PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
ÂN ĐỨC TAM BẢO
HÒA THƯỢNG BỬU CHƠN
ÂN-ĐỨC PHẬT (BUDDHA GUNA)
NAMATTHU RATANATTAYASSA
Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Tam-Bảo tóm tắt.
LỜI TỰA
Bất cứ một Tôn-Giáo nào, hàng tín-đồ thường tôn-sùng vị Giáo-Chủ của mình để tỏ lòng hâm-mộ và biết ơn.
Có người biết ơn vị Giáo-Chủ của mình do nơi sự huyền-bí, linh-thiêng, mầu-nhiệm.
Có người thì biết ơn bằng cách thoát khỏi tai-nạn hoặc bệnh-tật.
Có người lại biết ơn trên căn-bản hợp-lý thật sự và Trí-Tuệ
Có người thì tin-tưởng bằng cách xu hướng mơ-hồ mù-quáng vì thấy nhiều người tin-tưởng.
Người Phật-Tử cũng vậy, hiểu rõ Ân-Ðức Tam-Bảo mới có đức-tin trong sạch ăn sâu vào ngôi Tam-Bảo được. Vì vậy nên bần tăng nhận thấy Ân-Ðức Tam-Bảo rất cần thiết cho người tu Phật, xuất-gia cũng như tại gia. Nhưng ít có ai chịu nhọc công học-hỏi, tìm hiểu cho chu đáo.
Quyển "Ân-Ðức Tam-Bảo" ra đời sẽ giúp cho người Phật-Tử biết được một cách chu-đáo, rõ-rệt những Ân-Ðức gì mà đấng Giáo Chủ Thích-Ca-Mâu-Ni đã có, và làm cho hàng Phật-Tử càng tăng thêm một đức tin vững-chắc như thuyền để đưa con người lướt qua sông mê bể khổ.
Do công đức phiên dịch này, bần tăng hồi-hướng đến Thầy Tổ và song-thân đã quá vãng, cầu xin oai-lực Pháp thí này cho các Ngài được tăng trưởng nhiều sự an-vui nơi nhàn-cảnh. Và cũng cầu cho tất cả chúng-sanh trên thế-giới nhất là cho dân-tộc Việt-Nam được sớm thanh-bình an-lạc.
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật
Rất mong thay!
Hoà-Thượng Bửu-Chơn
Cố-Vấn Tinh-thần Phật-Giáo Thế-Giới
-ooOoo-
TAM-BẢO
Phật-Bảo (Buddhatarana), Pháp-Bảo (Dhammaratana) và Tăng-Bảo (Sangharatana), là ba món báu quí trọng hơn tất cả bảo vật Hữu-Tri (Savinnanakaratana) và Vô-Tri (Avĩnnãnakaratana) trong Tam-Giới và hằng có năng lực đem sự an-vui đến cho chúng-sanh trong ba cõi.
PHẬT-BẢO (BUDDHATARANA)
Ân-Ðức của Phật Vô-Lượng Vô-Biên, không thể kể cho xiết hoặc suy xét cho cùng tận, nhưng nói tóm lại có ba Ân-Ðức trọng đại là:
1) Visuddhi Guna (Tịnh-Ðức): Ngài đã xa lìa tất cả Phiền-Não thô-sơ và vi-tế, nên Thân, Khẩu, Ý của Ngài đều được trọn lành. Trước mắt người hoặc nơi khuất-lấp, Ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội-lỗi.
2) Karunã Guna (Bi-Ðức): Ngài thấy chúng-sanh đang bị nóng-nảy lăn-lộn trong lửa Ngũ-Dục, đang chìm-đắm chơi-vơi trong biển Trần-Ai, chịu thống-khổ vô-cùng vô-tận từ đời này qua kiếp khác nên Ngài phát Tâm Bi-Mẫn bao la đối với tất cả chúng-sanh, chẳng khác nào người Mẹ hiền thương xót đàn con dại, mong-mỏi con khỏi khổ, được vui lâu dài. Từ khi còn tu hạnh Bồ-Tát, Ngài đã từng hy-sinh thân-mạng, vợ con, của cải để tìm phương cứu-vớt chúng-sanh; đến khi thành đạo rồi, Ngài lại châu du phổ độ quần sanh không ngừng nghỉ trọn 45 năm trường đăng-đẳng.
3) Pannã Guna (Tuệ-Ðức): Ngài có Trí-Tuệ hoàn toàn sáng-suốt, không có chi che án được, thông-suốt cả ba giới, bốn loài, thấu triệt Lý Tứ-Diệu-Ðế là thấy rõ, biết rõ Ái-Dục Phiền-Não; nguyên-nhân sanh ra Ái-Dục Phiền-Não, nơi diệt tận Ái-Dục Phiền-Não và phương-Pháp diệt trừ Ái-Dục Phiền-Não. Do nhờ Trí-Tuệ hoàn toàn sáng suốt ấy nên Ngài tri tỏ nghiệp nào có sự lợi ích, nghiệp nào có sự nguy hại, hầu tìm phương tiện giáo huấn chúng-sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành để sớm đến bờ Giác-Ngộ.
Do nhờ 3 Ân-Ðức ấy, Ðức Phật mới có thể tế-độ chúng-sanh, luôn cả Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng được.
Vô-lượng vô-biên Ân-Ðức khác của Ðức Phật đều bắt nguồn từ ba Ân-Ðức trọng đại ấy, cũng như muôn loài thảo mộc chỉ do mặt điạ cầu mà phát sanh ra vậy.
Nếu kể rộng hơn, những Ân-Ðức cao-cả của Ngài có thể tóm-tắt trong 10 danh hiệu sau đây:
ARAHAM (Tàu dịch là Ứng-Cúng)
SAMMÃSAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri)
VIJJÃCARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc)
SUGATO (Thiện-Thệ)
LOKAVIDŨ (Thế-Gian-Giải)
ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)
PURISADAMMASÃRATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu)
SATTHADEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)
BUDDHO (Phật)
BHAGAVÃ (Thế-Tôn)
Xin lần lượt giải về mười hiệu của Phật, từ hiệu ARAHAM (Ứng-Cúng) đến hiệu BHAGAVÃ (Thế-Tôn).
ARAHAM (ỨNG-CÚNG)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là ARAHAM (Tàu âm là A-La-Hán, dịch là Ứng-Cúng)?
Bởi Ngài là:
Araka: Bậc đã xa lìa Phiền Não
Hata: Bậc đã phá tan bánh xe Luân Hồi
Araha: Bậc xứng đáng
Rahãbhãva: Bậc không nơi khuất lấp.
Giải rằng:
Bậc đã xa lìa Phiền-Não.
Ðức Phật đã xa lìa tất cả Phiền-Não là những điều làm cho Tâm bợn nhơ và dắt dẫn chúng-sanh luân hồi mãi trong vòng lục đạo.
Ba Phiền-Não trọng đại là:
a) Lobha: Tham-Lam là Pháp làm cho Tâm dính mắc.
b) Dosa: Sân-Hận là Pháp làm cho Tâm nóng nảy ưu-phiền.
c) Moha: Si-Mê là Pháp làm cho Tâm lầm lạc.
Ba Phiền-Não nầy là nguồn-cội của tất cả Phiền-Não khác, ví như một cây to có 3 nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp tứ phía vậy. (Xin xem các "Phiền-Não" có kể đại khái riêng biệt sau phần giải hiệu ARAHAM)).
