33. Ariyasaccāna dassanaṃ: Nết Hạnh Thấy Các Diệu Đế

33. Ariyasaccāna dassanaṃ: Nết Hạnh Thấy Các Diệu Đế

    38 Pháp Hạnh Phúc

    Mahā Thong Kham Medhivongs

     

    33. Ariyasaccāna dassanaṃ: Nết Hạnh Thấy Các Diệu Đế

    Trước khi đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Đức Thế Tôn cũng là người như chúng ta, nhưng sở dĩ Ngài được giải thoát và chúng ta cùng sùng kính ngài, học theo lời giảng dạy của Ngài, là nhờ Ngài đắc được pháp gọi là Tứ Diệu Đế. Bài pháp Ngài thuyết đầu tiên tại vườn Lộc Giả ở Barānasī là Tứ Diệu Đế, bởi Ngài nhận thấy rằng Tứ Diệu Đế là sự thật của các bậc Thánh nhân. Sự thật của Pháp này là xa hẳn kẻ thù là phiền não, sự thật mà các bậc thánh nhân phải đắc. Tứ Diệu Đế như là ấn chứng của Phật ngôn. Vì Tứ Diệu Đế làm cho người tu Phật đã hành theo chân chính đắc được đạo quả và không còn khổ nữa.

    Phạn ngữ là Ariyasacca, ta dịch là Diệu Đế, có bốn chi. Tiếng Ariyasacca, có thể chia ra làm hai phần: Ariya nghĩa là cao quí, Sacca nghĩa là sự thật, tóm hiệp lại thì:

    - Tứ Diệu Đế là sự thật rất cao quí.

    - Tứ Diệu Đế làm cho người trở nên cao quí.

    1. Tứ Diệu Đế là sự thật rất cao quí: vì là khuôn vàng thước ngọc, hay là một tiêu biểu có đầy đủ sự thật không ai sửa đổi được. Dù Đức Phật sau này có thuyết về pháp Tứ Diệu Đế cũng dạy đúng như Đức Phật hiện tại không sai một nét nào.

    Tứ Diệu Đế cao quí ví như kim cương. Kim cương là vật có màu sắc đẹp, cứng rắn, không có gì làm hoại, sét không ăn, không bị nhiễm mùi vị của vật gì. Người trong thế gian này ai cũng chuộng kim cương. Không phải kim cương có giá trị cao quí vì sự quảng cáo của con người, mà chính mình kim cương có tính chất cao quí.

    2. Tứ Diệu Đế làm cho con người trở nên cao quí: nghĩa là khi hành giả thấy rõ pháp Tứ Diệu Đế bằng tuệ nhãn, pháp mà vị hành giả ấy đắc, là làm cho hành giả trở nên cao quí. Ví như phòng khách của chúng ta bày đồ quí giá, sơn màu tươi đẹp lộng lẫy, thì phòng ấy trở nên đẹp và trông nơi nào cũng vui mắt. Bây giờ cũng phòng ấy mà chúng ta sơn đèn, đốt đèn leo lét, đồ không giá trị, chuột rút om sòm, thì phòng ấy thật là đáng ghê và chắc chắn rằng không ai muốn ngồi một phút nào hết. Tâm ví như phòng ấy. Nếu tâm trang điểm bằng pháp Tứ Diệu Đế thì sáng suốt, đẹp, cao quí, nhược bằng các pháp như tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, oán thù v.v... thì tâm ấy trở nên tồi tệ, không ai muốn gần và những người đã gần lại tìm thế đi cho xa.

    Sự thật của Tứ Diệu Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khi người bắt đầu thấy bằng tuệ nhãn thì phiền não cũng bắt đầu xa lần, rút lui dần. Khi càng ngày ta càng hiểu thông, thì phiền não cũng rút đi thật xa. Khi ta trông thấy rõ triệt để, thì không còn phiền não tí nào trong tâm, người ấy đã trở nên một người khác, mà Phật giáo gọi là bậc Thánh nhân, nghĩa là người cao quí. Thông hiểu pháp Tứ Diệu Đế làm cho người cao quí trở nên Thánh nhân là vậy.

    Muốn thông hiểu pháp Tứ Diệu Đế, phải hiểu theo thứ tự gọi là hiểu Ba Luân và Mười Hai Thể, xin quí vị xem bảng kèm theo.

    Trong bảng này, hành giả thấy rằng Tứ Diệu Đế gồm 4 điều. Mỗi điều phải hiểu rõ đến 3 lần, 4 điều là 12 lần, vòng đi vòng lại, nên gọi là 12 thể. Ba vòng ấy gọi là Ba Luân.

