5. Quán pháp niệm xứ (dhammānupassanāsatipaṭṭhān)

5. Quán pháp niệm xứ (dhammānupassanāsatipaṭṭhān)

    THERAVĀDA
    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    Thiền Tứ Niệm Xứ - Minh Sát Tuệ

    Hòa thượng Giới Nghiêm

     

    QUÁN PHÁP NIỆM XỨ
    (DHAMMĀNUPASSANĀSATIPAṬṬHĀN)

    Điều nói về triền cái (Nīvaraṇa)

    Kinh văn: "Này chư tỳ-khưu, trong pháp luật này, như thế nào gọi là vị tỳ-khưu quán thấy pháp trong các pháp?"

    "Này các tỳ-khưu, như thế nào gọi là vị tỳ-khưu quán thấy pháp trong các pháp về năm triền cái (nīvaraṇa)?"

    Triền cái là pháp chướng ngại điều lành, nghĩa là ngăn cản không cho phát triển thiện pháp, có năm điều:

    1- Kāmachanda: tham dục tức là sự vừa lòng, yêu thích, ham muốn trong ngũ dục.

    2- Byāpāda: sân hận là sự bất bình, sự hủy hoại đối tượng.

    3- Thīna-middha: hôn trầm và thụy miên là trạng thái trầm trệ, giải đãi và buồn ngủ.

    4- Uddhacca-kukkucca: phóng tâm và hối hận tức là nghĩ tưởng lung tung và bứt rứt, bực bội.

    5- Vicikicchā: hoài nghi là sự phân vân, lưỡng lự trong tâm.

    Hành giả cần biết rõ các triền cái này có hoặc không có trong tâm mình, biết nguyên nhân các nīvaraṇa ấy phát sanh, và phương pháp diệt trừ hay chế ngự nīvaraṇa đã sanh đừng cho sanh nữa.

    Riêng về sân hận (dosa), xin nói trong chỗ này một cách vắn tắt là:

    Điều một: Làm cho nóng nảy, căng thẳng phát sanh khi ham muốn được ngũ dục, được điều mình ưa thích, hoặc khi đang mê mẩn, đắm say trong cái đã được rồi lại phải xa lìa hay mất mát thì sầu muộn, tức bực. Sân hận này có thể khiến phát sanh hành động sai quấy.

    Điều hai: Làm cho mất thì giờ tìm kiếm điều tốt về cho mình và làm cho nôn nóng trong khi suy tính ở chặng đầu, chặng giữa và chặng tiếp theo. Nếu đã phá hoại kẻ khác cho hả dạ thì phải chịu tội tùy theo mức độ sái quấy. Sự nóng nảy bức xúc là điều bên trong và phải nhận sự đền bù, hoặc hình phạt pháp luật là điều bên ngoài.

    Điều ba: Làm cho mất sự cân nhắc suy tính và năng lực trong những công việc.

    Điều bốnLàm cho người ta trở nên tồi bại, không thành điều hay lẽ phải được.

    Điều năm: Không dũng cảm làm việc lành, không làm việc gì đến nơi đến chốn, hoặc khiến dứt bỏ điều lành đã làm. Điều này bao hàm ý nghĩ trong suốt mọi vấn đề, cái còn trong sự nghi ngờ.

    Đúng với chỗ Đức Thế Tôn phân tách trong Vi Diệu Pháp, bộ Sangiṇī nói về sự nghi ngờ có tám:

    - Sự nghi ngờ trong Phật Bảo.
    - Sự nghi ngờ trong Pháp Bảo.
    - Sự nghi ngờ trong Tăng Bảo.
    - Sự nghi ngờ trong điều học (nghi rằng bốn niệm xứ này sẽ cao thượng thật chăng?)
    - Sự nghi ngờ trong nơi tận cùng phía trước.
    - Sự nghi ngờ trong nơi cuối cùng phía sau.
    - Sự nghi ngờ trong nơi cuối cùng cả phía trước và phía sau (nghi ngờ tiến trình của mình trong quá khứ và vị lai hoặc phân vân không biết quá khứ, vị-lai như thế nào).

    Sự nghi ngờ trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paṭiccasamuppāda) là pháp liên quan nhân quả thành dây chuyền mắc xích, duyên nhau sanh và diệt, có mười hai thể, nhứt là vô minh.

    Chú giải Atthakathā:

    Đức Thế Tôn thuyết về Thân Niệm Xứ là quán thuần sắc pháp, về Thọ Niệm Xứ và Tâm Niệm Xứ là quán thuần về vô sắc pháp, còn Pháp Niệm Xứ gồm cả quán sắc và vô sắc.

    Lại nữa, Ngài thuyết Thân Niệm Xứ là dạy chỉ quán riêng sắc uẩn thôi, Thọ Niệm Xứ là dạy quán riêng thọ uẩn, Tâm Niệm Xứ là dạy quán thuần thức uẩn, nhưng Pháp Niệm Xứ là dạy quán cả năm uẩn nhất là tưởng uẩn và hành uẩn.

    Từ "" ám chỉ pháp hiện đang sanh hoặc đang khởi lên. Và "không có" tức là chưa sanh khởi hoặc đang hoại diệt.

    Về nhân làm cho triền cái (nīvaraṇa) sanh và diệt một cách dứt khoát, Đức Thế Tôn thuyết trong những nơi khác nhau, mà các vị chú giải sư (ācariya) đã gom lại. Trong chú giải này có ý nghĩa tiếp như sau:

    Nhân sanh tham dục (kāmachanda):

    1) Sự chú ý đến những tướng cho là tịnh hảo (subhanimittāyonisomanasikāra) .

    2) Sự chú ý bằng phương tiện sai lạc (Anupāyamanasikāra).

    3) Sự chú ý điên đảo thấy vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh là thường, lạc, ngã, tịnh (uppathamanasikāra).

    Về nhân chữa trị kāmachanda, ngài thuyết hai cách là:

    - Cách thứ nhất nói về sự chú ý, hoặc quán xét phản nghĩa với những điều đã nói trên đây.

    - Cách thứ hai nói về sáu pháp là:

    1- Asubhanimitta-uggaha: học về hiện tượng bất tịnh.

    2- Asubhabhāvanānuyoga: thực hiện trong cách tiến tu về bất tịnh.

    3- Indriya-guttadvāratā: chế ngự trong các căn.

    4- Bhojanamattaññutā: biết tiết độ trong vật thực.

    5- Kalyānamittatā: có bạn lành.

    6- Sappāyakathā: chỉ nói điều thích hợp.

    - "Học về hiện tượng bất tịnh và thực hiện trong điều tiến tu bất tịnh" nghĩa là nói về học tập và chuyên chú trong mười điều quán tử thi (asubha).

    - "Chế ngự trong các căn", nghĩa là cẩn thận gìn giữ các căn không để dính mắc vào các trần (thu thúc lục căn).

    - "Biết tiết độ trong vật thực", nói về sự biết ngưng thọ dụng vật thực khi còn bốn, năm miếng nữa sẽ no, thay vào đó chỉ uống chừng bốn, năm hớp nước là đủ. Như ý nghĩa câu Phật ngôn: "Bấy nhiêu là vừa được an vui cho vị tỳ-khưu biết thực hiện tinh tấn là ngưng không ăn bốn, năm miếng cơm trước khi no để uống nước".

    - "Thân cận bạn lành", có nghĩa là chỉ mong gần gũi với người ưa thích pháp hành trong thiền quán về bất tịnh (asubhabhāvanā) như tôn giả Tissa là người thực hành đề mục bất tịnh v.v..

    - "Chỉ nói lời thích hợp", ám chỉ việc nói với nhau về mười điều asubha, để ngăn ngừa không cho dấy lên tâm tham ái trần dục.

    Nhân sanh sân hận (Paṭigha):

    Về nhân làm cho sân hận sanh lên hoặc dấy khởi là do sự chú ý hướng đến trên tướng đối ngại không được hợp lý (Paṭighanimitt’āyonisomanasikāratức khi chú ý vào những nghịch cảnh, những điều chống trái, hướng tư duy thiếu đúng đắn khiến phát sanh sân hận. Ví dụ như nghĩ rằng: "Người ấy xem rẻ ta, chưởi mắng ta, đánh đập ta, lấn hiếp ta hoặc bạn bè của ta một cách quá đáng, ta sẽ phải trừng trị cho kỳ được. Nếu không họ sẽ lấn lướt ta, người khác cũng sẽ dựa theo xem rẻ ta, cho ta là người ngu ngốc, thiểu trí, không xứng đáng với địa vị của ta…". Suy nghĩ trong hướng tâm sai lệch như vậy chính là sân tưởng, làm cho sân hận phát sanh và tăng trưởng.

    Về nhân làm cho sân hận vắng lặng có hai cách là:

    1) Cách thứ nhất: Chú ý chơn chánh trong từ tâm giải thoát (Mettācetovimutti yonisoma-nasikāra): thực hành tư duy một cách thiện xảo về từ tâm giải thoát hoặc ly sân tưởng.

    "Mettā" ám chỉ cận định và an chỉ định được sanh từ sự tiến tu tâm từ.

    "Cetovimutti" nói đến tâm giải thoát do nhập định.

    Sự suy nghĩ một cách thiện xảo có giải thích như cách đã được trình bày.

    2) Cách thứ hai: nói đến sáu pháp thực hành là:

    - Mettānimittassa uggaha: học về tướng tâm từ.

    - Mettābhāvan’ ānuyoga: quyết tâm hành tâm từ.

    - Kammassakatā paccavekkhaṇā: quán lại nghiệp đã tạo.

    - Paṭisaṅkhāna bahulatā: sự quán trạch thật nhiều.

    - Kalyāṇa mittatā: sự thân cận bạn lành.

    - Sappāya kathā: chỉ nói điều thích ứng.

    Trong sáu pháp nầy:

    "Học về tướng mettā", nói đến sự tập rải tâm từ theo cách duy nhất (trên một đối tượng) hoặc không duy nhất (trên nhiều đối tượng), hay biến hành các hướng.

    "Quyết tâm hành mettā", nói đến sự quyết tâm rải tâm từ, nghĩ sẽ làm cho người khác được yên vui, bằng cả ba cách ấy hoặc một trong ba cách.

    "Quán lại nghiệp đã tạo", nói về sự quán sát nghiệp của mình và kẻ khác. Rằng tất cả chúng sanh có nghiệp là của mình, sẽ được tốt hoặc xấu cũng bởi nghiệp đã tạo. Nghĩa là, khi sân tưởng, hại tưởng phát sanh lên trong tâm trên đối tượng nào rồi hãy mau nghĩ lại rằng: "Ngươi sân, ngươi sẽ làm gì kẻ khác? Ngươi có khả năng phá hủy thiện pháp, nhất là giới của họ được chăng? Ngươi sanh lại do nghiệp của ngươi, ngươi cũng sẽ đi theo nghiệp của ngươi. Sự tức giận kẻ khác cũng ví như nắm than đỏ hoặc cục sắt nung đỏ hoặc cục phẩn v.v. liệng vào kẻ khác. Cũng vậy, dù kẻ khác sân với ngươi thì sẽ làm gì ngươi? Có thể phá hủy thiện pháp, nhứt là giới của ngươi được chăng? Mỗi người tái sanh do nghiệp của họ, sự sân hận sẽ làm cho chính kẻ ấy có tội, giống như rải cát bụi ngược gió, cát bụi sẽ quật trở lại người rải vậy".

    "Sự quán trạch thật nhiều", nói về sự thường cân nhắc, quán xét thật nhiều lần ý nghĩa như đã nêu trên.

    "Sự thân cận bạn lành", ám chỉ gần gũi với người hoan hỷ trong sự tiến tu từ tâm giải thoát. Nghĩa là, người thường có tâm từ mẫn thân thiện đối với kẻ khác, điển hình như tôn giả Assagutta.

    "Chỉ nói điều thích ứng", ám chỉ nói những vấn đề liên quan đến tâm từ (mettā), hoặc vấn đề gì cũng tùy nhưng đừng gợi cho sân hận sanh lên.

    Chỉ đến bậc A-na-hàm đạo mới là nhân chấm dứt sân hận một cách hoàn toàn.

    Nhân sanh hôn trầm thụy miên (thīna-middha):

    Hôn trầm thụy miên phát sanh lên hoặc dấy khởi có năm cách là:

    - Không chú hướng chơn chánh trong sự chán nản
    - Không chú hướng chơn chánh trong sự ưu uất.
    - Không chú hướng chơn chánh trong sự mệt nhọc.
    - Không chú hướng chơn chánh trong sự ngây vật thực.
    - Không chú hướng chơn chánh trong tâm phấn khởi.

    Về nhân làm cho hôn trầm thụy miên tịch diệt có hai cách là:

    1) Cách thứ nhất: thường ngẫm nghĩ đến ba giai đoạn tinh tấn là:

    - Sự tinh tấn mới phát sanh.
    - Sự tinh tấn đã sanh rồi nhưng chưa già giặn.
    - Sự tinh tấn đã già giặn có khả năng tăng tiến.

    Nói nghĩ đến ba giai đoạn tinh tấn một cách thiện xảo là ám chỉ rằng trong khi hôn trầm, buồn ngủ, hãy suy nghĩ: "Ta cần phải khởi tâm tinh tấn trong phận sự. Và lúc đầu, ta nên tinh tấn một cách sơ thiển đã, rồi sẽ làm cho già giặn lên thì những việc ta đương làm sẽ thành tựu". Khi khởi nghĩ như thế tâm sẽ cương nghị, mạnh mẽ lên, sẽ không mềm yếu trước những phận sự, sẽ không đi ngủ trước giờ, không như người làm việc chưa hoàn thành vừa mới buồn ngủ đã chán nản bỏ công việc trốn đi ngủ rồi. Do không nghĩ cách dụng tâm như đã nói, không có phương pháp chữa trị sự buồn ngủ hoặc thấy công việc khó khăn sanh lòng thối chuyển mất nên mới bị hôn trầm. Vì cớ ấy, sự suy nghĩ chơn chánh trong ba giai đoạn tinh tấn là phương pháp chữa trị sự buồn ngủ và chữa trị sự yếu mềm.

    2) Cách thứ hai nói đến sáu pháp thực hành là:

    - Atibhojana nimittagāha: không ăn vật thực nhiều quá.

    - Iriyāpatha samparivattanatā: sự thay đổi oai nghi.

    - Ālokasaññā manasikāra: sự nghĩ tưởng đến ánh sáng mặt trăng, mặt trời hoặc đèn lửa.

    - Abbhokāsavāsa: ở nơi trống trải, thoáng mát.

    - Kalyāṇamittatā: sự thân cận bạn lành, tức là người không si mê, như ngài Mahā Kassapa, đầu đà đệ nhất v.v..

    - Sappāyakathā: chỉ nói lời thích ứng, như nói vấn đề làm những điều lành, nhất là hạnh đầu đà (dhutaṅga) v.v..

    Chỉ đến bậc A-la-hán đạo mới là nhân dứt trừ được hôn trầm thụy miên một cách hoàn toàn.

    Nhân sanh trạo hối (uddhacca-kukkucca):

    Trạo hối là hai tâm sở đồng cách: phóng tâm và hối quá, sanh khởi do chú hướng không chơn chánh đối với tâm không vắng lặng (Cetāvūpasam’āyonisomanasikāra).

    Đối trị trạo hối có hai cách là:

    Cách thứ nhất nói đến những pháp phản nghĩa với trạo hối như đã nói rồi.

    Cách thứ hai nói đến sáu pháp thực hành là:

    - Bahussutatā: đa văn.

    - Paripucchakatà: sự hỏi han điều nghi ngờ hoặc chưa hiểu với bậc thông hiểu thấu đáo.

    - Vinaya pakataññutā: thông hiểu luật nghi.

    - Vuḍḍhasevitā: sự thân cận bậc trưởng thượng, tức là bậc có tuổi tác hạ lạp và minh hạnh tốt.