Tất cả điều chướng-ngại là Phiền-Não, không còn mảy-may nào trong Thân-Tâm Ðức Phật, vì Ngài đã trau-dồi Thân-Tâm được hoàn toàn trong sạch, thanh-tịnh bằng Giới, Ðịnh, Huệ, bằng Thánh-Ðạo, Thánh-Quả và Niết Bàn.
Ví như người thợ làm tên, lấy một khúc cây trong rừng đem về lột vỏ, gọt đẻo cho xong rồi thoa dầu, hơ lửa, uốn bằng nỏ cho trở nên ngay thẳng, hậu nhiên mới được những cây tên rất tốt và ngay thẳng.
Cũng như thế ấy, Ngài đã lột vỏ cái Tâm hằng bị sao động, cho tiêu-hoại cả Phiền-Não, nhờ sự Ẩn-Tu nơi rừng vắng là tu hạnh Ðầu-Ðà, rồi thoa dầu bằng Ðức-Tin (Saddhã), đốt hơ bằng sự Tinh-Tấn (Viriya), uốn bằng nỏ là Phép Chỉ-Quán (Sammatha) và Minh-Sát (Vipassanã), làm cho Tâm trở nên ngay thẳng, diệt trừ các Nghiệp dữ. Kế tiếp, Ngài suy nguyên thấy rõ căn-bản của Nghiệp Thiện và Ác là những Pháp-Hành (Sankhãra) Ðoạn-Tuyệt Vô-Minh (Avijjã), đắc Ba cái Giác (Vijjã) [1], Sáu cái Thông (Abhinnã), Bốn Huệ Phân Tích (Patisamdhidã) [2], Chín Pháp Thánh (Lokuttãra Dhamma) [3], và liễu chứng bậc Vô-Thượng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác.
Lại nữa chẳng những đã thắng tất cả quân thù là các Phiền-Não trọng-đại vi-tế thôi, Ngài lại dứt được luôn các Tiền-Khiên Tật, là những thói quen của Thân, Khẩu, Ý nữa.
Bậc đã phá tan bánh xe Luân-Hồi.
Ðức Phật đã phá-tan, bẻ-gẫy bánh xe Luân-Hồi và không còn Tái Sanh nữa.
Ta có thể ví dụ "Bánh Xe Luân-Hồi" (Samsaracakka) gồm có:
* Vô-Minh (Avijjã) làm Ðùm.
* Ba Pháp Hành (Sankhãra) [4] làm Căm.
* Sự Già và sự Chết (Lão, Tử: (Jarã Maranam) làm Vành.
* 29 Tác-Ý (Cetanã) là:
12 Tác-Ý Ác (Akusala Cetanã) [5]
8 Tác-Ý Ðại Thiện (Mãhãkusala),
5 Tâm Lành trong Sắc-Giới (Kũpãvacara Kusala),
4 Tâm Lành trong Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Kusala) làm đầu căm tra vào đùm.
Bánh xe ấy ráp vào thùng xe là Tam-Giới (Dục-Giới, Sắc-Giới và Vô-Sắc-Giới), làm thành bánh xe Luân-Hồi.
Trong Tam-Giới ví như cái thùng xe vì Tam-Giới là nơi sanh và trú của chúng-sanh.
Bốn Pháp Trầm-Luân (ãsava) [6] ví như cái gọng xe vì các Pháp ấy là chủ động, hằng lôi kéo chúng-sanh đến chỗ Sanh và chỗ Diệt.
Vô-Minh ví như cái đùm xe vì Vô-Minh là nơi quy-hội của các Nhân-Duyên.
Sự Già và sự Chết ví như vành xe vì hằng lăn tròn đi tới và đưa chúng-sanh từ cảnh nầy đến cảnh khác.
Ba Pháp-Hành ví như căm bánh xe là vì bị sự Sanh và sự Chết bao chung quanh.
Ðức Phật đứng vững-vàng hai chân là sự Tinh-Tấn (Viriya), trên mặt đất bằng-phẳng là Giới (Sĩla), dùng hai tay là Ðức-Tin (Saddhã) cầm cây gươm bén là Trí-Tuệ (Panna), chặt rã, phá tan từng mãnh cái xe Luân-Hồi ấy dưới cội Bồ-Ðề, từ đây không còn chở Ngài quanh-quẩn trong ba cõi, sáu đường được nữa.
Hoặc giả, nếu lấy Thập Nhị Nhân Duyên làm tượng-trưng cho "Bánh Xe Luân-Hồi", thì:
Vô-Minh làm Ðùm.
Lão, Tử làm Vành.
10 Nhân-Duyên kia (Hành, Thức, Danh-Sắc, Lục-Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh) là Căm.
Ðức Phật thấy rõ, hiểu biết tường-tận lý "Nhân-Quả Liên-Quan" [7] gồm có 12 Chi (Anga), 3 Thời Kỳ (Addhã), 20 Thể (Akara), 3 Chỗ Nối Liền (Sandhi), 4 Chỗ Tóm-Tắt (Sankhepa), 3 Sự Luân Chuyển (Vatta) và 2 Gốc (Mũta). Trong khi nhập Ðại-Ðịnh trọn 7 ngày đêm dưới cội Bồ-Ðề, Ngài đã xem-xét thật vi-tế sự Sanh ra và sự Diệt-Tắt của mỗi Nhân-Duyên, xem thuận, rồi xem nghịch, cho đến khi phát-sanh Trí-Tuệ thấy rõ các Pháp Hữu-Vi đều do Nguyên-Nhân mà sanh ra. Khi Nguyên-Nhân bị diệt đi thì các Pháp ấy cũng diệt tắt theo. Khi thấy rõ như thế rồi, Ngài đắc-đạo Quả Niết-Bàn, được giải-thoát các sự Thống-Khổ, phá tan Bánh Xe Sanh-Tử Luân-Hồi.
Bậc Xứng Ðáng.
a) Ðức Phật là đấng toàn trí toàn thiện, rất xứng-đáng cho Chư-Thiên và nhân-loại lễ-bái cúng-dường. Ngài là phước điền quí-báu cao-thượng nhất của chúng-sanh.
Sự cúng-dường ấy, chẳng luận vật cúng ít hay nhiều, hèn-hạ hoặc cao-quí, chẳng luận thí chủ là bậc Vua Chúa oai-quyền hoặc là hạng cùng đinh nghèo khó, hằng được phước-báu Vô-Lượng nếu tín thí có đức-tin vững-chắc là tin lý Nhân-Quả và có Tâm lành đầy đủ Tác-Ý [8] trong sự cúng-dường.
Trong kinh Dĩpanĩ có câu: "Tiddhante Nibbute Cãpisanam Cettam Samebhale" nghĩa là: "Khi Phật còn tại thế hay sau khi đã nhập Niết-Bàn rồi, nếu có thiện-nhân nào có Tâm trong sạch đồng nhau cúng-dường đến Phật cũng được sự phước báu như lúc Ngài còn tại thế vậy".
Như thế, ta nên tin-tưởng rằng dầu khi Ðức Thế-Tôn còn tại thế, hay sau khi Ngài nhập diệt rồi cũng vậy, quả phước phát sanh do sự cúng-dường đến Ngài hoặc đến tháp thờ xá-lợi của Ngài, cũng đồng nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và chú tâm trong sự phước-thiện đồng nhau.
Trong kinh có chép lại rất nhiều sự tích về sự lễ bái cúng-dường Ðức Thế-Tôn. Từ các hàng Chư-Thiên như Phạm-Thiên Sahampati cúng-duờng Ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu-Di (Sineru), Ðức Ðế-Thích (Sakka), Tứ-Ðại-Thiên-Vương (Catumãhãrãja), vv...; các bậc Hoàng Ðế đồng thời với Ngài như vua Tân-Bà-Sa (Bimbisãra), Vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi)...; các bậc đại phú hộ như trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc (Anãthapindika) và (Visãkhã), vv...; đến các hạng cùng đinh nghèo-khổ như nàng Sumana Mãlã dâng bông lài, thầy Bà-La-Môn Culekasataka dâng khăn choàng, vv...