    Điều tổng quát là sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế khác hơn tất cả những sự hiểu biết thông thường, vì đó là hiểu biết bằng trí tuệ và diệt trừ được phiền não. Đối với Tứ Diệu Đế, hiểu biết và thực hành phải đi đôi. Nếu hiểu biết mà không thực hành là không đắc đạo được. Quí vị hãy xem kỹ lại ở cột thứ 3 có đề: "Hiểu lần thứ 3", "Ta đã hiểu rõ rồi" (số 9). Nếu chưa rõ là chưa hiểu, nên chưa đắc đạo quả, chưa gọi là Thánh nhân được. Khi ta biết rằng ta đã hiểu rõ rồi, đây mới là sự thật.

    Tứ Diệu Đế Ba Luân
    Hiểu Lần Thứ Nhất Hiểu Lần Thứ Hai Hiểu Lần Thứ Ba
    Khổ 1. Khổ có thật. 5. Khổ cần phải hiểu. 9. Ta đã hiểu khổ rồi.
    Tập 2. Ái dục sanh khổ có thật. 6. Ái dục phải diệt. 10. Ta diệt ái dục rồi.
    Diệt 3. Diệt có thật. 7. Phải hành thấu rõ diệt. 11. Ta đã làm cho rõ rệt rồi.
    Đạo 4. Đạo có thật. 8. Phải hành cho rõ Đạo. 12. Ta đã hành Đạo đầy đủ rồi.

    Hiểu rõ khổ có thể ví như hiểu rõ thuốc, như vầy:

    1. Biết rằng đây là thuốc chữa bệnh.

    2. Biết rằng thuốc này nên uống.

    3. Biết rằng đã uống thuốc rồi.

    Trong ba cái biết, biết quan trọng nhất là biết đã uống thuốc rồi.

    Giờ xin quí vị đem sự hiểu Tứ Diệu Đế của quí vị lại so với bảng trước, xem quí vị hiểu tới trình độ nào? Vị nào hiểu Luân thứ nhất, chưa gọi là hiểu hoàn toàn, vì mới biết khổ do nơi nghe pháp; ta cũng có biết luân hồi là khổ, nhưng chỉ biết bằng tâm chứ không bằng trí tuệ.

    *

    DIỆU ĐẾ THỨ I: KHỔ ĐẾ

    Diệu đế thứ nhất là Khổ. Khi ta nghe nói khổ, ta không nhận thấy cái gì là quan trọng tai hại của khổ. Vì ai ai cũng biết đời là khổ cực đủ điều. Nhưng thật ra, sự hiểu biết về khổ của chúng sanh và thánh nhân có khác nhau, vì các bậc thánh nhân hiểu khổ, thấy khổ bằng tuệ; còn ta thấy bằng tâm trong cảnh ngộ, khi qua khỏi cảnh ngộ ta lại quên đi khổ cũng như khi lâm bệnh, chúng sanh thấy khổ, nhưng khi mạnh thì lại quên khổ. Trái lại, thánh nhân dù bệnh hay không, cũng thấy có thân này là là khổ, là ở khổ.

    Hơn nữa, chúng sanh chỉ biết khổ, nhưng không biết nguyên nhân sanh khổ, nên không sợ lắm. Riêng các bậc thánh nhân thấy rõ khổ, biết khổ và biết rõ nguyên nhân sanh khổ, nguồn gốc của khổ. Đây, xin ví dụ sự biết bệnh của người bệnh và sự biết của vị bác sĩ. Người bệnh biết rằng ta bệnh nhưng không biết do đâu có bệnh. Vị bác sĩ biết bệnh và nguyên nhân sanh bệnh, mà còn biết thuốc để trị bệnh.

    Vị bác sĩ tôi tạm ví như Đức Phật, vì Ngài biết khổ và nguyên nhân sanh khổ. Hơn thế nữa, Ngài lại biết phương pháp dập tắt khổ. Còn người bệnh là chúng ta đây, chỉ biết khổ nhưng chịu chết với khổ, chớ không có phương pháp nào chạy khỏi khổ.

    Đây tôi xin nhắc lại Phật ngôn trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật thuyết lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả.

    Trước hết tôi xin nói có hai cái khổ để quí vị dễ nhận định.

    1. Sabbavadukkha: khổ theo liền với thân. Phật ngôn dạy trong bài Chuyển Pháp Luân rằng: Này các thầy Tỳ khưu, sanh khổ, già khổ, chết khổ. (khổ này liền với thân vì khi có thân là có khổ này theo liền).

