VI DIỆU PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
Soạn-giả Tỳ-khưu Hộ-Pháp Dhammarakkhita Bhikkhu (Aggamahāpaṇḍita)
AKUSALACITTA: BẤT-THIỆN-TÂM
Bất-thiện-tâm có 12 tâm chia ra 3 loại tâm:
1- Lobhamūlacitta là tâm có nhân tham (lobhahetu) gọi là tham-tâm, có 8 tâm.
2- Dosamūlacitta là tâm có nhân sân (dosa- hetu) gọi là sân-tâm, có 2 tâm.
3- Mohamūlacitta là tâm có nhân si (moha- hetu) gọi là si-tâm, có 2 tâm.
LOBHAMŪLACITTA
Lobhamūlacitta là bất-thiện-tâm có nhân tham (lobhahetu), hoặc bất-thiện-tâm có tham tâm-sở (lobhacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm ấy, nên gọi là tham-tâm (lobhacitta).
Tham-tâm (lobhacitta) này có tham tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh với tham-tâm.
Tham tâm-sở (lobhacetasika) có 4 tính chất riêng biệt.
1- Ārammaṇagahaṇalakkhaṇo có trạng-thái chấp-thủ trong đối-tượng.
2- Abhisaṅgaraso có phận sự giữ chặt trong đối-tượng.
3- Aparicāgapaccuṭṭhāno không buông bỏ đối tượng là quả hiện hữu.
4- Saṅyojaniya dhammesu assādadassana padaṭṭhāno các pháp ràng buộc đáng hài lòng là nhân-duyên gần phát sinh tham tâm-sở.
Lobhacitta: tham-tâm phát sinh do nương nhờ 3 pháp là vedanā: thọ trong đối-tượng, diṭṭhi: tà-kiến, saṅkhāra: tác-động, nên tham-tâm phân chia ra làm 8 tâm như sau:
Lobhacitta có 8 tâm:
1- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
2- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động.
3- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
4- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
5- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
6- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động.
7- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
8- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
GIẢI NGHĨA TỪ PĀḶI TRONG 8 THAM-TÂM
* Somanassasahagata: somanassa+sahagata
- Somanassa: thọ hỷ: tham-tâm tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng nhiều, nên phát sinh thọ hỷ.
- Sahagata: đồng sinh với
- Somanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ hỷ.
* Upekkhāsahagataṃ: upekkhā+sahagata
- Upekkhā: thọ xả: tham-tâm tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu, hài lòng ít, nên phát sinh thọ xả.
- Sahagata: đồng sinh với
- Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả.
*diṭṭhigatasampayutta:diṭṭhigata+sampayutta
- diṭṭhigata: theo tà-kiến thấy sai, chấp lầm
- sampayutta: hợp với
- diṭṭhigatasampayuttaṃ: hợp với tà-kiến.
*diṭṭhigatavippayutta: diṭṭhigata+vippayutta:
- diṭṭhigata: theo tà-kiến
- vippayutta: không hợp với
- diṭṭhigatavippayuttaṃ: không hợp với tà-kiến.
* Asaṅkhārikaṃ: a+saṅkhārika
- a = na: không
- saṅkhārika: tác-động
- asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động.
* Sasaṅkhārikaṃ:(sa=saha)+ saṅkhārika
- saha: cùng với
- saṅkhārika: tác-động
- sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Tham-tâm có 8 loại tâm do căn cứ vào 3 pháp: vedanā: thọ, diṭṭhi: tà-kiến, saṅkhāra: tác-động.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo thọ:
- 4 tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
- 4 tham-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo tà-kiến:
- 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
- 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo tác-động:
- 4 tham-tâm không cần tác-động.
- 4 tham-tâm cần tác-động.
NHÂN PHÁT SINH 8 THAM-TÂM
8 tham-tâm phát sinh do 4 nhân:
1- Lobhaparivārakammapaṭisandhikatā: sự tái-sinh của người với đại-quả-tâm có ảnh hưởng đến tham-tâm.
2-Lobha ussannabhavato cavanatā: sự chuyển kiếp (chết) của chúng-sinh từ cõi giới có tham- tâm nhiều.
3- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối- tượng tốt đáng hài lòng.
4- Ussādadassanaṃ: thấy đối-tượng thật đáng hài lòng ham thích.
Nếu hội đủ 4 nhân này thì tham-tâm phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM ĐỒNG SINH VỚI THỌ HỶ
Tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ do 4 nhân:
1- Somanassapaṭisandhikatā: sự tái-sinh của người với đại quả-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
2- Agambhīrapakatikā: không có tâm suy xét sâu sắc trong đối-tượng.
3- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối- tượng tốt đáng hài lòng.
4- Byasanamutti: không gặp 5 điều thiệt hại:
- Ñātibyasana: sự thiệt hại về thân quyến.
- Bhogabyasana: sự thiệt hại về của cải tài sản.
- Rogabyasana: sự tai hại do bệnh nặng.
- Diṭṭhibyasana: sự tai hại do tà-kiến.
- Sīlabyasana: sự tai hại do phạm giới.
Nếu hội đủ 4 nhân này thì tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM ĐỒNG SINH VỚI THỌ XẢ
Tham-tâm đồng sinh với thọ xả do 5 nhân:
1- Upekkhāpaṭisandhikatā: sự tái-sinh của người với đại quả-tâm đồng sinh với thọ xả.
2- Gambhīrapakatikā: có tâm suy xét sâu sắc trong đối-tượng.
3-Majjhattārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu (bậc trung).
4- Byasanamutti: không gặp 5 điều thiệt hại. 5- Mūgadhātukatā: người có tính si-mê.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm đồng sinh với thọ xả phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM HỢP VỚI TÀ-KIẾN
Tham-tâm hợp với tà-kiến do 5 nhân:
1- Diṭṭhijjhāsayatā: tâm tính hay có tà-kiến.
2- Diṭṭhivippannapuggalasevanatā: thường hay gần gũi thân cận với người có tà-kiến.
3- Saddhammavimukhatā: không thích nghe chánh-pháp.
4- Micchāvitakkabahulatā: hướng tâm nghĩ sai lầm nhiều về tà-kiến.
5- Ayoniso ummajjanaṃ: phát sinh suy nghĩ điều không hợp pháp.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm hợp với tà-kiến phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM KHÔNG HỢP VỚI TÀ-KIẾN
Tham-tâm không hợp với tà-kiến do 5 nhân:
1- Sassata ucchedadiṭṭhi anajjhāsayatā: thường-kiến và đoạn-kiến không có trong tâm tính từ tiền-kiếp.
2- Diṭṭhivippannapuggala asevanatā: không gần gũi thân cận với người có tà-kiến.
3- Saddhammasammukhatā: thích nghe chánh-pháp.
4- Sammāvitakkabahulatā: hướng tâm đúng đắn về chánh-kiến.
5- Ayoniso na ummajjanaṃ: không phát sinh suy nghĩ điều không hợp pháp.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm không hợp với tà-kiến phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM KHÔNG CẦN TÁC ĐỘNG
Tham-tâm không cần tác động phát sinh do 6 nhân:
1- Asaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā:tái sinh của người từ ác-nghiệp không cần tác động.
2- Kalalakāyacittatā: thân và tâm được an-lạc.
3- Sītuṇhādīnaṃ khamanabahulatā: có tính chịu đựng sự nóng, sự lạnh, v.v... trở thành thói quen.
4- Kattabbakammesu diṭṭhānisaṃsatā: đã từng thấy rõ hiệu quả trong công việc nên làm.
5- Kammesu ciṇṇavasitā: có tính chuyên môn trong công việc làm ấy.
6- Utubhojanādisappāyalābho: có được đầy đủ thuận lợi về thời tiết, vật thực, v.v...
Nếu hội đủ 6 nhân này thì tham-tâm không cần tác động phát sinh.
NHÂN PHÁT SINH THAM-TÂM CẦN TÁC ĐỘNG
Tham-tâm cần tác động phát sinh do 6 nhân:
1- Sasaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: sự tái-sinh của người từ ác-nghiệp cần tác động.