Một thế kỷ sau khi Ðức Thế-Tôn nhập diệt, Hoàng Ðế A-Dục (Asoka) xuất của kho ra 96 triệu đồng vàng cúng-dường Tam-Bảo và cho xây cất 84 ngàn thánh tháp trong toàn cõi Ấn-Ðộ.
Nên nói thêm rằng: chẳng những Ðức Phật là bậc siêu nhân cao-thượng xứng-đáng cho chúng-sanh lễ-bái cúng-dường mà thôi, các bậc Thánh-Nhân (Thinh-Văn: A-La-Hán, A-Na-Hàm ....) khác đã diệt-tận Phiền-Não hay còn chút ít Phiền-Não nơi Tâm, hoặc các hạng phàm nhân có giới đức tu hành chân-chánh theo Giáo- Pháp của Ðức Thế-Tôn, cũng là những bậc đáng thọ-lãnh vật cúng-dường của tín thí vậy.
b) Một điều nữa, Ðức Phật là bậc xứng-đáng giảng-dạy Kinh Luật, giáo-hóa chúng-sanh vì Ngài đã diệt tận tất-cả Phiền-Não chướng-ngại, nên Kinh Luật mà Ngài chỉ-giải, chế-định, toàn là đúng-đắn, chân-thật, chỉ nhắm vào sự lợi-ích của quần-sanh. Ngài không vì 4 điều Tư-Vị (Agati) [9] mà giảng Kinh, định Luật, nói Pháp độ đời.
Bậc không nơi khuất lấp.
Ðức Phật là đấng trọn-lành, Ngài đã diệt-tận Phiền-Não nên Thân, Khẩu, Ý của Ngài hoàn toàn trong-sạch thanh-tịnh, trước mắt người hoặc nơi khuất-lấp, xa tai cách mặt người, Ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội-lỗi, dầu là nhỏ-nhen chút ít.
Không như những hạng thuờng nhân tự cho mình là "Giáo- Chủ" hoặc "Bồ Tát", là "Thánh-Nhân", vv..., trước mặt người tỏ ra đạo-mạo nghiêm trang như là bậc giới hạnh chân-chánh, hiền-từ, đạo-đức, nhưng sau lưng người lại hằng làm điều tội-lỗi xấu-xa không chút lòng hổ-thẹn.
Do nhờ, những Ân-Ðức cao-quí vừa giải phía trên, nên Ngài có hiệu là "ARAHAM " (Ứng-Cúng).
Phần kể các Phiền-Não mà đức Phật đã xa lìa.
1. Kilesa: Phiền-Não có 3 gọi là Tam-Ðộc.
a) Lobha: Tham
b) Dosa: Sân
c) Moka: Si.
2. Asava: Pháp Trầm-Luân có 3.
a) Kãmãsava: Trầm-Luân trong Ngũ-Dục
b) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
c) Avjjãsava: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
3. Vipallãsa: Ðiều Lầm-Lạc có 3.
a) Sannã Vipallãsa: Tư-Tưởng Lầm-Lạc
b) Citta Vipallãsa: Tâm Lầm-Lạc
c) Ditthi Vipallãsa: Kiến-Thức Lầm-Lạc.
4. Anusaya: Pháp Ngủ-Ngầm có 3.
a) Kãmarãgãnusaya: Tình-Dục Ngủ-Ngầm
b) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
c) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
5. Agati: Tư-Vị có 4.
a) Chandãgati: Tư-Vị vì Thương
b) Dosãgati: Tư-Vị vì Giận-Ghét
c) Mohãgati: Tư-Vị vì Si-Mê
d) Bhayãgati: Tư-Vị vì Sợ.
6. Gantha: Ðiều Ràng-Buộc có 4.
a) Abhijjhãya Gantha: Ràng-Buộc vì Tâm Xan-Tham.
b) Byjãpãdakãya Gantha: Ràng-buộc vì Tâm Thù Oán, Mong Hại người.
c) Sĩlabbattaparãmãsakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Tập Quán, vì Chấp-Lễ Cúng Tế.
d) Idamsaccãbhinivesakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Chấp-Ý kiến của Ta là Chân-Chánh, Chắc-Thật, còn của người khác là Sai-Lầm.
7. Ogha: Vực-Thẳm có 4.
a) Kãmogha: Vực-Thẳm Ngũ-Trần
b) Bhavogha: Vực-Thẳm Tam-Giới
c) Ditthogha: Vực-Thẳm Kiến Thức (Tà-Kiến)
d) Vực-Thẳm Vô-Minh.
8. Upãdãna: Cố-Chấp có 4.
a) Kãmupãdãna: Cố-Chấp trong Ngũ-Dục
b) Dithupãdãna: Cố-Chấp trong Kiến-Thức (Tà-Kiến)
c) Sĩlabbãttupãdãna: Cố-Chấp trong Tập-Quán, trong Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh)
d) Attavãdupãdãna: Cố-Chấp trong Thân này có Bản-Ngã.
9. Macchariva: Bỏn-Xẻn có 5.
a) Avãsa Macchariya: Bỏn-Xẻn chỗ ở,
b) Kula Macchariya: Bỏn-Xẻn về Gia-Quyến, Môn Ðồ, Ðảng-Phái,
c) Vanna Macchariya: Bỏn-Xẻn về sự khen tặng và sắc tốt,
d) Lãbha Macchriya: Bỏn-Xẻn lợi-lộc,
e) Dhamma Macchirya: Bỏn-Xẻn Giáo-Pháp.
10. Anusaya: Pháp Ngủ-Ngầm trong Tâm có 7.
a) Kãmarãgãnusaya: Tình-Dục Ngủ-Ngầm
b) Bhavarãgãmusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-Ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-Ngầm
d) Mananusaya: Cống-Cao Ngã-Mạn Ngủ-Ngầm
e) Ditthãmusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
f) Vicikicchãmusaya: Hoài-Nghi Ngủ-Ngầm
g) Avikicchãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
11. Lokadhamma: Pháp Thế-Gian có 8.
a) Lãbho: Ðược Lợi
b) Alãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Danh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukho: Ðược Vui
h) Dukkho: Bị Khổ.
12. Mandila: Pháp Nhơ-Bẩn có 9.
a) Kodha: Hờn-Giận
b) Makkha: Bạc-ơn
c) Issã: Ganh-Tị
d) Macchariya: Bỏn-Xẻn
e) Mãyã: Làm Bộ, Giả-Dối
f) Sãtheyya: Khoe-Khoang
g) Musã: Nói Láo
h) Pãpicchã: Tham Muốn những điều Xấu-Xa Tội-Lỗi
i) Micchãditthi: Tà-Kiến.
13. Micchatta Dhamma: Pháp Tà-Vạy có 10.
a) Micchã Ditthi: Tà-Kiến
b) Micchã Sankappo: Tà Tư-Duy
c) Micchã Vãcã: Tà Ngữ
d) Micchã Kammanto: Tà Nghiệp
e) Micchã Ãjivo: Tà Mạng
f) Micchã Vãyãmo: Tà Tinh-Tấn
g) Micchã Sati: Tà Niệm
h) Micchã Samãdhi: Tà Ðịnh
i) Micchã Nãnam: Tà Huệ
j) Micchã Vimutti: Tà Giải-Thoát.