    2. Pakinnadukkha: khổ nếu sau khi có thân này là: khổ vì sự trái ý nghịch lòng, khổ vì thất vọng, khổ vì bực tức, khổ vì uất ức, khổ vì thân ái biệt ly, khổ vì oán thù hội ngộ, khổ vì sự ly biệt người yêu, khổ vì không được như ý (những khổ này đến sau khi có được thân này).

    Khổ, nói chung lại, chỉ có một là Sankhitena Pancupatthanakkandhadukkha: tóm lại sự chấp lấy thân ngũ uẩn là khổ.

    Chúng ta thấy khổ trên đây chia ra hai loại: Khổ do thân này và khổ mới đến sau. Còn câu chót Đức Thế Tôn dạy: Vì ta còn chấp lấy thân này nên có khổ, nghĩa là còn có thân là có khổ.

    Lẽ ra tôi phải viết ra mười hai cái khổ. Tôi không giải những cái khổ ở phần nhì, vì quí vị hiểu và chắc chắn gặp nó luôn luôn trên đường đời. Trong loại khổ đi chung với thân ngũ uẩn - sanh, già, chết - chắc quí vị thắc mắc tại sao tôi không kể đau, vì đúng theo Phạn ngữ không có đề cập đau. Các bản chú giải có thêm vào nên tất cả có 13 thứ khổ, vì thế trong kinh nào cũng có Đau và Tứ khổ.

    1. Sanh khổ: nghĩa là khi sanh ra có thân này, giờ nào là khổ theo liền bên trong vào ấy.

    Sanh khổ có 3 điều:

    - Khổ khi còn trong thai bào.

    - Khổ khi sanh.

    - Khổ vì sự sanh. Ý nói vì có sanh, nên có những khổ khác theo bên.

    Như đã nói trên, khổ có 13 chi. Tôi xin ví dụ sanh như cái đùm của bánh xe và 11 cái khổ kia là căm xe. Bánh xe này lăn đi được là do nơi bộ máy điều khiển là ái dục.

    Để chứng minh sanh khổ, Đức Phật có dạy 10 điều sanh khổ:

    a) Biến tướng khổ: là sự tuần tự biến chuyển của bào thai, thay đổi mãi cho tới khi có đủ các bộ phận. Bắt đầu thọ khổ khi mới tượng lên cho tới lớn, có đủ bộ phận thì bị nhiều điều khổ, do vật thực của mẹ ăn vào.

    b) Kinh sợ khổ: đứa bé chịu nhiều nỗi kinh sợ như bà mẹ làm việc nặng nhọc xóc xáo, hoặc trợt chân vấp té v.v...

    c) Hoành sanh khổ: cái khổ khi thai bào xoay trở, lúc xoay đầu xuống hay xoay ngang hông mẹ, đứa bé kinh sợ không khác nào chim con bị bão lớn.

    d) Nạn sanh khổ: trong lúc sanh nở gặp khó khăn. Đứa bé bị gió nghiệp chướng đẩy cho xoay đầu xuống để sanh, đứa nhỏ kinh sợ như người bị rớt từ trên cao xuống. Khi sanh ra, hài nhi phải bị cọ ép ví như tượng to chui ra kẻ đá nhỏ. Thực tế hơn, chỉ có quí bà nào đã làm mẹ rồi mới hiểu.

    e) Hàn thống khổ: khi vừa sanh ra, da còn non lại bị đem đi tắm, sự đau rát ấy có ai biết ra sao, chỉ có đứa bé ấy mới biết thôi.

    f) Thọ nghiệp khổ: sau khi sanh ra đến khôn lớn, tiền nghiệp lại đến trả quả. Nếu nghiệp ác thì chịu khổ sở đủ điều, nào là bị hiếp đáp đói khổ v.v... không sao kể hết.

    g) Quả báo khổ: sau khi lớn lên, lại bị quả báo như bị kẻ khác phao vu, bị người làm hại, mặc dù là vô can, hoặc bị tai nạn chiến tranh.

    h) Duyên sanh khổ: vì có sanh nên sanh khổ, chúng sanh bị đọa vào ác đạo cũng do sanh ra mà có.

    i) Chúng sanh sanh vào cõi súc sanh bị hành hạ khổ cũng là duyên sanh khổ.

    j) Chúng sanh bị đói khát trong cảnh quỷ đói cũng duyên sanh khổ.

    Mười khổ trên đây có thể chia ra làm hai loại: từ 1 đến 5 thì sanh là khổ; từ 6 đến 10 thì sanh là nhân khổ.