    - Kalyāṇamittatā: sự thân cận bạn lành.

    - Sappāyakathā: sự nói lời thích hợp, tức là chỉ nói điều nên nói và không nên nói những điều dễ phát sanh trạo hối.

    Chỉ đến bậc A-la-hán đạo là nhân đoạn tận phóng tâm (uddhacca).

    Chỉ đến bậc A-na-hàm đạo là nhân đoạn tận hối quá (kukkucca).

    Nhân sanh hoài nghi (vicikicchā)

    Hoài nghi sanh lên hoặc dấy khởi do không quán xét một cách thiện xảo cho nhiều trong những vấn đề mà mình nghi ngờ.

    Về nhân chấm dứt hoài nghi là suy nghĩ một cách thiện xảo trong pháp thiện và bất thiện, điều có tội và không có tội, điều nên thân cận và không nên thân cận, điều thấp hèn và điều cao thượng, điều ví như vật đen và vật trắng.

    Một lẽ nữa có sáu pháp thực hành để dứt hoài nghi là:

    - Bahussutatā: đa văn.

    - Paripucchakatā: sự hỏi han điều nghi ngờ với bậc thông hiểu thấu đáo.

    - Vinaya pakataññutā: thông hiểu luật nghi.

    - Adhimokkhabāhulatā: sự có đức tin mạnh trong đường lành (Adhimokkha - thắng giải: theo chú giải nói rằng: "Tīsuratanesu kappanīyasaddhā", dịch là: Sự tin chắc trong Tam Bảo).

    - Kalyāṇamittatā: sự thân cận bạn lành.

    - Sappāyakathā: sự nói lời thích hợp, tức là chỉ nói điều nên nói và không nên nói những điều dễ phát sanh trạo hối.

    Chỉ đến bậc Tu-đà-hườn đạo mới là nhân chấm dứt hoài nghi trong Tam Bảo.

    Vả lại kinh văn Pāḷi đã thuyết rằng: "Tỳ-khưu trong pháp luật này khi pháp cái có biết rằng có, không có biết rằng không có. Biết nhân sanh lên cùng nhân diệt đi và nhân làm cho không sanh tiếp nữa" ấy là ám chỉ rằng biết và thực hành như đã nói từ đầu đến cuối rồi.

    Điều nên hành

    Người cần thực hành tu tập niệm xứ nầy nên học cho hiểu rõ năm triền cái và hãy quán cho thấy tội của chúng, luôn cả ghi nhớ các nhân như đã nêu. Kế tiếp sẽ tập nhận định quán sát xem có triền cái loại nào đang ở trong tâm ta chăng? Nếu thấy có, hãy quán sát tìm kiếm nhân sanh khởi, khi gặp rồi hãy dùng phương pháp đưa đến nhân diệt (làm dứt trừ) một cách vắn tắt và rộng rãi, khi tu sửa được rồi là dứt hết một lần (phần đoạn). Nếu thấy không có, hãy xem xét không có do nhân nào? Khi thấy nhân rồi hãy giữ gìn nhân ấy, nghĩa là thường hành theo nhân ấy. Cứ như thế, hành theo nhân diệt trừ triền cái từng phần ở mức độ thô, cho đến khi thấu triệt nhân cao nhất để diệt tận hoàn toàn.

    Dứt pháp niệm xứ về năm Pháp Cái.

    *

    Điều nói về ngũ uẩn (upādānakkhandhā):

    Kinh văn: "Lại nữa, này chư tỳ-khưu, trong pháp luật này, vị tỳ khưu sống quán pháp trong các pháp về năm thủ uẩn. Như thế nào, này chư tỳ-khưu, gọi là vị tỳ-khưu sống quán pháp trong các pháp về năm thủ uẩn?"

    "Này chư tỳ-khưu, vị tỳ-khưu biết rõ: "Như thế này là sắc, như thế này là sắc sanh, như thế này là sắc diệt. Như thế này là thọ, như thế này là thọ sanh, như thế này là thọ diệt. Như thế này là tưởng, như thế này là tưởng sanh, như thế này là tưởng diệt. Như thế này là hành, như thế này là hành sanh, như thế này là hành diệt. Như thế này là thức, như thế này là thức sanh, như thế này là thức diệt"...

    Chú giải Atthakathā:

    "Thủ uẩn" (Upādānakkhandhā) có nghĩa là chấp thủ vào năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, giải rằng nhóm pháp Dhammapuñja và phần Pháp Tụ (Dhammarāsi) là trợ nhân của chấp thủ. Đây là ý nghĩa vắn tắt trong vấn đề chấp thủ ngũ uẩn. Còn một cách rộng rãi, Ngài Buddhaghosa đã trình bày trong đoạn giải thích về ngũ uẩn trong bộ Visuddhimagga rồi.

    "Như thế này là sắc", tức là sắc này có thể tánh, tướng trạng... như vậy, không ngoài tánh chất ấy.

    Với thọ, tưởng, hành, thức cũng giải thích như thế.

    "Như thế nầy là sắc sanh", nói đến sự sanh của sắc do năm nhân tố, nhất là sự sanh của vô minh v.v.

    "Như thế này là sắc diệt", nói đến sự diệt của sắc do năm nhân tố, nhất là sự diệt của vô minh v.v..

    (Trong Visuddhimagga, quyển ba, nói rằng: "Kể sự sanh là một, và vô-minh, ái dục, nghiệp, vật thực, chung vào thành năm nhân tố. Về phía diệt cũng vậy.")

    Nhân sanh và diệt của thọ, tưởng, hành, thức cũng giải thích như thế.

    Về ý nghĩa rộng rãi có giải thích trong Tuệ Sanh Diệt (udayabbayañāṇa) thuộc bộ Visuddhimagga rồi.

    Dứt chú giải.

    Kế đây sẽ trích lời giải trong bộ Visuddhimagga trình bày vắn tắt làm nền tảng:

    "Rūpasắc, có một tướng, là sự tiêu hoại do những điều kiện như lạnh, nóng v.v. Gom tất cả mọi thứ có tướng giống nhau như thế gọi là sắc uẩn (rūpakkhandha).

    "Vedanā" thọ, có tướng là cảm giác lạc, khổ, xả, gom tất cả cảm giác gọi là thọ uẩn (vedanākkhandha).

    "Saññā" tưởng, có tướng ghi nhận, gom tất cả ghi nhận gọi là tưởng uẩn (saññākkhandha).

    "Saṅkhāra" hành, có tướng tạo tác, gom tất cả tạo tác gọi là hành uẩn (saṅkhārakkhandha).

    "Viññāṇa" thức, có tướng biết cảnh, gom tất cả cái biết gọi là thức uẩn (viññāṇakkhandha).

    Dứt phần trích Visuddhimagga.

    *

    Cách hành

    Người cần hành niệm xứ nầy nên nhận định rõ tướng của mỗi uẩn rồi tập quan sát tánh chất vô thường, khổ, vô ngã của từng uẩn ấy như thế nào?

    Tập nhận xét có nhiều cách. Đơn giản là nhận xét thân thể (sắc) của ta hoặc người khác từ hồi còn nhỏ cho đến bây giờ có còn như xưa chăng? Có thể giữ thân như trước chăng? Có thể nào chỉ có hoặc khổ, hoặc lạc hoặc xả (thọ) chăng? Có duy trì cho lạc, khổ, xả theo ý muốn được chăng? Có thể chỉ ghi nhận (tưởng) đối tượng vừa ý và không ghi nhận đối tượng không vừa ý được chăng? Có thể giữ hoàn toàn không tạo tác (hành) được chăng? Có thể chỉ nhận biết (thức) đối tượng như ý được chăng?

    Khi nhận biết và tự hỏi chính mình như thế cũng sẽ thấy rằng cả năm uẩn toàn là vô thường, toàn là khổ não, toàn là không sai khiến được. Tức phải là vật luôn biến dị, luôn chịu sự khó khăn do các nguyên nhân như bệnh hoạn, mệt mỏi, đau ốm, sự thay đổi oai nghi, sự đói khát, sự đại tiện tiểu tiện v.v. Là tình trạng biến dị rõ rệt khỏi những cơ sở trước của ngũ uẩn. Lại còn khó khăn do không biết đủ, do ưa muốn giữ thân cho nguyên vẹn, tức là không cho thay đổi hoặc thay đổi rồi không cho tan vỡ, là điều không thể hợp với sự mong muốn của tất cả mọi người.

    Tất cả đây bởi cái gì? Bởi nhân tạo tác ngũ uẩn là vô thường, khổ não, vô ngã thì quả ngũ uẩn cũng là như vậy.

    Điều nói về xứ (Āyatana)

    Kinh văn: "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là vị tỳ-khưu sống quán thấy pháp trong các pháp vể sáu xứ trong và ngoài?"

    "...Vị tỳ-khưu biết mắt và sắc, vì nương hai pháp này mà kiết sử sanh lên, vị đó biết như thế. Kiết sử chưa sanh nay sanh lên, vị đó biết như thế. Kiết sử sanh lên nay đã diệt, vị đó biết như thế. Kiết sử đã diệt không còn tái sanh nữa, vị đó biết như thế.

    "... biết tai và âm thanh..., mũi và mùi..., lưỡi và vị..., thân và vật xúc chạm..., vì nương hai pháp này mà kiết sử sanh, vị đó biết như thế. Kiết sử chưa sanh nay sanh lên, vị đó biết như thế. Kiết sử sanh lên nay đã diệt, vị đó biết như thế. Kiết sử đã diệt không còn tái sanh nữa, vị đó biết như thế".

    Chú giải Atthakathā:

    "Biết mắt", tức biết xứ bên trong (ajjhattāyatana) là tướng thần kinh mắt được rõ rệt.

    "Biết sắc", tức biết xứ bên ngoài (bāhirāyatana) là hình tướng" sanh bởi bốn nơi bên ngoài (samuṭṭhāna): nghiệp (kamma), thời tiết (utu), tâm (citta), vật thực (āhāra) là tướng của sắc một cách rõ rệt.

    "Vì nương hai pháp này mà kiết sử sanh lên, vị đó biết như thế",tức biết rằng mười kiết (saṃyojana) sử là: thân kiến (kāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), giới cấm thủ (sīlabbata parāmāsa), dục ái (kāmarāga), sân hận (paṭigha), ngã mạn (māna), sắc ái (rūparāga), vô sắc ái (arūparāga), trạo cử (uddhacca), vô minh (avijjā)… Tất cả đều sanh nương nơi hai yếu tố là duyên căn với trần cần được nhận biết một cách rõ rệt. Mười pháp kiết sử ấy, sanh bởi nương nơi con mắt với sắc ấy thế nào? Dục ái , hằng sanh đến người ưa thích, thương yêu về sắc trần mà mình thấy, thanh trần mà mình nghe... Nếu không thương yêu được thì sanh bất bình, sân hận. Nếu nghĩ rằng không ai có thể biết rõ sắc, thanh…bằng ta thì liền phát sanh ngã mạn. Nếu chấp rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ta thì sanh thân kiến. Nếu nghi ngờ rằng sắc, thanh… là chúng sanh, người hoặc là của chúng sanh, của người cũng sanh hoài nghi. Nếu mong muốn cõi sắc hay vô sắc: "Xin cho ta được sanh về cõi sắc hay vô sắc" thì sanh sắc ái hay vô sắc ái. Nếu trì giới hay pháp hành nào với ý nghĩ: "Ta có thể được sắc, thanh… như thế này trong kiếp sau do năng lực giới và pháp hành này", thì sanh giới cấm thủ. Nếu nghĩ ngợi nhiều về sắc, thanh... thì sanh trạo cử. Nếu không biết nhân duyên và sự sanh diệt của sắc, thanh… thì sanh vô minh.

    "Kiết sử chưa sanh nay sanh lên, vị đó biết như thế", tức biết nhân làm cho mười kiết sử dấy động lên.

    "Kiết sử sanh lên nay đã diệt, vị đó biết như thế" tức biết nhân làm cho mười saṃyojana diệt do tiệm trừ (dứt trừ giai đoạn, dứt lần lần - tadaṅgapahāna) và tuyệt trừ (dứt hẳn - vikkhambhanapahāna).

    "Kiết sử đã diệt không còn tái sanh nữa, vị đó biết như thế", tức biết rằng ba loại saṃyojana là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, không sanh tiếp nữa do năng lực Tu-đà-hườn đạo. Dục ái, sân hận loại thô không sanh tiếp nữa do năng lực Tư-đà-hàm đạo, loại vi tế không sanh tiếp nữa do năng lực A-na-hàm đạo; sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh, năm điều này không sanh tiếp nữa do năng lực A-la-hán đạo.

    Từ cần giải thích trong āyatana nên hiểu theo cách thức như đã nói. Vả lại vấn đề āyatana này có nói rộng rãi trong bộ Thanh Tịnh Đạo rồi.

    Trong điều này Đức Thế Tôn không chỉ dạy đến pháp xuất thế gian đâu. Về phần nhân làm cho āyatana sanh diệt giống như trong ngũ uẩn.

    Dứt chú giải bấy nhiêu đây.

    *

    Giải thích về xứ (Āyatana)

    Từ "āyatana" dịch theo văn tự là "cái giếng" có giải thích theo bộ Thanh Tịnh Đạo quyển ba rằng chỗ gọi là āyatana gồm năm thứ: nơi nương gácái giếng hoặc hầm mỏnơi tụ hộinơi sanhnhân chứng.

    Nói "nơi nương gá", như người đơì thường nói, là nơi nương của thần (issarāyatana), hay nơi nương của chư Thiên Vāsu (Vāsudevāyatana)…

    Nói "cái mỏ" giống như người ta thường nói mỏ vàng (suvaṇṇāyatana), mỏ ngọc (ratanātayana)...

    Nói "nơi tụ hội", như nói nơi qui tụ chim (vihaga) tức chim bay đến quần tụ một nơi), hoặc như các bậc Thánh nhân hằng qui tụ nơi an lạc trong giáo Pháp (Sāsane pana "manorame āyatana sevanti naṃ vihaṅgamā"ti.)

    Nói "nơi sanh" như nói rằng quốc độ về mạn Nam là nơi sanh của những con bò (dakkhiṇāpatho gunaṃ āyatanaṃ).

    Nói "nhân chứng" như nói rằng āyatana là nhân chứng ghi nhớ các bằng cớ thích đáng chỗ này chỗ kia (Tatra tatreva sakkhibhabbataṃ pāpuṇāti sati sati āyatana).

    Chẳng hạn như giải thích rằng con mắt là nơi nương gá, là hầm mỏ hoặc cái giếng, là nơi tụ họp, là nơi sanh, là nhân chứng của các pháp tiến hành trong tâm và tâm sở.

    Nói mười hai āyatana do ám chỉ căn môn và trần cảnh của nhân có thức tức là chúng sanh, người.

    Dứt cách trong Thanh Tịnh Đạo.

    *

    Giải thích kiết sử (Saṃyojana)

    Tiếng "saṃyojana" dịch là kiết sử hoặc là pháp trói buộc. Theo chú giải kinh Mūlapariyāya và Itivuttaka có giải thích rõ rệt trong Maṅgala Dīpanī quyển ba rằng: "Cả mười điều ấy hằng làm dính mắc, trói buộc chúng sanh trong các cõi, hoặc hữu ái dính mắc ở các cõi sắc và vô sắc" và trong Ṭīkā, kinh Mūlapariyāya có giải thích rằng: "… sắp thứ tự như cách đã trình bày trên theo Vi Diệu Tạng là cách thẳng (nippariyāyanaya), thay vì nói sắc ái (rūparāga), vô sắc ái (arūparāga) thì nói hữu ái (bhāvarāga). Còn cách trong tạng Kinh thì sắp khác nhau và không có hữu ái "bhāvarāga".

