NỀN TẢNG PHẬT GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN X
Pháp-Hành Thiền-Tuệ
Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)
PHÁP-HÀNH TỨ-NIỆM-XỨ HOẶC PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ
Pháp-hành tứ-niệm-xứ có 4 đối-tượng là thân, thọ, tâm, pháp đó là sắc-pháp, danh-pháp, là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ, là pháp-hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, không có ngoài Phật-giáo, cho nên, pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành duy nhất dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới
Vấn: Tại sao đối-tượng thiền-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà không phải là chế- định-pháp (paññattidhamma)?
Đáp: Chế-định-pháp (paññattidhamma) là pháp không có thật-tánh, không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, không dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ không thuộc về chế-định-pháp (paññatti-dhamma) được.
* Chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, có sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp mà không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma) được.
Tứ-niệm-xứ có 4 pháp:
- Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, gồm có 14 đối-tượng thuộc về sắc-pháp.
- Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, có 1 đối-tượng chia ra 9 loại thọ thuộc về danh-pháp.
- Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, có 1 đối-tượng chia ra 16 loại tâm thuộc về danh-pháp.
- Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, gồm có 5 đối-tượng thuộc về sắc-pháp, danh-pháp.
Như vậy, thân, thọ, tâm, pháp gồm có 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, hoặc các sắc-pháp, các danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma).
Thật ra, trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, hoặc trong các đối-tượng sắc-pháp, các đối-tượng danh-pháp của pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả khó biết được đối-tượng nào là đối-tượng phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu cho được thuận lợi, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ.
Cho nên, hành-giả cần phải nên học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, hoặc tất cả mọi đối-tượng sắc-pháp, mọi đối-tượng danh-pháp của pháp-hành thiền-tuệ, rồi thực-hành thử nghiệm mỗi đối-tượng để biết kết quả ban đầu.
Nếu hành-giả xét thấy đối-tượng ấy phù hợp với bản- tính và trí-tuệ của mình thì tiếp tục thực-hành đối-tượng ấy, để dẫn đến kết quả cuối cùng theo ý nguyện mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Để thực-hành đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả cần phải nên học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta và Chú-giải của bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā trong Trường-bộ-kinh (Dīghanikāya), phần Mahāvagga-pāḷi và Trung-bộ-kinh (Majjhimanikāya), phần Mūla- paṇṇāsapāḷi và bộ Chú-giải (Aṭṭhakathā) của bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta này, để làm nền tảng căn bản của pháp-hành tứ-niệm-xứ.
Và hành-giả còn cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo và bộ Visuddhimaggamahāṭīkā: Thanh-tịnh-đạo Phụ-chú-giải làm nền tảng căn bản của pháp-hành thiền-tuệ, để hành-giả hiểu biết cách thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
NHẬN XÉT VỀ 21 ĐỐI-TƯỢNG TRONG TỨ-NIỆM-XỨ
Trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, đối-tượng nào cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
Trong 21 đối-tượng ấy đều là những đối-tượng vô cùng vi-tế và vô cùng sâu sắc, bởi vì thật-tánh của mỗi đối-tượng đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma), không phải chế-định-pháp (paññattidhamma).
Danh từ ngôn-ngữ gọi mỗi đối-tượng ấy tuy là chế- định-pháp (paññattidhamma) nhưng thuộc về vijjamāna-paññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế-định có thật-tánh-pháp hiện hữu làm nền tảng, mà thật-tánh thật sự đó là mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp hoàn toàn không phải danh từ ngôn-ngữ chế định nào cả.
Cho nên, thân, thọ, tâm, pháp là đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, mà thân thuộc về sắc-pháp, thọ và tâm thuộc về danh-pháp, còn pháp thuộc về sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ. Như vậy, đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ và đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ chỉ có khác nhau về danh từ ngôn-ngữ mà thôi, còn thật-tánh của đối-tượng thuộc về chân-nghĩa-pháp là hoàn toàn giống nhau.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ chỉ có đối-tượng là thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi, bởi vì chỉ có đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp mới có thật-tánh có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Còn chế-định-pháp thuộc về danh từ ngôn ngữ thì hoàn toàn không có thật-tánh, không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, nên không thể làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ, cũng không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
IRIYĀPATHAPABBA: ĐỐI-TƯỢNG TỨ-OAI-NGHI
Nếu hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ mà không có khả năng biết được đối-tượng nào phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình, thì hành-giả nên thử lựa chọn iriyāpathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh từ tâm làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì iriyāpathapabba là 1 trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-Đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Xét thấy iriyāpathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh từ tâm là một đối-tượng tương đối thô, rõ ràng hiện rõ nhiều trong thời hiện-tại, so với các đối-tượng tứ-niệm-xứ khác, bởi vì khi đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm, nếu có oai-nghi phụ nào phát sinh như cử động tay, chân, quay bên phải, quay bên trái, v.v… thì khi ấy, oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm không còn hiện hữu rõ ràng nữa.
Iriyāpathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm này trong thân-niệm-xứ phù hợp với hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ kém.
Nếu hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ kém có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ thì nên lựa chọn đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm, trong phần thân-niệm-xứ, gọi là thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm hoặc sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm dùng làm đối-tượng thiền-tuệ, lúc ban đầu thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ.
Trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi, tìm hiểu biết rõ về phần pháp-học của đối-tượng tứ-oai-nghi, và phần pháp-hành của đối-tượng tứ-oai-nghi, phương pháp thực-hành của mỗi oai-nghi.
Hành-giả thử nghiệm thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi ấy, nếu xét thấy phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình thì tiếp tục thực-hành đối-tượng ấy để dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Nếu hành-giả xét thấy đối-tượng tứ-oai-nghi này không phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình thì thay đổi đối-tượng khác. Đó là việc bình thường trong pháp-hành thiền-tuệ.
Thật ra, đối-tượng tứ-oai-nghi là những oai-nghi bình thường trong đời sống hằng ngày của mỗi người, nên khi hành-giả sử dụng tứ-oai-nghi làm đối-tượng thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu, đó là điều rất thuận lợi cho hành-giả, dù chưa dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, cũng làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
Nếu trong những tiền kiếp của hành-giả đã từng thực-hành những đối-tượng thiền-tuệ nào khác đã thành thói quen, phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình thì kiếp hiện-tại này đến giai đọan tự động chuyển sang đổi đối-tượng thiền-tuệ ấy, đó là điều rất bình thường trong pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì pháp-hành thiền-tuệ gồm tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới, không có sự phân biệt nào cả (khác với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền định bắt buộc giới hạn một số đối-tượng thiền-định).
KĀYĀNUPASSANĀ IRIYĀPATHAPABBA, ĐỐI-TƯỢNG TỨ-OAI-NGHI
Bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta[1] phần Iriyāpatha-pabba như sau:
Đức-Phật thuyết giảng rằng:
Puna ca paraṃ bhikkhave, bhikkhu
- Gacchanto vā gacchāmī’ti pajānāti,
- Ṭhito vā ṭhitomhī’ti pajānāti,
- Nisinno vā nisinnomhī’ti pajānāti,
- Sayāno vā sayānomhī’ti pajānāti,
- Yathā yathā vā pana’ssa kāyo paṇihito hoti, ihi tathā tathā naṃ pajānāti.
Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati,
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati,
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati,
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
“Atthi kāyo”ti vā pana’ssa sati paccupaṭṭhitā hoti,
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya.
Anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.
Evaṃpi kho bkikhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.”
(Iriyāpathapabbaṃ niṭṭhitaṃ.)
Ý nghĩa
Sau khi thuyết giảng “ānāpānapabba” xong, Đức- Phật tiếp tục thuyết giảng “Iriyāpathapabba” rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Một đối-tượng khác,
- Khi đang đi, tỳ-khưu có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác biết rõ rằng: “Thân đi” hoặc “sắc-đi”.
- Hoặc khi đang đứng, tỳ-khưu có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác biết rõ rằng:“Thân đứng” hoặc “sắc-đứng”.
- Hoặc khi đang ngồi, tỳ-khưu có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác biết rõ rằng: “Thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi”.
- Hoặc khi đang nằm, tỳ-khưu có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác biết rõ rằng: “Thân nằm” hoặc “sắc-nằm”.
- Hoặc toàn thân của hành-giả đang ở trong tư thế (dáng) như thế nào, thì hành-giả nên có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ toàn thân đang ở trong tư thế (dáng) như thế ấy.
Như vậy, hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân- niệm-xứ bên trong của mình.
Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân-niệm-xứ bên ngoài mình, của người khác.
Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân-niệm-xứ, khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.
Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh trong thân.
Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong thân.
Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh, và trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong thân.
Chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác của hành-giả biết rõ rằng: “Chỉ là thân mà thôi”. Đối-tượng hiện-tại chỉ để phát triển chánh-niệm, chỉ để phát triển trí-tuệ tỉnh-giác mà thôi.
Hành-giả không có tham-ái và tà-kiến nương nhờ (nơi đối-tượng và chủ-thể); không có chấp-thủ nào (ta và của ta) trong ngũ-uẩn này.
- Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là tỳ-khưu có chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toà n thân trong thân-niệm-xứ.
(Xong phần đối-tượng tứ-oai-nghi)
GIẢNG GIẢI
Đọan kinh này có những động từ:
- Gacchāmi: Theo nghĩa thường là “tôi đi”, theo chân-ngh ĩa-pháp nghĩa là “thân đi” hoặc “sắc-đi”.
- Ṭhito’mhi: Theo nghĩa thường là “tôi đứng”, theo chân-nghĩa-pháp nghĩa là “thân đứng” hoặc “sắc-đứng”.
- Nisinno’mhi: Theo nghĩa thường là “tôi ngồi” theo chân-nghĩa-pháp nghĩa là “thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi”.
- Sayāno’mhi: Theo nghĩa thường là “tôi nằm” theo chân-nghĩa-pháp nghĩa là “thân nằm” hoặc “sắc-nằm”.
Phần Chú-giải iriyāpathapabba
Phần Aṭṭhakathā[2] (Chú-giải) của iriyāpathapabba:
- Iti ajjhattaṃ vā’ti evaṃ attano vā catu iriyā-pathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati…
- Bahiddhā vā’ti parassa catu iriyāpathaparig- gaṇhanena ...
- Ajjhattabahiddā vā’ti kālena attano, kālena parassa vā catu iriyāpathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati…
- Samudayadhammānupassī vā’ti ādīsu pana “avijjā-samudayā rūpasamudayo”ti ādinā nayena pañcahākārehi rūpakkhandhassa samudayo ca vayo ca nīharitabbo.
Tañhi sandhāya idha “samudayadhammānupassīvā” ti ā di vuttaṃ.
- Atthi kāyo’ti vā panassā’ ti kāyo atthi, na satto, na puggalo, na itthī, na puriso, na attā, na attaniyaṃ, nā’haṃ, na mama, na koci, na kassacīti evamassa sati paccupaṭṭhitā hoti.
Ý NGHĨA
- Iti ajjhattaṃ vā: Tỳ-khưu hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân-niệm-xứ đó là tứ-oai-nghi bên trong của mình.
- Bahiddhā vā: Hoặc tỳ-khưu hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân-niệm-xứ đó là tứ-oai-nghi bên ngoài mình, của người khác.
- Ajjhattabahiddā vā: Hoặc tỳ-khưu hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân-niệm-xứ đó là tứ-oai- nghi, khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.
- Samudayadhammānupassī vā: Hoặc hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do 5 nhân-duyên-sinh của tứ-oai-nghi là vô-minh, tham-ái, nghiệp, vật-thực, trạng-thái-sinh của tứ-oai-nghi trong thân.
- Vayadhammānupassī vā: Hoặc hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do 5 nhân-duyên-diệt của tứ-oai-nghi là vô-minh, tham-ái, nghiệp, vật-thực, trạng-thái-diệt của tứ-oai-nghi trong thân.
- Samudayavayadhammānupassī vā: Hoặc hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do 5 nhân-duyên-sinh của tứ-oai-nghi là vô-minh, tham-ái, nghiệp, vật thực, trạng-thái-sinh của tứ-oai-nghi, và trạng-thái-diệt do 5 nhân-duyên-diệt của tứ-oai-nghi là vô-minh, tham-ái, nghiệp, vật-thực, trạng-thái-diệt của tứ-oai-nghi trong thân.
- "Kāyo’va atthi: Thân chỉ là sắc-thân mà thôi. Thân thuộc về sắc-pháp là pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ, na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả,…"
Chánh-niệm trực nhận dáng đi, tư thế đi; dáng đứng, tư thế đứng; dáng ngồi, tư thế ngồi; dáng nằm, tư thế nằm, …
Trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp ấy, cốt để cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác càng phát triển và tăng trưởng (satisampajaññānaṃ vuḍḍhatthāya).
- Anissito ca viharati: Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh, không có tà- kiến và tham-ái nương nhờ nơi sắc-pháp 4 oai-nghi ấy.
- Na ca kiñci loke upādīyati: Tâm không còn chấp-thủ do tà-kiến và tham-ái cho rằng: “Ta, của ta” nào trong ngũ-uẩn này nữa (đó là tâm của bậc Thánh-A-ra-hán). Như vậy, đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm trong thân-niệm-xứ này có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế:
- Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
- Chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
- Chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
- Chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: (Indriya) tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của hành-giả.
ĐỌAN KẾT CỦA TỨ-NIỆM-XỨ SO VỚI TRÍ-TUỆ THIỀN-TUỆ
Đọan kết của đối-tượng tứ-oai-nghi có thể so sánh tương đương với mỗi trí-tuệ thiền-tuệ như sau:
- Ajjhattaṃ vā: Hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của (tứ-oai-nghi) bên trong của mình có thể so sánh tương đương với trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là pháp-vô-ngã.
- Bahiddhā vā, ajjhattabahiddā vā, samudayadham-mānupassī vā: Hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên-sinh của sắc-pháp phát sinh từ tâm (tứ-oai-nghi) bên trong của mình (ajjhatta) như thế nào, và trạng-thái-sinh do nhân-duyên-sinh của sắc-pháp phát sinh từ tâm (tứ-oai-nghi) bên ngoài mình (bahiddhā), của người khác cũng như thế ấy có thể so sánh tương đương với trí-tuệ thứ nhì nāmarūpapaccayapariggaha-ñāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp do nhân-duyên-sinh bên trong của mình (ajjhatta) với paccakkhañāṇa: Trí-tuệ trực tiếp thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên trong của mình (ajjhatta) như thế nào, và với anumānañāṇa: Trí-tuệ gián tiếp biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên ngoài mình (bahiddhā), của người khác, của chúng-sinh khác, cũng như thế ấy.
- Vayadhammānupassī vā: Hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân-duyên-diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, có thể so sánh tương đương với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 3 sammasanañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp diệt do nhân-duyên-diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới, nên trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới.
- Samudayavayadhammānupassī vā: Hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp và danh-pháp hiện-tại phát sinh từ tâm (tứ-oai-nghi), nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại, có thể so sánh tương đương với trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên-sinh do nhân-duyên-diệt, nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại.
- Anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādīyati: Tiếp theo các trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới tuần tự phát sinh không có tà-kiến và tham-ái nương nhờ nơi sắc-pháp nơi danh-pháp tam-giới, cho đến 2 trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là 4 Thánh-đạo-tuệ, và thứ 15 gọi là 4 Thánh-quả-tuệ, trở thành bậc Thánh A-ra-hán không còn chấp thủ do tà-kiến và tham-ái nữa.
Kāya: Thân nghĩa là gì?
- “Kāyo’va atthi: Thân chỉ là sắc-thân mà thôi. Thân thuộc về sắc-pháp là pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ, na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả,…”
* Kāya trong phần kāyānupassanāsatipaṭṭhāna: Thân-niệm-xứ trong kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta: Kinh Đại-niệm-xứ, có nghĩa là toàn thân thuộc về sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp do tâm điều khiển mọi oai-nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v…
NHẬN XÉT VỀ ĐỐI-TƯỢNG TỨ-OAI-NGHI
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là những oai-nghi bình thường của chúng-sinh có 2 chân, 4 chân, …
Đức-Phật thuyết giảng phần tứ-oai-nghi (iriyāpatha- pabba) trong thân-niệm-xứ (kāyānupassanāsatipaṭṭhāna), bởi vì tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittaja-rūpa) làm đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ.
TỨ-OAI-NGHI LÀ NƠI NƯƠNG NHỜ CỦA TÀ-KIẾN
Trong đời có số người nào không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không có cơ hội học hỏi nghiên cứu về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), không hiểu biết về bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp yếu nghĩa, không hiểu biết về sắc-pháp, danh-pháp là pháp-vô-ngã, cho nên số người ấy mỗi khi đi, đứng, ngồi, nằm không diệt được sự chấp-thủ chúng-sinh (satūpaladdhiṃ na pajahati) và không từ bỏ ngã-tưởng cho là ta (attasaññaṃ na ugghāṭeti).
Vì vậy, tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là nơi nương nhờ của tà-kiến phát sinh thấy sai, chấp lầm như sau:
- Khi thân đi hoặc sắc-đi, thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-đi cho là ta đi.
- Khi thân đứng hoặc sắc-đứng, thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-đứng cho là ta đứng.