    2. Già là gì? Già nghĩa là mọi vật trong thân hình ta đều thay đổi như: tóc đen hóa trắng, mắt sáng hóa mờ, tai lại điếc v.v... Tóm lại vật gì trong thân ta khi trước tốt mạnh, nay đổi lại xấu, yếu, hư gọi là già. Đức Phật gọi đó là Jarā nhưng theo Phạn ngữ nghĩa là cũ. Ý nói rằng thân ta đây ví như cái xe, mà cái xe của người chủ rất tham lam, chở nhiều làm việc suốt ngày đêm, nên mau hư, mau cũ. Cái xe cũ thì quí vị biết nó có trạng thái ra sao? Thân này cũng vậy, có một mình ta mà còn phải lo ăn uống v.v... mà còn chở thêm của cải vợ con v.v... sự làm và lo quá sức nên mau già. Khi đã gọi là già, thì không có gì trong cơ thể không biến đổi thành tồi tệ.

    Đức Phật dạy có hai cái già:

    Parijinna: sự già là sự thay đổi hình dáng, nghĩa là khi ta còn nhỏ, từ từ lớn lên hình dáng thay đổi, sự tuần tự thay đổi của con người từ bé đến 30 tuổi, người ta không cho tuổi ấy già, mà gọi là trưởng thành hay lớn.

    Vì trong tuổi ấy, càng lớn càng mạnh, đẹp, các cơ quan trong mình không thấy yếu mà trái lại lại mạnh thêm. Ai ai cũng ưa thích tuổi này. Vì vậy nên người ta không thấy Tứ Diệu Đế. Theo lời Phật dạy, cái gì thay đổi thì gọi là già. Nhưng cái già kể trên che án trí tuệ của con người.

    Paripakka: già làm cho ta thấy rõ rệt là da nhăn, mắt mờ, tai điếc, răng rụng, tay chân run rẩy, chính mình không còn làm chủ cơ thể của mình được. Cái gì già mới là khổ thật sự, vì cái già này làm giảm cả sức lực, đem lại cho ta nhiều bệnh hoạn.

    3. Bệnh: là những gì phụ với già để tàn phá các bộ phận trong người của chúng ta, bệnh ấy làm chúng ta mau già hơn, cũng như cái xe khi đã bị hư một bộ phận nào dù có sửa chữa lại, cũng vẫn không còn hoàn hảo bằng mới.

    4. Chết: chỉ là sự hư hoại thân hình nầy. Vậy chết làm cho con người khổ cách nào? Khi ta chưa chết, ta chưa thấy cái khổ ấy, chỉ có người chết mới thấy rõ. Cái chết là khổ làm tất cả các cái khổ khác dồn vào, như mến tiếc vợ, con, của cải, cái chết làm mất vui thích của mình trong đời này, vì chính mình không có làm gì lành.

    Thử nhắm mắt lại và nghĩ rằng khi ta chết ta có đem theo gì? Khi thấy ta bỏ cả vạn vật thì hỏi ta có khổ không?

    Nếu khi ta nhận thấy rằng ta có đem theo được những việc làm lành như bố thí, trì giới v.v... thì ta thấy lòng ta bớt lo sợ. Nhưng trái lại, nếu thấy có nhiều tội, thì ta càng kinh sợ hơn. Vậy xin quí vị tự nghĩ mà sửa chữa thân, khẩu, ý.

    Diệu Đế thứ nhất là khổ. Đức Phật dạy hãy biết khổ cho rõ rệt, như bác sĩ hiểu rõ bệnh của bệnh nhơn.

    Khổ mà Đức Phật dạy có thể chia ra làm hai loại trạng thái: sanh, già, đau, chết là trạng thái của sắc uẩn, còn các khổ kia như sự uất ức, v.v... là trạng thái của tưởng, hành, thức.

    *

    DIỆU ĐẾ THỨ II: TẬP ĐẾ

    Đức Thế Tôn đã dạy về khổ cho chúng sanh thấy để kinh sợ hầu tránh khỏi, chẳng khác nào Đức Thế Tôn dạy rằng cọp là thú ăn thịt người, rồi Đức Thế Tôn mới đem cọp ấy về nhốt trong những chuồng bằng sắt rất chắc, gọi chúng sanh đến xem cho biết cọp có những gì đáng sợ, và nên nhớ hình dáng nó để tránh xa, hay chống lại.

    Tập đế đây ví như sự hành động của cọp. Tứ Diệu Đế là pháp khó nhận thức cho hoàn toàn được. Đức Thế Tôn phải mất 6 năm khổ hạnh mới giác ngộ, và khi Ngài muốn đem ra thuyết, Ngài còn phải chọn xem ai là người có đủ trí tuệ nhận thức rõ được pháp ấy.

    Vậy nơi đây tôi xin cố hết sức sưu tầm những gì mà tôi biết để giải theo đây hầu quí vị là người muốn tìm đường giải thoát.