    Điều nói về vô minh (avijjā)

    Từ "Avijjā" được giải thích trong bộ Visuddhimagga một cách rộng rãi như sau:

    A- Chú giải ám chỉ có bảy điều là:

    1. Avindiyaṃ vindatīti avijjā: vô minh là biết cái không nên biết.

    "Biết" tức là làm. "Cái không nên biết" tức là biết hạnh xấu (duccarita) không nên làm.

    2. Avindiyaṃ na vindatīti avijjā: vô minh là không biết cái nên biết, tức là không biết hạnh lành (sucarita) nên làm.

    3. Khandhānaṃ khandhaṭṭhaṃ… aviditaṃ karotīti avijjā: vô minh là không rõ ý nghĩa các pháp uẩn (khandha)xứ (āyatano)giới (dhātu), căn (indriya)đế (sacca)... tức là hiểu không thông suốt thực tánh pháp.

    4. Dukkhādīnaṃ… atthaṃ aviditaṃ karotīti avijjā: vô minh là không rõ ý nghĩa bốn sự thật Khổ, Tập, Diệt, Đạo... tức là không thông suốt Tứ Thánh Đế.

    5. Antavirahite saṃsāre… javāpetīti avijjā: vô minh là khiến chúng sanh đi nhanh vào sự sanh (jāti), hướng (gati), cõi (bhava), thức trú (viññāṇaṭṭhiti), nơi ở của chúng sanh (sattāvāsa) trong luân hồi, xa lìa nơi cứu cánh.

    6. Paramatthato avijjamānesu… javāpetīti avijjā: vô minh là khiến đi nhanh trong khái niệm không thực hữu (như người nam, người nữ...) do không thấy chân nghĩa đế (paramattha).

    7. Vijjmānesuti khandhādīsu na javatīti avijjā: vô minh là không đi nhanh đến pháp đang hiện hữu, như ngũ uẩn…

    Một cách khác, gọi là vô minh bởi che đậy các pháp trần cảnh là nơi phát xuất của sáu thức như nhãn thức v.v.. và che đậy các pháp mắc xích duyên sanh tức là Thập Nhị Nhân Duyên.

    Cả bảy điều trích giải (viggaha) trên để dịch từ "vô minh" có thể tóm tắt như sau:

    - Biết điều không nên biết
    - Không biết điều nên biết
    - Không hiểu rõ uẩn, xứ, giới v.v..
    - Không hiểu rõ ý nghĩa của Tứ Diệu Đế.
    - Khiến đi nhanh trong điều xa lìa cứu cánh.
    - Khiến đi nhanh trong khái niệm không thực hữu
    - Không đi nhanh trong pháp đang hiện hữu.

    B- Phân theo tướng mạo...

    "Aññāṇalakkhaṇā avijjā", vô minh có tướng là sự không biết.

    "Sammohanarasā", có vị là sự mê lầm.

    "Āsava padaṭṭhānā", có xuất xứ  lậu hoặc.

    C- Phân loại theo thứ tự:

    Vô minh phân loại theo thứ tự là vô minh một, vô minh hai, vô minh ba, vô minh bốn, vô minh năm, vô minh sáu, có giảng giải như sau:

    Vô minh 1: nói đến sự không biết, không thấy hoặc sự mê muội một cách nào đó...

    Vô minh 2: nói đến sự không thực hành đúng hoặc sự thực hành sai.

    Vô minh 3: nói đến vô minh không hợp với ba thọ (vedanā).

    Vô minh 4: nói đến sự không thấu triệt Tứ Diệu Đế.

    Vô minh 5: nói đến sự che đậy tội, tức là không thấy sự nguy hại trong ngũ thú (pañcagati): địa ngục, quạ quỉ, súc sanh, người, trời.

    Vô minh 6: nói đến vô minh trong sáu căn môn và sáu trần cảnh.

    D- Phân theo chi (aṅga):

    Khi chia thành chi phần của hữu luân (bhavacakka) tức là bánh xe luân hồi, Thập Nhị Nhân Duyên, thì vô minh kể thành một chi trong đó.

    E- Phân theo phẩm chất:

    Khi nói phẩm chất, vô minh có tám cách (tạng Kinh nói sự không biết Tứ Diệu Đế, tạng Vi Diệu Pháp nói đến sự không biết nơi cuối cùng và khởi đầu) như sau:

    * Nói rộng ý nghĩa rằng tám vô minh ấy là:

    - Không biết Khổ
    - Không biết nhân của Khổ
    - Không biết sự Diệt Khổ
    - Không biết đường đến sự Diệt Khổ
    - Không biết pháp duyên sanh,
    - Không biết ban sơ
    - Không biết cuối cùng
    - Không biết cả trước và sau

    Cách hành

    Người cần tiến tu niệm xứ này nên học hiểu āyatana (xứ) và saṃyojana (kiết sử) là như thế nào, rồi từ từ quán sát xem trong tâm mình thứ nào có hoặc không có? Nếu thấy có nên tu sửa, nghĩa là dứt bỏ hoặc làm cho giảm thiểu xuống. Đừng cho phát động lên bằng cách quán sự nguy hại của mười pháp kiết sử là những trói buộc chằng chịt khiến tâm mình dính trong tam giới tức. Nếu thấy rằng không có, hãy quán thấy không có do nguyên nhân nào? Khi thấy rồi hãy làm theo nhân ấy. Và hãy quán sát do phương pháp nào ngăn không cho kiết sử sanh lên, hoặc đã sanh lên rồi không cho phát triển. Kiết sử dứt bỏ rồi làm thế nào không cho sanh lên nữa. Như đã có sân hận hoặc buồn bã trong tâm, làm thế nào đừng có như thế ấy nữa? Khi thấy được như vậy nên cẩn thận thu thúc (saṃvara) và dứt bỏ (pahāna) cho vừa phải lẽ với trình độ của mình, khi làm được như thế gọi là tiến tu niệm xứ này.

    Dứt phần āyatana và saṃyojana.

    *

    Điều nói về Giác Chi (Bojjhaṅga)

    Kinh văn: "Này chư tỳ Khưu, vị tỳ khưu trong giáo pháp này, nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: nội tâm có niệm giác chi. Hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: nội tâm không có niệm giác chi. Nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: nội tâm có niệm giác chi. Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị đó tuệ trit như thế, và với niệm giác chi đã sanh nay tựu thành viên mãn, vị đó tuệ tri như thế".

    …trạch pháp giác chi…

    …tinh tấn giác chi…

    …hỷ giác chi…

    …khinh an giác chi…

    ...định giác chi…

    …xả giác chi đã sanh nay tựu thành viên mãn, vị đó tuệ tri như thế".

    Chú giải Atthakathā:

    Giác chi "bojjhaṅga" là những chi pháp mà hành giả (yogāvacara) tiến hành sẽ giác ngộ.

    Toàn giác chi "sambojjhaṅga" là những chi pháp mà hành giả giác ngộ hoàn toàn.

    Hòa hợp (sāmaggī) là pháp điều hòa bảy giác chi cho sự giác ngộ hoàn hảo. Là pháp thức tỉnh khỏi giấc ngủ phiền não (kilesanidrā). Là sự suốt thông Tứ Diệu Đế.

    (Nhưng gom ý nghĩa chỉ có một là: "Biết tốt trong đường lối tốt").

    Từ "aṅga" dịch là chi phần phân định. "" tức là "được", "không có" tức là "không được". Nhân làm cho giác chi sanh lên hoặc tiến triển thì hoặc là giống nhau hoặc khác nhau.

    Nhân giống nhau để phát khởi tất cả giác chi là sự chú ý đúng pháp (yoniso manasikāra) trên đối tượng của những giác chi ấy, và nhân làm cho giác chi thành tựu viên mãn là A-la-hán đạo.

    Nói đến "yoniso manasikāra" có câu Phật ngôn nói đến giác chi đầu tiên làm tiêu chuẩn, có thể áp dụng cho mọi giác chi, rằng: "Chư tỳ-khưu, niệm giác chi hiện khởi và an trú nơi pháp nào là do sự tăng trưởng yoniso manasikāra (sự chú ý đúng pháp) trong các pháp ấy, và là điều tiến triển khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh lên hoặc tiến triển viên mãn".

    Nhân khác nhau của mỗi giác chi như sau:

    * Nhân làm cho niệm giác chi sanh lên hoặc tiến triển có bốn điều là:

    Có trí nhớ và biết mình (chánh niệm, tỉnh giác)

    Không thân cận người quên lẫn (thất niệm, thiểu giác)

    Chỉ thân cận người có chánh niệm vững chắc

    Hướng tâm đi… trong chánh niệm ấy.

    Giải thích là:

    Điều 1: Có trí nhớ biết mình trong cả bảy chỗ, như đối với các oai nghi tế hạnh.

    Điều 2: Lánh xa người hay quên lẫn, như con quạ gắp cục cơm hoặc miếng vật thực.

    Điều 3: Thân cận người có chánh niêm vững chắc, có sự ghi nhớ rạch ròi như ngài Tissa Thera và ngài Abhaya Thera.

    Điều 4: Có tâm chú hướng cho sanh chánh niệm trong mỗi oai nghi.

    * Nhân làm cho trạch pháp giác chi sanh lên hoặc tiến triển có 7 điều là:

    1. Sự học hỏi, tham vấn

    2. Sự làm cho sạch sẽ

    3. Sự làm cho các căn bằng nhau

    4. Sự lánh xa người không có trí tuệ

    5. Chỉ thân cận người có trí tuệ

    6. Quán xét về sự tiến hành của tuệ trong pháp sâu xa

    7. Sự hướng tâm trong trạch pháp giác chi.

    Giải thích là:

    Điều 1: Tức sự học hỏi liên quan về ý nghĩa 5 uẩn (khandhā), 18 giới (dhātu), 12 xứ (āyatana), 5 căn (indriya), 5 lực (bala), 7 giác chi (bojjhaṅga), 8 Đạo (magga), 5 chi thiền chỉ tịnh (jhānāṅga) 16 tuệ quán minh (vipassanāñāṇa).

    Điều 2: Phải làm cho bên trong sạch sẽ như là vệ sinh cắt móng tay, móng chân, cạo tóc, cạo râu…, làm cho thân thể ít bệnh bằng cách dùng thuốc để ngừa trị. Tắm rửa thân thể cho sạch. Bên ngoài thì giặt nhuộm y dơ cũ có mùi hôi, đốt chùi bát, quét dọn chỗ ở. Bởi khi các vật bên trong và bên ngoài không sạch sẽ khiến cho tâm và các tâm sở sanh lên, dù là trí tuệ cũng không trong sáng, ví như ánh đèn nương nơi đồ đựng và tim dầu không sạch thì cũng không sáng sủa. Đến khi vật bên trong và bên ngoài sạch sẽ khiến cho tâm và tâm sở sanh lên, nhất là trí tuệ cũng sẽ được sáng suốt, ví như ánh đèn chói lọi bởi nương nơi ba vật sạch tốt đó vậy.

    Điều 3: Làm cho ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ cân bằng, khi một căn già hơn, căn khác non hơn cũng không thể phát huy chức năng của mình được. Bởi thế khi thấy căn nào già giặn hơn phải giảm bớt xuống. Cách giảm là hãy chiêm nghiệm xem căn đó già giặn do nhân nào, khi thấy rồi thì loại trừ nhân ấy đi, như tín căn già giặn hơn bốn căn khác, thì nên giảm đức tin xuống bằng cách tăng sự quán xét trạng thái pháp (tuệ) hoặc không hướng tới nhân làm cho đức tin già giặn.

    Nếu tinh tấn già giặn thì cho giảm xuống bằng cách hướng đến sự yên lặng (định)... Các căn không giải thích cũng nên hiểu theo cách này.

    Vả lại, trong ngũ căn, các bậc trí tuệ hằng khen ngợi sự cân bằng giữa đức tin và trí tuệ, định và tinh tấn. Bởi người có đức tin già, trí tuệ non sẽ ngưỡng mộ các bậc không đáng ngưỡng mộ. Người có trí tuệ già, đức tin non tâm sẽ có khuynh hướng đi theo đường sái, khó sửa trị được, như bệnh bị phạm thuốc, sẽ chấp nhận làm phước bằng tâm, chứ không làm phước bằng thân, như tài thí... khi rã tan ngũ uẩn hằng sanh trong địa ngục. Khi đức tin và trí tuệ bằng nhau mới ngưỡng mộ các bậc đáng ngưỡng mộ. Nếu định già, tinh tấn non sự lười biếng sẽ lấn lướt. Nếu tinh tấn già, định non sự phóng túng sẽ lấn lướt. Bởi thế cần làm cho hai pháp này cân bằng, bởi khi cân bằng sẽ nhập định được (appanāsamādhi).

    Lại nữa, người tu thiền chỉ tịnh trên đề mục cũng nên có đức tin già, bởi sẽ làm cho đạt đến appanāsamādhi, và trong phần định với tuệ, người tu định cũng nên có nhứt hành (ekaggatā) già giặn, bởi sẽ đắc định. Người tu minh sát (vipassanā) cũng nên có trí tuệ già giặn, bởi sẽ làm cho suốt thông thực tướng của các pháp. Nhưng khi định và tuệ bằng nhau sẽ có định kiên cố, và tuệ hoàn toàn.

    Phần trí nhớ làm cho niệm lực có sức mạnh già giặn trong mọi nơi.. Khi tinh tấn và trí tuệ mạnh thì sẽ nghiêng về bên dao động, niệm sẽ giữ cho tâm không dao động, phóng túng. Khi đức tin và định mạnh sẽ nghiêng về bên thụ động, niệm sẽ ngăn không cho tâm thụ động, lười biếng. Bởi thế nên có niệm bảo trì các pháp, như muối hoặc vật có vị mặn làm gia vị trong tất cả vật thực, hoặc ví như ông quan làm việc nước bắt buộc phải giữ gìn mọi việc của đất nước. Do nhân này Đức Thế Tôn thuyết rằng: "Bởi nhân nào tâm phải nương nơi niệm và phải có niệm là pháp giữ gìn? Bởi vì khi không có niệm sẽ không nâng cử tâm hoặc không chế ngự tâm được".

    Trong kinh Sammohavinodanī nói rằng: "Đức Thế Tôn thuyết niệm giác chi đầu tiên, bởi niệm là pháp ủng hộ tất cả các giác chi khác, do có Phật ngôn rằng: "Tesu satiñca khvāhaṃ, bhikkave, sabbatthikaṃ vadāmī". (Chư tỳ-khưu, trong bảy giác chi này, Như Lai thuyết rằng niệm có lợi ích phổ biến". (Kinh Sammohavinodanī, trang 404).

    Điều 4: Lánh xa người không có trí tuệ tức là người không thông hiểu pháp sâu xa, như uẩn, xứ, giới…

    Điều 5: Thân cận người có trí tuệ tức là người hiểu sự sanh và sự diệt của những trạng thái pháp khác được.

    Điều 6: Quán xét phẩm mạo của trí tuệ sâu xa đều liên quan đến thực tánh pháp như uẩn, xứ, giới…được khép vào pháp sâu xa.

    Điều 7: Sự hướng tâm để trạch pháp giác chi sanh lên trong mỗi oai nghi.

    * Nhân làm cho tinh tấn giác chi sanh lên hoặc tiến triển có mười một điều là:

    1. Sự quán thấy sợ trong bốn đường ác đạo (apāyabhūmi)

    2. Sự quán thấy quả báo của sự tinh tấn

    3. Sự quán thấy đường lối tiến hành

    4. Sự cung kính pháp trì bình khất thực (piṇḍapāta)

    5. Sự quán thấy di sản lớn

    6. Sự quán thấy sự cao thượng của Đức Bổn Sư

    7. Sự quán thấy kiếp sống cao quí

    8. Sự quán thấy bạn phạm hạnh bậc cao

    9. Sự không thân cận kẻ lười biếng

    10. Sự thân cận người siêng năng

    11. Sự hướng tâm trong tấn giác chi.

    Giải thích như sau:

    Điều 1: Nói đến sự quán xét thấy rằng:

    Khổ to lớn như bị năm thứ giam cầm, nhất là trong địa ngục.

