức-tâm).

    -“Con người” có đầy đủ 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), v.v… thuộc về chân-nghĩa-pháp.

    - Tất cả ý nghĩa, hình dạng của các pháp có sinh mạng và không có sinh mạng, … thuộc về atthapaññatti.

    - Tất cả danh từ của các loại ngôn ngữ đều thuộc về saddapaññatti hoặc nāmapaññatti.

    - Tất cả thật-tánh của sắc-pháp và danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).

    Thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp không hiện rõ do nguyên nhân nào?

    Thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp vốn có thật hiển nhiên, nghĩa là sắc-pháp, danh-pháp có sự sinh, sự diệt, có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh.

    Thế mà, khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không thấy rõ, biết rõ được thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp; không thấy rõ, biết rõ được sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp; không thấy rõ, biết rõ được trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh của sắc-pháp, của danh-pháp, bởi vì vô-minh (avijjā) che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, do tham-ái (taṇhā) lôi cuốn theo đối-tượng ngũ dục: Sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, nên say mê trong các đối-tượng ấy.

    Vì vậy, hành-giả biết sai, thấy sai, tưởng sai chấp lầm đảo ngược với thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, nên gọi là vipallāsa: Pháp-đảo-điên như sau:

    - Saññāvipallāsa: Tưởng đảo-điên tưởng sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

    - Cittavipallāsa: Tâm đảo-điên biết sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

    - Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến đảo-điên thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

    - Do 3 pháp-đảo-điên nên tưởng sai chấp lầm, biết sai chấp lầm, thấy sai chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường (nicca), nhưng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp trạng-thái vô-thường (anicca).

    - Do 3 pháp-đảo-điên nên tưởng sai chấp lầm, biết sai chấp lầm, thấy sai chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là lạc (sukha), nhưng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp trạng-thái khổ (dukkha).

    - Do 3 pháp-đảo-điên nên tưởng sai chấp lầm, biết sai chấp lầm, thấy sai chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là ngã (atta), nhưng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp trạng-thái vô-ngã (anattā).

    - Do 3 pháp-đảo-điên nên tưởng sai chấp lầm, biết sai chấp lầm, thấy sai chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho tịnh (subha), nhưng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp trạng-thái bất-tịnh (asubha).

    - Do 3 pháp-đảo-điên nên tưởng sai chấp lầm, biết sai chấp lầm, thấy sai chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh; làm cho chúng-sinh say mê trong sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn bên trong của mình, và ngũ-uẩn bên ngoài mình, của người khác; nên không thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh.

    Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành mà hành-giả thực-hành để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh hiển nhiên của sắc-pháp, của danh-pháp có sự sinh, sự diệt liên tục không ngừng, có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh của sắc-pháp, của danh-pháp, mới diệt được 3 pháp-đảo-điên tưởng đảo-điên, tâm đảo-điên, tà-kiến đảo-điên nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh, diệt vô-minh (avijjā) che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, diệt tham-ái (taṇhā) trong các đối-tượng ngũ dục.

    Pháp-hành thiền-tuệ chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    ĐỐI-TƯỢNG CỦA PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ

    Đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ có 6 loại:

    1- Rūpārammaṇa: Đối-tượng sắc đó là các hình dạng.

    2- Saddārammaṇa: Đối-tượng thanh đó là các âm thanh.

    3- Gandhārammaṇa: Đối-tượng hương đó là các mùi hương.

    4- Rasārammaṇa: Đối-tượng vị đó là các thứ vị.

    5- Phoṭṭhabbārammaṇa: Đối-tượng xúc đó là cứng mềm, nóng lạnh,

    6- Dhammārammaṇa: Đối-tượng pháp đó là 81 tam- giới-tâm (trừ 8 siêu-tam-giới-tâm), 52 tâm-sở, 5 tịnh- sắc, 16 sắc vi-tế, Niết-bàn, (trừ chế-định-pháp).

    Trong 6 đối-tượng này có 5 đối-tượng là đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc thuộc về sắc-pháp.

    Đối-tượng pháp thuộc về sắc-pháp, danh-pháp. Đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp của pháp-hành thiền-tuệ chỉ thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi, không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma).

    - 6 đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ là đối-tượng của 6 lộ-trình-tâm (vīthicitta) phát sinh do nương nhờ nơi 6 môn (dvāra).

    Dvāra: Môn (cửa) có 6 môn:

    1- Cakkhudvāra: Nhãn-môn đó là cakkhupasāda: Nhãn-tịnh-sắc.

    2- Sotadvāra: Nhĩ-môn đó là sotapasāda: Nhĩ-tịnh-sắc.

    3- Ghānadvāra: Tỷ-môn đó là ghānapasāda: Tỷ-tịnh-sắc.

    4- Jivhādvāra: Thiệt-môn đó là jivhāpasāda: Thiệt-tịnh-sắc.

    5- Kāyadvāra: Thân-môn đó là kāyapasāda: Thân-tịnh-sắc.

    6- Manodvāra: Ý-môn đó là 19 bhavaṅgacitta: Hộ- kiếp-tâm.

    6 môn là 6 cửa vào ra của 6 loại lộ-trình-tâm.

    Lộ-trình-tâm có 6 loại:

    1- Cakkhudvāravīthicitta: Nhãn-môn lộ-trình-tâm.

    2- Sotadvāravīthicitta: Nhĩ-môn lộ-trình-tâm.

    3- Ghānadvāravīthicitta: Tỷ-môn lộ-trình-tâm.

    4- Jivhādvāravīthicitta: Thiệt-môn lộ-trình-tâm.