    Tập đế là nguyên nhân sanh khổ, tức là nhân làm cho chúng ta khổ như đã giải ở trên.

    Đây là câu Phật ngôn trong bài kinh Chuyển Pháp Luân: "Này các thầy Tỳ khưu, đây là nhân sanh khổ thật sự, ái dục là nhân làm cho chúng sanh vào cảnh giới nữa, rồi lẫn lộn ưa thích cảnh giới như dục giới, sắc giới và vô sắc giới".

    Nhân làm cho sanh khổ gọi là Tập đế, đó là ái dục. Tác động của ái dục là nhân làm cho con người phải sanh lại một cõi nào trong ba cõi tùy theo sự thèm muốn của ái dục.

    Muốn cho dễ hiểu tôi xin chia ra bốn điều là:

    - Nhân làm cho sanh khổ.

    - Phận sự của ái dục.

    - Ái dục có ba loại.

    - Phận sự của hai Diệu đế.

    1. Nhân làm cho sanh khổ: Sự sanh khổ thì ai cũng biết, nhưng Đức Phật lại dạy về khổ, chẳng qua để làm sáng thêm cái hiểu biết của con người.

    Chỉ có điều là nguyên nhân sanh khổ là một vấn đề mà không ai hiểu, và là một pháp tuyệt đối, chỉ có Đức Phật mới nhận thấy thôi. Trong thời kỳ Đức Phật mới hành đạo, người trong cõi Diêm Phù tin rằng chúng sanh phải bị khổ, vì do nơi một đấng thiêng liêng hành phạt, và còn tin rằng có loài phi nhân quấy nhiễu làm cho con người khổ. Vì vậy có những người tu khổ hạnh, để làm cảm động đến các đấng thiêng liêng mà ban phước cho họ. Họ tin tưởng rằng những khổ mà ta phải chịu là vì thần thánh phạt, là do nhân bên ngoài, nhưng theo Đức Phật thì ái dục mới là nhân sanh khổ. Vì vậy nên Phật giáo là một giáo pháp tuyệt đối, khác hơn các tôn giáo khác trong thời kỳ ấy, mà cho đến nay nữa. Vì lẽ này nên tôi mới dám nói rằng Đức Thế Tôn tìm thấy và dạy chúng ta một phương pháp tuyệt đối mới mẻ. Thời pháp đầu tiên mà Ngài thuyết tại vườn Lộc Giả về Tứ Diệu Đế đã làm cho 5 vị Kiều Trần Như nhận thức rõ rệt rằng Ngài đã đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì các vị ấy chưa từng nghe ai dạy rõ ràng như vậy, và Tứ Diệu Đế vượt khỏi tầm hiểu biết của họ cũng như người ta thời ấy.

    Có điều đáng chú ý là nhân nào làm cho sanh khổ. Khổ ấy không lựa một ai, giàu cùng khổ, nghèo cùng khổ, kẻ có quyền cao chức lớn cũng khổ. Người ta thường nghĩ vì nghèo khó khổ, vì bị hung kiết, v.v..., nhưng Đức Thế Tôn dạy nguyên nhân sanh khổ là ái dục.

    2. Phận sự của ái dục: Thật ra, ái dục ngụ ý chỉ sự tham muốn. Sự tham muốn ấy là nền tảng của tâm và tất cả của chúng sanh ai ai cũng không chạy khỏi, ngoại trừ bậc A La Hán, Độc giác và Chánh đẳng Chánh giác. Tôi xin ví dụ ái dục ấy như trái xoài. Trái xoài ấy đã có tính chất của nó, là mùi vị, màu sắc và mộng (mầm) trong trái xoài, nó có thể mọc ra cây xoài khác, còn như màu sắc, mùi vị của trái xoài thì ví như tham lam, sân hận vì si mê vậy.

    Nếu ái dục là lòng ham muốn, nhưng lòng muốn thành Phật, hay muốn độ đời, khi đã thành Phật rồi có phải là ái dục hay là ham muốn chăng?

    Ái dục có nghĩa là muốn có cái gì không có, có rồi muốn cho có thêm. Trái lại muốn thành Phật thì lại bỏ cái gì đã có và ngừa không cho những gì sanh ra. Khi thành Phật rồi thì lại dạy chúng sanh bỏ tất cả những gì đã có cho thật hết.

    3. Ái dục có 3 loại:

    Kāmatanhā: ái dục trong cõi dục, là muốn sanh làm con người giàu sang, quyền chức, xinh đẹp, nên khi làm một việc phước thiện nào như bố thí đều nguyện vào cõi dục (đây kể cả 6 tầng trời dục giới).