2- Akalalakāyacittatā: thân và tâm không được an-lạc.
3- Sītuṇhādīnaṃ akhamanabahulatā: không có tính chịu đựng sự nóng, sự lạnh, v.v...trở thành thói quen.
4-Akattabbakammesu diṭṭhānisaṃsatā: không từng thấy hiệu quả trong công việc nên làm.
5- Kammesu aciṇṇavasitā: không có tính chuyên môn trong công việc làm ấy.
6- Utubhojanādi asappāyalābho: không có được đầy đủ thuận lợi về thời tiết, vật thực, v.v..
Nếu hội đủ 6 nhân này thì tham-tâm cần tác động phát sinh.
GIẢNG GIẢI VỀ 8 THAM-TÂM
Do nguyên nhân nào gọi là tham-tâm?
Bất-thiện-tâm nào có nhân tham (lobhahetu) hoặc có tham tâm-sở (lobhacetasika) nhiều năng lực dắt dẫn các tâm-sở khác đồng sinh với tham-tâm ấy biết đối-tượng tốt đáng hài lòng, gọi tâm ấy là tham-tâm (lobhacitta).
Tham-tâm có nhân tham (lobhahetu) và chắc chắn cũng có nhân si (mohahetu) hoặc có tham tâm-sở (lobhacetasika) và chắc chắn cũng có si tâm-sở (mohacetasika) che phủ thật-tánh của đối-tượng, nên tham-tâm mù quáng muốn được đối-tượng tốt đáng hài lòng ấy, để mong đem lại sự an-lạc cho mình.
Lobhacitta (tham-tâm) phát sinh do nương nhờ 3 pháp căn bản:
1- Vedanā (thọ tâm-sở) đó là somanassa- sahagata (đồng sinh với thọ hỷ) và upekkhā- sahagata (đồng sinh với thọ xả).
2- Diṭṭhi (tà-kiến tâm-sở) đó là diṭṭhigata- sampayutta (hợp với tà-kiến) và diṭṭhigatavippa- yutta (không hợp với tà-kiến).
3- Saṅkhārika (tác-động) đó là asaṅkhārika không cần tác-động và sasaṅkhārika cần tác- động. Cho nên tham-tâm chia ra làm 8 loại tâm.
* Somanassasahagata: đồng sinh với thọ hỷ: Khi 4 tham-tâm biết đối-tượng tốt thật đáng hài lòng nhiều, nên đồng sinh với thọ hỷ.
* Upekkhāsahagata: đồng sinh với thọ xả:
Khi 4 tham-tâm biết đối-tượng không tốt, không xấu, hài lòng vừa phải, không đến nỗi hoan-hỷ, nên chỉ đồng sinh với thọ xả mà thôi.
* Diṭṭhigatasampayutta: hợp với tà-kiến:
Khi 4 tham-tâm hợp với tà-kiến nghĩa là tà- kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng và chủ thể (tâm biết đối-tượng) cho là ta (ngã), tà- kiến này gọi là micchādiṭṭhi.
Tà-kiến thấy sai, chấp lầm như thế nào?
Micchādiṭṭhi: Tà-kiến
Tà-kiến có nhiều loại:
* Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhi-kathā có 20 loại tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn.
* Trong kinh Brahmajālasutta(1) có 62 loại tà-kiến và kinh Sāmaññaphalasutta có 3 loại tà- kiến cố-định.
Tà-kiến là gì?
Định nghĩa:
Micchā passatī’ti micchādiṭṭhi.
Trạng-thái thấy sai sự thật gọi là tà-kiến, đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Như vậy, tà-kiến là thấy sai, biết sai sự thật, rồi chấp lầm cho là sự thật.
Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:
1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp thuộc về sắc-pháp.
2 - Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm
3- Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
4- Hành-uẩn chấp-thủ gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
5- Thức-uẩn chấp-thủ gồm có 81 tam-giới-tâm. (Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-uẩn).
Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhi- kathā trình bày tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn có 20 loại.
* Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ cho là ta (ngã).
1- Tà-kiến chấp ngã trong sắc-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Sắc-uẩn là ta.
- Ta có sắc-uẩn.
- Sắc-uẩn trong ta.
- Ta trong sắc-uẩn.
2- Tà-kiến chấp ngã trong thọ-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thọ-uẩn là ta.
- Ta có thọ-uẩn.
- Thọ-uẩn trong ta.
- Ta trong thọ-uẩn.
3- Tà-kiến chấp ngã trong tưởng-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Tưởng-uẩn là ta.
- Ta có tưởng-uẩn.
- Tưởng-uẩn trong ta.
- Ta trong tưởng-uẩn.
4- Tà-kiến chấp ngã trong hành-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Hành-uẩn là ta.
- Ta có hành-uẩn.
- Hành-uẩn trong ta.
- Ta trong hành-uẩn.
5- Tà-kiến chấp ngã trong thức-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thức-uẩn là ta.
- Ta có thức-uẩn.
- Thức-uẩn trong ta.
- Ta trong thức-uẩn.
Đó là 20 loại tà-kiến chấp-ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức- uẩn chấp-thủ đối với tất cả các hàng chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) trong tam-giới.
- Tất cả chúng-sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới.
- Tất cả phạm-thiên có ngũ-uẩn trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc- giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên).
- Tất cả phạm-thiên có nhất-uẩn là sắc-uẩn trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng- thiên.
- Tất cả phạm-thiên có tứ-uẩn là thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ cho là ta này có ảnh hưởng thế nào đối với mọi chúng-sinh?
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Đối với tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm nhân đều có loại sakkāyadiṭṭhi: tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta. Sakkāyadiṭṭhi không có ảnh hưởng, không cản trở nào đối với những người tạo mọi phước-thiện như phước- thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, v.v..., cũng không cản trở đối với các hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định, không cản trở sự chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, cũng không cản trở chứng đắc 5 phép thần- thông thế-gian (lokiya abhiññā).
Cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta không cản trở dục-giới thiện- nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm cho quả tái- sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới; không cản trở sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên; không cản trở vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm- thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn cản trở pháp-hành thiền-tuệ
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ cho là ta, ngã này chỉ có cản trở đối với các hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi, bởi vì đối-tượng thiền-tuệ là ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp- thủ, thức-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh- pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) có thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp rõ ràng đều là pháp-vô-ngã, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh,... nhưng tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, chúng-sinh, v.v... cho nên, tà- kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ chỉ làm cản trở đối với hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi.
* Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ
1- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Sắc-uẩn chấp-thủ đó là thân gồm có 28 sắc-pháp:
- Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nam gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nữ-tính).
- Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nữ gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nam-tính).
Ví dụ: Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, ...Đúng theo sự-thật của chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm mà thôi.
Thân thuộc về sắc-uẩn (sắc-pháp), nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm mà thôi.
- Nếu khi thân đi hoặc sắc đi thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Ta đi vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có sắc đi mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta đi là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã (ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi thuộc về sắc-uẩn đó là sắc- pháp cho là ta đi.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam- nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 danh- uẩn) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Cũng tương tự như vậy,
- Khi thân đứng hoặc sắc đứng, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đứng cho là ta đứng nữa.
- Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc ngồi cho là ta ngồi nữa.
- Khi thân nằm hoặc sắc nằm, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc nằm cho là ta nằm nữa...
2- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở (vedanā- cetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng, có 3 loại thọ:
- Dukkhavedanā: thọ khổ là cảm thọ khổ khó chịu trong đối-tượng xấu.
- Sukhavedanā: thọ lạc là cảm thọ lạc dễ chịu trong đối-tượng tốt.
- Adukkhamasukhavedanā: thọ không khổ không lạc là cảm thọ không khổ không lạc trong đối-tượng không xấu không tốt.
Ba loại thọ này là thọ-uẩn thuộc về danh- pháp.
- Nếu khi cảm thọ khổ (dukkhavedanā) thì tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ cho là ta khổ.