    Sự đói khát, vô vàn đói khát, suốt thời gian lâu dài cho loài ngạ quỉ.

    Sự thọ khổ do gió và nắng... có ở trong loài A-tu-la tức là nhóm ngạ quỉ có thân hình cao độ ba mươi mét, bốn mươi mét, gầy ốm lắm, chỉ còn da bọc xương.

    Sự đau đớn, nhất là bị giết, bị đánh... trong kiếp sống loài bàng sanh.

    Rồi nghĩ lại rằng: "Nếu ta bị sanh vào những loài như thế ta sẽ không thể hành tinh tấn tốt như thế này được và nếu không hành tinh tấn cho tốt thì trong một thời nào đó chắc chắn sẽ sanh như thế."

    Điều 2: Nói đến quán xét thấy rằng: "Người lười biếng không thể đắc chín pháp xuất thế, chỉ nhóm người tinh tấn mới có thể thấu triệt được".

    Điều 3: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Người lười biếng không thể đi con đường mà Đức Phật Toàn Giác, Độc Giác và Thanh Văn Giác đã đi qua.

    Điều 4: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Những người dâng vật thực đến cho ta... họ không phải thân quyến, bạn bè hoặc tôi tớ, công nhân của ta. Họ dâng cúng do mong quả báo to lớn. Và Đức Bổn Sư cũng không cho phép tứ vật dụng dành cho tỳ-khưu lười biếng thọ dụng đâu. Ngài cho phép đến tỳ-khưu siêng năng trong việc bổ túc sa-môn pháp đặng cho thoát khỏi khổ luân hồi. Nhưng giờ đây ta là người lười biếng không xứng đáng với vật thực cúng dường (piṇḍapāta). Bởi người siêng năng mới đáng gọi là người cung kính đến piṇḍapāta. (Đoạn này Ngài dẫn chuyện Ngài Mahāmitta Thera, xin hãy xem Atthakathā của đoạn này).

    Điều 5: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Di sản to lớn là thất thánh tài (bảy báu nhà Phật) là pháp Đức Thế Tôn trao cho người siêng năng làm theo lời giáo huấn, như cha mẹ trao di sản đến cho con trai, con gái biết thực hành theo giáo huấn của mình" và nghĩ rằng: "Ta là người lười biếng như thế này sẽ không được di sản tức là Thánh tài to lớn này đâu, chỉ có thể được khi ta tinh tấn".

    Điều 6: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Đức Bổn Sư là bậc cao thượng vô cùng, dù mười ngàn thế giới (lokadhātu) to lớn cũng rung chuyển trong khi ngài giáng sanh (paṭisandhi), ra đời, giác ngộ, chuyển Pháp Luân, hóa hiện thần thông (yamakapāṭihāriya), ngự từ cung trời xuống, nhập Niết-bàn" và nghĩ rằng: "Ta tu trong giáo pháp của Đức Bổn Sư là bậc cao thượng như thế này không nên lười biếng".

    Điều 7: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Bây giờ đây nói đến kiếp hoặc giòng (jāti) ta không phải giòng thấp thỏi. Bởi khi ta xuất gia rồi kể như sanh trong giòng đức vua Okkāka kế truyền lại cho vị Mahāsammativaṅsa. Kể như là cháu của đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Mahāmāyā, là em của Đức La-hầu-la. Chính ta là con của Đức Phật Thích Ca như thế này không nên lười biếng đâu".

    Điều 8: Nói đến sự quán xét thấy rằng: "Bạn phạm hạnh to lớn tức là Đức Xá-lợi-phất và Đức Mục-kiền-liên cùng tám mươi vị Đại Thanh Văn toàn là đắc pháp xuất thế do sự tinh tấn, phần ta sẽ đi theo gương các ngài hay không?"

    Điều 9: Nói đến sự lánh xa người lười biếng, do dứt bỏ sự siêng năng theo đường lối thân, đường lối tâm, là nói năng rồi ngủ như con trăn vậy.

    Điều 10: Nói đến sự thân cận người siêng năng thật sự chỉ mong điều giác ngộ.

    Điều 11: Nói đến tâm hướng cho phát sanh tinh tấn giác chi.

    * Nhân làm cho hỷ mãn giác chi sanh lên hoặc tiến triển có mười một điều là:

    1. Buddhānussati: Niệm Phật, thường ức niệm đến ân đức của Phật Bảo.

    2. Dhammānussati: Niệm Pháp, thường ức niệm đến ân đức của Pháp Bảo.

    3. Saṅghānussati: Niệm Tăng, thường ức niệm đến ân đức của Tăng Bảo.

    4. Sīlānussati: Niệm giới, thường ức niệm giới mà mình đã giữ tùy theo bậc xuất gia hoặc tại gia.

    5. Cāgānussati: Niệm thí xả, thường ức niệm đến sự thí mà mình đã dứt bỏ, nghĩa là đã dâng vật thực đến bậc có giới đức, tuỳ theo mình là tại gia hoặc xuất gia.

    6. Devatānussati: Niệm chư Thiên, thường ức niệm đến đức tính nào làm cho người thành chư Thiên, đức tính ấy cũng có trong mình ta rồi.

    7. Upasamānussati: Niệm sự vắng lặng, nghĩa là ức niệm đến phiền não đã vắng lặng do năng lực nhập định rằng những phiền não nầy không dấy động lên cả sáu mươi năm hoặc bảy mươi năm.

    8. Không thân cận người bợn nhơ, nghĩa là người không trong sạch ngưỡng mộ Tam Bảo, biểu hiện rõ rệt là họ không cung kính bảo tháp, cây đại Bồ-đề và đến bậc tôn trưởng (Thera).

    9. Chỉ thân cận người trong sạch ngưỡng mộ, hoan hỷ, kính cẩn đến Tam Bảo.

    10. Quán xét kinh giải thích ân đức Tam Bảo làm cho phát sanh sự trong sạch kính ngưỡng.

    11. Nói đến tâm hướng cho phát sanh hỷ mãn giác chi.

    * Nhân làm cho khinh an giác chi sanh lên hoặc tiến triển có bảy điều là:

    1. Dùng vật thực tiết độ khiến thân tâm nhẹ nhàng khinh khoái, không làm cho nặng nề, buồn ngủ hoặc phiền não.

    2. Ở nơi thời tiết ôn hoà, nghĩa là được hưởng không khí làm cho thân tâm khinh an.

    3. Oai nghi đứng, đi, ngồi, nằm được sự khinh an nhẹ nhàng và tránh xa nghịch cảnh (visabhāgāramma). Bậc đại nhân không cần lựa chọn vì có thể thích nghi với mọi mùa tiết và oai nghi. Người không phải bậc đại nhân cần lựa chọn mùa tiết và oai nghi phù hợp để làm cho phát sanh khinh an.

    4. Thực hiện điều trung dung nghĩa là quán xét đến nghiệp của mình và kẻ khác rằng: Mỗi người hằng tiến hành theo nghiệp của riêng mình.

    5. Không thân cận người thô lổ cộc cằn, như người ưa trấn áp kẻ khác bằng đất đá, gậy gộc...

    6. Chỉ thân cận người nhẹ nhàng tế nhị, nghĩa là người cẩn thận tay, chân, không lấn hiếp kẻ khác.

    7. Có tâm hướng làm cho phát sanh khinh an giác chi.

    * Nhân làm cho định giác chi sanh lên hoặc tiến triển có mười một điều là:

    1. Làm cho trong, ngoài sạch sẽ như đã giải rồi.

    2. Làm cho các căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) cân bằng nhau như cách đã nói.

    3. Rành rẽ trong thiền tướng (nimitta), nghĩa là rành rẽ nắm lấy thiền tướng của công án biến xứ (kasiṇa).

    4. Biết làm cho tâm phấn chấn, không bị trì trệ do nhân thụ động. Cách này phải huân tu trạch pháp, tinh tấn, hỷ giác chi.

    5. Biết làm cho tâm an ổn, không phóng túng do nhân dao động. Cách này phải huân tu khinh an, định, xả giác chi.

    6. Làm cho tâm phấn chấn, nghĩa là nếu tâm thụ động do nguyên nhân tuệ non kém, hoặc do nguyên nhân không được khinh an, vắng lặng, hoặc do quán xét tám điều kinh cảm (saṃvegavatthu): sanh, già, đau, chết, khổ trong ác đạo, khổ trong quá khứ, khổ trong vị lai, khổ trong hiện tại thì phải niệm ân đức Tam Bảo cho tâm phấn chấn lên.

    7. Sự buông xả, khi thấy rằng: "Tâm không hôn trầm, không phóng túng, không thụ động, vững vàng trong cảnh giới, đi đúng đường lối chỉ tịnh tốt rồi thì không cần hăng hái chế ngự hay làm cho tâm phấn chấn gì cả. Hãy buông xả như kẻ xa phu lái xe ngựa trong khi ngựa đi tốt họ cũng buông xả như thế ấy".

    8. Không thân cận người có tâm không trú vững, ám chỉ người có tâm vọng động, không có cận định hoặc nhập định.

    9. Chỉ thân cận người có tâm trú vững là bậc có cận định hoặc nhập định.

    10. Quán xét thiền và giải thoát (vimokkha).

    11. Có tâm hướng làm cho sanh định giác chi.

    * Nhân làm cho xả giác chi sanh lên hoặc tiến triển có năm điều là:

    1. Tâm quân bình trong chúng sanh và người.

    2. Sự quân bình trong hành (saṅkhāra).

    3. Không thân cận người chấp ái trong chúng sanh và hành.

    4. Chỉ thân cận người có tâm quan bình trong chúng sanh và hành.

    5. Hướng tâm làm cho sanh xả giác chi.

    Giải thích như sau:

    Điều một: Thành tựu do hai cách: Một là quán xét về nghiệp rằng: "Ta sanh ra và chết đi do nghiệp của ta, kẻ khác cũng vậy". Hai là sự quán xét không có chúng sanh, người, là rằng: "Rốt ráo theo chân nghĩa (paramattha) thì không có chúng sanh, người, mình, kẻ khác. Vậy thì thương yêu chấp giữ cái gì?".

    Điều hai: Thành tựu do hai cách: Một là quán thấy không có ai là chủ của những đồ vật vật dụng khác nhau như y phục là diển hình rằng: "Y phục này sẽ hoại sắc và cũ rách, thành giẻ chùi chân, luôn đến phải liệng bỏ, nếu như làm chủ được thì đã không trở hành như thế". Hai là quán thấy sự nhứt thời của những vật dụng khác nhau như y phục là điển hình rằng: "Y phục này là vật không bền chắc đến đâu cả..."

    Điều ba: Không nên thân cận người thường dính mắc ở trong người hoặc vật, nghĩa là có hành động dính mắc, luyến thương môn sinh (antevāsika), đệ tử (saddhī vihārika) hoặc người cùng thầy Hòa thượng... Dù không thấy chỉ trong chốc lát cũng kêu tìm kiếm. Khi có người nhờ đệ tử mình đi giúp làm việc gì cũng không chịu cho đi, viện lẽ rằng: "Tôi cũng có công việc thường trực phải làm, nếu bảo họ đi rồi tôi sẽ khó khăn". Người này gọi là người làm cho mình dính mắc trong người khác.

    Về phần người dính mắc trong đồ vật cần dùng như y, bát, gậy... Thậm chí không muốn cho kẻ khác rờ tay vào, dù họ xin mượn chốc lát cũng không cho, viện lẽ rằng: "Tôi thích vật này lắm không cho mượn được". Người hạng này gọi là dính mắc đồ vật. Đối với tại gia cư sĩ cũng như vậy, nên xa lánh hai hạng người này.

    Điều bốn: Nên thân cận người có tâm xả tức là không thương, không ghét, không buộc ràng trong người hoặc vật gì, không thành kiểu người như đã giải rồi trong điều ba. Do họ quán thấy rằng: "Toàn là hành trình theo nghiệp, là không có bản ngã, là vật nhứt thời hoặc quán cách nào để buông xả cũng được". Chỉ làm cho hiện rõ diện mục của người làm mô phạm không dính mắc trong người và vật có thể thân cận được.

    Điều năm: Có hướng tâm làm cho phát sanh xả giác chi.

    Thật ra tỳ-khưu mà Đức Thế Tôn gọi là biết (pajānāti) trong ngōn ngữ Pāḷi, ám chỉ biết như đã giảng giải trên đây.

    Dứt ý nghĩa theo chú giải.

    Cách hành

    Người cần hành niệm xứ này nên học hỏi cho hiểu bảy pháp giác chi là những gì, rồi hãy quan sát xem trong tâm mình điều nào có hoặc không có. Nếu thấy giác chi nào không có thì làm cho hiện hành. Nếu thấy giác chi nào đang hiện hành nhưng chưa đầy đủ, chưa già giặn thì cố gắng làm cho giác chi ấy tăng trưởng hoặc già giặn lên, theo cách vắn gọn hoặc rộng rãi đã giải ở đoạn trước.

    Dứt điều nói về giác chi.

    *

    Điều nói về Tứ Diệu Đế (Ariyasacca)

    Kinh văn: "Này chư tỳ-khưu, trong pháp luật này, vị tỳ-khưu tuệ tri như thật: đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đi đến sự diệt khổ".

    - "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là khổ Thánh đế? Sanh, già, bệnh, chết là khổ, sầu muộn, bi ai, đau đớn, bực bội, (8) nhiệt não là khổ, gặp người không thương, xa người yêu mến, mong muốn không được, tóm lại chấp thủ ngũ uẩn là khổ".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là sanh? Tùy theo mỗi loại chúng sanh có sự sanh nở, sự ra đời, sự sanh hạ, sự tái sanh, sự hình thành các uẩn, sự xuất hiện các căn, như thế gọi là sanh".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là già? Tùy theo mỗi loại chúng sanh có sự lão hoá, sự biến hoại, sự rụng răng, tóc râu bạc, da nhăn, giảm tuổi thọ, các căn già nua, như thế gọi là già".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là bệnh? Tùy theo mỗi loại chúng sanh có bệnh hoạn, đau ốm, tật nguyền của thân chúng sanh, như thế gọi là bệnh".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chết? Tùy theo mỗi loại chúng sanh có sự hoại vong, sự hoại thân, sự tử vong, sự chết, sự rã tan ngũ uẩn, sự rời bỏ thi thể, sự chấm dứt mạng căn, như thế gọi là chết".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là sầu? Sự héo hon, sự buồn rầu, sự u buồn, sự sầu muộn, sự ưu sầu của người chịu sự bất hạnh hoặc nỗi khổ đau nào, như thế gọi là sầu".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là bi ai? Sự khóc than, sự bi thương, sự thảm thiết, sự bi lụy, sự than vãn của người chịu sự bất hạnh hoặc nỗi khổ đau nào, như thế gọi là bi ai".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là khổ? Sự đau đớn về thân, sự không dễ chịu về thân, sự thống khổ về thân, những cảm thọ bức xúc về thân, như thế gọi là khổ".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là ưu? Sự trái ý, sự nghịch lòng, sự đau khổ về tâm, sự cảm thọ bất bình, khó chịu nơi tâm, như thế gọi là ưu".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là não? Sự nhiệt não, sự chán nản, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người chịu sự bất hạnh hoặc nỗi khổ đau nào, như thế gọi là não".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là cầu không được? Chúng sanh có sự sanh…già… bệnh… chết… v.v. mong muốn được không sanh, không già, không bệnh, không chết, không muốn sầu, bi, khổ thân, khổ tâm, thất vọng... mong cầu ấy không thể đạt được, như thế gọi là cầu không được".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là gặp người không thương ? Sự gặp mặt, sự giao tiếp, sự hội họp với những nhân vật không vừa lòng, sự gặp gỡ sắc, thinh, hương, vị, xúc mà ta không mong mỏi, không yêu thích hoặc tiếp xúc với những người làm điều tai hại, điều bất lợi, không thái bình an lạc đến cho mình hoặc đến những người thân của mình, như thế gọi là gặp người không thương".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là xa người yêu mến? Sự xa lìa, sự chia ly, sự từ biệt nhân vật thương yêu, sự tách rời sắc, thinh, hương, vị, xúc mà mình thương yêu, mong mỏi, vừa lòng hoặc sự xa rời những người mưu cầu giúp đỡ cho mình những điều lợi ích, an ổn, thái bình như cha, mẹ, anh, em trai, chị em gái, bạn bè, thân bằng quyến thuộc, như thế gọi là xa người yêu mến".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là tóm lại chấp thủ năm uẩn là khổ? Những khổ đau sanh từ chấp sắc uẩn, chấp thọ uẩn, chấp tưởng uẩn, chấp hành uẩn, chấp thức uẩn hoặc cả năm là ta, là kẻ khác, như thế tóm lại là chấp thủ năm uẩn là khổ"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là nhân sanh khổ Thánh đế? Sự tham ái dẫn đến tái sanh đi đôi với hỷ và tham, tìm kiếm thoả mãn nơi này nơi khác, đó là dục ái, hữu ái, phi hữu ái"

    "Này chư tỳ-khưu, các ái sanh chỗ nào?Trú chỗ nào? Những sắc nào trên đời dễ yêu, dễ thích, các ái sanh ở đó, trú ở đó".