    Bhavatanhā: ái dục trong cõi sắc. Cõi này không có dục vọng như vợ chồng, quyền chức v.v... nhưng còn có sắc. Hành giả tham thiền tinh tấn để mau đắc một trong tứ thiền, để sanh vào cõi 16 cõi trời sắc giới. Tuổi sống của cõi ấy rất, lâu không tính bằng năm được, chỉ có thể dùng trái đất này mới ví được. Cõi thấp nhất cũng bằng tuổi một phần ba trái đất. Và tuổi nhiều nhất là 16.000 kiếp trái đất. Vì sống quá lâu, nên chư Phạm thiên trong cõi này là an vui nhất và thường bị lạc vào thường kiến, nên gọi là ái dục trong dục giới.

    Vibhavatanhā: ái dục trong cõi vô sắc. Sự thèm muốn sanh vào cõi vô sắc, nên hành giả cố hành cho đắc được thiền vô sắc, hầu sanh vào cõi vô sắc. Những người sanh vào cõi này, nghĩ rằng vì có sắc nên còn luân hồi, khi không còn sắc nữa, chính là Niết Bàn rồi. Vì vậy người sanh vào cõi này thường lạc vào đoạn kiến.

    Để biết rằng ái dục tai hại đến bậc nào, tôi xin nhắc lại câu Phật dạy: Tanhāponobbhavika: ái dục tạo tác hiện tại.

    Vì sự thèm khát ngũ trần lục dục trong cõi dục, hay thèm khát sanh vào cõi sắc hay vô sắc, cũng vẫn là còn ái dục, chỉ khác nhau ở chỗ thô siểng hay vi tế thôi, nhưng chung qui vẫn cũng phải luân hồi. Tóm lại, khi lòng người còn ái dục dù là vi tế hay thô siểng gì, cũng vẫn còn phải luân hồi.

    Vì vậy nên Đức Thế Tôn dạy: "Tập đế là nguyên nhân sanh khổ. Ta nên cố gắng dứt bỏ".

    4. Phận sự của hai Diệu đế: Trong hai Diệu đế đầu, Khổ đế và Tập đế, Khổ đế là điều ta cần phải hiểu cho thật rõ, nhưng không có gì phải đối phó với nó, vì chỉ cần biết rõ thôi. Về Tập đế, điều ta cần phải biết cho rõ là vì nguyên nhân nào mới sanh khổ, vì đâu đưa đến, v.v... Ta biết cho thật rõ nguyên nhân đặng cố gắng diệt. Ví như người chữa lửa, cần biết lửa bắt đầu cháy ở đâu, chữa ngay chỗ ấy chớ không chữa ở ngọn lửa (ngọn lửa ấy ví như khổ hiện tại).

    Về phương pháp diệt ái dục, xin xem Diệt đế và Đạo đế sau đây.

    *

    DIỆU ĐẾ THỨ III: DIỆT ĐẾ

    Diệt đế và Đạo đế là hai phương pháp diệt khổ, chỉ có Đức Thế Tôn giác ngộ trước nhất, là pháp rất huyền diệu mà người phải đạt bằng tuệ nhãn chớ không thể biết rằng tâm được. Ta có thể ví đó như hai vị thuốc để trừ hai thứ bệnh nan y, là khổ và nguyên nhân sanh khổ.

    Ở trên, tôi ví Khổ và Tập với cọp, Đức Thế Tôn đem cọp ấy về nhốt, ta quan sát hình dáng, tính cách và nhược điểm của nó để ta trừ và tránh nó tùy trường hợp. Khi ta biết cọp có những nhược điểm gì, hình dáng ra sao, thì ta tránh dễ dàng, mà trừ nó cũng không khó.

    Muốn diệt trừ Khổ đế và Tập đế ấy chỉ có Diệt đế và Đạo đế.

    Đây lời Phật dạy lời Diệt đế:

    "Này các thầy Tỳ khưu, đây là pháp diệt khổ thật sự, sự diệt các điều thèm khát, không có dư sót của ái dục, dứt bỏ không còn dính dáng với ái dục, không còn bận bịu, không còn nhớ tưởng."

    Lời Phật dạy cho ta thấy rằng Diệt đế là dập tắt lửa ái dục, nhưng Phật nói nhiều cách khác nhau để ta dễ hiểu. Trong Diệt đế, Đức Phật đề cập đến Niết Bàn là nơi dập tắt hẳn mầm của ái dục

    Hạnh phúc XXXIV dạy về pháp làm cho thấy rõ Niết Bàn, tôi xin giải ở sau.