- Nếu khi cảm thọ lạc (sukhavedanā) thì tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ lạc cho là ta an-lạc.
- Nếu khi cảm thọ không khổ không lạc (adukkha-masukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ không khổ không lạc cho là ta không khổ không lạc.
Ta khổ, ta an-lạc,... vốn không có thật, sự thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có thọ-uẩn cảm thọ mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta khổ, ta an-lạc,... là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham- tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ- uẩn chấp-thủ cho là ta khổ, ta an-lạc,...
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ thuộc về danh- pháp cho là ta khổ, ta an-lạc. ...
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam- nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí- tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
3- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở (saññācetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
Tưởng tâm-sở có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối-tượng đó là:
- Rūpasaññā: sắc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng sắc.
- Saddasaññā: thanh tưởng là tưởng nhớ đối- tượng âm-thanh.
- Gandhasaññā: hương tưởng là tưởng nhớ đối-tượng hương.
- Rasasaññā:vị tưởng là tưởng nhớ đối-tượng vị.
- Phoṭṭhabbasaññā: xúc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng xúc.
- Dhammasaññā: pháp tưởng là tưởng nhớ đối-tượng các pháp.
Sáu loại tưởng này là tưởng-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi tưởng nhớ đến đối-tượng sắc thì tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc tưởng cho là ta tưởng sắc.
Ta tưởng sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có tưởng-uẩn mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tưởng là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta tưởng.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tưởng.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam- nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí- tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà- kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
4- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (cetasika) (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Trong 50 tâm-sở có tác-ý tâm- sở (cetanācetasika) dẫn đầu tạo thiện-nghiệp, hoặc tạo ác-nghiệp.
- Nếu khi tạo thiện-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp.
- Nếu khi tạo ác-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo ác-nghiệp.
Ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,...vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có hành-uẩn tạo thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp... là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp, ...
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp, mọi sắc-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,...
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam- nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí- tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà- kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
5- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm chia ra 6 loại thức tâm:
1- Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm.
2- Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm.
3- Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm có 2 tâm.
4- Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm có 2 tâm.
5- Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm có 2 tâm.
6- Manoviññāṇa: ý-thức-tâm có 71 tâm.
Sáu loại tâm này gọi là thức-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi nhãn-thức-tâm có phận sự thấy đối- tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn- thức-tâm cho là ta thấy sắc.
Ta thấy sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có nhãn-thức-tâm thấy sắc mà thôi, nhãn- thức-tâm thuộc về thức-uẩn.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta thấy sắc là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức- tâm thuộc về thức-uẩn cho là ta thấy sắc.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta thấy sắc.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam- nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí- tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi, không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Cũng tương tự như vậy,
- Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhĩ-thức-tâm cho là ta nghe âm- thanh nữa.
- Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tỷ-thức-tâm cho là ta ngửi mùi hương nữa.
- Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm vị, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thiệt-thức-tâm cho là ta nếm vị nữa.
- Nếu khi thân-thức-tâm xúc-giác cứng mềm, ... thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thân-thức-tâm cho là ta xúc-giác cứng mềm,... nữa.
- Nếu khi ý-thức-tâm biết các pháp, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi ý-thức-tâm cho là ta biết các pháp nữa.
* Niyatamicchādiṭṭhi: tà-kiến cố-định là tà- kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.
Tà-kiến cố-định có 3 loại:
1- Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến.
2- Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến.
3- Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến.
1- Vô-quả tà-kiến như thế nào?
Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc đã tạo thiện-nghiệp rồi đều không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái sinh kiếp sau”.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(2) vị đạo-sư ngoại đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng:“không có quả của nghiệp”như sau:
1- Natthi dinnaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện bố-thí không có quả tốt, an-lạc.
2- Natthi yiṭṭhaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước- thiện cúng dường không có quả tốt, an-lạc.
3- Natthi hutaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường, đón rước cũng không có quả tốt, an-lạc.
4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Natthi ayaṃ loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới này nghĩa là không có chúng- sinh tái-sinh đến cõi giới này.
6- Natthi paro loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi giới khác.
7- Natthi mātā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình, không có quả tốt, quả xấu.
8- Natthi pitā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình, không có quả tốt, quả xấu.
9- Natthi sattā opapātikā: tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa-sinh to lớn ngay tức thì, như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa- môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần- thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi giới này, các cõi giới khác.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện- nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là ác- nghiệp, thiện-nghiệp.
2- Vô-nhân tà-kiến như thế nào?
Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định là tà- kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác-nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.
Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện-nghiệp, không do quả của ác- nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(3) vị đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp” như sau:
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh- tịnh. Tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh- tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
- Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác- nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.
3- Vô-hành tà-kiến như thế nào?
Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định là tà- kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng:“Không có hành ác, không có hành thiện”.
Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị đạo-sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:
Tự mình hành ác, sai khiến hành ác đều không có hành ác như:
- Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát- sinh đều không có hành ác sát-sinh.
- Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp, v.v...
- Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố- thí đều không có hành thiện bố-thí.
- Tự mình cúng dường, khuyên dạy người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường, v.v...
Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác- nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố- định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.
Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa- ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.
Tà-kiến phát sinh do nhân nào?
Trong Chi-bộ-kinh, phần 2 chi-pháp, Đức Phật thuyết dạy rằng:
“Dveme bhikkhave, paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro. Ime kho bhikkhave, dve paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya”.(4)
- Này chư tỳ-khưu! Hai nhân duyên phát sinh tà-kiến. Hai nhân duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: lắng nghe tà-pháp từ hạng người có tà-kiến.
2- Ayoniso ca manasikāro: do si mê biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Hai nhân duyên này phát sinh tà-kiến.
Chánh-kiến phát sinh do nhân nào?
“Dveme bhikkhave, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro. Ime kho bhikkhve, dve paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya”.
- Này chư tỳ-khưu! Hai nhân duyên phát sinh chánh-kiến. Hai nhân duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: lắng nghe chánh-pháp từ Đức-Phật, chư Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, các bậc thiện-trí.
2- Yoniso ca manasikāro: do nhờ trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
- Này chư tỳ-khưu! Hai nhân duyên này phát sinh chánh-kiến.
Chánh-kiến có 5 loại:
1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp nghĩa là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: chánh-kiến thiền- tuệ nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là pháp vô-ngã; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới.
3-Magga sammādiṭṭhi: chánh-kiến Thánh-đạo- tuệ nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu- tam-giới.
4- Phala sammādiṭṭhi: chánh-kiến Thánh-quả- tuệ nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu- tam-giới.
5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: chánh-kiến quán-triệt nghĩa là trí-tuệ thiền-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn đã chứng đắc; quán-triệt phiền não đã diệt tận và phiền não chưa diệt được.
* Diṭṭhigatavippayutta không hợp với tà-kiến
* Đối với các hạng phàm-nhân khi 4 tham- tâm không hợp với tà-kiến nghĩa là không có tà- kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm này, nên không thấy sai, không chấp lầm, nhưng không có nghĩa là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến này thấy đúng, biết đúng, mà chỉ là không quan tâm, không liên quan đến tà-kiến thấy sai, chấp lầm mà thôi.
* Nếu có ngã-mạn tâm-sở (mānacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến này thì tự cho ta hơn người, hoặc bằng người, hoặc kém thua người.
Thật ra, chỉ có bậc Thánh Nhập-lưu đã diệt tận được 4 tham-tâm hợp với tà-kiến rồi, nên vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi cả chủ-thể lẫn các đối-tượng nữa.
* Asaṅkhārika không cần tác-động:
Khi 4 tham-tâm phát sinh không cần tác-động có nghĩa là tham-tâm phát sinh do chính tự mình tác-động, không cần nương nhờ đến người khác tác-động.
Cho nên, 4 tham-tâm này có nhiều năng lực.
* Sasaṅkhārika cần tác-động:
Khi 4 tham-tâm phát sinh cần tác-động có nghĩa là tham-tâm phát sinh do nương nhờ đến người khác tác-động, sai khiến, chính tự mình không có khả năng tác-động.