    5- Kāyadvāravīthicitta: Thân-môn lộ-trình-tâm.

    6- Manodvāravīthicitta: Ý-môn lộ-trình-tâm.

    Mỗi lộ-trình-tâm phát sinh, gồm có một số tâm, mỗi tâm nào sinh làm phận sự của tâm ấy, rồi diệt theo tuần tự trong lộ-trình-tâm ấy.

    PAÑCADVĀRAVĪTHICITTA: NGŨ-MÔN LỘ-TRÌNH-TÂM

    Ngũ-môn lộ-trình-tâm có 5 lộ-trình-tâm:

    * Cakkhudvāravīthicitta: Nhãn-môn lộ-trình-tâm tiếp xúc với đối-tượng sắc hiện-tại (rūpārammaṇa) rõ ràng, gồm có các tâm sinh làm phận sự rồi diệt theo tuần tự trải qua đủ 17 sát-na-tâm sinh rồi diệt trong nhãn-môn lộ-trình-tâm như sau:

    - Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quả-tâm làm phận sự bảo hộ giữ gìn kiếp của mỗi chúng-sinh, có đối-tượng cũ từ kiếp trước. (viết tắt bha)

    CAKKHUDVĀRAVĪTHICITTA: NHÃN-MÔN LỘ-TRÌNH-TÂM

    1- Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quá-khứ là hộ- kiếp-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm vẫn còn giữ đối-tượng cũ kiếp trước, dù có đối-tượng sắc mới hiện-tại xuất hiện. (viết tắt atī)

    2- Bhavaṅgacalanacitta: Hộ-kiếp-tâm rung động là hộ-kiếp-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm bị rung động, khi có đối-tượng sắc mới hiện-tại xuất hiện. (viết tắt na)

    3- Bhavaṅgupacchedacitta: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt phát sinh 1 sát-na-tâm, do đối-tượng sắc mới hiện tại có năng lực làm cho hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt cùng với đối-tượng cũ kiếp trước, để cho ngũ-môn hướng-tâm tiếp nhận đối-tượng sắc mới hiện-tại ấy. (viết tắt da)

    4- Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận 5 đối-tượng mới hiện-tại (sắc, thanh, hương, vị, xúc). (viết tắt pañ)

    Trong nhãn-môn lộ-trình-tâm này, ngũ-môn hướng-tâm chỉ tiếp nhận đối-tượng sắc mới hiện-tại mà thôi.

    5- Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc hiện-tại. (viết tắt cak)

    6- Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng sắc hiện-tại từ nhãn-thức-tâm. (viết tắt sam).

    7- Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng sắc tốt hoặc xấu. (viết tắt san)

    8- Voṭṭhabbanacitta: Xác-định-tâm, đó là ý-môn hướng-tâm (manodvāravajjanacitta) phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự xác-định đối-tượng của bất-thiện-tâm hoặc đại-thiện-tâm hoặc đại-duy-tác-tâm, tuỳ theo trình độ hiểu biết của chúng-sinh ấy. (viết tắt vot)

    9- 15- Javanacitta: Tác-hành-tâm đó là bất-thiện-tâm hoặc đại-thiện-tâm hoặc đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục 7 sát-na-tâm cùng loại tâm làm phận sự tạo bất-thiện-nghiệp hoặc đại-thiện-nghiệp tuỳ theo trình độ hiểu biết của chúng-sinh, hoặc đại-duy-tác-tâm đối với bậc Thánh A-ra-hán không thành đại-thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp nào cả. (viết tắt ja)

    16-17- Tadālambanacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm thuộc về quả-tâm đặc biệt phát sinh 2 sát-na-tâm làm phận sự tiếp đối-tượng sắc hiện-tại từ tác-hành-tâm còn thừa 2 sát-na-tâm hết tuổi thọ 17 sát-na-tâm của đối-tượng sắc hiện-tại, để chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm. (viết tắt ta)

    - Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau phát sinh có đối-tượng cũ từ kiếp trước, đồng thời chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm.

    Tương tự như vậy, nhĩ-môn lộ-trình-tâm, tỷ-môn lộ- trình-tâm, thiệt-môn lộ-trình-tâm, thân-môn lộ-trình-tâm có sự diễn tiến lộ-trình-tâm có phần giống như nhãn-môn lộ-trình-tâm, nhưng mỗi lộ-trình-tâm chỉ có khác nhau về thức tâm đối-tượng như sau:

    - Nếu ngũ-môn hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng âm thanh hiện-tại thì nhĩ-thức-tâm phát sinh làm phận sự nghe âm thanh trong nhĩ-môn lộ-trình-tâm.

    - Nếu ngũ-môn hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng hương hiện-tại thì tỷ-thức-tâm phát sinh làm phận sự ngửi mùi hương trong tỷ-môn lộ-trình-tâm.

    - Nếu ngũ-môn-hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng vị hiện-tại thì thiệt-thức-tâm phát sinh làm phận sự nếm vị trong thiệt-môn lộ-trình-tâm.

    - Nếu ngũ-môn-hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng xúc nóng lạnh,… hiện-tại thì thân-thức-tâm phát sinh làm phận sự xúc giác nóng lạnh,… trong thân-môn lộ-trình-tâm.

    Ngũ môn lộ-trình-tâm chỉ có thể nhận biết 5 đối-tượng sắc-pháp: Sắc, thanh, hương, vị, xúc hiện-tại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi.

    Ngũ-môn lộ-trình-tâm hoàn toàn không thể nhận biết đối-tượng chế-định-pháp (paññattidhamma).

     

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.