14. Akusalakammapatha: Nghiệp-Ác có 10 gọi là "Thập-Ác":
a) Pãnãtipato: Sát-Sanh
b) Adinnãdãnam: Trộm-Cắp
c) Kãmesu Micchãcãro: Tà-Dâm
d) Musãvãdo: Nói Dối
e) Pisunãvãcã: Nói Ðâm-Thọc
f) Pharusavãcã: Nói Lời Ðộc Ác, Chưởi-Rủa
g) Samphapalãpo: Nói Lời Vô-Ích, Viễn-Vông
h) Abhijjhã: Tham-Lam
i) Byãpãda: Thù-Oán mong hại Người
j) Micchãditthi: Tà-Kiến.
15. Samyojana: Pháp Thẳng-Thúc có 10:
a) Sakkãyaditthi: Thân Kiến
b) Vicikicchã: Hoài Nghi (về Nhân và Quả)
c) Silabbataparãmãsa: Chấp theo Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh), Chấp theo Tập Quán (Giới Cấm Thủ)
d) Kãmacchanda: Vui Thích Tình-Dục
e) Byãpãda: Thù-Oán, mong Hại Người
f) Rupãrãga: Mê-Thích trong Cảnh Sắc
g) Aruparãga: Vui-Thích Cảnh Vô-Sắc
h) Mãna: Ngã-Mạn, Cống-Cao
i) Uddhacca: Phóng-Tâm
j) Avijjã: Vô-Minh.
16. Kilesa: Phiền-Não có 10:
a) Lobha: Tham
b) Dosa: Sân
c) Moha: Si
d) Manã: Ngã-Mạn, Cống-Cao
e) Ditthi: Kiến-Thức (Tà-Kiến)
f) Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân Quả, ...)
g) Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, Buồn-Ngủ
h) Uddhacca: Phóng-Tâm
i) Ahirika: Không Hổ-Thẹn Tội-Lỗi
j) Anottappa: Không Ghê-Sợ Tội-Lỗi.
17. Akusalacittuppãda: Tâm-Ác có 12:
a) 8 Tâm Xan-Tham: Mobhamũla
b) 2 Tâm Sân-Hận: Dosamũla
c) 2 Tâm Si-Mê: Mohamũla
(Xin xem giải rộng 12 Ác Tâm trong quyển "Vi Diệu Pháp" của Ðại-Ðức Hộ-Tông).
18. Tanhã (Tâm Ái-Dục) có 108.
Nếu kể tóm-tắt thì Tâm Ái-Dục có 3 là:
a) Kãmatanhã: Ái-Dục trong cõi Dục-Giới
b) Bhavatanhã: Ái-Dục trong sự muốn sanh về cõi Sắc
c) Vibhavatanhã: Ái-Dục muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới
Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy nhơn cho 6 Căn (Nhãn, Nhĩ, Tĩ, Thiệt, Thân, Ý) thành 18 nội Tâm Ái-Dục.
Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy nhơn cho 6 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) thành 18 Ngoại Tâm Ái-Dục.
Cộng lại thành (18 + 18) = 36 Tâm Ái-Dục.
36 Tâm Ái-Dục Quá-Khứ + 36 Tâm Ái-Dục Vị-Lai + 36 Tâm Ái-Dục Hiện-Tại = 108 Tâm Ái-Dục
19. Kilesa: Phiền-Não có 1500:
Nếu kể tóm-tắt thì Phiền-Não có 10 (xem phía trước).
Nếu kể 1500 Phiền-Não thì tính theo phương-pháp sau đây:
Lấy 1 trong 81 Tâm Phàm (Lokiyacitta) + 52 Tánh (Citasika) + 18 Thành-Lập-Sắc (Nipphanna Rũpa) [*] + 1 Hư-Không (ãkãsa) + 1 Sanh (Jãti) + 1 Già (Jarã) + 1 Tiềm-Thức (Bhavanga) = 75 Phiền-Não
Chia ra 75 Phiền-Não bên Trong + 75 Phiền-Não bên Ngoài , cộng chung thành 150 Phiền-Não.
Ðem nhơn cho 10 Phiền-Não (Kilesa) đã kể phía trước (150 x 10 ) thành 1500 Phiền-Não.
[*] Nipphanna Rũpa tạm dịch là "Thành-Lập-Sắc" là Sắc đã tạo lập phát-sanh lên rồi. Có 18:
1. Pathavĩ: Ðất
2. Ãpo: Nước
3. Tejo: Lửa
4. Vãyo: Gió
5. Cakkhu: Nhãn
6. Sota: Nhĩ
7. Ghãna: Tĩ
8. Jĩvahã: Thiệt
9. Kãya: Thân
10. Rũpa: Sắc (Cảnh)
11. Sadda: Thinh
12. Gandha: Hương
13. Rasa: Vị
14. Photthabba: Xúc
15. Itthindriya: Nữ-Căn
16. Purisindriya: Nam-Căn
17. Hadaya Vatthu: Tâm Chất (Căn của Tim)
18. Jivitindriya: Mạng-Căn
-ooOoo-
SAMMÃSAMBUDDHO (CHÁNH-BIẾN-TRI)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri)?
Bởi Ngài đã thành bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác là bậc hoàn-toàn Giác-Ngộ (Buddho), thông-suốt các Pháp một cách chân-chánh (Sammã) tự Ngài tỏ-ngộ lấy không thầy giáo-hoá (Sãnam).
Ðức Phật tự mình phát-giác, hiểu-biết tường-tận 4 Chân-Lý Vi-Diệu quí-báu là Tứ-Diệu-Ðế (Caturãriyasacca). Bốn Chân-Lý ấy là:
Dukkha Ariyasaccam: Khổ-Ðế
Dukkha Samudaya Ariyasaccam: Tập-Ðế
Dukkha Nirodha Ariyasaccam: Diệt-Ðế
Dukkha Nirodha Gãminipatipadã Ariyasaccam: Ðạo-Ðế
Ariyasacca - Diệu-Ðế - có nghĩa là:
- Pháp Chắc-Thật của bậc Thánh-nhân (Ariyasacca: Chắc-Thật).
- Pháp Chắc-Thật dắt-dẫn cho xa lìa kẻ nghịch. Bậc nào đã đắc Pháp Tứ-Ðế rồi thì các kẻ - nghịch là Phiền-Não không còn tồn-tại trong Thân-Tâm nữa.
- Pháp Chắc-Thật làm cho Quả Thánh phát-sanh tròn đủ, vì bậc nào đã đắc Pháp Tứ-Ðế rồi thì Trí-Tuệ phát khởi thấy rõ: "Ðây là Khổ, đây là Nguyên-Nhân phát-sanh sự Khổ, đây là nơi Diệt-Khổ, đây là con đường đi đến nơi Diệt-Khổ", có thể Ðắc-Ðạo quả Thánh-Nhân dễ-dàng.
- Pháp Chắc-Thật đáng tôn-quí. Tôn-quí vì tính cách hiển-nhiên, chân-thật của Tứ-Ðế. Khổ, thật có trên thế gian này, nguyên-nhân phát-sanh sự Khổ, nguyên-nhân ấy có thật; nơi Diệt-Khổ, nơi ấy có thật; con đường đi đến nơi Diệt-Khổ, con đường ấy có thật.
Khổ-Ðế.