    "Sắc gì trên đời dễ yêu, dễ thích? Trên đời, mắt…, tai…, mũi…, lưỡi… ,thân…, ý... Sắc…, thanh…, hương…, vị…, xúc…, pháp… Nhãn thức…, nhĩ thức…, tỷ thức…, thiệt thức…, thân thức…, ý thức… Nhãn xúc…, nhĩ xúc…, tỷ xúc…, thiệt xúc…, thân xúc…, ý xúc… Thọ sanh từ nhãn xúc…, nhĩ xúc…, tỷ xúc…, thiệt xúc…, thân xúc…, ý xúc… Sắc tưởng…, thanh tưởng…, hương tưởng…, vị tưởng…, xúc tưởng…, pháp tưởng… Sắc tư…, thanh tư…, hương tư…, vị tư…, xúc tư…, pháp tư… Sắc ái…, thanh ái…, hương ái…, vị ái…, xúc ái…, pháp ái… Sắc tầm…, thanh tầm…, hương tầm…, vị tầm…, xúc tầm…, pháp tầm… Sắc tứ…, thanh tứ…, hương tứ…, vị tứ…, xúc tứ…, pháp tứ là sắc dễ yêu, dễ thích, tham ái sanh ở đó, trú ở đó. Này chư tỳ-khưu, như thế gọi là Nhân Sanh Khổ Thánh Đế"

    Ghi chú: Cả ba ái này hằng sanh trong sắc khả ái (piyarūpa)sắc khả hỷ (sātarūpa), đó chính là 60 sắc sanh xứ của ái: lục căn, lục trần, lục thức, lục xúc, lục thọ, lục tưởng, lục tư, lục ái, lục tầm, lục tứ.

    Kinh văn: "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là Diệt khổ Thánh Đế? Sự diệt tận các ái không còn dư sót, sự xả ly, sự buông bỏ, sự thoát ly, không dính nhiễm các ái".

    "Này chư tỳ-khưu, các ái này buông bỏ chỗ nào, diệt tận chỗ nào? Này chư tỳ-khưu, những sắc nào trên đời dễ yêu, dễ thích, các ái buông bỏ ở đó, diệt tận ở đó".

    "Sắc gì trên đời dễ yêu, dễ thích? Trên đời, mắt…, tai…, mũi…, lưỡi… ,thân…, ý... Sắc…, thanh…, hương…, vị…, xúc…, pháp… Nhãn thức…, nhĩ thức…, tỷ thức…, thiệt thức…, thân thức…, ý thức… Nhãn xúc…, nhĩ xúc…, tỷ xúc…, thiệt xúc…, thân xúc…, ý xúc… Thọ sanh từ nhãn xúc…, nhĩ xúc…, tỷ xúc…, thiệt xúc…, thân xúc…, ý xúc… Sắc tưởng…, thanh tưởng…, hương tưởng…, vị tưởng…, xúc tưởng…, pháp tưởng… Sắc tư…, thanh tư…, hương tư…, vị tư…, xúc tư…, pháp tư… Sắc ái…, thanh ái…, hương ái…, vị ái…, xúc ái…, pháp ái… Sắc tầm…, thanh tầm…, hương tầm…, vị tầm…, xúc tầm…, pháp tầm… Sắc tứ…, thanh tứ…, hương tứ…, vị tứ…, xúc tứ…, pháp tứ là sắc dễ yêu, dễ thích, các ái buông bỏ ở đó, diệt tận ở đó".

    "Này chư tỳ khưu, như thế gọi là diệt khổ Thánh Đế".

    Ghi chú: Dục ái, sắc ái, vô sắc ái cũng diệt ngay trên 60 sắc xứ: lục căn, lục trần, lục thức, lục xúc, lục thọ, lục tưởng, lục tư, lục ái, lục tầm, lục tứ. Nghĩa là các ái sanh ở đâu thì cũng diệt ở đó.

    Kinh văn: "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là con đường đi đến diệt khổ Thánh Đế? Đó là Thánh Đạo tám chi: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh tri kiến? Thấy biết khổ, thấy biết nhân sanh khổ, thấy biết sự diệt khổ, thấy biết con đường đi đến diệt khổ. Như thế gọi là chánh tri kiến".

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh tư duy? Suy nghĩ về ly dục, suy nghĩ về không sân, suy nghĩ về không hạiNhư thế gọi là chánh tư duy"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh ngữ?Tránh xa nói dối, nói chia rẻ, nói độc ác, nói vô ích. Như thế gọi là chánh ngữ"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh nghiệp? Sự lánh xa sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Như thế gọi là chánh Nghiệp"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh mạng? Dứt bỏ sự nuôi mạng theo đường tà, chỉ nuôi mạng trong đường chánh. Như thế gọi là chánh mạng"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh tinh tấn? Sự chuyên cần, cẩn thận, ngăn ngừa điều xấu chưa sanh, dứt trừ điều xấu đã sanh, phát khởi điều lành chưa sanh, gìn giữ phát triển điều lành đã sanh. Như thế gọi là chánh tinh tấn"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh niệm? Sự từ bỏ tham ưu ở đời, quán niệm trên thân, trên các thọ, trên tâm,trên các pháp. Như thế gọi là chánh niệm"

    "Này chư tỳ-khưu, như thế nào gọi là chánh định?Vị tỳ-khưu ly dục, ly pháp bất thiện, an trú thiền thứ nhất, với tầm, tứ, hỷ, lạc sinh từ ly dục. Bỏ tầm, tứ an trú thiền thứ hai với hỷ lạc do định sanh, lặng lẽ nhất tâm. Bỏ hỷ, trú xả, giác niệm với cảm thọ lạc, chứng thiền thứ ba, trạng thái an lạc trong xả của các bậc Thánh. Bỏ lạc, khổ, hỷ, ưu trước chứng thiền thứ tư, thanh tịnh trong xả, không khổ, không lac. Như thế gọi là chánh định"

    Chú giải Atthakathā:

    Đức Thế Tôn đã thuyết niệm xứ về Tứ Diệu Đế khởi đầu: "Tuệ tri như thật: đây là khổ… có nghĩa là thấy biết rõ thực tánh khổ trong tam giới… đây là nhân sanh khổ… nghĩa là thấy biết rõ thực tánh ái dục là nhân làm cho khổ ấy sanh lên... Đây là sự diệt khổ… nghĩa là thấy biết rõ thực tánh của sự dập tắt khổ và nhân sanh khổ… đây là con đường đi đến sự diệt khổ… nghĩa là thấy biết rõ thực tánh Thánh đạo tuệ là nhân diệt khổ. (Pháp niệm xứ về Tứ Diệu Đế này có giải rộng trong bộ Thanh Tịnh Đạo).

    Dứt điều nói về Tứ Diệu Đế.

    *

    Đoạn quả báo sau chót

    Đoạn cuối của kinh đại Tứ Niệm Xứ này có nói rằng: "Này chư tỳ-khưu, người nào tiến tu bốn pháp Niệm Xứ này suốt một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày hoặc một tháng, hai tháng, ba tháng, bốn tháng, năm tháng, sáu tháng, bảy tháng hoặc một năm, hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm, sáu năm, bảy năm hẳn sẽ chứng được một trong hai quả: một là ngay trong hiện tại chứng quả A-la-hán hay nếu còn dư y chứng quả A-na-hàm".

    "Chư tỳ-khưu, con đường duy nhất này, hằng làm cho chúng sanh được thanh tịnh, được thoát khỏi sự buồn rầu, sự thương tiếc; sự khổ đau, sự trái ý, sự nhiệt não, để thông đạt pháp cần giác ngộ, làm cho thấu rõ Niết-bàn, đó là con đường Tứ Niệm Xứ".

    Lời ngài Ananda nói phụ sau kinh này rằng: "Khi Đức Thế Tôn thuyết kinh này vừa xong, chư tỳ-khưu được nghe trong chỗ ấy đều hoan hỷ tin nhận chơn ngôn của Đức Thế Tôn".

    Chú giải Atthakathā:

    Chú giải nói rằng: "Đức Thế Tôn thuyết thiền trong kinh này có hai mươi mốt đề mục là:

    - 1 sổ tức quan (ānāpānasati),
    - 1 trong bốn oai nghi,
    1 trong tất cả sự,
    1 trong ba mươi hai thể trược,
    1 trong bốn đại,
    9 loại tử thi,
    1 trong chín thọ,
    1 trong 16 tâm,
    1 trong 5 triền cái,
    1 trong ngũ uẩn,
    1 trong 12 xứ,
    1 trong thất giác chi,
    1 trong Tứ Diệu Đế

    Theo thứ tự lời thuyết ra có hai mươi mốt điều.

    Trong 21 đề mục thiền này gom gọn có hai là: 1 sổ tức quan, 1 thuộc 32 thể trược, 9 loại tử thi thành 11 đề mục có thể đạt đến an chỉ định (appanā).

    Nhưng ngài Mahāsiva là bậc lão luyện trong Trường Bộ nói rằng: "Chín loại tử thi, Đức Thế Tôn thuyết, do sự quán thấy tội lỗi của ngũ uẩn (ādīnavānupassanā)"… Nếu chấp nhận ý kiến của ngài thì chỉ còn hai đề mục sổ tức quan và thể trược là đạt được an chỉ (appanā), ngoài ra tất cả đều là đề mục chỉ đạt đến cận định (upacāra) mà thôi.

    "Người nào", nghĩa là bất luận tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào, không nói riêng đặc biệt một ai.

    "Tiến tu bốn pháp Niệm Xứnghĩa là hành theo những điều mà Đức Thế Tôn dạy chư tỳ-khưu trong Tứ Niệm Xứ ấy.

    "Suốt một ngày… bảy năm" là thời gian tương ứng với căn cơ trình độ tu hành của hành giả.

    "Còn dư y" (upādisesa), nghĩa là khi sự dính líu chút ít trong ngũ uẩn còn dư sót nên chưa chứng được A-la-hán, chỉ chứng quả A-na-hàm.

    Có Phật ngôn được thuyết trong chỗ khác rằng: "Người được nhận lời giáo huấn trong buổi sáng sẽ đắc thành trong buổi chiều. Người được nhận lời giáo huấn trong buổi chiều sẽ đắc thành trong ngày mai" như thế nhắm vào người có trí tuệ già giặn. Có nghĩa rằng toàn bộ lời giáo huấn của Đức Thế Tôn đem đến kết quả cuối cùng là bậc A-la-hán.

    Dứt phần chú giải của kinh Đại Tứ Niệm Xứ có tên là Papañcasūdanī trong Mūlāpaṇṇāsaka của Trung Bộ và trích dẫn nhiều nơi khác, luôn cả ý kiến của soạn giả giải thích chỉ có bấy nhiêu đây. Nhưng lời chú giải về Tứ Diệu Đế có trong kinh này chỉ vắn gọn thôi, trong bộ Thanh Tịnh Đạo đã giải rộng hơn.

    Bởi cớ ấy sẽ bổ túc theo bộ Thanh Tịnh Đạo tiếp sau đây nhưng phần nhiều sẽ tránh bớt các bài kệ.

    "Vibhāgato nibbacana, lakkhaṇādippabhedato;
    Atthatthuddhārato ceva, anūnādhikato tathā.
    Kamato jāti-ādīnaṃ, nicchayā ñāṇakiccato;
    Antogadhānaṃ pabhedā, upamāto catukkato.
    Suññatekavidhādīhi, sabhāgavisabhāgato;
    Vinicchayo veditabbo, viññunā sāsanakkame."

    "Thức giả trong giáo pháp nên biết nhận xét về Tứ Diệu Đế theo: (1) loại, (2) từ nguyên, (3) tánh tướng…, (4) nghĩa, (5) nghĩa gốc, (6) không thiếu không thừa, (7) thứ tự, (8) thích nghĩa, (9) nhiệm vụ của tuệ, (10) nội dung, (11) ví dụ, (12) nhóm bốn, (13) tánh không, (14) chủng loại, (15) đồng (sabhāga) và dị (visabhāga).

    Trong bài kệ ngài Buddhaghosa trước tác giải thích Tứ Diệu Đế theo từng trọng điểm mà ngài đã nêu trong bài kệ đó rằng:

    (1) Loại (vibhāga) là sự chia ý nghĩa của Tứ Diệu Đế mỗi cách có bốn điều là:

    - Khổ Đế có bốn ý nghĩa: sự bức bách, sự bị tạo tác, sự nóng nảy, sự biến đổi.

    - Tập Đế có bốn ý nghĩa: sự huân tập, s ự khởi nguyên, sự ràng buộc, sự vướng ngại.

    - Diệt Đế có bốn ý nghĩa: sự xuất ly, sự xa lìa, không tạo tác, không chết.

    - Đạo Đế có bốn ý nghĩa: sự dẫn ra, nguyên nhân, sự thấy, sự ưu việt.

    (2) Từ nguyên (nibbacana) là sự phân tích theo ngữ căn của mỗi từ, như:

    "Dukkha" (khổ) chia ra "du" và "kha". "Du" là xấu xa, đáng ghét, như gọi đứa con hư là dupputta. "Kha" là rỗng không, như gọi khoảng không hay chỗ trống là Kham. Có tên là xấu xa, đáng ghét, bởi là điều không mong mỏi, có nhiều sự chẳng lành...Có tên là rỗng không, bởi xa lìa sự trường tồn, sự xinh đẹp, sự vui thích và cái ngã mà người ngu si hay chấp trước.

    Gom du và kha thành một là "dukkha", dịch là nơi đáng ghét và trống rỗng.

    "Samudaya" (tập) chia thành ba là "sam" dịch là hội đủ, "uda" dịch là sanh, "aya" dịch là nhân. Giải thích rằng: "Khi hội đủ nhân duyên rồi thì khổ sanh lên. Vậy "samudaya" dịch là khi đầy đủ nhân thì sanh khổ.

    "Nirodha" (diệt) chia thành hai: "Ni" dịch không có, "Rodha" dịch là lang thang. Tức đi lang thang của khổ trong luân hồi. Vậy Dukkhanirodha" là không có sự lang thang của khổ tức sự diệt khổ.

    "Dukkhanirodhagāminī paṭipadā" (con đường dẫn đến diệt khổ). Bởi giáp mặt đặc biệt với sự chấm dứt khổ, tức là không còn lang thang trong khổ luân hồi nên gọi là đạo lộ diệt khổ.