- Khi thân ngồi hoặc sắc-ngồi, thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-ngồi cho là ta ngồi.
- Khi thân nằm hoặc sắc-nằm, thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-nằm cho là ta nằm, …
Khi có sắc-đi thì tà-kiến nương nhờ nơi sắc-đi ấy, thấy sai, chấp lầm rằng: “Ta đi”.
Sự thật, ta đi không có mà chỉ có sắc-đi mà thôi.
Tà-kiến đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến (diṭṭhigatasampayutta).
Sở dĩ có sự chấp thủ cho là ta đi là vì tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-đi cho là ta đi.
Khi có tham-tâm hợp với tà-kiến nào phát sinh thì ắt hẳn có si tâm-sở đồng sinh với tham-tâm hợp với tà-kiến ấy, làm che phủ thật-tánh của sắc-đi là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
úng theo thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, không có ngã.
Như vậy, ngã không có thật thì không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là ngã, là ta.
Như vậy, ngã, ta không có thật, mà chỉ có tà-kiến có thật mà thôi, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến. Nếu khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tà-kiến trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và diệt tận được hoài-nghi trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn có chấp ngã, chấp ta nữa.
TỨ-OAI-NGHI LÀ NƠI NƯƠNG NHỜ CỦA CHÁNH-KIẾN
Trong đời có số người trí thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, có cơ hội học hỏi, nghiên cứu về bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp yếu-nghĩa, hiểu biết về sắc-pháp, danh-pháp là pháp-vô- ngã.
Hành-giả thiện-trí có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có giới-hạnh trong sạch thanh-tịnh, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-kiến khi đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm, diệt từng thời được tà-kiến chấp-thủ chúng-sinh (satūpaladdhiṃ pajahati) và ngăn từng thời được ngã-tưởng cho là ta (attasaññaṃ ugghāṭeti).
Vì vậy, tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là nơi nương nhờ của chánh-kiến phát sinh thấy đúng, biết đúng như sau:
- Khi thân đi hoặc sắc-đi, thì chánh-kiến thấy đúng, biết đúng oai-nghi đi đó là tư thế đi, dáng đi gọi là sắc-đi (không phải là ta đi).
- Khi thân đứng hoặc sắc-đứng, thì chánh-kiến thấy đúng, biết đúng oai-nghi đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng gọi là sắc-đứng (không phải là ta đứng).
- Khi thân ngồi hoặc sắc-ngồi, thì chánh-kiến thấy đúng, biết đúng oai-nghi ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi gọi là sắc-ngồi (không phải là ta ngồi).
- Khi thân nằm hoặc sắc-nằm, thì chánh-kiến thấy đúng, biết đúng oai-nghi nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm gọi là sắc-nằm (không phải là ta nằm).
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác nơi đối-tượng thiền-tuệ sắc-đi đó là tư thế đi, dáng đi; sắc-đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng; sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi; sắc-nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm; trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), nên chánh-kiến phát sinh thấy đúng, biết đúng theo thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp là pháp-vô-ngã.
Chánh-kiến-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp là pháp-vô-ngã, không phải là chúng-sinh (na satto), không phải là người (na puggalo), không phải là người nữ (na itthī), không phải là người nam (na puriso), không phải là ngã (na attā), không phải thuộc về ngã (na attaniyaṃ), không phải là ta (nā’haṃ), không phải thuộc về của ta (na mama), không phải là ai (na koci), không phải thuộc về của ai cả (na kassaci), đúng theo sự-thật chân-nghĩa-pháp là pháp- vô-ngã như sau:
- Sắc-pháp nào là sắc-pháp ấy.
- Danh-pháp nào là danh-pháp ấy.
TỨ-OAI-NGHI LÀ ĐỐI-TƯỢNG THIỀN-TUỆ
Iriyāpathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi là 1 trong 14 đối-tượng trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ.
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi là sắc-đi, oai-nghi đứng là sắc-đứng, oai-nghi ngồi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm là sắc-nằm đều là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Thật vậy, trong Chú-giải Pāḷi kinh Mahāsatipaṭṭhāna-suttavaṇṇanā, phần iriyāpathapabba giảng giải rằng:
“Paramatthato hi dhātūnaṃ yeva gamanaṃ, dhātūnaṃ ṭhānaṃ, dhātūnaṃ nisajjaṃ, dhātūnaṃ sayanaṃ.”[3]
Thật vậy, xét theo chân-nghĩa-pháp thì “oai-nghi đi” chỉ là sắc-tứ-đại mà thôi, “oai-nghi đứng” chỉ là sắc-tứ- đại mà thôi, “oai-nghi ngồi” chỉ là sắc-tứ-đại mà thôi, “oai-nghi nằm” chỉ là sắc-tứ-đại mà thôi.
Như vậy, tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) là pháp-vô-ngã, nên không phải là ta, không phải là của ta, không phải là người, không phải là người nam, không phải là người nữ, không phải là chúng-sinh nào cả.
MAHĀBHŪTARŪPA: SẮC-TỨ-ĐẠI
1- Pathavīdhātu: Sắc-địa-đại là chất đất.
2- Āpodhātu: Sắc-thuỷ-đại là chất nước.
3- Tejodhātu: Sắc-hoả-đại là chất lửa.
4- Vāyodhātu: Sắc-phong-đại là chất gió.
Sắc-tứ-đại là sắc-pháp căn bản chính làm nền tảng cho 24 sắc-pháp phụ thuộc đồng sinh với sắc-tứ-đại.
Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là sắc-pháp toàn thân phát sinh do tâm, không phải một phần nào của sắc-thân.
Rūpadhamma: Sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp phân ra 2 loại:
1- Mahābhūtarūpa: Sắc-tứ-đại có 4 sắc-pháp là sắc-địa-đại, sắc-thuỷ-đại, sắc-hoả-đại, sắc-phong-đại làm nền tảng.
2- Upādāyarūpa: Sắc-phụ-thuộc có 24 sắc-pháp là sắc-pháp phụ thuộc đồng sinh với sắc-tứ-đại.
Toàn thân của mỗi người bình thường gồm có 27 sắc-pháp đó là 4 sắc-tứ-đại và 23 sắc-phụ-thuộc.
* Nếu là người nam thì trừ ra sắc-nữ-tính.
* Nếu là người nữ thì trừ ra sắc-nam-tính.
TÂM PHÁT SINH TỨ-OAI-NGHI
Tâm (citta) có khả năng phát sinh tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi là sắc-đi, oai-nghi đứng là sắc-đứng, oai-nghi ngồi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm là sắc-nằm và các oai-nghi phụ như quay bên phải, quay bên trái, co tay, co chân vào, duỗi tay, duỗi chân ra, v.v…
Tâm ấy gồm có 32 tâm, đó là 8 tham-tâm +2 sân-tâm + 2 si-tâm + 8 đại-thiện-tâm + 8 đại-duy-tác-tâm + 1 tiếu-sinh-tâm + 1 ý-môn-hướng-tâm + đặc biệt 2 thần-thông-tâm.
Ví dụ:
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do tham-tâm thì đi, đứng, ngồi, nằm,… với dáng điệu khoan thai, nhẹ nhàng đáng yêu.
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do sân-tâm thì đi, đứng, ngồi, nằm, … với dáng điệu nóng nảy, vội vàng mạnh bạo.
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do si-tâm thì đi, đứng, ngồi, nằm, …với dáng điệu ngẩn ngơ, phóng-tâm.
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ thì đi, đứng, ngồi, nằm, … với dáng điệu tư thế tự nhiên, nhưng không có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp.
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ thì đi, đứng, ngồi, nằm,… với dáng điệu tư thế tự nhiên, có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp.
- Nếu đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do đại-duy-tác-tâm, tâm của bậc Thánh A-ra-hán thì đi, đứng, ngồi, nằm, … với dáng điệu tư thế tự nhiên, dù hợp với trí-tuệ, dù không hợp với trí-tuệ tuỳ theo đối-tượng, vẫn luôn luôn có trí nhớ.
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm, nên oai-nghi đi gọi là sắc-đi, oai-nghi đứng gọi là sắc-đứng, oai-nghi ngồi gọi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm gọi là sắc-nằm thuộc về sắc-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp.
Cho nên, mỗi oai-nghi nào phát sinh, đối với tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ cũng đều do hội đủ nhân-duyên của nó. Nếu trường hợp thiếu nhân-duyên nào thì oai-nghi ấy không thể phát sinh.
1- PHẦN PHÁP-HỌC TỨ-OAI-NGHI
Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành tứ- niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng iriyā-pathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi là sắc-đi, oai-nghi đứng là sắc-đứng, oai-nghi ngồi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm là sắc-nằm làm đối-tượng thiền-tuệ.
Trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu biết rõ mỗi oai-nghi là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
Hành-giả có trí-tuệ sáng suốt, có chánh-kiến thấy đúng, hiểu biết đúng rằng:
1- Oai-nghi đi gọi là thân đi hoặc sắc-đi đó là tư thế đi, dáng đi.
2- Oai-nghi đứng gọi là thân đứng hoặc sắc-đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng.
3- Oai-nghi ngồi gọi là thân ngồi hoặc sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi.
4- Oai-nghi nằm gọi là thân nằm hoặc sắc-nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm.
NHÂN-DUYÊN PHÁT SINH TỨ-OAI-NGHI
Chú-giải[4] bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā, đối-tượng iriyāpathapabba giảng giải về oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm như sau:
1- Oai-nghi đi
- Ko gacchati ? Ai đi?
- Kassa gamanaṃ? Oai-nghi đi của ai? -
Kiṃ karaṇā gacchati? Oai-nghi đi phát sinh do nhân-duyên nào?
Giảng giải
- Ko gacchatī’ti na koci satto vā puggalo vā gacchati.
- Ai đi? Nghĩa là không phải chúng-sinh nào, hoặc người nào đi cả.
- Kassa gamanan’ti na kassaci sattassa vā puggalassa vā gamanaṃ.
- Oai-nghi đi của ai? Nghĩa là oai-nghi đi không phải của chúng-sinh nào hoặc người nào cả.
- Kiṃ kāraṇā gacchatī’ti cittakiriyavāyodhātuvipphā-rena gacchati. Tasmā esa evaṃ pajānāti.
“Gacchāmī’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakala-kāyassa purato abhinīhāro gamanaṃ vuccati.”
Oai-nghi đi phát sinh do nhân-duyên nào? Nghĩa là oai-nghi đi phát sinh do chất gió chuyển động toàn thân do tâm. Hành-giả nên biết rõ oai-nghi đi phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến qua nhiều nhân-duyên như sau:
- Tâm nghĩ “tôi đi”.
- Do tâm nghĩ đi, nên làm cho phát sinh chất gió.
- Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân chuyển động.
- Toàn thân di chuyển bước đi mỗi tư thế đi, dáng đi do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.
Vì vậy, gọi là “thân đi” hoặc “sắc-đi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
NHÂN-DUYÊN PHÁT SINH OAI-NGHI ĐỨNG
Oai-nghi đứng phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
2- Oai-nghi đứng
- Ko tiṭṭhati ? Ai đứng?
- Kassa ṭhānaṃ? Oai-nghi đứng của ai?
- Kiṃ karaṇā tiṭṭhati? Oai-nghi đứng phát sinh do nhân-duyên nào?
Giảng giải
- Ko tiṭṭhatī’ti na koci satto vā puggalo vā tiṭṭhati.
- Ai đứng? Nghĩa là không phải chúng-sinh nào, hoặc người nào đứng cả.
- Kassa ṭhānan’ti na kassaci sattassa vā puggalassa vā ṭhānaṃ.
- Oai-nghi đứng của ai? Nghĩa là oai-nghi đứng không phải của chúng-sinh nào hoặc của người nào cả.
- Kiṃ kāraṇā tiṭṭhatī’ti cittakiriyavāyodhātuvipphā-rena tiṭṭhati… Oai-nghi đứng phát sinh do nhân-duyên nào? Nghĩa là oai-nghi đứng phát sinh do chất gió cử động toàn thân do tâm.
Hành-giả nên biết rõ oai-nghi đứng phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến qua nhiều nhân-duyên như sau:
- Tâm nghĩ “tôi đứng”.
- Do tâm nghĩ đứng, nên làm cho phát sinh chất gió.
- Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.
- Toàn thân từ chân đến đầu đứng yên theo mỗi tư thế đứng, dáng đứng do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.
Vì vậy, gọi là “thân đứng” hoặc “sắc-đứng” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
NHÂN-DUYÊN PHÁT SINH OAI-NGHI NGỒI
Oai-nghi ngồi phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
3- Oai-nghi ngồi
- Ko nisīdati ? Ai ngồi?
- Kassa nisajjaṃ ? Oai-nghi ngồi của ai?
- Kiṃ karaṇā nisīdati? Oai-nghi ngồi phát sinh do nhân-duyên nào?
Giảng giải
- Ko nisīdatī’ti na koci satto vā puggalo vā nisīdati.
- Ai ngồi? Nghĩa là không phải chúng sinh nào, hoặc người nào ngồi cả.
- Kassa nisajjan’ti na kassaci sattassa vā puggalassa vā nisajjā.
- Oai-nghi ngồi của ai? Nghĩa là oai-nghi ngồi không phải của chúng sinh nào hoặc của người nào cả.
- Kiṃ kāraṇā nisīdatī’ti cittakiriyavāyodhātuvipphā-rena nisīdati…
Oai-nghi ngồi phát sinh do nhân-duyên nào? Nghĩa là oai-nghi ngồi phát sinh do chất gió cử động toàn thân do tâm.
Hành-giả nên biết rõ oai-nghi ngồi phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến qua nhiều nhân-duyên như sau:
- Tâm nghĩ “tôi ngồi”.
- Do tâm nghĩ ngồi, nên làm cho phát sinh chất gió.
- Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.
- Toàn thân, thân phần trên ngồi yên, thân phần dưới co theo mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.
Vì vậy, gọi là “thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
NHÂN-DUYÊN PHÁT SINH OAI-NGHI NẰM
Oai-nghi nằm phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
4- Oai-nghi nằm
- Ko sayati? Ai nằm?
- Kassa sayanaṃ? Oai-nghi nằm của ai?
- Kiṃ karaṇā sayati? Oai-nghi nằm phát sinh do nhân-duyên nào?
Giảng giải
- Ko sayatī’ti na koci satto vā puggalo vā sayati.
- Ai nằm? Nghĩa là không phải chúng sinh nào, hoặc người nào nằm cả.
- Kassa sayanan’ti na kassaci sattassa vā puggalassa vā sayanaṃ.
- Oai-nghi nằm của ai? Nghĩa là oai-nghi nằm không phải của chúng-sinh nào hoặc của người nào cả.
- Kiṃ kāraṇā sayatī’ti cittakiriyavāyodhātuvipphā-rena tiṭṭhati…
Oai-nghi nằm phát sinh do nhân-duyên nào? Nghĩa là oai-nghi nằm phát sinh do chất gió cử động toàn thân do tâm.
Hành-giả nên biết rõ oai-nghi nằm phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến qua nhiều nhân-duyên như sau:
- Tâm nghĩ “tôi nằm”.
- Do tâm nghĩ nằm nên làm cho phát sinh chất gió.
- Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.
- Toàn thân nằm yên trên mặt phẳng theo mỗi tư thế nằm, dáng nằm do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.
Vì vậy, gọi là “thân nằm” hoặc “sắc-nằm” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
Sự-thật, tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là của tứ-đại thuộc về sắc-uẩn trong ngũ-uẩn.
Trong Chú-giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā như sau:
“Paramatthato hi dhātūnamyeva gamanaṃ, dhātūnaṃ ṭhānaṃ, dhātūnaṃ nisajjaṃ, dhātūnaṃ sayanaṃ.”[5]
Theo sự-thật chân-nghĩa-pháp thì oai-nghi đi chỉ là của tứ-đại mà thôi, oai-nghi đứng cũng là của tứ-đại, oai-nghi ngồi cũng là của tứ-đại, oai-nghi nằm cũng là của tứ-đại mà thôi.
Đức-Phật ví “sắc-thân” này ví như “chiếc xe”; “tâm” ví như “người lái xe”.
Thật vậy, sắc-thân này gồm có 27 sắc-pháp hoàn toàn không biết 6 đối-tượng, chỉ có thể tiếp nhận được 6 đối-tượng làm duyên để cho tâm phát sinh mà thôi.
Chiếc xe gồm có các bộ phận ráp lại với nhau không thể chạy mau, chạy chậm, rẽ phải, rẽ trái, ngừng lại, v.v…
Sở dĩ chiếc xe có thể chạy mau, chạy chậm, rẽ phải, rẽ trái, ngừng lại được, v.v… là do người tài xế lái xe điều khiển.
Cũng như vậy, toàn thân này gồm có 27 sắc-pháp không thể đi, đứng, ngồi, nằm, quay bên phải, quay bên trái, co tay, co chân vào, duỗi tay, duỗi chân ra được, v.v…
Sở dĩ toàn thân này có thể đi, đứng, ngồi, nằm, quay bên phải, quay bên trái, co tay, co chân vào, duỗi tay, duỗi chân ra được, v.v… là do tâm điều khiển.