    *

    DIỆU ĐẾ THỨ IV: ĐẠO ĐẾ

    Phật giáo có đến tám muôn bốn ngàn pháp môn, nhưng chung qui chỉ có một cứu cánh là giải thoát.

    Đạo diệu đế là phương pháp diệt trừ ái dục. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Phật dạy muốn diệt ái dục phải hành theo Bát Chánh Đạo.

    Đây Phật ngôn dạy về Bát Chánh Đạo:

    1. Sammāditthi: chánh kiến

    Này các thầy Tỳ khưu, sự hành đến chỗ hết khổ là Bát Chánh Đạo, là chánh kiến v.v..

    Trong bài kinh Maggavibhanga, Đức Phật dạy rằng: Này các thầy Tỳ khưu, chánh kiến là gì? Chánh kiến là:

    - Hiểu rõ khổ.

    - Biết rõ nhân khổ.

    - Biết rõ sự diệt khổ.

    - Biết rõ phương pháp hành để diệt khổ.

    Theo đây, chúng ta thấy chánh kiến là sự thấy chân chánh, nghĩa là thấy rõ pháp Tứ đế.

    2. Sammāsankappa: Chánh tư duy.

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh tư duy là gì? Chánh tư duy là:

    - Suy nghĩ xuất thế gian khổ.

    - Suy nghĩ không oán thù.

    - Suy nghĩ không làm hại người.

    Suy nghĩ xuất thế gian nghĩa là suy nghĩ về sự xuất gia. Đây có chỗ chú giải rằng người tại gia cư sĩ không thể xuất gia được, thì thọ bát quan trai giới và cố niệm Phật, diệt trừ tội ác, khi mình suy nghĩ, thấy việc mình đã làm trong ngày.

    3. Sammāvācā: Chánh ngữ

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh ngữ là gì? Chánh ngữ là:

    - Tác ý tránh xa sự nói dối.

    - Tác ý tránh xa sự nói đâm thọc.

    - Tác ý tránh xa sự nói hung dữ, độc ác, rủa, chưởi.

    - Tác ý tránh xa nói lời vô ích.

    4. Sammākammantā: Chánh nghiệp

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh nghiệp là gì? Chánh nghiệp là:

    - Tác ý tránh xa sự sát sanh.

    - Tác ý tránh xa sự trộm cắp.

    - Tác ý tránh xa sự thông dâm.

    Chánh nghiệp là việc làm chân chính, không phạm vào các điều ác. Đây có ý dạy ngay vào các hạng cư sĩ phải thọ trì ít nhất là ngũ giới. Hơn ấy nữa, là gắng tham thiền trong ngày bát quan trai giới.

    5. Sammā ājiva: Chánh mạng.

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh mạng là gì? Cháng mạng là dứt bỏ sự nuôi mạng tà ở bậc thánh nhân trong Phật giáo.

    Nuôi mạng chân chánh ấy là:

    - Không buôn thú, trái lại phóng sanh.

    - Không buôn người, trái lại, cứu người khi lâm nạn.

    - Không buôn ruợu, không cho người ruợu; trái lại, lo phương pháp nào có thể răn đời, như bố thí pháp.

    6. Sammāvāyama: Chánh tinh tấn.

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh tinh tấn là gì? Chánh tinh tấn là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo cố vun trồng sự tinh tấn, không cho các pháp ác chưa phát sanh lên phát sanh lên được, giữ tâm vững chắc không rung động vì các hoàn cảnh bên ngoài, cố gắng diệt trừ các pháp ác đã có trong tâm cho cùng tận, cố gắng làm cho các thiện pháp chưa phát sanh lên được, được sanh lên, cố gắng vun trồng các thiện pháp đã có được tốt đẹp thêm.

    7. Sammāsati: Chánh niệm

    Này các thầy Tỳ khưu, Chánh niệm là gì? Chánh niệm là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo luôn luôn quán tưởng thấy thân trong thân, cố ý tinh tấn thiêu đốt phiền não, có sự ghi nhớ và biết mình, diệt trừ sự vui, buồn, suy nghĩ thấy thọ trong thọ v.v... Nói tóm lại là suy nghĩ tứ niệm xứ. Hay nói cho dễ hiểu hơn, chánh niệm nghĩa là hành theo tứ niệm xứ (xin xem quyển này của Đại đức Hộ Tông)

    8. Sammāsamādhi: Chánh định

    Này các thầy Tỳ khưu, chánh định là gì? Chánh định là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo vắng lặng trần cảnh, vắng lặng các pháp ác, nhập vào sơ thiền có tầm, sát, hỉ, lạc, an, định. Sau khi dứt bỏ lần tầm, sát, thì đắc nhị thiền, từ từ dứt từng pháp thô siểng. Thầy Tỳ khưu cố tinh tấn hành như thế gọi là chánh định.