Khổ-Ðế là những điều thống-khổ hiển-nhiên mà chúng-sanh ở đời không ai tránh khỏi được. Có 12 sự Khổ:
Jãti Dukkham: Khổ Sanh
Jãrã Dukkham: Khổ Già
Byãdhi Dukkham: Khổ Ðau
Marana Dukkham: Khổ Chết
Soka Dukkham: Khổ vì Buồn-Rầu, Thương-Tiếc
Parideva Dukkham: Khổ vì Khóc Than, Kể-Lể
Dukkha Dukkham: Khổ vì Sự-Khổ
Domanassa Dukkham: Khổ vì Phiền-Muộn
Upayasã Dukkham: Khổ vì Khó-Chịu, Bực-Tức
Appiyehi Sampayoga Dukkham: Khổ vì Không Ưa mà phải Gần
Piyehi Vippayoga Dukkham: Khổ vì Thương-Mến mà phải Xa Lìa
Yampiccham Na Labhati Tampi Dukkham: Khổ vì Muốn mà Không Ðược như Ý (thất-vọng).
Chữ Khổ (Dukkha) nếu giải tóm-tắt thì chỉ có cái khổ về Ngũ-Uẩn. Vì cố-chấp rằng trong Ngũ-Uẩn này có ta, cho sắc thân này là Ta, là của Ta... và chấp Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn, Thức-Uẩn cũng như thế ấy nên các sự Khổ-Não mới phát-sanh lên được. Một lẽ nữa, Ngũ-Uẩn là nguồn-cội, là nơi chất-chứa các sự Thống-Khổ, vì có thân Ngũ-Uẩn này mới có Khổ-Sanh, Khổ-Già, Khổ-Ðau, Khổ-Chết ...
Tập-Ðế.
Tập-Ðế là nguyên-nhân sanh ra Khổ là lòng Ái-Dục (Tanhã). Lòng Ái-Dục có mãnh-lực ngấm-ngầm trong Tâm của tất-cả phàm-nhân, khiến cho chúng-sanh ước-ao tìm kiếm và cố giữ lấy những vật vừa lòng đẹp-ý, say-mê, quyến-luyến theo Ngũ-Trần không ngừng-nghỉ. Chính lòng Ái-Dục dắt-dẫn chúng-sanh Trầm-Luân từ khiếp này sang kiếp khác trong vòng Sanh Tử Vô-Cùng Vô-Tận.
Lòng Ái-Dục có 3:
1) Kãma Tanhã: Tâm Ham-Muốn, Sa-Mê theo Ngũ-Trần hoặc Uớc Muốn được sanh làm người hoặc làm trời trong 6 cõi Dục-Giới
2) Bhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi trời Sắc-Giới
3) Vibhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới.
Nếu kể rộng, lòng Ái-Dục có 108 như đã có giải phía trước.
Ái-Dục là nguyên-nhân phát-sanh ra các sự Thống-Khổ, nếu Ái-Dục diệt thì các sự Khổ-Não cũng diệt theo.
Diệt-Ðế.
Diệt-Ðế là nơi diệt-trừ hoàn-toàn các sự Khổ tức là Niết-Bàn. Niết-Bàn, theo danh từ Pãli gọi là Nibbãna, Sanscrit gọi là Nirvãna. Ni có nghĩa: Ra Khỏi hoặc Không Còn. Vãnã có nghĩa: Phiền-Não hoặc Tam-Giới.
Niết-Bàn có 32 nghĩa, nhưng nếu giải tóm-tắt, đại-khái có 2 nghĩa sau đây:
* Nếu nói trạng-thái của Tâm thì Niết-Bàn là trạng-thái Tâm đã đoạn-tuyệt, diệt-trừ hẳn Ái-Dục. Lòng Ái-Dục phát sanh lên do sự tiếp-xúc của Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý) với Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Nếu thu-thúc Lục-Căn cho thanh-tịnh, không cho duyên theo, quyến-luyến theo Lục-Trần thì lòng Ái-Dục không còn phát-sanh lên được. Lòng Ái-Dục đã diệt-trừ thì các sự Khổ-Não cũng diệt theo không dư-sót.
* Nếu nói là nơi hoặc cõi, thì Niết-Bàn là nơi tịch tịnh, không có Sanh, Già, Ðau, Chết, là cõi ngoài Tam-Giới (Xuất Thế-Gian).
Ðức Phật và các bậc A-La-Hán đã đắc 2 Niết-Bàn:
Phiền-Não Niết-Bàn (Kilesa Nibbãnam)
Phiền-Não Niết-Bàn (Kilesa Nibbãnam) hoặc Hữu-Dư Niết-Bàn (Saupãdisesa Nibbãnam) là trạng-thái Tâm các bậc Thánh-Nhân ngay trong kiếp chót, đã diệt tận Ái-Dục Phiền-Não, đã được giác-ngộ và giải-thoát, xong vẫn còn Thân, Ngũ-Uẩn.
Ðức Phật đã đắc Phiền-Não Niết-Bàn khi còn ngự dưới cội Bồ-Ðề, toàn thắng bọn Ma-Vương, dứt-tuyệt Tham, Sân, Si, Ngã-Chấp, Tà-Kiến cùng 1500 Phiền-Não và 108 Ái-Dục xa lìa Tâm Ngài như các giọt nước lìa khỏi lá sen.
Khi đã đắc Hữu-Dư Niết-Bàn, Ngài có tuyên-ngôn như vầy:
"Anekajãti samsãram sandhãvissam anibbisam, gahakãram, gavesanto dukkhã jãti punappunam, gahakãraka ditthosi puna geham na kãhasi, Sabbe te phãsukã bhaggã gahakũtam visanhkhatam, Visankhãragatam cittam tanhãnam khayamajjhagãti".
Nghĩa: " Khi Như-Lai đang tìm người thợ (tức Ái-Dục) là người cất cái nhà tức là thân tứ-đại của Như-Lai mà chưa gặp được, Như-Lai hằng bị luân-hồi trải qua vô lượng-kiếp, sự sanh ấy hằng đem những điều Thống-Khổ đến Như-Lai không ngừng-nghỉ".
Này người thợ làm nhà kia? Như-Lai đã tìm thấy ngươi rồi! Từ đây, ngươi không còn cất nhà là thân tứ-đại của Như-Lai được nữa. Sườn nhà là các Phiền-Não của ngươi, Như-Lai đã bẻ gãy rồi; nóc nhà là Vô-Minh mà ngươi đã tạo đó, Như-Lai cũng đã phá tan rồi. Hiện nay, Tâm Như-Lai đã đắc Niết-Bàn, lìa khỏi Sắc-Tướng, Như-Lai đã liễu-chứng quả A-La-Hán là Pháp tiêu-diệt tất-cả Ái-Dục rồi!"
Ngũ-Uẩn Niết-Bàn (Khandha Nibbãnam)
Ngũ-Uẩn Niết-Bàn (Khandha Nibbãnam) hoặc Vô-Dư Niết-Bàn (Anupãdisesa Nibbãnam) là khi tuổi thọ đã đến lúc cùng tận, các bậc Thánh-Nhân ấy rồi khỏi thân Ngũ-Uẩn nhập vào cõi tịch-tịnh không còn sanh tử luân-hồi nữa.
Ðức Phật đem Giáo-lý cao-thượng ra giảng-giải tế-độ chúng-sanh trọn 45 hạ đến khi phận-sự đã viên-dung, Ngài đến gần kinh-thành Kusinara, an ngọa dưới hai cây long-thọ, nhập-định rồi viên-tịch. Lúc ấy Ngài tịch-diệt cả Ngũ-Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, như thế gọi là Ngũ-Uẩn Niết-Bàn.