Tâm có khả năng điều khiển được thân này, khi thân này hội đủ nhân-duyên, nếu thiếu nhân-duyên nào thì tâm không thể điều khiển được.
Ví dụ: Một người bị bệnh tê liệt, dù tâm của họ muốn đi, đứng, ngồi, nằm, v.v… như người bình thường cũng không thể được, bởi vì chất gió (vāyodhātu) phát sinh do tâm của họ không đủ năng lực làm cử động toàn thân có chất đất (pathavīdhātu) và chất nước (āpodhātu) nặng nề trong thân của họ được.
Cũng như nếu chiếc xe bị hư một bộ phận nào thì dù người tài xế lái xe tài giỏi cũng không thể điều khiển chiếc xe chạy được theo ý của mình được.
Vì vậy, tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi là sắc-đi, oai-nghi đứng là sắc-đứng, oai-nghi ngồi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm là sắc-nằm phát sinh do tâm (cittajarūpa) là sắc-pháp thuộc về pháp-vô-ngã.
* Đối với hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ với iriyāpathapabba: Đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm trong phần thân-niệm-xứ.
1- Oai-nghi đi gọi là thân đi đó là tư thế đi, dáng đi cũng gọi là sắc-đi.
2- Oai-nghi đứng gọi là thân đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng cũng gọi là sắc-đứng.
3- Oai-nghi ngồi gọi là thân ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi cũng gọi là sắc-ngồi.
4- Oai-nghi nằm gọi là thân nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm cũng gọi là sắc-nằm.
* Đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng iriyāpathapabba: Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi gọi là sắc-đi, oai-nghi đứng gọi là sắc-đứng, oai-nghi ngồi gọi là sắc-ngồi, oai-nghi nằm gọi là sắc-nằm, mà sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm đều là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
1- Thế nào gọi là sắc-đi?
* Sắc-đi chính là tư thế đi, dáng đi, toàn thân di chuyển bước đi từng bước theo mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi chuyển động một cách tự nhiên. Cho nên, sắc-đi ở trong trạng-thái động.
Sắc-đi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là tư thế đi, dáng đi. Có vô số dáng đi, nên có vô số sắc-đi.
2- Thế nào gọi là sắc-đứng?
* Sắc-đứng chính là tư thế đứng, dáng đứng, toàn thân đứng yên trong mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên một cách tự nhiên. Cho nên, sắc-đứng ở trong trạng-thái tĩnh (hiện-tại ngắn ngủi tuỳ theo nhân-duyên).
Sắc-đứng thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là tư thế đứng, dáng đứng. Có vô số dáng đứng, nên có vô số sắc-đứng.
3- Thế nào gọi là sắc-ngồi?
* Sắc-ngồi chính là tư thế ngồi, dáng ngồi, toàn thân ngồi, thân phần trên ngồi yên, thân phần dưới co theo mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên một cách tự nhiên. Cho nên, sắc-ngồi ở trong trạng-thái tĩnh (hiện-tại ngắn ngủi tuỳ theo nhân-duyên).
Sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là tư thế ngồi, dáng ngồi.
Có vô số dáng ngồi, nên có vô số sắc-ngồi.
4- Thế nào gọi là sắc-nằm?
* Sắc-nằm chính là tư thế nằm, dáng nằm, toàn thân nằm nghiêng, nằm ngửa theo mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên một cách tự nhiên. Cho nên, sắc-nằm ở trong trạng-thái tĩnh (hiện-tại ngắn ngủi tuỳ theo nhân-duyên).
Sắc-nằm thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là tư thế nằm, dáng nằm.
Có vô số dáng nằm, nên có vô số sắc-nằm.
Cho nên, hành-giả có chánh-kiến thấy đúng, hiểu biết đúng rằng:
* Khi đi, không phải là ta đi, cũng không phải là ai đi, mà sự thật đúng theo thật-tánh-pháp chỉ có “thân đi” hoặc “sắc-đi” mà thôi. Đó là mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi.
* Khi đứng, không phải là ta đứng, cũng không phải là ai đứng, mà sự thật đúng theo thật-tánh-pháp chỉ có “thân đứng” hoặc “sắc-đứng” mà thôi. Đó là mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng.
* Khi ngồi, không phải là ta ngồi, cũng không phải là ai ngồi, mà sự thật đúng theo thật-tánh-pháp chỉ có “thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi” mà thôi. Đó là mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi.
* Khi nằm, không phải là ta nằm, cũng không phải là ai nằm, mà sự thật đúng theo thật-tánh-pháp chỉ có “thân nằm” hoặc “sắc-nằm” mà thôi. Đó là mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm.
Sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) làm đối-tượng thiền-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
PHÂN BIỆT ĐỐI-TƯỢNG TỨ-OAI-NGHI THUỘC VỀ CHẾ-ĐỊNH-PHÁP, CHÂN-NGHĨA-PHÁP
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là 1 trong 14 đối-tượng trong phần thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp là chân-nghĩa-pháp, nên gọi là thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm hoặc sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm.
Như vậy, danh từ ngôn ngữ gọi là “thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm hoặc sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm” thuộc về chế-định-pháp loại vijjamānapaññatti: Chế-định-pháp có thật-tánh-pháp làm nền tảng.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ sử dụng tứ-oai-nghi làm đối-tượng thiền-tuệ, cần phải học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết rõ, phân biệt rõ tứ-oai-nghi như thế nào thuộc về chế-định-pháp và tứ-oai-nghi như thế nào thuộc về chân-nghĩa-pháp?
Đó là điều vô cùng hệ trọng đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì đối-tượng chế-định-pháp và đối-tượng chân-nghĩa-pháp dẫn đến kết quả hoàn toàn khác nhau.
TỨ-OAI-NGHI THUỘC VỀ CHẾ-ĐỊNH-PHÁP
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm hoặc sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm nếu thuộc về đối-tượng chế-định-pháp thì có 2 loại:
- Atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dạng chế định.
- Nāmapaññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế định.
1- Atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dạng chế định
Nếu hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi đó là sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm mà hành-giả có khái niệm về tư thế đi, dáng đi; tư thế đứng, dáng đứng; tư thế ngồi, dáng ngồi; tư thế nằm, dáng nằm ở trong tâm.
Như vậy, những đối-tượng khái niệm về tứ-oai-nghi ấy thuộc về atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dáng chế định.
2- Nāmapaññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế định
Nếu hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ hướng tâm đến đối-tượng khái niệm thuộc về atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dáng chế định tứ-oai-nghi ở trong tâm:
- Về tư thế đi, dáng đi ấy, mà niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-đi, sắc-đi,…”
- Về tư thế đứng, dáng đứng ấy, mà niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-đứng, sắc-đứng, …”
- Về tư thế ngồi, dáng ngồi ấy, mà niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-ngồi, sắc-ngồi, …”
- Về tư thế nằm, dáng nằm ấy, mà niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-nằm, sắc-nằm, …”
Như vậy, những đối-tượng khái niệm về tứ-oai-nghi ấy thuộc về nāmapaññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế định.
Nếu hành-giả đang niệm tưởng đến đối-tượng khái niệm về mỗi oai-nghi ở trong tâm thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) là khái niệm về tư thế, về dáng của mỗi oai-nghi và danh từ ngôn-ngữ gọi sắc-đi,… hoặc sắc-đứng, … hoặc sắc-ngồi, … hoặc sắc-nằm, … thì tâm của hành-giả cũng có thể định-từng-thời trong đối-tượng oai-nghi ấy, nhưng không phải là thực-hành pháp-hành thiền-định, bởi vì tứ-oai-nghi không phải là đề-mục thiền-định, cũng không phải là thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì đối-tượng mỗi oai-nghi ấy thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), nên cũng không phải là đối-tượng thiền-tuệ, sẽ dẫn đến kết quả như sau:
- Tâm không thể thấy rõ, biết rõ được thật-tánh của sắc-pháp ấy.
- Tâm không thể thấy rõ, biết rõ được trạng-thái riêng của mỗi sắc-pháp ấy.
- Tâm không thể thấy rõ, biết rõ được sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp.
- Tâm không thể thấy rõ, biết rõ được 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
Cho nên không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, mà chỉ có được dục-giới thiện-nghiệp mà thôi.
TỨ-OAI-NGHI THUỘC VỀ CHÂN-NGHĨA-PHÁP
Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm hoặc sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm thuộc về chân-nghĩa-pháp là:
- Sắc-đi đó là tư thế đi, dáng đi thuần tuý tự nhiên.
- Sắc-đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng thuần tuý tự nhiên.
- Sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuần tuý tự nhiên.
- Sắc-nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm thuần tuý tự nhiên.