    "Ariyasacca" dịch là:

    1- Sự thật mà bậc Thánh thấu triệt "Etāni buddhādayo ariyā paṭivijhati"

    2- Sự thật vi diệu "Ariyassa saccāni"

    3- Sự thật làm cho thành tựu bậc Thánh "Ariyabhāva siddhito saccāni".

    4- Sự thật một cách đúng đắn. "Ariyāni saccāni".

    (3) Tánh tướng:

    "Dukkha" làm cho khổ sở là đặc tánh, làm cho nóng nảy là nhiệm vụ, làm cho sanh khởi là tướng trạng.

    "Samudaya" có sự tập thành là đặc tánh, không cho đứt đoạn là nhiệm vụ, sự ngăn ngại là tướng trạng.

    "Nirodhā", có sự vắng lặng là đặc tánh , không biến hoại là nhiệm vụ, không có tướng là tướng trạng.

    "Magga", có sự thoát ra là đặc tánh, dứt phiền não là nhiệm vụ, vượt lên là tướng trạng.

    Lại nữa có hai cách là:

    - Thứ nhứt: theo thứ tự: sanh khởi (khổ), làm cho sanh khởi (tập), không sanh (diệt), làm cho không sanh (đạo).

    - Thứ hai: sự bị tác thành (khổ), sự tham muốn (tập), sự không bị tạo tác (diệt), sự thấy rõ (đạo).

    (4) Nghĩa (attha).

    "Sacca" (Đế) là cái chắc thật được thấy bằng Thánh tuệ nhãn, không hư dối, không lầm lạc, không huyễn ảo. Đế là pháp vô vi, không biến hoại, không trở thành, không thay đổi, thuộc lĩnh vực Thánh trí. Là sự thực lầm lẫn và không thể khác, chẳng hạn như tánh chất đau buồn của Khổ đế, tánh chất tập thành của Tập đế, tánh chất tĩnh lặng của Diệt đế, tánh chất thoát ly của Đạo đế là không thể khác, không thể lẫn lộn với nhau.

    (5) Truy tìm nghĩa gốc:

    "Sacca" dịch chung là sự thật, nhưng có nhiều nghĩa lắm, khác nhau tùy theo được ghép với từ nào, ví dụ: "Vācāsacca" lời nói chân thật, chơn ngôn, "Viratisacca" chừa cãi chơn thật, "Diṭṭhisacca" thấy biết chơn thật, "Paramatthasacca" thượng nghĩa chơn thật, "Ariyasacca" chơn thật của bậc thánh, Diệu Đế.

    (6) Không thiếu không thừa:

    Đức Thế Tôn thuyết Diệu Đế chỉ có bốn, không thể thêm, không thể bớt. Người muốn chê là thiếu toan thêm vào, hoặc chê thừa muốn bỏ bớt ra đều không thể làm được. Hoặc chê rằng sự sanh, sự già ... không phải khổ cũng chẳng được.

    Cả hai điều này có Phật ngôn làm chứng cứ: "Chư tỳ-khưu, bất luận sa-môn hoặc bà-la-môn nào nói rằng Diệu Đế thứ nhất tức là Khổ Đế mà đức sa-môn Cồ-đàm thuyết không đúng. Ta hiểu Diệu Đế đầu là thế này…, ta sẽ ấn định Khổ Đế… cách khác như thế này, thế này... là điều họ không thể thực hiện được".

    Lại nữa, Đức Phật thuyết Diệu Đế thành bốn do có bốn điều là:

    1. Để chỉ cho thấy sự sanh (Khổ đế) do một nguyên nhân (Tập đế), sự không sanh (Diệt đế) cũng do một phương tiện (Đạo đế).

    2. Để chỉ cho thấy khổ là pháp nên biết cho chu đáo, nhân sanh khổ là pháp nên dứt bỏ, sự diệt khổ nên thực chứng, đường diệt khổ nên tiến hành.

    3. Để chỉ cho thấy khổ là nơi trú của ái dụctập chính là ái dụcdiệt là sự dứt ái dụcđạo là nhân tiến hành để diệt khổ tức diệt ái dục.

    4. Để chỉ cho thấy khổ là chấp thủ (ālaya), tập chính là thoả thích trong ālayadiệt là nhổ bỏ ālayađạo là phương tiện nhổ bỏ ālaya.

    (7) Thứ tự:

    Thuyết Tứ Đế theo thứ tự Khổ Đế trước bởi khổ dễ hiểu, thô thiển, và phổ thông đến tất cả chúng sanh.

    Rồi đến thứ nhì là Tập Đế để chỉ thấy rõ nhân sanh khổ.

    Diệt Đế là thứ ba chỉ cho thấy rõ rằng nguyên nhân diệt thì hậu quả sẽ được diệt.

    Đạo Đế được thuyết cuối cùng, để chỉ cho thấy phương tiện đưa đến diệt khổ.

    Lại nữa, thuyết khổ trước để thức tỉnh chúng sanh ưa thích lạc thú trong tam giới (bhavasukha). Rồi thứ nhì mới thuyết tập để cho thấy rằng: Các sự thống khổ không sanh từ ai khác, nhứt là đấng tạo hoá (isavaranaramita)... mà chỉ sanh từ ái dục. Thứ ba thuyết diệt để gieo sự vững tin và sự an tâm cho người mong thoát khổ. Cuối cùng là thuyết Đạo để giúp cho họ có thể diệt được khổ như ý nguyện.

    (8) Thích nghĩa:

    Ngài giải thích Tứ Diệu Đế như sau:

    * Thuyết về Khổ (Dukkhaniddesa)

    Trong lời thuyết thị về Khổ (Dukkhaniddesa) Đức Thế Tôn đề cập mười hai điều khổ là sự sanh, già, bệnh, chết, cầu không được, thương phải xa, ghét phải gần, buồn rầu, than khóc, khổ thân, khổ tâm, thất vọng. Nói vắn gọn chấp thủ ngũ uẩn là Khổ (xem mười hai khổ đoạn trước).

    Trong lời thuyết thị về Tập (Samudayaniddesa), Ngài nói đến ba ái, nhứt là dục ái...

    Trong lời thuyết thị về Diệt (Nirodhaniddesa), Ngài nói đến năm pháp nhưng với ý nghĩa giống nhau về Niết-bàn.

    Trong lời thuyết thị về Đạo (Magganiddesa), Ngài nói đến tám pháp nhứt là chánh kiến, chánh tư duy...

    Rồi trở lại quán xét sanh khổ... tiếp theo có ý nghĩa rằng:

    Tiếng "jāti" ám chỉ nhiều cách là:

    - Ám chỉ "cõi" như nói rằng nhớ kiếp được.
    - Ám chỉ những chúng sanh "sanh khác nhau".
    - Ám chỉ "tướng hữu vi" (Saṅkhata lakkhaṇa), tức là pháp có sự bị tạo tác là tướng.
    - Ám chỉ "tâm tục sanh" (Paṭisandhi), tức là tâm hoặc thức cấu sanh đầu tiên.
    - Ám chỉ "sanh ra" tức là sự ra khỏi bụng mẹ.
    - Ám chỉ "dòng họ" như nói động đến dòng họ.
    - Ám chỉ "giới của bậc Thánh" như nói sanh từ dòng Thánh nhơn.

    "Sanh" trong Diệu Đế ám chỉ sự sanh của ngũ uẩn từ kiết sanh cho đến lọt lòng của những chúng sanh thuộc thai sanh và sự sanh của uẩn do tâm kiết sanh của loại chúng sanh khác. Đây là nói gián tiếp.

    Nói trực tiếp, "Sanh - jāti" là sự khởi đầu xuất hiện của uẩn (khandha) nơi những chúng sanh đang được sanh ra.

    Sự khởi hiện trong cõi hữu là đặc tánh của sanh, làm cho thuộc về một cõi hữu là nhiệm vụ, sự xuất hiện trong cõi hiện tại từ cõi quá khứ hoặc sự biến dạng của khổ là tướng trạng.

    Hỏi: "Tại sao sanh là khổ?"

    Đáp: "Vì sanh là khởi nguyên cho các sự khổ khác như khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.

    Hỏi: Các khổ khác như thế nào?

    Đáp: Khổ khổ là đau khổ trên các khổ, hoại khổ là khổ do biến đổi, hành khổ là khổ do tạo tác, ngoài ra còn có khổ ẩn kín, khổ hiển lộ, khổ chính (trực tiếp), khổ phụ (gián tiếp).

    - Thọ khổ về thân và tâm gọi là "khổ khổbởi vì bản chất và tên gọi của nó là khổ, là trạng thái đau đớn thực.

    - Thọ lạc về thân và tâm gọi là "hoại khổ" bởi sự biến hoại là nhân biến lạc thành khổ.

    - Thọ xả và các hành cả ba cõi gọi là "hành khổ" bởi sự sanh diệt luôn bức bách.

    - Sự đau thân như đau tai, nhức răng... khép về "khổ ẩn kín" bởi cần hỏi người đau mới có thể biết được và bởi sự tổn hại không lường được.

    - Sự đau đớn dữ dội bỡi ba mươi hai thể trạng phát sanh (samuṭṭhāna) khép về "khổ hiển lộ " bởi không cần hỏi cũng biết được và bởi sự tổn hại được hiện rõ.

    - Tất cả khổ như sanh, già, bệnh, chết… được thuyết trong Phân Tích (Vibhaṇga) về Khổ Đế, trừ "khổ khổ", đều thuộc về "khổ gián tiếp". Riêng "khổ khổ" thuộc về "khổ trực tiếp" bởi đó là khổ thực theo đúng như trạng thái và tên gọi của nó vậy.

    Trong mười hai thứ khổ ấy:

    (1) Nói "sanh là khổ" bởi sanh là nơi trú của khổ trong ác đạo và khổ trong thiện thú thuộc cõi người. Nhất là khổ khi ở trong thai bào. Nỗi khổ của thai sanh như sau:

    1- "Khổ vì phải ở trong thai bào": là nơi chật hẹp, đen tối, đầy dẫy những tử thi khác, tràn ngập những mùi hôi hám dữ dội đáng nhờm gớm, bị nung do sức nóng trong lòng mẹ, bị nấu như cháo nhừ và bị chưng như bột, duỗi thẳng tay chân không được, ngồi chồm hổm đưa cả hai tay lên đỡ cằm, ôm đầu gối của mình, day lưng ra phía bụng của mẹ, day mặt vào phía lưng của mẹ, thân thể luôn bị bao bọc trong một lớp màng mỏng.

    2- "Khổ sanh từ sự kém chăm sóc thai": khi bà mẹ lỡ té xuống, đi, đứng, ngồi, nằm (thiếu cẩn thận) hài nhi ấy có thân chệch đi lại cảm thấy giựt mình khiếp sợ. Giống như nai con ở trong bàn tay người say rượu và giống như con rắn trong tay người bắt rắn và bị lạnh, nóng, chua, cay, mặn... cũng cảm thấy lạnh lắm, nóng lắm, rát lắm.

    3- "Khổ khi sanh": phải bị người mụ kéo lôi hoặc cắt chi thể trong trường hợp sanh khó.

    4- "Khổ khi đang sanh ra từ sản môn chật hẹp": do gió sanh từ nghiệp quạt cho cái đầu xuống thấp như người rơi xuống trong hố sâu cảm thấy giựt mình nhiều lắm. Vừa rơi đến chỗ sanh thì cảm thấy khó khăn đau đớn như bị kẹp bằng máy và như chúng sanh ở địa ngục bị ép bằng núi.

    5- "Khổ khi sanh ra rồi": nghĩa là khi bà đỡ nắm tay vào và tắm rửa lau chùi... làm cho đau giống như bị châm bằng kim hoặc lóc bằng dao cạo.

    6- "Khổ do tự hại mình": như tự sát, treo cổ hoặc khổ hạnh, ép xác, nhịn đói, lõa thể…

    7- "Khổ do kẻ khác hại": như bị đánh đập, bị giam cầm hoặc bị kẻ khác hành hạ...

    (2) Nói " già là khổ" có hai cách:

    1-"Già ẩn kín": tức là già từ từ trong tánh chất của pháp hữu vi.

    2- "Già hiển lộ": tức là già hiện rõ như lưng còng, răng rụng, da nhăn...

    Trong Khổ Diệu Đế, già ám chỉ:

    Sự chín mùi của ngũ uẩn là tánh chất. Sự đi gần đến cái chết là nhiệm vụ. Sự mất dần diện mạo trẻ trung là tướng trạng. Điều này gọi là hành khổ bởi là nhân làm cho sanh khổ.

    (3) Nói "bệnh là khổ": bởi dễ hiểu là bệnh làm nển tảng cho những cơn đớn đau, nhức nhối, bức xúc, khó chịu…

    (4) Nói "chết là khổ" có hai:

    1- "Chết ẩn kín": là chết từ từ trong bản chất của pháp hữu vi.

    2- "Chết hiển lộ": là hiện tượng chết lâm sàng tức chấm dứt mạng căn, tim ngừng đập, không còn hơi thở.

    Trong Khổ Diệu Đế, khổ này ám chỉ:

    Chết có sự mất đi là tánh chất, sự dứt lìa là nhiệm vụ, sự rời bỏ sanh thú (gati) là tướng trạng. Chết gọi là khổ bởi là nhân làm cho sanh khổ.

    (5) Nói "sầu là khổ" tức sự ưu sầu, buồn bực thiêu đốt tim gan như khi ta bị mất người thân thuộc... Sự nóng nảy trong tâm là tánh chất, sự thiêu đốt là nhiệm vụ, sự buồn rầu là tướng trạng rõ. Điều này gọi là khổ bởi tự tánh khổ đau của nó và là nhân làm cho sanh khổ.

    (6) Nói "bi là khổ" tức sự khóc lóc than tiếc như khi mất người thân thuộc... Sự khóc lóc nức nở là tánh chất, sự nghĩ tưởng và kể lể tánh tốt và thói hư (của người đã khuất) là nhiệm vụ, sự náo loạn là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi vì "khổ do hành" và là nhân làm cho sanh khổ.

    (7) Nói "khổ thân là khổ" tức sự không dễ chịu, đau đớn của thân. Sự bức hiếp thân là tánh chất, sự làm cho trái ý là nhiệm vụ, thân đau đớn là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi biểu hiện khổ đau của nó và bởi làm cho tâm khổ nữa.

    (8) Nói "ưu là khổ" tức sự khó chịu, trái ý, nghịch lòng của tâm. Sự bức xúc của tâm là tánh chất, sự làm cho nghịch ý là nhiệm vụ, sự đau lòng là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi bản chất là khổ đau và bởi làm cho thân khổ nữa như khi người khổ tâm quá nặng nề, thường xả tóc khóc than kể lể, hoặc đấm ngực, đập đầu hoặc uống thuốc độc hoặc thắt cổ...

    (9) Nói "não là khổ" tức sự uất ức, khổ tâm một cách cao độ, do mất thân quyến... Có sự khô héo, ưu phiền trong tâm là tánh chất, sự làm cho thở dài là nhiệm vụ, có sự thất vọng là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi đó là hành khổ và bởi nó làm cho tâm nóng nảy, thân thể gầy mòn.

    (10) Nói "gặp đối tượng không thương là khổ" tức sự khổ do gặp gỡ người hoặc vật không ưa thích, không vừa lòng. Có sự trùng phùng không thích thú là tánh chất, sự làm cho bực bội là nhiệm vụ, sự tổn hại là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi làm nhân sanh khổ.

    (11) Nói "xa đối tượng thương yêu là khổ" tức sự lìa xa người hoặc vật thương yêu, vừa lòng. Có sự xa lìa đối tượng vừa lòng là tánh chất, sự làm sanh khởi buồn rầu, thương tiếc là nhiệm vụ, sự tiêu điều trống vắng là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi là nhân làm cho sầu khổ.

    (12) Nói "mong cầu không được là khổ" tức sự khổ do mong cầu điều không thể có được, như cầu không già, không chết. Có sự mong muốn cái không thể được là tánh chất, sự kiếm tìm vật ấy là nhiệm vụ, sự vô vọng là tướng trạng. Điều này gọi là khổ bởi làm nhân cho khổ.