Cho nên, 4 tham-tâm này có ít năng lực. Tác-động có 3 cách:
1- Kāyapayoga: thân-tác-động là tác-động bằng thân như nắm tay, chỉ tay, vẫy tay, gật đầu.
2- V acīpayoga: khẩu-tác-động là tác-động bằng khẩu, dùng lời thuyết phục, nói lời ca tụng, nói lời động viên khuyến khích, v.v...
3- Manopayoga: ý-tác-động là tác-động bằng tâm, tự mình tác-động mình, do suy nghĩ sâu sắc thấy rõ, biết rõ sự lợi ích, nên phát sinh tâm hài lòng trong công việc ấy.
Trường hợp hành-giả thực-hành pháp-hành- thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ luôn luôn cần đến ý-tác-động.
Nếu tự mình tác-động mình thì có đủ 3 cách là kāyapayoga, vacīpayoga và manopayoga.
Nếu có người khác tác-động thì chỉ có 2 cách là kāyapayoga và vacīpayoga mà thôi.
NHẬN XÉT VỀ 8 THAM-TÂM
Trong 8 tham-tâm,“tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động” gồm có 19 tâm-sở đồng sinh với tham- tâm thứ nhất này.
Trong 19 tâm-sở này, có tác-ý tâm-sở gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp trong tham-tâm thứ nhất thuộc về ác-nghiệp nặng hơn 7 tham-tâm còn lại, bởi vì tham-tâm thứ nhất này đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
Và “tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động”gồm có 20 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm thứ tám này.
Trong 20 tâm-sở này, có tác-ý tâm-sở gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp trong tham-tâm thứ tám thuộc về ác-nghiệp nhẹ hơn 7 tham-tâm còn lại, bởi vì tham-tâm thứ tám này đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
QUẢ CỦA THAM-TÂM
* Tham-tâm (lobhacitta) là bất-thiện-tâm có tham tâm-sở (lobhacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với tham-tâm, tham tâm-sở gọi là tham-ái (taṇhā) là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham-tâm tạo ác- nghiệp. Nếu ác-nghiệp trong tham-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi ngạ-quỷ, hoặc trong cõi a-su-ra, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
DOSAMŪLACITTA
Dosamūlacitta là bất-thiện-tâm có nhân sân (dosahetu), hoặc bất-thiện-tâm có sân tâm-sở (dosacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm- sở đồng sinh với bất-thiện-tâm ấy, nên gọi là sân- tâm (dosacitta).
Sân-tâm (dosacitta) này có sân tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh với sân-tâm.
Sân tâm-sở (dosacetasika) có 4 tính chất riêng biệt:
1- Caṇḍikalakkhaṇo có trạng-thái hung dữ.
2- Nissayadahanaraso có phận sự làm nóng nảy thiêu đốt trong tâm của mình và người khác.
3- Dūsanapaccuṭṭhāno gây tai hại đến đối- tượng là quả hiện hữu.
4- Āghātavatthupadaṭṭhāno có đối-tượng hận thù là nhân-duyên gần phát sinh sân-tâm.
Dosacitta: sân-tâm phát sinh do nương nhờ 3 pháp là domanassa: thọ ưu, paṭigha: hận thù, saṅkhāra: tác-động, nên sân-tâm phân chia ra làm 2 tâm như sau:
1- Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.
2- Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
GIẢI NGHĨA TỪ PĀḶI TRONG 2 SÂN-TÂM
* Domanassasahagata: domanassa+sahagata:
- Domanassa: thọ ưu: sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm, nên phát sinh thọ ưu.
- Sahagata: đồng sinh với
- Domanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ ưu.
* Paṭighasampayutta: paṭigha + sampayutta:
- paṭigha: hận thù.
- sampayutta: hợp với.
- paṭighasampayuttaṃ: hợp với hận.
* asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động.
* sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Dosacitta: sân-tâm có 2 tâm:
1- Sân-tâm đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.
2- Sân-tâm đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
NHÂN PHÁT SINH 2 SÂN-TÂM
2 sân-tâm phát sinh do 5 nhân:
1- Dosajjhāsayatā: người có tính hay sân hận.
2- Agambhīrapakatitā: thói quen không suy xét sâu sắc, không tế nhị.
3- Appassutatā: người có ít học hỏi, kém hiểu biết trong các thiện-pháp.
4- Aniṭṭhārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối-tượng xấu không hài lòng.
5- Āghātavatthusamāyogo: tiếp xúc với đối- tượng hận thù với mình, hoặc người thân của mình.
GIẢNG GIẢI VỀ 2 SÂN-TÂM
Do nguyên nhân nào gọi là sân-tâm?
Bất-thiện-tâm nào có nhân sân (dosahetu), hoặc có sân tâm-sở (dosacetasika) nhiều năng lực dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh với bất-thiện- tâm ấy biết đối-tượng xấu, phát sinh khổ tâm, gọi bất-thiện-tâm ấy là sân-tâm (dosacitta).
Sân-tâm có nhân sân (dosahetu) chắc chắn cũng có nhân si (mohahetu) hoặc có sân tâm-sở (dosacetasika) chắc chắn có si tâm-sở (moha- cetasika) che phủ thật-tánh của đối-tượng, nên sân-tâm mù quáng gây tai hại đối-tượng.
Dosacitta: (sân-tâm) phát sinh do nương nhờ 3 pháp căn bản:
1- Vedanā: (thọ tâm-sở) đó là domanassa- vedanā: thọ ưu. Domanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ ưu.
2- Paṭigha: sân hận đó là sân tâm-sở. Paṭighasampayutta: hợp với hận.
3- Saṅkhārika (tác-động) đó là asaṅkhārika không cần tác-động, sasaṅkhārika cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm phân chia ra làm 2 loại.
* Domanassasahagata: đồng sinh với thọ ưu:
Khi 2 sân-tâm biết đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm khó chịu, nóng nảy, sầu não, v.v... đó là domanassa:thọ ưu thuộc về vedanācetasika.
Thọ tâm-sở: vedanā có 5 loại:
1- Dukkhavedanā: thọ khổ.
2- Sukhavedanā: thọ lạc.
3- Somanassavedanā: thọ hỷ.
4- Domanassavedanā: thọ ưu.
5- Upekkhāvedanā: thọ xả.
* Domanassavedanā: thọ ưu này chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với tâm nào khác cả. Cho nên, khi nào sân-tâm phát sinh thì khi ấy chắc chắn có domanassavedanā: thọ ưu đồng sinh.
Vì vậy, gọi là domanassasahagata: đồng sinh với thọ ưu.
* Paṭighasampayutta: hợp với hận:
Khi 2 sân-tâm hợp với hận nghĩa là khi sân- tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu thì paṭigha sân hận, khổ tâm khó chịu gây tai hại, phá hoại đối- tượng xấu ấy.
Paṭigha này là dosacetasika: sân tâm-sở luôn luôn chỉ đồng sinh với domanassavedanā mà thôi, không đồng sinh với vedanā nào khác.
Domanassavedanā và paṭigha có 2 tính chất thật-tánh khác nhau như sau:
- Domanassavedanā là 1 trong 5 loại vedanā- cetasika: thọ tâm-sở thuộc về vedanākkhandha: thọ-uẩn thụ hưởng đối-tượng xấu, cảm giác nỗi khổ tâm.
- Paṭigha đó là dosacetasika thuộc về trong saṅkhārakkhandha: hành-uẩn gây tai hại, phá hoại đối-tượng xấu ấy.
Domanassavedanā và paṭigha tuy có 2 tính chất thật-tánh khác nhau, nhưng do năng lực của dosacittuppāda các tâm-sở đồng sinh với sân-tâm, cho nên khi sân-tâm phát sinh thì ắt có domanassavedanā và paṭigha luôn luôn đồng sinh với sân-tâm ấy.