Tư thế đi, dáng đi; tư thế đứng, dáng đứng; tư thế ngồi, dáng ngồi; tư thế nằm, dáng nằm đều là sắc-pháp phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch, không có phiền-não làm ô nhiễm thì tư thế đi, dáng đi, tư thế đứng, dáng đứng, tư thế ngồi, dáng ngồi, tư thế nằm, dáng nằm ấy mới thật là thuần tuý tự nhiên.[6]
Nếu hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác ngay đối-tượng tư thế đi, dáng đi, hoặc tư thế đứng, dáng đứng, hoặc tư thế ngồi, dáng ngồi, hoặc tư thế nằm, dáng nằm là sắc-pháp phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch được thể hiện toàn thân, thì đối-tượng ấy thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có khả năng dẫn đến kết quả như sau:
- Trí-tuệ có khả năng thấy rõ, biết rõ được thật-tánh của sắc-pháp, (danh-pháp).
- Trí-tuệ có khả năng thấy rõ, biết rõ được trạng-thái- riêng của mỗi sắc-pháp ấy, (mỗi danh-pháp ấy).
- Trí-tuệ thiền-tuệ có khả năng thấy rõ, biết rõ được sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp.
- Trí-tuệ thiền-tuệ có khả năng thấy rõ, biết rõ được 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, có khả năng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Hành-giả có khả năng chứng đắc thành Thánh-nhân bậc nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào 10 pháp-hạnh ba-la-mật và năng lực của 5 pháp-chủ (indriya): Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ của hành-giả ấy.
Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có tầm quan trọng thiết yếu đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì chỉ có sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp mới có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới mà thôi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpaparicchedañāṇa trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, làm nền tảng căn bản để cho các trí-tuệ thiền-tuệ tiếp theo tuần tự phát sinh như sau:
- Trí-tuệ thứ nhì gọi là nāmarūpapaccayapariggaha-ñāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân-duyên phát sinh mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ ba gọi là sammasanañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp do nhân-duyên-diệt, nên thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
- Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là uddayabbayānupassanā-ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại. Tiếp theo tuần tự cho đến:
- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 12 gọi là saccānulomañāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thuận dòng theo 8 loại trí-tuệ thiền-tuệ phần trước và thuận dòng theo 37 pháp bodhipakkhiya-dhamma phần sau.
Từ trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 12 saccānulomañāṇa còn thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā), bởi vì tâm vẫn còn là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ và đối-tượng thiền-tuệ vẫn còn là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới có 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, liền tiếp theo:
- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gotrabhuñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ có đối-tượng Niết-bàn, làm phận sự chuyển dòng từ bậc thiện-trí phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân, …
Như vậy, trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gotrabhuñāṇa đặc biệt này tuy tâm vẫn còn là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ nhưng có đối-tượng Niết-bàn, siêu-tam-giới, liền tiếp theo trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, đó là 2 trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới là:
- Trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ trong Thánh-đạo-tâm có khả năng diệt tận được tham-ái, phiền-não,… và trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 15 phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ trong Thánh-quả-tâm có khả năng làm vắng lặng được tham-ái, phiền-não,… trở thành bậc Thánh-nhân.
Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ ấy chỉ có sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp mà thôi.
Ngoài mọi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp ra, các đối-tượng chế-định-pháp dù là đối-tượng vijjamānapaññatti: Chế-định-pháp có thật-tánh-pháp làm nền tảng cũng không thể làm đối-tượng thiền-tuệ được, bởi vì các đối-tượng nầy thuộc về chế- định-pháp.
Vì vậy, hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp- hành thiền-tuệ cần phải biết 3 giai đọan:
1- Giai đọan đầu: Hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ, phân biệt rõ tất cả mọi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp như thế nào thuộc về chân-nghĩa-pháp và như thế nào thuộc về chế-định-pháp, đó là điều tối quan trọng, bởi vì hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ chỉ có đối-tượng thiền-tuệ là sắc-pháp hoặc danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp mà thôi.
2- Giai đọan giữa: Khi hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có giới hạnh của mình trong sạch và trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm trực nhận đúng ngay đối-tượng sắc-pháp ấy hoặc danh-pháp ấy, và trí-tuệ tỉnh-giác trực giác ngay đối-tượng sắc-pháp ấy hoặc danh-pháp ấy, thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp ấy hoặc của danh-pháp ấy có trạng-thái-riêng của mỗi sắc-pháp ấy hoặc của mỗi danh-pháp ấy.
3- Giai đọan cuối: Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, làm cho phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ theo tuần tự thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp ấy; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não.
Diệt tận được tham-ái, phiền-não nào do năng lực của mỗi Thánh-đạo-tuệ, và trở thành Thánh-nhân bậc nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào 10 pháp-hạnh ba-la-mật và năng lực của 5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của hành-giả.
2- PHẦN PHÁP-HÀNH TỨ-OAI-NGHI
Đối-tượng tứ-oai-nghi (iriyāpathapabba) là 1 trong 14 đối-tượng trong phần thân-niệm-xứ, cũng là 1 trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ. 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, mà mỗi đối-tượng đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-Đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành tứ- niệm xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi. Sau khi đã học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ phần pháp-học tứ-oai-nghi xong rồi, để chuyển sang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi, hành-giả cần phải hội đầy đủ những điều kiện cần thiết như sau:
* Trước tiên, hành-giả là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đã từng tích-lũy 10 pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp quá-khứ, kiếp hiện-tại là người có giới-hạnh trong sạch, cần phải tìm vị Thiền sư thông hiểu về pháp-học Phật-giáo, có đủ kinh nghiệm về pháp-hành thiền-tuệ, nhất là đối-tượng tứ-oai-nghi, rồi nương nhờ nơi vị Thiền sư ấy.
Hành-giả trực tiếp thọ giáo với vị Thiền sư, theo đúng nghi lễ thọ pháp-hành thiền-tuệ[7], để hộ trì, hỗ-trợ hành-giả trong khi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ và để cho hành-giả trình pháp-hành của mình, bởi vì khi hành-giả chưa có khả năng nhận thức đúng hoặc sai, chưa có kinh nghiệm về pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ oai-nghi, dễ phát sinh tâm hoài-nghi, làm trở ngại cho hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Vị Thiền sư giảng giải cho hành-giả hiểu rõ phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đúng theo pháp-hành trung-đạo.
* Hành-giả là người có giới-hạnh của mình trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-định và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ. Nếu giới của mình không được trong sạch thì định và tuệ không có nơi nương nhờ để phát sinh, và tiến triển tốt được.
Cũng ví như không có mặt đất tốt thì cây cối không có nơi nương nhờ để phát sinh và tăng trưởng được, thì còn mong gì đến hoa và quả.
* Hành-giả là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có chánh-kiến đúng đắn, có sự tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
* Hành-giả cần phải có đủ điều kiện thuận lợi[8], tránh xa những điều bất lợi, để cho pháp-hành thiền-tuệ được phát triển tốt. * Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm, phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-tuệ theo mỗi oai-nghi như sau:
2.1- ĐỐI-TƯỢNG OAI-NGHI ĐI
Oai-nghi đi là thân đi hoặc sắc-đi đó chính là tư thế đi, dáng đi toàn thân di chuyển, bước đi từng bước theo mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi, phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch với tư thế đi, dáng đi tự nhiên, thanh thản, như đi tản bộ, không nên đi chậm quá hoặc đi mau quá, làm cho dáng đi mất tự nhiên, làm che phủ thật-tánh của sắc-đi ấy.
Thật-tánh của các pháp luôn luôn ở trong trạng-thái tự nhiên, nên tư thế đi, dáng đi làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ cũng phải ở trong trạng-thái tự nhiên.
Sắc-đi ở trong trạng-thái-động thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa), làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển bước đi từng bước, từng bước một cách tự nhiên.
* CHỦ THỂ
Hành-giả có chánh-niệm (niệm-thân) trực nhận đúng ngay đối-tượng mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi, theo dõi, ghi nhớ theo quá trình diễn biến mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển do bước đi từng bước, từng bước một cách tự nhiên.
Toàn thân di chuyển như thế nào?
Ví dụ: Khi thấy chiếc xe chạy, là thấy toàn chiếc xe di chuyển, không phải thấy bánh xe lăn, …
Cũng như vậy, hành-giả có chánh-niệm trực nhận ngay đối-tượng mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi, theo dõi sự diễn biến của mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển bước đi một cách tự nhiên.
Hành-giả không nên chú tâm ở phần nào của thân như chân phải bước, chân trái bước từng bước, không nên có khái niệm về tư thế đi, dáng đi ở trong tâm, và cũng không nên niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-đi, sắc-đi, …” hoặc “chân phải bước, chân trái bước,…” Nếu hành-giả có khái niệm về tư thế đi, dáng đi, hoặc niệm tưởng “sắc-đi, sắc-đi” hoặc “chân phải bước, chân trái bước, …” ở trong tâm như vậy, thì đối-tượng sắc-đi ấy trở thành đối-tượng chế-định-pháp, không phải là đối-tượng chân-nghĩa-pháp. Do đó, đối-tượng sắc-đi ấy không phải là đối-tượng thiền-tuệ.
Theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), đối-tượng sắc-đi đó là tư thế đi, dáng đi hiện rõ toàn thân di chuyển đang bước đi. Đối-tượng sắc-đi hiện-tại hiện rõ ở toàn thân (bên ngoài), không ở trong tâm tưởng.
Nếu hành-giả niệm tưởng sắc-đi ở trong tâm thì tâm biết đối-tượng sắc-đi không đúng nơi vị trí, nên hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-đi ấy.
Cho nên, hành-giả có chánh-niệm trực nhận đúng ngay đối-tượng sắc-đi hiện-tại trong mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi hiện rõ toàn thân di chuyển đang bước đi.
* Hành-giả có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển bước đi ấy, mà mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi ấy gọi là “sắc-đi”. Có vô số tư thế đi, dáng đi, nên có vô số sắc-đi.
* Hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi ấy gọi là sắc-đi đúng theo chánh-kiến thiền-tuệ, đồng thời có khả năng diệt được tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm là “ta đi”.
Tóm lại, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm trực nhận mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển như thế nào thì trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi toàn thân di chuyển như thế ấy một cách thoáng qua.[9]
* Hành-giả là người có tâm tinh-tấn không ngừng hỗ trợ cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không ngừng, để cho trí-tuệ thiền-tuệ phát triển, chánh-kiến thiền-tuệ càng thấy rõ, biết rõ “sắc-đi” thì đồng thời tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng “ta đi” bị lu mờ dần cho đến khi tà-kiến theo chấp ngã bị diệt, không phát sinh, do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ chỉ thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đi, mỗi dáng đi gọi là sắc-đi mà thôi.
Trên đây phân tích 3 loại tâm-sở: Niệm tâm-sở (saticetasika) đó là chánh-niệm, trí-tuệ tâm-sở (paññā-cetasika) là trí-tuệ tỉnh-giác đó là chánh-kiến, tinh-tấn tâm-sở (vīriyacetasika) đó là chánh-tinh-tấn với 3 phận sự khác nhau, cùng với các tâm-sở khác đồng sinh với đại-thiện-tâm ấy có đối-tượng oai-nghi đi gọi là sắc đi đó là tư-thế đi, dáng đi.
2.2- ĐỐI-TƯỢNG OAI-NGHI ĐỨNG
Oai-nghi đứng là thân đứng hoặc sắc-đứng đó chính là tư thế đứng, dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên theo mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng, không cử động, phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch với tư thế đứng, dáng đứng tự nhiên, không nên đứng dáng này dáng nọ, cũng không nên đứng trân người, làm cho dáng đứng mất tự nhiên, làm che phủ thật-tánh của sắc-đứng ấy.
Thật-tánh của các pháp luôn luôn ở trong trạng-thái tự nhiên, nên tư thế đứng, dáng đứng làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ cũng phải ở trong trạng-thái tự nhiên.
Sắc-đứng ở trong trạng-thái-tĩnh[10] thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa), làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên, không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên. Cho nên, sắc-đứng hiện tại ngắn ngủi, nếu thân cử động thì tư thế đứng, dáng đứng biến đổi khác.
* Chủ thể
* Hành-giả là người có chánh-niệm (niệm-thân) trực nhận đúng ngay đối-tượng mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng, theo dõi, ghi nhớ mỗi tư thế đứng, dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên, không cử động, trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên.
Hành-giả không nên chú tâm ở phần nào của thân như dưới bàn chân, không nên có khái niệm về tư thế đứng, dáng đứng ở trong tâm, và cũng không nên niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-đứng, sắc-đứng,…” hoặc “đứng à, đứng ā, …”
Nếu hành-giả có khái niệm về tư thế đứng, dáng đứng, hoặc niệm tưởng “sắc-đứng, sắc-đứng” hoặc “đứng à, đứng à” ở trong tâm như vậy, thì đối-tượng sắc-đứng ấy trở thành đối-tượng chế-định-pháp, không phải đối-tượng chân-nghĩa-pháp. Do đó, đối-tượng sắc-đứng ấy không phải là đối-tượng thiền-tuệ.
Theo chân-nghĩa-pháp, đối-tượng sắc-đứng đó là tư thế đứng, dáng đứng hiện rõ toàn thân đứng thẳng yên, không cử động là đối-tượng sắc-đứng hiện-tại hiện rõ ở toàn thân (bên ngoài), không ở trong tâm tưởng.
Nếu hành-giả niệm tưởng sắc-đứng ở trong tâm thì tâm biết đối-tượng sắc-đứng không đúng nơi vị trí, nên hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-đứng ấy. Cho nên, hành-giả có chánh-niệm trực nhận đúng ngay đối-tượng sắc-đứng hiện-tại trong mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng hiện rõ toàn thân đứng thẳng yên, không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên của mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng ấy.
* Hành-giả là người có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên không cử động ấy, mà mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng ấy gọi là “sắc-đứng”.
Có vô số tư thế đứng, dáng đứng, nên có vô số sắc-đứng.
* Hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tư thế đứng, dáng đứng ấy gọi là sắc-đứng đúng theo chánh-kiến thiền-tuệ, đồng thời có khả năng diệt được tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm là “ta đứng”.
Tóm lại, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm trực nhận mỗi tư thế đứng, dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên, không cử động như thế nào thì trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đứng, dáng đứng toàn thân đứng thẳng yên, không cử động như thế ấy một cách thoáng qua.
* Hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng hỗ trợ cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không ngừng, để cho trí-tuệ thiền-tuệ phát triển, chánh-kiến thiền-tuệ càng thấy rõ, biết rõ “sắc-đứng” thì đồng thời tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng “ta đứng” bị lu mờ dần cho đến khi tà-kiến theo chấp ngã bị diệt, không phát sinh, do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ, chỉ thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng gọi là sắc-đứng mà thôi.
Trên đây phân tích 3 loại tâm-sở: Niệm tâm-sở đó là chánh-niệm, trí-tuệ tâm-sở (paññācetasika) là trí-tuệ tỉnh-giác đó là chánh-kiến, tinh-tấn tâm-sở (vīriya-cetasika) đó là chánh-tinh-tấn với 3 phận sự khác nhau, cùng với các tâm-sở khác đồng sinh với đại-thiện-tâm ấy có đối-tượng oai-nghi đứng.
2.3- ĐỐI-TƯỢNG OAI-NGHI NGỒI
Oai-nghi ngồi là thân ngồi hoặc sắc-ngồi đó chính là tư thế ngồi, dáng ngồi toàn thân ngồi yên, không cử động, thân phần trên ngồi thẳng, thân phần dưới co theo mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch với tư thế ngồi, dáng ngồi tự nhiên, không nên ngồi dáng này dáng nọ, cũng không nên ngồi trân người, làm cho dáng ngồi mất tự nhiên, làm che phủ thật-tánh của sắc-ngồi ấy.
Thật-tánh của các pháp luôn luôn ở trong trạng-thái tự nhiên, nên tư thế ngồi, dáng ngồi làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ cũng phải là tự nhiên.
Sắc-ngồi ở trong trạng-thái-tĩnh[11] thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa), làm đối-tượng của pháp- hành thiền-tuệ đó là mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi toàn thân ngồi yên, không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên.
Cho nên, sắc-ngồi hiện tại ngắn ngủi, nếu thân cử động thì tư thế ngồi, dáng ngồi biến đổi khác.
* Chủ Thể
* Hành-giả là người có chánh-niệm (niệm-thân) trực nhận đúng ngay đối-tượng mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi, theo dõi, ghi nhớ mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi toàn thân ngồi yên không cử động, trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên.
Hành-giả không nên chú tâm ở phần nào của thân như dưới mông, không nên có khái niệm về tư thế ngồi, dáng ngồi ở trong tâm, và cũng không nên niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-ngồi, sắc-ngồi...” hoặc “ngồi à, ngồi à..”
Nếu hành-giả có khái niệm về tư thế ngồi, dáng ngồi, hoặc niệm tưởng “sắc-ngồi, sắc-ngồi” hoặc “ngồi à, ngồi à” ở trong tâm như vậy, thì đối-tượng sắc-ngồi ấy trở thành đối-tượng-chế-định-pháp, không phải đối-tượng-chân-nghĩa-pháp. Do đó, đối-tượng sắc-ngồi ấy không phải là đối-tượng thiền-tuệ.