    Nói "tóm lại, chấp thủ ngũ uẩn là khổ" tức là tất cả những khổ khác đều do chấp thủ ngũ uẩn mà ra. Dù Đức Thế Tôn thuyết về khổ trong nhiều kiếp cũng không cùng tận, cho nên ngài gom vào trong cái nhân khổ nền tảng là chấp thủ ngũ uẩn (Upādānakkhandha).

    * Thuyết về Tập (Samudayaniddesa).

    Trong lời Thuyết Thị về Tập, cả ba từ Pāḷi được dùng để trích giải (viggaha) như sau:

    "Ponobbhavikā" (puna + bhava): sự hình thành sanh hữu (cõi) mới trong tương lai .

    "Nandirāgasahagatā: sự cộng hành với hỷ (nandi) tham (rāga).

    "Tatrābhinandinī": sự thỏa thích đặc biệt trong cõi này cõi kia mà mình tái sanh.

    Từ tham trong đoạn trên ám chỉ ba ái: dục ái, hữu ái, phi hữu ái, có giải rộng trong Visuddhimagga đoạn nói về Thập Nhị Nhân Duyên. Cả ba ái ấy đều là nhân sanh khổ giống nhau, nên gọi là Tập Đế.

    * Thuyết về Diệt Khổ (Dukkhanirodhaniddesa)

    Trong Diệt Khổ này, vì sao lúc đầu nói diệt khổ, sau lại nói diệt ái dục? Bởi khổ chỉ diệt khi ái dục là nguyên nhân của khổ diệt, không phải diệt do nhân nào khác. Chứng cứ là có kệ ngôn rằng:

    "Dù cây đã bị đốn
    Gốc còn, vẫn mọc lại
    Ái tùy miên chưa hết
    Thì khổ vẫn còn sanh"

    Và Phật ngôn: "Khi dạy pháp diệt khổ, Như Lai thuyết diệt nhân, không nói về diệt quả". Vì khi nhân sanh khổ diệt thì khổ không còn sanh.

    Diệt ái hay ly ái (virāga) là công tác của đạo lộ đưa đến giải thoát. Diệt là đoạn tận không còn dư sót tùy miên nào, cũng có nghĩa là từ bỏ. Tất cả những ý nghĩa ấy đều ám chỉ Niết-bàn (Nibbāna).

    "Niết-bàn" có sự vắng lặng là tánh chất, sự không lay chuyển và làm cho bậc Thánh hoan hỷ là nhiệm vụ, vô tướng là tướng trạng.

    * Thuyết về Đạo (Magga)

    Trong lời Thuyết Thị về Đạo (Magganiddesa) đề cập đến tám pháp (Bát Thánh Đạo) để thấy sự khác biệt của các pháp ấy trong sát-na Đạo Tâm duy nhất như sau:

    Nói vắn tắt là:

    1- Lúc hành giả thấu suốt bốn lẽ thật (Tứ Thánh Đế) thì tuệ nhãn tức trí tuệ có đối tượng là Niết-bàn sẽ diệt vô minh ngủ ngầm nơi tâm, cho nên gọi là thấy đúng hay Chánh Kiến. Có sự thấy đúng là tánh chất, sự phơi bày các giới là nhiệm vụ, sự hủy diệt tăm tối (vô minh, tà kiến) là tướng trạng.

    2- Sự hướng tâm đến Niết-bàn của người có chánh kiến khiến dứt trừ suy nghĩ quấy (tà tư duy) một cách dứt khoát, hợp với chánh kiến… gọi là suy nghĩ đúng hay Chánh Tư Duy. Có sự hướng tâm đúng vào đối tượng (Niết-bàn) là tánh chất, sự áp sát tâm (định) vào đối tượng Niết-bàn là nhiệm vụ, sự chấm dứt suy nghĩ quấy (tà tư duy) là tướng trạng.

    3- Sự từ bỏ nói quấy là dứt trừ khẩu trược hạnh, hợp với chánh tư duy của người thấy đúng, nghĩ đúng, gọi là sự nói đúng hay Chánh Ngữ. Có sự ấn định chân chánh bao gồm trong lời nói là tánh chất, sự chừa cãi, tự chế (trong lời nói) là nhiệm vụ, sự dứt bỏ lời nói quấy (tà ngữ) là tướng trạng.

    4- Sau khi tự chế ngữ nghiệp, sự từ bỏ sát sanh, trộm cắp... là dứt sạch hành động quấy, hợp với chánh kiến… gọi là hành động đúng hay Chánh Nghiệp. Có sự thi hành việc đáng làm là tánh chất, sự tự chế trong hành động là nhiệm vụ, sự dứt bỏ hành động quấy (tà nghiệp) là tướng trạng.

    5- Sau khi có chánh ngữ, chánh nghiệp, sự từ bỏ nuôi mạng quấy là dứt trừ sự sống lừa đảo kẻ khác, hợp với chánh kiến… gọi là sự nuôi mạng đúng hay Chánh Mạng. Có sự làm cho trong sạch là tánh chất, sự hành nghề sanh sống trong đường lối nuôi mạng đúng là nhiệm vụ, sự dứt bỏ điều nuôi mạng quấy (tà mạng) là tướng trạng.

    6- Sự khởi tinh tấn là dứt khoát diệt trừ lười biếng của người đã an trú trong giới, tức nói đúng, làm đúng, nuôi mạng đúng, là ý chí hay nghị lực hợp với chánh kiến… gọi là sự tinh tấn đúng hay Chánh Tinh Tấn. Có sự nỗ lực là tánh chất, sự làm cho thiện sanh, bất thiện không sanh... là nhiệm vụ, sự dứt bỏ nỗ lực quấy (tà tinh tấn) là tướng trạng.

    7- Sự không lẫn lộn, không bỏ quên và dứt trừ tà niệm của người tinh tấn đúng, hợp với chánh kiến… gọi là sự ức niệm đúng hay Chánh Niệm. Có tâm an chú là tánh chất, sự không quên lẫn là nhiệm vụ, sự dứt bỏ niệm quấy (tà niệm) là tướng trạng.

    8- Khi tâm có cảnh giới duy nhất (nhất tâm) là dứt trừ sự chú tâm quấy (tà định), của người ức niệm đúng một cách cao quý, hợp với chánh kiến… gọi là sự trú tâm đúng hay Chánh Định. Có sự không phóng túng, tán tâm là tánh chất, sự an trú là nhiệm vụ, dứt sự tập trú quấy (tà định) là tướng trạng.

    (9)- Bằng nhiệm vụ của tuệ

    Nhiệm vụ (kicca) là trách nhiệm, công tác, "Tuệ" là trí biết, ám chỉ nhiệm vụ của trí biết trong Bốn Sự Thật. Nhiệm vụ của trí biết thế nào? Trí biết lẽ thật có hai: một là trí biết theo khái niệm (chế định), hai là trí biết thấu suốt (thực tánh). Trong hai cách này trí biết theo khái niệm thuộc thế gian, nghĩa là chỉ biết trong Đạo và Diệt do nghe từ người khác... Trí biết thấu suốt thuộc về xuất thế gian có Niết-bàn là cảnh giới, thâm nhập bốn lẽ thật một cách rộng rãi tròn đủ, đúng theo ý nghĩa trong Phật ngôn: "Khi đã thấu suốt một lẽ thật thì cũng thấu suốt cả bốn lẽ thật". Trách nhiệm của sự biết thấu suốt đã được thuyết trong Tri Kiến Thanh Tịnh (ñāṇadassanavisuddhi).

    Ở đây chỉ thuyết trách nhiệm của sự biết trong thế gian theo khái niệm, nghĩa là: Trí biết khổ, có trách nhiệm ngăn ngừa thân kiến (sakkāyadiṭṭhi). Trí biết nhân sanh khổ (tập), ngăn ngừa đoạn kiếnTrí biết diệt khổ, ngừa thường kiếnTri biết con đường diệt khổ ngăn ngừa tà kiến cho rằng không có tội phước, nhân quả, nghiệp báo.

    Một lẽ nữa, trí biết khổ ngừa các thuyết tà kiến trong quả, như chủ trương ngũ uẩn là thường còn, an lạc, xinh đẹp, là ta.

    Trí biết nhân sanh khổ ngừa các thuyết tà kiến trong nhân, như cho rằng thế gian có được do đấng sáng tạo (isavara), do thời tiết...

    Trí biết diệt khổ ngừa tà thuyết cho rằng thoát khổ trong thế gian cao tột là Phạm Thiên vô sắc.

    Trí biết con đường diệt khổ ngừa đi theo con đường quấy tức là con đường dục lạc (kāmasukhallikanuyoga) và con đường khổ hạnh (attakilamathānuyoga).

    Bởi cớ ấy, Đức Thế Tôn thuyết kệ ngôn:

    "Loke lokappabhave,
    lokatthagame sive ca tadupāye;
    Sammuyhati tāva naro,
    na vijānāti yāva saccānī."

    Dịch rằng:

    Người không thực biết khổ,
    nhân sanh cõi thế gian,
    pháp Diệt và con đường,
    không thể thấy Sự Thật.

    (10) Bằng phân theo nội dung: tức là phân chia các pháp thành từng phần:

    Tất cả các pháp trừ ái dục và pháp vô lậu (Āsava), đều khép vào trong phần Khổ Đế.

    Ba mươi sáu ái dục (Vicarita), tức ba ái trong mười hai nội ngoại xứ, khép vào trong phần Tập Đế.

    Diệt Đế không có pháp khép vào được.

    Trong Đạo Đế:

    1. Khép tuệ thần túc, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi vào chánh kiến.

    2. Khép cả ba tư duy: ly dục (xuất gia), vô sân, vô hại, vào chánh tư duy.

    3. Khép bốn khẩu thanh hạnh vào chánh ngữ.

    4. Khép ba thân thanh hạnh vào chánh nghiệp.

    5. Khép sự thiểu dục, sự tri túc, tín căn, tín lực, dục thần túc vào chánh mạng.

    [Sự khép tín căn, tín lực, dục thần túc vào chánh mạng bởi sự nói đúng, làm đúng, nuôi mạng đúng kể là Thánh hỷ giới (Ariyakantasīla), phải giữ bằng bàn tay đức tin (tín căn, tín lực) và phải có sự mong muốn bảo trì (dục thần túc) mới có thể thành tựu].

    6. Khép bốn pháp tinh cần: tấn thần túc, tấn căn, tấn lực, tấn giác chi vào chánh tinh tấn.

    7. Khép Tứ Niệm Xứ, niệm căn, niệm lực, niệm giác chi vào chánh niệm..

    8. Khép ba cách định nhứt là định có tầm, tứ, lạc, nhất tâm, định căn, định lực và hỷ, khinh an, định, xả giác chi vào chánh định.

    Trong Mahāṭīkā nói rằng: "Tâm định nói đến tâm thần túc".

    (11) Bằng ví dụ (upamā) tức là so sánh bốn lẽ thật bằng bảy cách là:

    1- Khổ Đế ví như gánh nặng. Tập Đế ví như sự mang gánh nặng. Diệt Đế ví như sự để gánh nặng xuống. Đạo Đế ví như phương pháp để gánh nặng xuống.

    2- Khổ Đế ví như bệnh. Tập Đế ví như nguyên nhân của bệnh. Diệt Đế ví như sự hết bệnh. Đạo Đế ví như thuốc trị bệnh.

    3- Khổ Đế ví như nạn đói. Tập Đế ví như đại hạn. Diệt Đế ví như no đủ. Đạo Đế ví như mưa tốt.

    4- Nên hiểu sự ví dụ bốn lẽ thật như: Người có oan trái; Nhân oan trái; Diệt oan trái; Phương pháp diệt oan trái.

    5- Như trái cây có độc; Rễ cây có độc; Sự cắt rễ cây có độc; Phương pháp cắt rễ cây có độc;

    6- Như sợ hãi; Nhân sợ hãi; Hết sợ hãi; Phương pháp làm cho hết sợ hãi.

    7- Như bờ sông bên này; Sông lớn; Bờ bên kia; Phương pháp đến bờ bên kia.

    (12) Bằng nhóm bốn nghĩa là chia Tứ Diệu Đế ra thành từng nhóm bốn là: Khổ nhưng không phải Diệu Đế, Diệu Đế nhưng không phải khổ, vừa khổ vừa Diệu Đế, không phải khổ cũng không phải Diệu Đế. Tập, Diệt, Đạo cũng y như vậy.

    Mahāṭīka giải thích như sau:

    * Dành cho Khổ Đế:

    1. Khổ nhưng không phải Diệu Đế: nói đến pháp khổ hợp với Đạo và quả do khổ hạnh là khổ vì đó là hành khổ (saṅkhāradukkha) do nhân vô thường, bởi có câu Pāḷi trong tập bộ phần ngũ uẩn nói rằng: "Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ cái ấy là vô ngã", nhưng loại khổ này không khép vào Khổ Diệu Đế.

    2. Diệu Đế nhưng không phải khổ: nói đến Diệt (Niết-bàn) là Diệu Đế nhưng không phải khổ. Tập và Đạo Diệu Đế cũng đáng là khổ do nhân vô thường, nhưng không phải là khổ thật sự, bởi loại khổ nầy cần được thấy biết ý nghĩa nên mới có đời sống phạm hạnh trong Phật Giáo.

    3. Vừa là khổ vừa là Diệu Đế: nói đến cả năm điều chấp thủ ngũ uẩn, trừ ái dục ra, đều vừa là khổ vừa là Khổ Diệu Đế. Mahāṭīka nói rằng: khi nói đến chấp thủ ngũ uẩn thì nên nói đến ái dục nữa, vì sợ hiểu như thế nên nói rằng "trừ ái dục ra".

    4. Không phải khổ cũng không phải Diệu Đế: nói đến pháp hợp với Đạo và quả của khổ hạnh là khổ nhưng không phải Khổ Diệu Đế, bởi loại khổ này cần được liễu tri mà có đời sống phạm hạnh trong Phật giáo.

    Trong ba Diệu Đế còn lại (Tập, Diệt, Đạo) cũng chia và giải thích tương đồng với Khổ Diệu Đế.

    * Dành cho Tập Đế:

    1. Tập nhưng không phải Diệu Đế: nói đến các pháp có phiền não như thường, lạc, ngã, tịnh... là nhân cho sanh quả nhưng không khép vào Tập Đế.

    2. Diệu Đế nhưng không phải Tập: nói đến Diệt, Khổ và Đạo Diệu Đế có quan hệ với Tập Diệu Đế bởi là nơi khởi duyên của mỗi điều nhưng không phải Tập.

    3. Vừa Tập vừa là Diệu Đế: nói đến ba ái là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

    4. Không phải Tập cũng không phải Diệu Đế: nói đến pháp hợp với Đạo và khổ hạnh, do loại tập này cần được tận diệt mà có đời sống phạm hạnh trong Phật giáo.

    * Dành cho Diệt Đế:

    1. Diệt nhưng không phải Diệu Đế: nói đến hành diệt, sự diệt định (nirodha samāpatti) tức là sự nhập diệt thọ tưởng định.

    2. Diệu Đế nhưng không phải Diệt: nói đến Tập, Khổ và Đạo Đế có quan hệ với Diệt bởi có sự diệt từ sát-na nhưng không phải Diệt Diệu Đế,

    3. Vừa Diệt vừa là Diệu Đế: nói đến tánh vô vi nghĩa là tánh rỗng không, không tạo tác, ám chỉ Niết-bàn Giới (nibbānadhātu).

    4. Không phải Diệt cũng không phải Diệu Đế: nói đến pháp hợp với Đạo và quả khổ hạnh, do loại diệt này cần được thực chứng mà có đời sống phạm hạnh trong Phật giáo.

    * Dành cho Đạo:

    1. Đạo nhưng không phải Diệu Đế: nói đến con đường ngoài Bát Chánh Đạo.