* Asaṅkhārika không cần tác-động:
Khi sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, quá bực tức, sân hận paṭigha có năng lực mạnh, sân- tâm tự mình phát sinh với asaṅkhārika không cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm này có năng lực mạnh, ác- nghiệp trong sân-tâm này rất nặng.
* Sasaṅkhārika cần tác-động:
Khi sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, sân hận paṭigha có năng lực yếu, khi có người khác đến tác-động, nên sân-tâm mới phát sinh với sasaṅkhārika cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm này có năng lực yếu, ác-nghiệp trong sân-tâm này nhẹ.
* Nguyên nhân gần để phát sinh sân-tâm
Nguyên nhân gần để phát sinh 2 sân-tâm đó là aniṭṭhārammaṇa: đối-tượng xấu và āghātavatthu: đối-tượng hận thù.
Āghātavatthu: đối-tượng hận thù có 10 loại:
1- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho ta.
2- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho ta.
3- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho ta.
4- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho người thân yêu của ta.
5- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho người thân yêu của ta.
6- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho người thân yêu của ta.
7- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng làm lợi ích cho kẻ thù của ta.
8- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang làm lợi ích cho kẻ thù của ta.
9- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ làm lợi ích cho kẻ thù của ta.
10- Hận thù do gặp phải rủi như vấp ngã đau, đạp gai đâm vào bàn chân đau, v.v ...
NHẬN XÉT VỀ 2 SÂN-TÂM
Sân-tâm có 2 tâm:
* Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.
* Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
- Tâm-sở đồng sinh với sân-tâm thứ nhất có 20 tâm-sở, trong 20 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là ác-nghiệp, cho nên ác- nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nặng nhất, bởi vì sân-tâm này đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận không cần tác-động, có năng lực mạnh.
- Tâm-sở đồng sinh với sân-tâm thứ nhì có 22 tâm-sở có 2 tâm-sở thina: buồn-chán và middha: buồn-ngủ, nên làm sân-tâm có năng lực yếu.
Trong 22 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanā- cetasika) gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nhẹ nhất, bởi vì sân-tâm này đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động, có năng lực yếu.
Trình bày 2 sân-tâm tiếp theo sau 8 tham-tâm bởi vì tham-tâm là nhân, sân-tâm là quả, nếu không có tham-tâm thì chắc chắn cũng không có sân-tâm.
Thật vậy, bậc Thánh Bất-lai diệt tận được tham-ái trong 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc trong cõi dục-giới, cũng đồng thời diệt tận được 2 sân-tâm không còn dư sót nữa.
Bậc Thánh-Bất-lai chỉ còn tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm, các tầng trời sắc-giới phạm- thiên, các tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên mà thôi. Cho nên bậc Thánh Bất-lai không còn tái- sinh kiếp sau trở lại trong cõi dục-giới, mà chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc- giới phạm-thiên tương xứng với sắc-giới quả- tâm ấy mà thôi, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam giới.
QUẢ CỦA SÂN-TÂM
* Sân-tâm (dosacitta) là bất-thiện-tâm có sân tâm-sở (dosacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với sân-tâm làm khổ tâm trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm tạo ác- nghiệp. Nếu ác-nghiệp trong sân-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
MOHAMŪLACITTA
Mohamūlacitta là bất-thiện-tâm có nhân si (mohahetu), hoặc bất-thiện-tâm có si tâm-sở (mohacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm- sở đồng sinh với bất-thiện-tâm ấy, nên gọi là si- tâm (mohacitta).
Si-tâm (mohacitta) này có si tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh với si-tâm.
Si tâm-sở (mohacetasika) có 4 tính chất riêng biệt của si tâm-sở:
1- Añāṇalakkhaṇo có trạng-thái không biết tứ Thánh-đế.
2- Ārammaṇasabhāvacchādanaraso có phận sự làm che phủ thật-tánh của các đối-tượng.
3- Andhakārapaccuṭṭhāno có tính chất làm tối tăm là quả hiện hữu.
4-Ayonisomanasikārapadaṭṭhāno do si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh si tâm-sở.
Mohacitta: si-tâm phát sinh chỉ nương nhờ upekkhāvedanā: thọ xả, hợp với vicikicchā, hoặc uddhacca, cho nên si-tâm phân chia ra làm 2 tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ vicikicchāsampayuttaṃ. Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi.
2- Upekkhāsahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ. Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
GIẢI NGHĨA TỪ PĀḶI TRONG 2 SI-TÂM
* Upekkhāsahagata: upekkhā + sahagata:
- upekkhā: thọ xả
- sahagata: đồng sinh với
- upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả.
*vicikicchāsampayutta: vicikicchā+sampayutta
- vicikicchā: hoài-nghi
- sampayutta: hợp với
- vicikicchāsampayuttaṃ: hợp với hoài-nghi.
* uddhaccasampayutta: uddhacca+sampayutta
- uddhacca: phóng-tâm
- sampayutta: hợp với
- uddhaccasampayuttaṃ: hợp với phóng-tâm.
GIẢNG GIẢI 2 SI-TÂM
1- Si-tâm đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi.
2- Si-tâm đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
* Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả: Hai si-tâm đồng sinh với thọ xả có tính chất khác với 4 tham-tâm đồng sinh với thọ xả.
Si-tâm đồng sinh với thọ xả dù tiếp xúc với đối-tượng tốt hoặc xấu vẫn bình thản, bởi vì si- mê không biết nhận thức giá trị của đối-tượng ấy.
Còn 4 tham-tâm hợp với thọ xả là khi tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu, 4 tham- tâm hài lòng ít, nên không đủ để phát sinh thọ hỷ.
* Vicikicchāsampayuttaṃ: hợp với hoài-nghi:
Hoài-nghi có 2 loại:
1- Nivaraṇavicikicchā: hoài-nghi là pháp chướng-ngại của mọi thiện-pháp.
2- Paṭirūpakavicikicchā: hoài-nghi về những môn học chưa hiểu rõ, hoài-nghi về người, vật, v.v... không gọi là hoài-nghi trong si-tâm.
Si-tâm hợp với hoài-nghi đó là nivaraṇa-vicikicchā làm chướng-ngại chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả và Niết-bàn; có 8 loại hoài-nghi:
1- Buddhe kaṅkhati: hoài-nghi về Đức-Phật rằng: Đức-Phật có thật hay không? Có phải người ta chế-định Đức-Phật ra để tôn thờ,...
Hoài-nghi về 9 ân-Đức-Phật rằng:
Đức-Phật có 9 ân-đức là “Arahaṃ, Sammā- sambuddho,Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanus- sānaṃ, Buddho, Bhagavā” có thật vậy hay không?
2- Dhamme kaṅkhati: hoài-nghi về Đức-Pháp rằng: Đức-Phật thuyết giảng 6 ân-Đức-Pháp là “Svākkhāto Bhagavato dhammo, sandiṭṭhiko, akāliko, ehipassiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhi” có thật vậy hay không?
3- Saṃghe kaṅkhati: hoài-nghi về Đức-Tăng rằng: Chư Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có 9 ân-Đức-Tăng là “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ujuppaṭipanno Bhagavato sāvaka- saṃgho, ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka- saṃgho, sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvaka- saṃgho. Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjalikaraṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa” có thật vậy hay không?(5)
4- Sikkhāya kaṅkhati: hoài-nghi về 3 sikkhā là adhisīlasikkhā: thực-hành pháp-hành giới bậc cao, adhicittasikkhā: thực-hành pháp-hành thiền-định bậc cao, adhipaññāsikkhā: thực-hành pháp-hành thiền-tuệ bậc cao trở thành bậc Thánh-nhân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, có thật vậy hay không?
5- Pubbante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ-uẩn đã từng có trong kiếp trước thật hay không? Hoặc kiếp trước có thật vậy hay không?
6- Aparante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ-uẩn sẽ có trong kiếp sau thật hay không? Hoặc kiếp sau có thật vậy hay không?
7- Pubbantāparante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ uẩn kiếp trước, kiếp sau có thật hay không? Hoặc kiếp trước, kiếp sau có thật vậy hay không?