Có chỗ lại thêm Niết-Bàn thứ ba là Xá-lợi Niết-Bàn (Dhãtu Nibbãnam). Hiện nay, Xá-lợi Ðức Phật ở rải-rác khắp nơi cho Chư-Thiên và nhân-loại chiêm-bái, khi Phật-Giáo tròn đủ 5000 năm, Xá-lợi của Ngài tự nhiên sẽ bay về qui-tụ thành một khối tại Bồ-Ðề Ðạo-Tràng (Buddha Gaya ở Trung Ấn-Ðộ), hóa ra một vị Phật-Tổ như lúc Ðức Thế-Tôn còn tại thế, ngự trên bồ-đoàn thuyết-Pháp trọn 7 ngày đêm. Khi ấy các vị Phạm-Thiên và Chư-Thiên từ trên các cõi trời, tay cầm tràng hoa bay xuống lễ-bái cúng-dường và nghe Pháp, được đắc đạo-quả từ Tu-Ðà-Hườn đến A-La-Hán hằng hà vô số kể.
Ðến đủ 7 ngày, tự nhiên trong kim-thân lửa phát cháy lên thiêu-hoại Xá-lợi, kể từ ngày ấy thì Giáo-Pháp của Ngài hoàn-toàn tiêu-diệt. Như thế gọi là Xá-lợi Niết-Bàn.
Ðạo-Ðế
Ðạo-Ðế là con đường đi đến nơi Diệt Khổ. Con đường ấy là Bát-Chánh-Ðạo (Ariyatthangika Magga) gồm có 8 chi:
Sammã Ditthi: Chánh Kiến là thấy biết chân-chánh
Sammã Sankappa: Chánh Tư-Duy là suy-nghĩ chân-chánh
Sammã Vãcã: Chánh Ngữ là lời nói chân-chánh
Sammã Kammanta: Chánh Nghiệp là sự làm chân-chánh
Sammã Ãjiva: Chánh Mạng là sự nuôi mạng chân-chánh
Sammã Vãyama: Chánh Tinh-Tấn là sự cố-gắng chân-chánh
Sammã Sati: Chánh Niệm là sự ghi nhớ (Niệm) chân-chánh
Sammã Samãdhi: Chánh Ðịnh là định Tâm chân-chánh.
Bát-Chánh-Ðạo chia ra 3 phần:
Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp, Chánh-Mạng thuộc về phần Giới.
Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Ðịnh thuộc về phần Ðịnh.
Chánh-Kiến, Chánh Tư-Duy thuộc về phần Huệ.
Cho nên người hành theo Bát-Chánh-Ðạo cũng gọi là người tu Giới, Ðịnh, Huệ là nền tảng của Phật-Giáo vậy.
Bát-Chánh-Ðạo là Trung-Ðạo (Majjhimã Paitpadã) nghĩa là con đường giữa không thiên về hai cực-đoan không "Khổ-Hạnh" và không "Lợi-Dưỡng":
Kãmasakhallĩkãnuyoga (Lợi-Dưỡng) Say Mê theo Ngũ-Trần,
Atthakilamathãnuyoga (Khổ-Hạnh) Ép xác-thân.
Con đường ấy có năng lực hằng làm cho phát sanh Pháp-Nhãn (Cakkhu) và Trí-Tuệ (Pãna), khiến cho Tâm trở nên thanh-tịnh sáng-suốt mà cứu-cánh là sự Giác-Ngộ và Niết-Bàn.
Tứ-Diệu-Ðế là những Pháp thực-tế, hiển-nhiên mà mọi người đều có thể tự mình xem-xét, thực-nghiệm lấy.
Tứ-Diệu-Ðế là Chân-lý mà Chân-Lý thì không bao giờ hư-hoại hay chịu ảnh-hưởng của thời-gian. Bốn Chân-Lý ấy đã có trong quá-khứ, đang có trong hiện tại và sẽ tồn-tại trong thời vị-lai. Nhưng chỉ có Trí-Tuệ siêu phàm của Ðức Phật mới phát-giác được mà thôi và từ khi Ngài chuyển Pháp-Luân nơi vườn Lộc-Giả tại Isipatãna, 4 Chân-Lý Vi-Diệu ấy mới được phổ-cập đến tất-cả Chư-Thiên và Nhân-Loại.
Dựa theo 4 Chân-Lý ấy, dưới cội Bồ-Ðề, Ðức Phật đã tự mình tỏ-ngộ tường-tận những Pháp xác thật sau đây:
- Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý) là Khổ-Ðế.
- Tâm Ái-Dục phát khởi lên do Lục-Căn là Tập-Ðế.
-Trạng-thái Tâm Ái-Dục bị diệt-trừ không phát-sanh lên được khi Lục-Căn tiếp-xúc với Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) là Diệt-Ðế.
- Phương-Pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để diệt Tâm Ái-Dục là Ðạo-Ðế.
Những Pháp ấy kể tiếp sau đây có thể giải-thích bằng cách tương-tự như trên:
- Lục-Trần bắt đầu từ Sắc-Trần ...
- Lục-Thức bắt đầu từ Nhãn-Thức ...
- Lục-Xúc bắt đầu từ Nhãn-Xúc ...
- Lục-Thọ bắt đầu từ Nhãn-Thọ ...
- Lục-Tưởng bắt đầu từ Nhãn-Tưởng ...
- Sáu Tác-Ý bắt đầu từ Tác-Ý về Sắc-Trần ...
- Sáu Ái-Dục bắt đầu từ Sắc-Ái ...
- Sáu Tâm "Tầm" bắt đầu từ Ý Tâm "Tầm" về Sắc-Trần ...
- Sáu Tâm "Sắc" bắt đầu từ Tâm "Sắc" về Sắc-Trần ...
- Ngũ-Uẩn bắt đầu từ Sắc-Uẩn ...
- 10 đề Kasina (dùng nguyên-chất hoặc màu sắc làm thành vòng tròn để làm đề-mục tham-thiền);
- 10 đề Niệm Niệm;
- 10 đề Tử-Thi;
- 32 Thể của Thân bắt đầu từ Tóc, Lông ...
- 12 Căn (12 ãyatana: 6 Căn và 6 Trần);
- 18 Bản-Chất (12 Dhãtu: Chất Nhãn, ... Chất Sắc (Cảnh), ... Chất Nhãn-Thức vv...);
- 9 Cảnh-Giới Tái-Sanh (Bhava)
- 4 Bậc Thiền bắt đầu từ Sơ-Thiền
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)
- 4 Ðề Vô-Sắc (Không Vô-Biến-Thiên, Thức-Vô-Biến-Thiên, Vô-Hữu Sở-Thiên, Phi-Phi Tưởng Thiên).
Thập-Nhị-Nhân-Duyên, nếu kể xuôi thì bắt đầu từ Vô-Minh và kể ngược bắt đầu từ Lão, Tử.
Theo phương-Pháp trên nếu giải-thích riêng về một nhân-duyên thì:
- Lão, Tử là Khổ-Ðế;
- Sanh là Tập-Ðế;
- Sự Diệt-Tắt của Sanh, Lão, Tử, là Diệt-Ðế;
- Phương-pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để Diệt-trừ Sanh, Lão, Tử là Ðạo-Ðế.
Tất cả những Pháp ấy, luôn cả những Pháp Xuất Thế-Gian, Ðức Phật đã tự mình tìm thấy, hiểu biết tường-tận tinh-vi, không phải do nơi trí tưởng-tuợng mà do nơi Ngài phân-tích rõ-ràng, nhờ Trí-Tuệ hoàn-toàn sáng-suốt không hạn-định, không chướng-ngại, tự Ngài ngộ lấy không ai chỉ dạy cho.