    2. Diệu Đế nhưng không phải Đạo: nói đến Diệt, Khổ và Tập Diệu Đế có liên hệ với Đạo Diệu Đế bởi là con đường đi đến cõi nhưng không phải là Đạo Diệu Đế.

    3. Vừa Đạo vừa Diệu Đế: nói đến con đường đi đến sự diệt khổ hợp với tám chi tức là Bát Chánh Đạo.

    4. Không phải Đạo cũng không phải Diệu Đế: nói đến pháp hợp Đạo và quả khổ hạnh, do loại đạo này cần được thực hành mà có đời sống phạm hạnh trong Phật giáo.

    Dứt Mahāṭīka

    (13) Bằng tánh không, nghĩa là bằng sự trống rỗng, điều này ngài chỉ dạy như sau : "Khi nói theo chân nghĩa đế (paramattha sacca) thì bậc trí tuệ nên hiểu rằng tất cả sự thật là rỗng không, nghĩa là không có người thọ khổ, người làm khổ, người diệt khổ, người đi con đường diệt khổ" đúng như kệ ngôn rằng:

    "Dukkhameva hi na koci dukkhito:
    kārako na, kiriyāva vijjati.
    atthi nibbuti, na nibbuto pumā;
    maggamatthi, gamako na vijjatī."

    Dịch nghĩa:

    " Có khổ nhưng không có người thọ khổ,
    Có làm nhưng không có người làm,
    Có diệt nhưng không có người diệt,
    Có con đường nhưng không có người đi."

    Mahāṭīka giải thích rằng:

    - "Có khổ nhưng không có người thọ khổ" là khi nói theo chân nghĩa đế thì không có một chúng sanh, người, mình, kẻ khác nào thọ khổ cả, chỉ là khổ tiến hành theo nhân duyên. Còn nói theo tục đế thì người đời nói với nhau rằng: "Người ấy, người này thọ khổ" .

    - "Có làm nhưng không có người làm" là ái dục làm cho khổ phát sanh hiện có nhưng không có chúng sanh, người… là kẻ làm, chỉ là khi ái dục tiến hành theo nhân duyên, người đời thường nói với nhau rằng: "Người ấy, người này làm cho khổ phát sanh."

    - "Có diệt nhưng không có người diệt" tức Niết-bàn là nơi diệt phiền não và sự khổ, nhưng không có chúng sanh, người, mình, kẻ khác là người diệt, nghĩa là không thể nói rằng: "Người ấy, người này diệt", bởi cái diệt ấy không phải người, chúng sanh mà chỉ có riêng ái dục diệt mà thôi.

    - "Có con đường nhưng không có người đi"ám chỉ rằng con đường đưa đến diệt khổ thì có, nhưng không có chúng sanh, người, mình, kẻ khác là người đi. Thực ra chỉ riêng danh sắc đang hành mà thôi, nhưng khi biểu hiện ra nơi thân khẩu thì thế gian nói với nhau rằng: "Người ấy, người này thực hành". Đó là ý mình thêm vào.

    Lại nữa ngài gọi lẽ thật (sacca) là rỗng không ấy bằng sự giải thích như sau đây:

    1. Lẽ thật (sacca) thứ nhất (khổ) và thứ hai (tập) là rỗng không khỏi ý niệm thường, lạc, ngã, tịnh.

    Lẽ thật thứ ba (diệt) là duy chỉ rỗng không khỏi cái gọi là ngã.

    Lẽ thật thứ tư (đạo) là rỗng không khỏi ý niệm thường, lạc, ngã.

    2. Cả ba lẽ thật rỗng không khỏi diệt, phần diệt cũng rỗng không khỏi cả ba lẽ thật kia.

    3. Nhân rỗng không khỏi quả, bởi sự không có Khổ ở trong Tập và bởi sự không có Diệt ở trong Đạo, tức là nhân không gồm với quả.

    4. Quả cũng rỗng không khỏi nhân bởi Khổ và Tập, Diệt và Đạo mỗi cái cũng không gồm chung một chỗ, tức là quả không gồm chung với nhân, hợp với kệ ngôn rằng:

    "Tayamidha nirodhasuññaṃ,
    tayena tenāpi nibbuti suññā;
    Suñño phalena hetu,
    phalampi taṃhetunā suññaṃ
    "

    Diệt rỗng không khỏi ba (khổ, tập,đạo)
    Nhân rỗng không khỏi quả
    Quả rỗng không khỏi nhân
    Đó chính là tánh không.

    Có giải thích theo Mahāṭīka rằng:

    1. "Đế thứ ba rỗng không khỏi ngã" tức là Diệt khép về vô ngã. "Đế thứ tư rỗng không khỏi thường, lạc, ngã, tịnh" tức là khi giảng giải thì Đạo cũng là vô thường, khổ não, vô ngã. (Đế - Sacca: lẽ thật, chân lý).

    2. "Cả ba đế rỗng không khỏi Diệt, Diệt cũng rỗng không khỏi ba đế" ám chỉ rằng cả ba đế ấy với diệt không liên quan với nhau. Liên quan đặc biệt chỉ ba đế ấy là Khổ, Tập, Đạo mỗi pháp cũng nương với nhau.

    3. "Nhân rỗng không khỏi quả", nghĩa là nhân không hỗn hợp ở trong quả.

    4. "Bởi không có Khổ ở trong Tập", nghĩa là bởi không có sự sinh nữa. Tập ở trong ái dục là nhân sanh tử luân hồi, còn Khổ là quả, dù hợp với Tập cũng không thể khép vào Tập.

    5. "Bởi không có Diệt ở trong Đạo" cũng hàm ý giống nhau.

    6. "Về quả cũng rỗng không khỏi nhân", nghĩa là quả không dính với nhân, gồm ý nghĩa trong điều bađiều bốn là nhân và quả khác thành từng phần riêng biệt, không hàm ý rằng: Khi có nhân rồi sẽ khiếm khuyết khỏi quả hoặc quả không sanh được từ nhân. Về những câu ngoài các điều đã nói ấy có ý nghĩa rõ rệt rồi.

    (14) Bằng loại, tức là trong Tứ Diệu Đế khi mở rộng theo thứ tự để bồi lên thành từng lớp, từng tầng như sau:

    Khổ: Khổ một, khổ hai, khổ ba, khổ bốn, khổ năm.

    Khổ 1, nói đến tất cả khổ cùng một loại khổ sanh tử v.v.

    Khổ 2, nói đến hai loại khổ của danh và sắc.

    Khổ 3, nói đến khổ trong ba cõi sanh y (dục giới, sắc giới, vô sắc giới).

    Khổ 4, nói đến khổ liên hệ với bốn loại vật thực.

    Khổ 5, nói về khổ do chấp thủ năm uẩn, ám chỉ khổ sanh do ngũ uẩn mà người ta chấp là ta.

    Tập: Tập có từ một đến sáu loại là:

    Tập 1, nói đến tất cả tập cùng một loại nhân sanh khổ.

    Tập 2, nói đến hai loại ái dục hợp với tà kiến và không hợp với tà kiến, ám chỉ tâm tham hợp tà và ly tà.

    Tập 3, nói đến ba ái: dục ái, hữu ái và phi hữu ái,

    Tập 4, nói đến ái dục phải dứt bằng bốn Đạo.

    Tập 5, nói đến ái dục có ở trong năm trần cảnh, nhất là sắc cảnh v.v..

    Tập 6, nói đến nhóm sáu ái dục nhứt là sắc dục v.v..

    Diệt: Diệt gồm có từ một đến sáu loại là:

    Diệt 1, nói đến một pháp vô vi, tức là không có tạo tác.

    Diệt 2, nói đến hai pháp Niết-bàn vô vi là hữu dư (sa-upādisesanibbāna) và vô dư (anu-pādisesanibbāna).

    Diệt 3, nói đến vắng bặt tam giới, tức là diệt khỏi tam giới.

    Diệt 4, nói đến diệt phải thấu triệt do bốn Đạo.

    Diệt 5, nói đến sự vắng bặt ngũ uẩn.

    Diệt 6, nói đến sự diệt lục dục.

    Đạo: Đạo có từ một đến bốn là:

    Đạo 1, nói đến một pháp nên khởi tu.

    Đạo 2, nói đến hai pháp chỉ tịnh và quán minh hoặc thân chứng và kiến chí.

    Đạo 3, nói đến Đạo khi chia thành ba uẩn (khandha), như ý nghĩa mà nữ tôn giả Dhammadinnā thuyết cho cận sự nam Vísakha trong Kinh Trung Bộ I, đoạn Mūlāpannāsaka rằng: "Này Visakha, Bát Thánh Đạo không gồm trong ba uẩn, nhưng ba uẩn gồm cả Bát Thánh Đạo. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng nào cũng đều gồm trong giới uẩn (sīlakhandha); chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định nào cũng đều gồm trong định uẩn (samādhikkhandha); chánh kiến, chánh tư duy nào cũng gồm trong tuệ uẩn (paññākkhandha)".

    Ba pháp chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng đều thuộc giới nên được khép vào loại giới uẩn.

    Ba pháp chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định khép chung trong định uẩn, bởi định không tự đạt đến an chỉ (appanā) vững vàng trong đề mục được. Đến khi có tinh tấn, ức niệm giúp đỡ mới có thể thành tựu an chỉ được. Ví như ba người muốn bẻ hoa, khi họ cùng đứng trên mặt đất thì đều với tay bẻ hoa không tới, người thứ nhất phải cúi xuống cho người thứ hai đứng trên lưng, người thứ ba đứng phía trước cho người đứng trên lưng vịn để khỏi run sợ, rồi với tay bẻ hoa như thế nào, thì ở đây đề mục ví như hoa, sự tinh tấn như người thứ nhất, sự ức niệm như người thứ hai, sự định tâm như người thứ ba. Khi định có sự hỗ trợ như thế mới đến an chỉ (appanā) được, bởi vậy cho nên ba pháp đồng khép vào định uẩn.

    Chánh kiến, chánh tư duy cũng vậy, tuệ kiến không thể tự khẳng định đối tượng là vô thường, khổ não, vô ngã. Đến khi có tư duy trợ giúp, liên tục tầm tư trên đối tượng thì mới có thể nhận định được. Như người muốn xem đồng bạc cho biết chắc chỉ bằng mắt thôi thì không được, phải nhờ tay lật bên này bên kia để xem mới có thể biết chắc. Bởi cớ ấy cho nên trong tuệ uẩn chánh kiến, chánh tư duy đồng loại với nhau. Cho nên Đạo được gồm trong ba uẩn, đó là ý nghĩa chia chẻ thành ba uẩn như trong đoạn trước.

    Đạo 4, nói đến bốn đạo:Tu-đà-hoàn đạo, Tư-đà-hàm đạo, A-na-hàm đạo, A-la-hán đạo.

    Một lẽ nữa, Tứ Thánh Đế (sacca) gọi là một vì chỉ cùng một loại: cùng là chân lý không lầm lẫn hư dối, hoặc cùng là pháp cần được giác ngộ cho cao quí lên.

    Gọi là hai, bởi Tứ Thánh Đế chia thành thế gian (khổ, tập) và xuất thế gian (diệt, đạo), hoặc hữu vi (saṅkhata) và vô vi (asaṅkhata).

    Gọi là ba, tức Tập Đế nên được dứt bỏ, Diệt và Đạo không nên dứt bỏ vì cần tu tập và thực chứng, Khổ vừa không phải dứt bỏ vì cần thấy biết, vừa không phải không dứt bỏ vì khi tập diệt thì khổ tự diệt.

    Gọi là bốn, do Khổ nên nhận biết, Tập nên dứt bỏ, Diệt nên chứng ngộ, Đạo nên khởi tu.

    Trong điều được Mahāṭikā giải thích thêm một đôi điểm:

    1. Nói rằng "Đạo 2, nói đến hai pháp chỉ tịnh và quán minh hoặc thân chứng và kiến chí" nhằm vào ý nghĩa quán minh gồm chánh kiến, chánh tư duy, ngoài ra khép về chỉ tịnh.

    2. Nói rằng "Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng nào cũng đều gồm trong giới uẩn" tức nói cả ba cùng là giới giống nhau.

    3. Bởi trợ duyên cho định, nên khép Tứ Niệm Xứ là ấn chứng của định, tứ chánh cần này là tùy tùng của định.

    4. Nói rằng "Bốn chân lý cùng là pháp cần được giác ngộ cho cao quí lên", điều này chấp trì theo Phật ngôn trong kinh Tập Bộ phần Salāyatana và trong Vibhaṅga rằng: "Chư tỳ-khưu, tất cả đế nên giác ngộ cho cao quý". Sanh (jāti) và duy tác (kiriyā) không được giải thích, hãy tự so sánh.

    5. Trong chú giải Sammohavinodanī có nói rằng Khổ là pháp nên dứt bỏ cũng không phải (phụ thêm thành ba).

    (15) Bằng tính chất giống nhau (sabhāga) và khác nhau (visabhāga), có năm cách:

    1. Tất cả bốn lẽ thật (sacca) đều có tánh giống nhau là không hư dối, là rỗng không khởi tự ngã, là khó biết thông suốt. Điều này y cứ Phật ngôn rằng: "Này Ānanda, sự bắn mũi tên đi xuyên qua lỗ khóa cửa ở một chỗ xa nhiều lần và sự lấy một sợi lông thú chẻ một sợi lông khác thành nhiều phần việc nào khó hơn?". " Bạch Đức Thế Tôn, việc chẻ sợi lông khó hơn nhiều". "Này Ānanda sự tuệ tri Tứ Diệu Đế một cách tỏ tường như thật còn khó hơn so với sự lấy sợi lông chẻ sợi lông khác thành nhiều phần" Phật ngôn nầy có rõ rệt trong Samyuttanikāya phần Mahāvāravagga.

    Khi nói phương diện tướng Bốn Diệu Đế thì khác nhau.

    2. Hai lẽ thật Khổ và Tập giống nhau bởi sâu xa, khó lường và bởi thuộc thế gian, hữu lậu (āsava), nhưng khác nhau bởi Khổ là quả, Tập là nhân, Khổ cần biết chu đáo, Tập cần dứt bỏ hoàn toàn.

    3. Hai lẽ thật Diệt và Đạo giống nhau bởi sâu xa khó lường và bởi thuộc xuất thế, vô lậu (anāsava), nhưng khác nhau bởi Diệt là mục tiêu (visaya) còn Đạo là hướng đến mục tiêu (vīsaya) và bởi Diệt cần tỏ ngộ còn Đạo cần tiến tu.

    4. Hai lẽ thật Khổ và Diệt giống nhau bởi đều là quả. Khác nhau bởi Khổ là hữu vi còn Diệt là vô vi.

    Hai lẽ thật Tập và Đạo giống nhau bởi cùng là nhân. Khác nhau bởi Tập là bất thiện còn Đạo là thiện.

    5. Hai lẽ thật Khổ và Đạo giống nhau bởi cùng là hữu vi. Khác nhau bởi Khổ thuộc thế gian còn Đạo xuất thế gian.

    Hai lẽ thật Tập và Diệt giống nhau bởi cùng không phải hữu học, không phải vô học (nevasekkhānāsekkhā). Khác nhau do Tập có cảnh giới và Diệt không có cảnh giới.

    Vả lại ngài Buddhaghosa đã nói trong đoạn chót này rằng bậc trí thức là người sáng suốt nên hiểu cả Tứ Diệu Đế bằng những điều này, theo thứ tự từ đầu đến cuối. Ngài Buddhaghosa đã trình bày điều khoản thứ mười sáu có tên là Indriya sacca niddesa, đoạn nói về sự huân tu trí tuệ (bhāvanā vidhi) trong bộ Thanh Tịnh Đạo đặng cho phát sanh hoan hỷ vui mừng đến các thiện nhơn như vậy.

    Dứt kinh Tứ Niệm Xứ

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.