8- Paṭiccasamuppāde kaṅkhati: hoài-nghi về pháp thập-nhị-duyên-sinh:
“Avijjāpaccyā saṅkhārā, Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ...”(6)
(Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh, Do hành làm duyên, nên thức sinh,...).
Những pháp phát sinh theo nhân và quả liên hoàn với nhau, quả của pháp trước, rồi làm nhân của pháp sau, cứ như vậy diễn tiến không có pháp bắt đầu và cũng không có pháp cuối cùng, có thật vậy hay không?
Si-tâm hợp với 8 điều hoài-nghi này, ngoài ra, những điều hoài-nghi khác không phải là hoài- nghi trong si-tâm.
* Uddhaccasampayuttaṃ: hợp với phóng-tâm
Si-tâm hợp với phóng-tâm là tâm bị động tiếp nhận các đối-tượng lộn xộn, tâm không ổn định, chưa hết chuyện này đã sang qua chuyện khác, định-tâm các đối-tượng không rõ ràng. Cho nên ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm có ít năng lực.
Phóng-tâm và hối-hận là 1 trong 5 pháp- chướng-ngại gây trở ngại cho mọi thiện-pháp không thể phát sinh được.
NHÂN SINH HOÀI-NGHI
Hoài-nghi phát sinh do 2 nguyên-nhân là:
1- Ayonisomanasikāra: si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
2- Hoài-nghi nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo; hoài-nghi kiếp trước, kiếp sau, ...
NHÂN DIỆT HOÀI-NGHI
Hoài-nghi diệt do 2 nguyên-nhân là:
1- Yonisomanasikāra: trí-tuệ hiểu biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
2- Trí-tuệ hiểu biết rõ các pháp: thiện-pháp, bất-thiện-pháp, pháp nên hành, pháp không nên hành, pháp nên phát triển, pháp nên diệt, v.v...
PHÁP DIỆT HOÀI-NGHI
Diệt hoài-nghi có 6 pháp là:
1- Bahussutā: nghe nhiều hiểu rộng.
2- Paripucchakatā: ham thích học hỏi.
3- Vinaye pakataññatā: tinh thông trong Tạng Luật.
4- Adhimokkhabahulatā: quyết định sáng suốt.
5- Kalyāṇamittatā: có bạn thiện trí tốt.
6- Sappāyakathā: nghe lời giáo-huấn hay, hiểu rõ không còn hoài-nghi nữa.
NHÂN SINH PHÓNG-TÂM
Phóng-tâm phát sinh do 2 nguyên-nhân là:
1- Ayonisomanasikāra: si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
2- Phóng-tâm là tâm bị động tiếp nhận các đối tượng lộn xộn, tâm không ổn định, chưa hết chuyện này sang chuyện khác, không tự chủ được.
NHÂN DIỆT PHÓNG-TÂM
Phóng-tâm diệt do 2 nguyên-nhân là:
1- Yonisomanasikāra: trí-tuệ hiểu biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
2- Thiện-tâm thanh-tịnh an trú trong đối-tượng.
PHÁP DIỆT PHÓNG-TÂM
Diệt phóng-tâm có 6 pháp là:
1- Bahussutā: nghe nhiều hiểu rộng.
2- Paripucchakatā: ham thích học hỏi.
3- Vinaye pakataññatā: tinh thông trong Tạng Luật.
4- Buddhasevitā: thực-hành theo lời giáo huấn của Đức-Phật.
5- Kalyāṇamittatā: có bạn thiện trí tốt.
6- Sappāyakathā: nghe lời giáo-huấn hay, tâm ổn định, thanh-tịnh.
NHẬN XÉT VỀ 2 SI-TÂM
Si-tâm có 2 tâm:
* Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi.
* Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
* Si-tâm có 2 tâm, không có tham tâm-sở đồng sinh, cũng không có sân tâm-sở đồng sinh, chỉ có si tâm-sở đồng sinh với 2 si-tâm mà thôi, khi tiếp xúc với đối-tượng tốt, không biết tốt, nên không đồng sinh với thọ hỷ; hoặc khi tiếp xúc với đối-tượng xấu, cũng không biết xấu, nên không đồng sinh với thọ ưu. Cho nên, 2 si-tâm này chỉ đồng sinh với thọ xả mà thôi.
* Si-tâm thứ nhất hợp với hoài-nghi và si-tâm thứ nhì hợp với phóng-tâm.
- Nếu si-tâm hợp với hoài-nghi trong đối- tượng thì dù không tác-động (asaṅkhārika) hoặc dù có tác-động (sasaṅkhārika) cũng không có gì đặc biệt.
- Nếu si-tâm hợp với phóng-tâm trong các đối- tượng lộn xộn thì tâm bị động, chưa hết chuyện này đã sang chuyện khác nên mất tự chủ, không có nhiều năng lực. Cho nên dù không tác-động (asaṅkhārika) hoặc dù có tác-động (sasaṅkhārika) cũng không có gì đặc biệt.
Vì vậy, 2 si-tâm đều không có asaṅkhārika và sasaṅkhārika. Còn 8 tham-tâm và 2 sân-tâm, nếu bất-thiện-tâm nào không có tác-động asaṅkhārika thì tạo ác-nghiệp nặng, nếu bất-thiện-tâm nào có tác-động sasaṅkhārika thì tạo ác-nghiệp nhẹ.
* Si-tâm có 2 tâm, không hợp với tà-kiến (diṭṭhi) và hận (paṭigha), bởi vì 2 si-tâm vốn không biết tính-chất của đối-tượng đúng theo sự thật, vả lại, 2 si-tâm đồng sinh với thọ xả (upekkhā), nên không hài lòng cũng không bực tức trong đối-tượng.
Còn tà-kiến (diṭṭhi) phát sinh do hài lòng nơi đối-tượng và hận (paṭigha) phát sinh do bực tức trong đối-tượng. Cho nên, 2 si-tâm không hợp với tà-kiến (như 4 tham-tâm) hoặc không hợp với hận (như 2 sân-tâm).
Si tâm-sở (mohacetasika) gọi là vô-minh (avijjā) phát sinh do 4 pháp āsava: 4 pháp trầm-luân: (ngũ-dục trầm-luân, kiếp trầm-luân, tà-kiến trầm- luân, vô-minh trầm-luân).
“Āsavasamudayā avijjāsamudayo”.(7)
Do sự sinh của 4 pháp trầm-luân, nên có sự sinh của vô-minh.
* Tâm-sở đồng sinh với si-tâm thứ nhất có 15 tâm-sở có hoài-nghi, tác-ý tâm-sở (cetanā cetasika) gọi là ác-nghiệp. Nếu ác-nghiệp này có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau thì sinh trong loài súc-sinh.
* Tâm-sở đồng sinh với si-tâm thứ nhì có 15 tâm-sở có phóng-tâm, tác-ý tâm-sở (cetanācesika) gọi là ác-nghiệp nhẹ không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, mà chỉ có khả năng cho quả sau thời-kỳ tái-sinh mà thôi.
QUẢ CỦA SI-TÂM
* Si-tâm (mohacitta) là bất-thiện-tâm có si tâm-sở (mohacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với si-tâm không chỉ không biết thật-tánh của các pháp, mà còn không biết tính-chất tốt xấu của các đối-tượng nữa, làm cho tâm si mê trong kiếp hiện-tại và các kiếp vị-lai.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với si-tâm tạo ác-nghiệp. Nếu ác-nghiệp trong si-tâm hợp với hoài-nghi có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong si- tâm hợp với hoài-nghi gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong loài súc-sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi loài súc-sinh.
GIẢNG GIẢI VỀ 12 BẤT-THIỆN-TÂM
Bất-thiện-tâm (akusalacitta) có 12 tâm, tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện- tâm tạo 10 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) (akusala- kamma) phát sinh do nương nhờ 3 môn: thân- môn, khẩu-môn, ý-môn.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn gọi là thân bất-thiện-nghiệp (akusala- kāyakamma) hoặc gọi là thân ác-nghiệp, có 3 loại nghiệp là:
1- Pāṇātipāta: ác-nghiệp sát-sinh.