Nói riêng về Tứ-Diệu-Ðế, Ðức Phật đã tri-tỏ đứng-đắn chính-xác những Pháp đáng tri-tỏ là Khổ-Ðế có 12 điều như đã giải phía trước, nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Khổ-Ðế (Parinneyye Dhamme Sammãsambuddho).
Ngài đã tri-tỏ những Pháp đáng diệt-trừ là Tập-Ðế tức là Tâm Ái-Dục có 3 hoặc 108 nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Ái-Dục (Pahãtadde Dhamme Sammãsambuddho).
Ngài tri-tỏ những Pháp đáng làm cho rõ-rệt là Diệt-Ðế mà những bật Trí-Tuệ đang cố-gắng hành theo để đạt 4 Ðạo, 4 Quả và Niết-Bàn nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Diệt-Ðế (Sacchikãtabbe Dhamme Sammãsambuddho).
Ngài tri-tỏ những Pháp đáng nương theo là Ðạo-Ðế tức Bát-Chánh-Ðạo có năng-lực đem đến nơi giải-thoát là Niết-Bàn, nên Ngài có hiệu là Toàn-Trí Ðạo-Ðế (Bhavetabhe Dhamme Sammãsambuddho).
Do nhờ những Ân-Ðức cao-quí vừa giải phía trên nên Ðức Phật có hiệu là Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri).
-ooOoo-
VIJJÃCARANASAMPANNO (MINH-HẠNH-TÚC)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là Vijjãcaranasampanno (Minh-Hạnh-Túc)?
Bởi Ngài đã toàn đắc:
3 cái Giác (Vijjã)
5 cái Giác (hoặc Minh)
15 cái Hạnh (Carana).
Ba cái Giác (Vijjã).
"Giác" hoặc "Minh" (Vijjã) có nghiã là sự hiểu biết cùng tột, tinh-tường.
Ba cái Giác của Phật có kể trong kinh "Bhayabhevara Sutta" (Majjhima Nikãya) như sau:
Pubbe Nivãsãnussati Vijjã:
Túc-Mạng-Minh là Tuệ biết rõ những tiền-kiếp của Ngài và của tất-cả chúng-sanh.
Ðức Phật tri-tỏ căn nguyên của thân Ngũ-Uẩn của Ngài từ một kiếp đến vô số kiếp quá-khứ: trong kiếp nào Ngài sanh trong cảnh nào, khi ấy có tên họ chi, dòng giống nào, sắc diện thế nào, tuổi thọ được bao nhiêu, khi thác rồi sanh trong cảnh nào... Ngài đều rõ biết từng chi-tiết như thế trong mỗi tiền-kiếp của Ngài và luôn của mỗi chúng-sanh nữa.
Ðức Phật đắc Túc-Mạng-Minh lúc đầu hôm trong đêm thành đạo dưới cội Bồ-Ðề.
Cutũpapãta Vijjã:
Thiên-Nhãn-Minh có 2 nghĩa sau đây:
a) Sanh-Tử-Minh là có nhãn-thông thấy rõ sự sanh-tử luân-hồi của chúng-sanh đều do nghiệp (Ác hoặc Thiện) cấu-tạo nên.
Chúng-sanh nào làm những nghiệp ác do Thân, Khẩu, Ý, chấp theo tà kiến sẽ tái-sanh trong các cảnh khổ (Duggati) là cảnh A-Tu-La, Ngã-Quỉ, Súc-Sanh, Ðịa-Ngục.
Chúng-sanh nào làm những nghiệp lành do Thân, Khẩu, Ý, nói theo chánh-kiến sẽ tái-sanh vào cõi Yên-Vui (Sugati) là cõi trời và cõi người (người có nhiều hạnh-phúc).
Ðức Phật thấy rõ và biết trước cảnh-giới tái-sanh của mỗi chúng-sanh tùy theo nghiệp dữ hoặc lành mà chúng-sanh ấy đã tạo.
b) Thiên-Nhãn-Thông là có nhãn-thông thấy rõ tất-cả Chư-Thiên, nhân-loại và các vật.
Dầu sâu dưới đất, trong lòng núi hay bị che-án, dầu hữu-hình hoặc vô-hình, dầu gần hoặc xa đến đâu, Ngài cũng đều thấy rõ như ngay trước mắt.
Nhưng đây chỉ nói đến Sanh-Tử-Minh là cái Minh mà Ðức Phật đã đắc vào khoảng giữa đêm Ngài thành đạo.
Asavakkhaya Vijjã:
Lậu-Tận-Minh là Tuệ biết rõ các Pháp Trầm-Luân mà diệt tận. Pháp Trầm-Luân (ãsava) có 4:
a) Kãmãsava: Trầm-Luân trong Ái-Dục
b) Bhavãsava: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Tà-kiến
d) Avijjãsana: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
Riêng về Ái-Dục, Ðức Phật đã thấy rõ, hiểu biết tường-tận đây là Khổ, đây là nguyên-nhân phát-sanh sự Khổ, đây là nơi diệt Khổ, đây là con đường đi đến nơi diệt Khổ.
Về các Pháp Trầm-Luân khác là Tam-Giới, Tà-Kiến, Vô-Minh, Ngài cũng hiểu thấy rõ-rệt, Pháp này là Pháp Trầm-Luân, Pháp này là nhân sanh sự Trầm-Luân, đây là nơi diệt Pháp Trầm-Luân, đây là phương-pháp diệt trừ Pháp Trầm-Luân.
Ðức Phật đắc Lậu-Tận-Minh vào lúc rạng đông đêm thành đạo. Ðạo quả viên thành, Ngài thành bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác là bậc tối-thượng, thầy cả Chư-Thiên và nhân-loại, là bậc xứng-đáng cho chúng-sanh tôn-trọng, lễ-bái cúng-dường.
Năm cái Giác (hoặc Minh).
Ngoài 3 cái Giác vừa kể trên, Ðức Phật còn đắc 5 cái Giác khác (hoặc Minh), có kể trong Kinh "Ambattha Sutta " thuộc bộ Trường-A-Hàm "Dĩgha Nikãya".
Năm cái Giác ấy là:
Vipassanã Vijjã:
Minh-Sát-Minh là tuệ Quán-tưởng các Pháp hành (Sankhãra) là Danh và Sắc (Nãma Rũpa) theo 10 Pháp Minh-Sát (Vipassanã) (Xin xem giải rộng trong quyển "Thanh-Tịnh-Kinh" của Ðại-Ðức Hộ-Tông):
Sammasanannãna: Huệ Quán-Tưởng các Danh và Sắc đều Vô-Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã, đúng theo thật tướng.
Udayabbayannãna: Huệ Quán-Tưởng sự tan rã, phân tán của Danh-Sắc.
Bhangannãna: Huệ Quán-Tưởng sự tan rã, phân-tán của Danh-Sắc.
Bhayannãna: Huệ Quán-Tưởng cho thấy Danh-Sắc đáng ghê-sợ như là thú dữ.
Adinavannãna: Huệ Quán-Tưởng cho thấy rõ tội-lỗi của Danh-Sắc như người thấy nhà mình bị lửa cháy, tìm đường thoát ra cho khỏi.
Nibbidãnnãna: Huệ Quán-Tưởng cho phát sanh lòng chán-nản Danh-Sắc.
Muncitukamyatãnnãna: Huệ Quán-Tưởng cho phát sanh Tâm mong mỏi thoát khỏi Danh-Sắc, cũng như cá mắc lưới muốn thoát thân, như kẻ tù-tội muốn lìa khỏi cùm-xích lao-tù.
Patisankhãrannãna: Huệ Quán-Tưởng tìm phương thế giải-thoát khỏi Danh-Sắc.