    Tóm lại, chánh định là phương pháp làm cho tâm người trở nên yên lặng khỏi ác pháp. Sự định tâm được do một trong 40 đề mục của Phật dạy gọi là chánh định.

    Bát Chánh Đạo ví như chìa khóa mở cửa Niết Bàn:

    Trong phẩm kinh Saccasamyutta Tacicayagga bài kinh Gavampati, Đức Thế Tôn có dạy: Người nào biết Khổ đế là người thấy rõ Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Người nào mà thấy rõ Tập đế thì thấy rõ Khổ diệt và Đạo Đế. Người nào thấy rõ Diệt đế là thấy rõ Khổ, Tập và Đạo đế. Người nào thấy rõ Đạo đế là thấy rõ Khổ, Tập và Diệt đế.

    Tóm lại, người mà giác ngộ được thánh quả không phải chỉ học hay nghe pháp, hay giải thông được pháp Tứ Diệu Đế, là được thánh quả, mà phải hiểu rõ rằng trí tuệ, hay thấy rõ bằng tuệ nhãn.

    Để chứng minh rõ sự thật là thế nào tôi xin đem lời Phật ví dụ để quí vị thấy rõ hơn:

    1. Thí dụ thứ nhất:

    Khổ đế ví như chứng bệnh của chúng sanh; Tập đế ví như căn bệnh của chúng sanh; Die6ṭ đế ví như căn bện đã được chữa lành; Đạo đế ví như phương thuốc trị bệnh của chúng sanh

    2. Thí dụ thứ hai:

    Khổ đế ví như món đồ nặng đang vác; Tập đế ví như nguyên nhân bắt buộc phải vác những vật ấy; Diệt đế ví như sự liệng bỏ vật nặng ấy; Đạo đế ví như phương pháp liệng bỏ vật nặng ấy.

    3. Thí dụ thứ ba:

    Khổ đế ví như người có oán thù; Tập đế ví như nguyên nhân của sự oán thù; Diệt đế ví như sự cởi mở của mối oán thù; Đạo đế ví như phương pháp cởi mở oán thù.

    4. Thí dụ thứ tư:

    Khổ đế ví như cây có thuốc độc; Tập đế ví như rễ cây có chất độc; Diệt đế ví như sự đào bứng tận rễ của cây có chất độc; Đạo đế ví như phương pháp đào bứng hết rễ cây có chất độc.

    Muốn đắc được Tứ Diệu Đế thì chỉ có một phương pháp là hành minh sát tuệ. Khi hành minh sát thì có 16 tuệ phát sanh là:

    1. Nāmarūpaparicchedañāna: trí tuệ thấy rõ danh và sắc và phân biệt được danh và sắc.

    2. Paccayaparikagahañāna: hiểu nhân, hiểu quả của danh và sắc (ý nói biết nguyên nhân của danh, sắc).

    3. Sammāsanañāna: thấy danh và sắc là vô thường, khổ não và vô ngã.

    4. Udayañāna: thấy rõ nhân của và danh và sắc.

    5. Kangañāna: thấy rõ sự diệt của danh và sắc.

    6. Bhayañāna: thấy danh và sắc là vật đáng kinh sợ.

    7. Adinavañāna: thấy danh và sắc đầy tội lỗi, khổ đau.

    8. Nibbidāñāna: chán nản danh sắc.

    9. Muncitukamyatañāna: muốn giải thoát khỏi danh và sắc.

    10. Patisankhañāna: cố ý gắng hành để được vào Niết Bàn.

    11. Sankhārupekkhāñāna: để tâm vô tư trong danh và sắc.

    12. Saccānulomikañāna: thấy rõ Tứ Diệu Đế.

    13. Gotabhūñāna: lấy Niết Bàn làm đề mục.

    14. Maggañāna: diệt phiền não bằng đạo tuệ.

    15. Phalañāna: có Niết Bàn là đề mục.

    16. Paccavekkhanañāna: Quan sát lại những phiền não mà chính mình chưa diệt được.

    Phật dạy: Người còn luân hồi là vì chưa thấy Tứ Diệu Đế bằng tuệ nhãn.

    Sự thấy Tứ Diệu Đế được hạnh phúc là:

    1. Làm cho thấy rõ danh và sắc.

    2. Không còn si mê trong phiền não và khổ nữa.

    3. Làm cho giải thoát khỏi bể luân hồi.

    4. Làm cho đắc được đạo quả.

    5. Đưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

    6. Không còn sinh tử trong tam giới.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.