Theo chân-nghĩa-pháp, đối-tượng sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi hiện rõ toàn thân ngồi yên, không cử động là đối-tượng sắc-ngồi hiện-tại hiện rõ ở toàn thân (bên ngoài), không ở trong tâm tưởng.
Nếu hành-giả niệm tưởng sắc-ngồi ở trong tâm thì tâm biết đối-tượng sắc-ngồi không đúng nơi vị trí, nên hành- giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-ngồi ấy.
Cho nên, hành-giả có chánh-niệm trực nhận đúng ngay đối-tượng sắc-ngồi hiện-tại trong mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi hiện rõ toàn thân ngồi yên, không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên của mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi ấy.
* Hành-giả là người có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi toàn thân ngồi yên không cử động ấy, mà mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi ấy gọi là “sắc-ngồi”.
Có vô số tư thế ngồi, dáng ngồi, nên có vô số sắc-ngồi.
Hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tư thế ngồi, dáng ngồi ấy gọi là sắc-ngồi đúng theo chánh-kiến thiền-tuệ, đồng thời có khả năng diệt được tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm là “ta ngồi”.
Tóm lại, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm trực nhận mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi toàn thân ngồi yên, không cử động như thế nào thì trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi toàn thân ngồi yên không cử động như thế ấy một cách thoáng qua.
* Hành-giả là người có tâm tinh-tấn không ngừng hỗ trợ cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không ngừng, để cho trí-tuệ thiền-tuệ phát triển, chánh-kiến thiền-tuệ càng thấy rõ, biết rõ “sắc-ngồi” thì đồng thời tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng “ta ngồi” bị lu mờ dần cho đến khi tà-kiến theo chấp ngã bị diệt, không phát sinh, do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ, chỉ thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế ngồi, mỗi dáng ngồi gọi là sắc-ngồi mà thôi.
Trên đây phân tích 3 loại tâm-sở: Niệm tâm-sở (saticetasika) đó là chánh-niệm, trí-tuệ tâm-sở (paññācetasika) là trí-tuệ tỉnh-giác đó là chánh-kiến, tinh-tấn tâm-sở (vīriyacetasika) đó là chánh-tinh-tấn với 3 phận sự khác nhau, cùng với các tâm-sở khác đồng sinh với đại-thiện-tâm ấy có đối-tượng oai-nghi ngồi.
2.4- ĐỐI-TƯỢNG OAI-NGHI NẰM
Oai-nghi nằm là thân nằm hoặc sắc-nằm đó chính là tư thế nằm, dáng nằm toàn thân nằm yên, không cử động theo mỗi tư thế nằm, dáng nằm, phát sinh do đại-thiện-tâm trong sạch với tư thế nằm, dáng nằm tự nhiên, không nên nằm dáng này dáng nọ, cũng không nên nằm trân ngườì, làm cho dáng nằm mất tự nhiên, làm che phủ thật-tánh của sắc-nằm ấy.
Thật-tánh của các pháp luôn luôn ở trong trạng-thái tự nhiên, nên tư thế nằm, dáng nằm làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ cũng phải là tự nhiên.
Sắc-nằm ở trong trạng-thái-tĩnh[12] thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đó là mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm toàn thân nằm yên không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên.
Cho nên, sắc-nằm hiện tại ngắn ngủi, nếu thân cử động thì tư thế nằm, dáng nằm biến đổi khác.
* Chủ Thể
* Hành-giả là người có chánh-niệm (niệm-thân) trực nhận đúng ngay đối-tượng mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm, theo dõi, ghi nhớ mỗi tư thế nằm, dáng nằm toàn thân nằm yên không cử động, trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên, một cách tự nhiên.
Hành-giả không nên chú tâm ở phần nào của thân như lưng, mông, v.v…. không nên có khái niệm về tư thế nằm, dáng nằm ở trong tâm, và cũng không nên niệm tưởng trong tâm rằng: “Sắc-nằm, sắc-nằm,…” hoặc “nằm à, nằm ā, …”.
Nếu hành-giả có khái niệm về tư thế nằm, dáng nằm, hoặc niệm tưởng “sắc-nằm, sắc-nằm” hoặc “nằm à, nằm à” ở trong tâm như vậy, thì đối-tượng sắc-nằm ấy trở thành đối-tượng chế-định-pháp, không phải đối-tượng chân-nghĩa-pháp. Do đó, đối-tượng sắc-nằm ấy không phải là đối-tượng thiền-tuệ.
Theo chân-nghĩa-pháp, đối tượng sắc-nằm đó là tư thế nằm, dáng nằm hiện rõ toàn thân nằm yên không cử động là đối-tượng sắc-nằm hiện-tại hiện rõ ở toàn thân (bên ngoài), không ở trong tâm tưởng.
Nếu hành-giả niệm tưởng sắc-nằm ở trong tâm thì tâm biết đối-tượng sắc-nằm không đúng nơi vị trí, nên hành- giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-nằm ấy.
Cho nên, hành-giả có chánh-niệm trực nhận đúng ngay đối-tượng sắc-nằm hiện-tại trong mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm hiện rõ toàn thân nằm yên, không cử động trong khoảnh khắc tuỳ theo nhân-duyên của mỗi tư thế nằm, dáng nằm ấy.
* Hành-giả là người có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm toàn thân nằm yên, không cử động ấy, mà mỗi tư thế nằm, dáng nằm ấy gọi là “sắc-nằm”.
Có vô số tư thế nằm, dáng nằm, nên có vô số sắc-nằm.
Hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tư thế nằm, dáng nằm ấy gọi là sắc-nằm đúng theo chánh-kiến thiền-tuệ, đồng thời có khả năng diệt được tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm là “ta nằm”.
Tóm lại, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm trực nhận mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm toàn thân nằm yên, không cử động như thế nào thì trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm toàn thân nằm yên, không cử động như thế ấy một cách thoáng qua.
* Hành-giả là người có tâm tinh-tấn không ngừng hỗ trợ cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không ngừng, để cho trí-tuệ thiền-tuệ phát triển, chánh-kiến thiền-tuệ càng thấy rõ, biết rõ “sắc-nằm” thì đồng thời tà-kiến theo chấp ngã tưởng lầm rằng “ta nằm” bị lu mờ dần cho đến khi tà-kiến theo chấp ngã bị diệt, không phát sinh, do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ, chỉ thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế nằm, mỗi dáng nằm gọi là sắc-nằm mà thôi.
Trên đây phân tích 3 loại tâm-sở: Niệm tâm-sở (saticetasika) đó là chánh-niệm, trí-tuệ tâm-sở (paññācetasika) là trí-tuệ tỉnh-giác đó là chánh-kiến, tinh-tấn tâm-sở (vīriyacetasika) đó là chánh-tinh-tấn với 3 phận sự khác nhau, cùng với các tâm-sở khác đồng sinh với đại-thiện-tâm ấy có đối-tượng oai-nghi nằm.
CHÚ THÍCH
[1] Dīghanikāya, Mahāvaggapāḷi, kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.
[2] Bộ Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā.
[3] Majjhimanikāya, Mūlapaṇṇāsa. kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā.
[4] Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, M. Mū. Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā.
[5] M. Mūlapaṇṇāsaṭṭhakāthā, Sampaāññapabbavaṇṇanā.
[6] Thuần tuý tự nhiên nghĩa là tư thế đi, đứng, ngồi, nằm; dáng đi, đứng, ngồi, nằm phát sinh do đại thiện-tâm trong sạch, không có phiền-não làm ô nhiễm.
[7] Xem nghi lễ thọ “Pháp-hành thiền-tuệ” phần cuối quyển sách này.
[8] Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn giả.
[9] Một cách thóang qua có nghĩa là không quá chú tâm đến đối-tượng hiện-tại ây, mà chỉ cấn có chánh-niệm trực nhận ngay đối-tượng ấy, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác đối-tượng ấy một cách thoáng qua mà thôi, nhờ tinh-tấn không ngừng, nên đối-tượng ấy càng lúc càng thêm rõ. Nếu hành-giả quá chú tâm đến đối-tượng ấy thì đối-tượng ấy vượt qua lãnh vực chân-nghĩa-pháp, sang lĩnh vực chế-định-pháp.
[10] Trạng-thái tĩnh có nghĩa là không cử động trong giây lát ngắn ngủi của mỗi tư thế đứng, mỗi dáng đứng là đối-tượng sắc-đứng hiện-tại.
[11] Trạng-thái tĩnh có nghĩa là không cử động trong giây lát ngắn ngủi của mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi là đối-tượng sắc-ngồi hiện-tại.
[12] Trạng-thái tĩnh có nghĩa là không cử động trong giây lát ngắn ngủi của mỗi tư thế nằm, dáng nằm là đối-tượng sắc-nằm hiện-tại.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.