2- Adinnādāna: ác-nghiệp trộm-cắp.
3- Kāmesumicchārāra: ác-nghiệp tà-dâm.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi khẩu-môn gọi là khẩu bất-thiện-nghiệp (akusalavacīkamma) hoặc gọi là khẩu ác-nghiệp, có 4 loại nghiệp là:
1- Musāvāda: ác-nghiệp nói-dối.
2- Pisuṇavācā: ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
3- Pharusavācā: ác-nghiệp nói lời thô tục.
4- Samphappalāpa: ác-nghiệp nói lời vô ích.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi ý-môn gọi là ý bất thiện-nghiệp (akusala- manokamma) hoặc gọi là ý ác-nghiệp, có 3 loại nghiệp là:
1- Abhijjhā: ác-nghiệp tham lam của cải của người khác.
2- Byāpāda: ác-nghiệp thù hận người khác.
3- Micchādiṭṭhi: ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.
BẤT-THIỆN-TÂM TẠO ÁC-NGHIỆP
* 8 tham-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 7 loại ác-nghiệp:
- Thân ác-nghiệp có 2 loại: ác-nghiệp trộm- cắp, ác-nghiệp tà-dâm.
- Khẩu ác-nghiệp có 3 loại: ác-nghiệp nói-dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời vô ích.
- Ý ác-nghiệp có 2 loại: ác-nghiệp tham lam, ác-nghiệp tà-kiến.
* 2 sân-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 7 loại ác-nghiệp:
- Thân ác-nghiệp có 2 loại: ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp.
- Khẩu ác-nghiệp có 4 loại: ác-nghiệp nói- dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp nói lời vô ích.
- Ý ác-nghiệp có 1 loại: ác-nghiệp thù hận.
* 2 si-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý có 10 loại ác-nghiệp: thân ác- nghiệp có 3 loại, khẩu ác-nghiệp có 4 loại, ý ác- nghiệp có 3 loại.
ÁC-NGHIỆP VỚI ÁC-TÂM
* 3 ác-nghiệp: ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp nói lời thô-tục, ác-nghiệp thù-hận phát sinh do năng lực của sân-tâm, có sân tâm-sở dẫn đầu.
* 3 ác-nghiệp: ác-nghiệp tà-dâm, ác-nghiệp tham lam, ác-nghiệp tà-kiến phát sinh do năng lực của tham-tâm, có tham tâm-sở dẫn đầu.
* 4 ác-nghiệp: ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp nói-dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời vô ích phát sinh khi thì do năng lực của tham-tâm ham muốn lợi lộc; khi thì do năng lực của sân-tâm như trộm-cắp đem vất bỏ, vì ghét người chủ nhân, nói-dối, nói lời chia rẽ, nói lời vô ích để gây thiệt hại cho người khác.
Thật ra, 10 ác-nghiệp này phát sinh trực-tiếp do nương nhờ tham-tâm và sân-tâm. Còn si-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 10 loại ác-nghiệp chỉ là cách gián-tiếp mà thôi, bởi vì 10 ác-nghiệp phát sinh đều do vô-minh làm nhân.
* Tham-tâm phát sinh có tham tâm-sở dẫn đầu, có si tâm-sở hỗ trợ.
* Sân-tâm phát sinh có sân tâm-sở dẫn đầu, có si tâm-sở hỗ trợ.
* Si-tâm phát sinh chỉ có si tâm-sở dẫn đầu mà thôi.
NHÂN SINH BẤT-THIỆN-TÂM
Bất-thiện-tâm gồm có 12 tâm phát sinh do ayonisomanasikāra: do si-mê biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
Đức-Phật dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy pháp nào khác làm nhân của bất-thiện-pháp chưa phát sinh thì phát sinh, thiện-pháp đã phát sinh thì bị suy thoái như ayonisomanasikāra.
- Này chư tỳ-khưu! Người nào có ayoniso-manasikāra, bất-thiện-pháp chưa phát sinh thì phát sinh, thiện-pháp đã phát sinh thì bị suy thoái(8).
Ayonisomanasikāra phát sinh do 5 nhân:
1- Pubbe akatapuññatā: không tích luỹ phước-thiện trong kiếp trước.
2- Appaṭirūpadesavāsa: sống ở nơi không thuận lợi, không có bậc thiện-trí, không có Phật-giáo.
3- Asappurisupanissaya: không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo.
4- Asaddhammassavana: không lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí.
5- Attamicchāpanidhi: tâm biết sai lầm trong ác pháp.
Ayonisomanasikāra phát sinh do 5 nhân này, nhân đầu tiên là không tích luỹ phước-thiện trong những kiếp trước, nên kiếp hiện-tại sinh sống nơi chốn không thuận lợi, không có Phật- giáo, không được gần gũi thân cận với bậc thiện- trí trong Phật-giáo, không có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí. Cho nên, người ấy có si-mê, biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp, làm nhân cho bất-thiện- tâm chưa sinh thì phát sinh, thiện-tâm đã sinh thì bị suy thoái.
Vì vậy, ayonisomanasikāra là nhân phát sinh bất-thiện-tâm.
TÂM VỚI TÂM-SỞ
Tâm (citta) gồm có 89 hoặc 121 tâm và tâm- sở (cetasika) gồm có 52 tâm-sở. Tâm với tâm-sở không thể tách rời nhau được, hễ khi có tâm nào phát sinh, ắt hẳn có một số tâm-sở tương xứng đồng sinh với tâm ấy, bởi vì tâm-sở có 4 trạng- thái là đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối-tượng với tâm, đồng nơi sinh với tâm.
Bất-thiện-tâm với tâm-sở
12 bất-thiện-tâm có 2 loại tâm-sở đồng sinh:
1-Aññasamānācetasika: đồng-sinh toàn-tâm tâm-sở và đồng-sinh tuỳ-tâm tâm-sở có 13 tâm-sở.
2- Akusalacetasika: bất-thiện tâm-sở có 14 tâm-sở.
Như vậy, trong 12 bất-thiện-tâm chỉ có 27 tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm mà thôi.
* Tham-tâm có 8 tâm:
Trong 8 tham-tâm, mỗi tham-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với mỗi tham-tâm như sau:
1- Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có 19 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này là 13 aññasamānā- cetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 diṭṭhicetasika, gồm có 19 tâm-sở(9).
2- Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 21 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānā- cetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 diṭṭhicetasika + 2 thidukacetasika, gồm có 21 tâm-sở.
3- Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có 19 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānācetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika gồm có 19 tâm-sở.
4- Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 21 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānā- cetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika + 2 thidukacetasika gồm có 21 tâm-sở.
5- Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có 18 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānā- cetasika (trừ pīticetasika) +4 mocatukacetasika+ 1 lobhacetasika + 1 diṭṭhicetasika gồm có 18 tâm-sở.
6- Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 20 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 1 lobha- cetasika + 1 diṭṭhicetasika + 2 thidukacetasika, gồm có 20 tâm-sở.
7- Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động có 18 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatuka- cetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika, gồm có 18 tâm-sở.
8- Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 20 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānā- cetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika + 2 thiduka- cetasika, gồm có 20 tâm-sở.
* Sân-tâm có 2 tâm:
Trong 2 sân-tâm, mỗi sân-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với sân-tâm như sau:
1- Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động, có 20 tâm-sở đồng sinh với sân-tâm này đó là 12 aññasamānā- cetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 4 docatukacetasika, gồm có 20 tâm-sở.
2- Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động, có 22 tâm-sở đồng sinh với sân-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika+4 docatuka- cetasika+2 thidukacetasika, gồm có 22 tâm-sở.
* Si-tâm có 2 tâm:
Trong 2 si-tâm, mỗi si-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với si-tâm như sau:
1- Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi, có 15 tâm-sở đồng sinh với si-tâm này đó là 10 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika adhimokkhacetasika, chandacetasika) + 4 mocatuka -cetasika +1 vicikicchācetasika, gồm có 15 tâm-sở.
2- Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm, có 15 tâm-sở đồng sinh với si- tâm này đó là 11 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika, chandacetasika) + 4 mocatuka- cetasika, gồm có 15 tâm-sở.
Trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm), mỗi bất- thiện-tâm (ác-tâm) phát sinh ắt có một số tâm-sở tương xứng đồng sinh với bất-thiện-tâm (ác-tâm) hỗ trợ làm phận sự của ác-tâm ấy.
* Diệt 12 bất-thiện-tâm
12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) là ác-pháp nên diệt.
Hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đã tạo và tích-luỹ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp trong quá- khứ cho đến kiếp hiện-tại này, có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc mỗi Thánh-đạo, mỗi Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt tận được bất-thiện- tâm (ác-tâm) như sau:
1- Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt tận được 5 loại bất-thiện-tâm là 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với hoài-nghi không còn nữa, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
2- Chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất- lai Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt tận được 2 loại bất-thiện-tâm là 2 sân-tâm loại thô không còn nữa, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
3- Chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt tận được 2 loại bất-thiện-tâm là 2 sân-tâm loại vi-tế không còn nữa, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
4- Chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt tận được 5 loại bất-thiện-tâm còn lại là 4 tham- tâm không hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với phóng-tâm không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
* Diệt 14 bất-thiện tâm-sở
Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 14 bất-thiện tâm-sở.
Bất-thiện tâm-sở có 14 loại tâm-sở chia ra 5 nhóm:
Lotikacetasika: nhóm tham có 3 tâm-sở:
- Lobhacetasika: tham tâm-sở.
- Diṭṭhicetasika: tà-kiến tâm-sở.
- Mānacetasika: ngã-mạn tâm-sở.
Ba tâm-sở này đồng sinh với 8 tham-tâm.
Docatukacetasika: nhóm sân có 4 tâm-sở:
- Dosacetasika: sân tâm-sở.
- Issācetasika: ganh-tỵ tâm-sở.
- Macchariyacetasika: keo-kiệt tâm-sở.
- Kukkaccacetasika: hối-hận tâm-sở.
Bốn tâm-sở này đồng sinh với 2 sân-tâm.
Mocatukacetasika: nhóm si có 4 tâm-sở:
- Mohacetasika: si tâm-sở.
- Ahirikacetasika: không biết hổ-thẹn tội-lỗi tâm-sở.
- Anottappacetasika: không biết ghê-sợ tội-lỗi tâm-sở.
- Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở.
Bốn tâm-sở này đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.
Thīdukacetasika: nhóm buồn có 2 tâm-sở:
- Thīnacetasika: buồn-chán tâm-sở.
- Middhacetasika: buồn-ngủ tâm-sở.
Hai tâm-sở này đồng sinh với 5 bất-thiện-tâm cần tác-động.
Vicikicchācetasika: nhóm nghi có 1 tâm-sở:
- Vicikicchācetasika: hoài-nghi tâm-sở chỉ đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi mà thôi.
* Mỗi Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được bất-thiện tâm-sở như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 4 bất-thiện tâm-sở là tà-kiến tâm-sở, hoài-nghi tâm-sở, ganh-tị tâm-sở, keo-kiệt tâm- sở không còn nữa.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 2 bất-thiện tâm-sở loại thô là sân tâm- sở, hối-hận tâm-sở loại thô không còn nữa.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 2 bất-thiện tâm-sở loại vi-tế là sân tâm-sở, hối-hận tâm-sở loại vi-tế không còn nữa.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 8 bất-thiện tâm-sở còn lại là tham tâm-sở, ngã-mạn tâm-sở, si tâm-sở, phóng-tâm tâm-sở, buồn-chán tâm-sở, buồn-ngủ tâm-sở, không biết hổ-thẹn tội-lỗi tâm-sở, không biết ghê-sợ tội-lỗi tâm-sở không còn dư sót nữa.
* Diệt 10 loại phiền-não
Thánh-đạo-tuệ diệt tận được10 loại phiền-não.
Trong 14 bất-thiện tâm-sở có 10 tâm-sở gọi là 10 loại phiền-não là tham, sân, si, tà-kiến, ngã- mạn, hoài-nghi, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi.
* Mỗi Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được phiền-não như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn nữa.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 1 loại phiền-não thô là sân (dosa) loại thô không còn nữa.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 1 loại phiền-não vi-tế là sân (dosa) loại vi-tế không còn nữa.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), phóng-tâm (uddhacca), buồn-chán (thīna), không biết hổ- thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót nữa.
* Diệt 10 loại ác-nghiệp
Thánh-đạo-tuệ diệt tận được10 loại ác-nghiệp.
Trong 27 tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện- tâm, có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với bất-thiện-tâm gọi là bất-thiện-nghiệp (ác- nghiệp).
Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm- sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm tạo 10 ác- nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý như sau:
* Thân ác-nghiệp có 3 loại:
- Ác-nghiệp sát-sinh.
- Ác-nghiệp trộm-cắp.
- Ác-nghiệp tà-dâm.
* Khẩu ác-nghiệp có 4 loại:
- Ác-nghiệp nói-dối.
- Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
- Ác-nghiệp nói lời thô tục.
- Ác-nghiệp nói lời vô ích.
* Ý ác-nghiệp có 3 loại:
- Ác-nghiệp tham-lam tài sản của người khác.
- Ác-nghiệp thù-hận người khác.
- Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.
Đó là 10 ác-nghiệp được tạo bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
* Mỗi Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được ác-nghiệp như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 5 loại ác-nghiệp là ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm, ác- nghiệp nói-dối, ác-nghiệp tà-kiến không còn nữa.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 3 loại ác-nghiệp loại thô là ác-nghiệp chia rẽ, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp thù hận không còn nữa.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 3 loại ác-nghiệp loại vi-tế là ác-nghiệp chia rẽ, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp thù-hận không còn nữa.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 2 loại ác-nghiệp còn lại là ác-nghiệp nói lời vô ích, ác-nghiệp tham-lam không còn dư sót nữa.
Tóm lại, A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được 5 loại bất-thiện-tâm còn lại, 8 loại bất- thiện-tâm-sở còn lại, 7 loại phiền-não còn lại, 2 loại ác-nghiệp còn lại, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đến khi bậc Thánh A-ra-hán hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới..
Tóm lại, tất cả mọi chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân vẫn còn đầy đủ 12 bất-thiện-tâm.
Nếu chúng-sinh nào không biết hổ-thẹn tội- lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm nào thì tạo bất-thiện- nghiệp (ác-nghiệp) ấy.
Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong cõi ác-giới cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra cõi ác-giới ấy.
Như vậy, tất cả mọi chúng-sinh trong 4 cõi ác- giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) đều do quả của ác-nghiệp khác nhau mà chính tiền- kiếp của tất cả mọi chúng-sinh ấy đã tạo trong những kiếp quá-khứ.
Ngoài ác-nghiệp của chúng-sinh ấy trong ác- tâm ra, chắc chắn không có một ai có quyền năng đày đọa chúng-sinh nào sinh trong cõi ác- giới nào cả.
Đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận 12 ác- tâm không còn nữa, nên tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
-oo0oo-
(1) Dī.Sīlakkhandhavagga, Brahmajālasutta và Sāmaññaphalasutta.
(2) Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
(3) Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
(4) Aṅguttaranikāya, DukanipātaPāḷi, Āsāduppajahavagga.
(5) Tìm hiểu ý nghĩa 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức- Tăng trong bộ Nền-Tảng-Phật-giáo quyển II, Quy-Y Tam-Bảo cùng soạn giả.
(6) Tìm hiểu đầy đủ pháp này trong quyển “Tìm Hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ” cùng soạn giả.
(7) Abhidhammapiṭaka, bộ Vibhaṅga Pāḷi.
(8) Aṅg, Ekakanipāta, Vīriyārambhādivagga.
(9) Tìm hiểu nghĩa và tên tâm-sở trong phần giảng giải 52 tâm-sở sau.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.