Sankhãrupekkhã Nãna: Huệ Xả là không còn chấp Danh-Sắc nữa, không vui, không buồn ví như người bỏ hẳn vợ, chẳng còn mến tiếc nữa, dầu người vợ ấy có tư-tình với người nào mình cũng thản-nhiên.
Anulomannãna: Huệ Thấy Rõ và dốc lòng thực-hành xuôi theo Thánh-Ðạo.
Minh-Sát ẩn tàng trong tâm Ðức Phật từ khi Ngài chưa xuất-gia tầm đạo, nhưng lúc ấy chưa được uyên-viễn tinh-vi.
Chính nhờ cái Minh còn thô-thiển ấy mà khi còn là Thái-tử Sĩ-Ðạt-Ta, Ngài đã nhận-thức được những điều thống-khổ của sự Già, Ðau, Chết khi trông thấy một người già, một bệnh nhân, một tử-thi trong lúc Ngài đi du-ngoạn ngoài thành. Lúc trở về nội cung, Ngài suy-xét mãi về cái thân Ngũ-Uẩn Vô-Thường, phát Tâm chán-nản thế-sự phù-du, quả-quyết cắt-ái ly-gia mong tìm đường giải-thoát.
Minh-Sát-Minh là cái Giác đầu tiên trong 8 cái Giác mà Ðức Phật đã đắc vì nhờ Minh-Sát-Minh mà Ngài mới hoàn-toàn tri-tỏ lý Tứ-Diệu-Ðế.
Sau khi cảm thắng Ma-vương dưới cội Bồ-Ðề do nhờ 10 Pháp Ba-La-Mật, Ngài liền nhập Diệt-Thọ-Tưởng-Ðịnh (Samãpatti) lúc xuất-định, Ngài dùng Minh-Sát-Minh chiếu vào các Pháp hành (Hữu-Vi) và thấy rõ Danh-Sắc đều là Vô-Thường (Aniccam), Khổ-Não (Dukkham), Vô-Ngã (Anattã), Ngài ví Ngũ-Uẩn theo Lý Tứ-Diệu-Ðế như vầy:
Khổ-Ðế: Ngũ-Uẩn là chúa-tể các sự khổ rất đáng sợ ví như 5 kẻ nghịch hung-bạo.
Tập-Ðế: 3 cái Tâm Ái-Dục ví như 3 tên dẫn đường chỉ nẻo cho 5 kẻ nghịch ấy.
Diệt-Ðế: Niết-Bàn là khí cụ để ngăn-cản, chặn-lối đám nghịch ấy.
Ðạo-Ðế: Bát-Chánh-Ðạo là phương-Pháp diệt-trừ đám nghịch ấy.
Khi tìm thấy căn-nguyên của sự khổ và phương-Pháp diệt-tận sự khổ bằng Minh-Sát-Minh rồi, Ðức Bồ-Tát mới xa-lìa được 3 cái Sử (Samyojana): Pháp thằng-thúc đầu tiên là Thân-Kiến (Sakkãya Ditthi), Hoài-Nghi (Vicikicchã) và Giới-Cấm-Thủ (Silibbattaparãmãsa: Chấp theo tập-quán, theo lệ cúng-tế thần-thánh) bằng Tu-Ðà-Hườn Ðạo-Tuệ (Sotãpatthi Maggannãna).
Rồi Ngài xa-lìa cái thô-siển của 2 Sử nữa là: Vui thích Tình-Dục (Kãmacchanda) và Thù Oán, Mong Hại người (Byãpãda) bằng Tu-Ðà-Hàm Ðạo-Tuệ (Sakidãgãmi Maggannãna).
Ngài lại xa-lìa cái vi-tế của 2 sử kể trên và diệt-tận trọn-vẹn cả 2 sử ấy bằng A-Na-Hàm Ðạo-Tuệ (Anãgãmi Maggannãna).
Kế tiếp, Ngài xa-lìa cả 5 sử cuối-cùng là:
Rũparãga: Vui-Thích cảnh Sắc
Arũparãga: Vui-Thích cảnh Vô-Sắc
Mãna: Cống-Cao, Ngã-Mạn
Uddhacca: Phóng-Tâm
Avijjã: Vô-Minh
bằng A-La-Hán Ðạo-Tuệ (Arahatta Maggannãna).
Phiền-Não chướng ngại đã xa-lìa, Thân Tâm Bồ-Tát trở nên hoàn-toàn trong sạch, A-La-Hán quả phát-sanh lên và 7 cái Giác khác cũng tuần tự khởi-phát lên tròn đủ đến Tâm Ngài.
Manomayiddhi Vijjã:
Hóa-Tâm-Minh là cái Tâm có thể biến Tâm mình ra thành thân-hình như ta rút cái tim của cây cỏ ống ra khỏi cộng vậy.
Ðức Phật dùng Tâm lực tự hóa ra khi thì làm người già, lúc thì làm người trẻ... biến hiện dưới hình thể, khác nhau tùy theo ý-muốn của Ngài.
Idhividhi Vijjã:
Thần-Thông-Minh là cái Minh có thể dùng các Pháp thần-thông. Ðức Phật có thể biến-hóa một người thành ra nhiều người hoặc nhiều người thành ra một người.
Ngài có thể tàng-hình, độn-thổ, đi trên nước như trên đất bằng, đi ngang qua vách núi như đi trong khoảng trống, ngồi xếp bằng bay trên hư-không, lấy tay rờ mặt trời mặt trăng, làm cho đường gần thành ra xa, xa thành gần, vật này biến thành vật khác, vv...
Dibbasota Vijjã:
Thiên-Nhĩ-Minh là cái Minh có thể nghe các thứ tiếng, dầu xa, dầu gần. Ðức Phật có thể nghe tiếng các loài (Noãn, Thai, Thấp, Hoá) nhất là loài người và Chư-Thiên, dầu tiếng ấy ở xa đến đâu Ngài cũng nghe được cả.
Cetopariya Vijjã:
Tha-Tâm-Thông là Tuệ biết rõ ý-tưởng hoặc tâm-thức của người khác. Ðức Phật đã biết rõ Tâm của tất-cả chúng-sanh: Tâm người này còn Tham, Sân, Si; Tâm người kia đã dứt Phiền-Não; người này đang tưởng điều Ác; người kia đang nghĩ điều Lành. Nhờ cái Minh ấy mà ai đến gần, Ngài liền biết rõ người ấy muốn tìm Ngài để làm gì, hỏi chi, vv...
Năm cái Giác vừa kể trên hiệp với 3 cái Giác đã giải phía trước, thành ra 8 cái Giác (hoặc Minh) mà Ðức Phật đã đắc.
Hạnh (hoặc Hành: Carana).
Hạnh (hoặc Hành: Carana) là phương-pháp mà bậc phạm hạnh phải hành theo để đi đến nơi giải-thoát là Niết-Bàn.
Pháp Hành có 15:
a) Sĩla Samvara: Thu-Thúc theo Giới-Hạnh là giữ Tứ-Thanh-Tịnh-Giới (Patimokkha) cho trọn-vẹn Tinh-Nghiêm.
b) Indriya Samvara: Thu-Thúc Lục-Căn cho Thanh-Tịnh là giữ Tâm cho bình-thản không vui, không buồn, không cho cảnh trần chi-phối khi Lục-Căn tiếp-xúc với Lục-Trần.
c) Bhojan Mattannutã: Có sự Tiết-Ðộ trong vật thực là không độ nhiều quá hoặc ít quá, chỉ độ một buổi ngọ thôi.
d) Jãgariyãnuyoyo: Luôn Luôn giữ Tâm-Thần Tỉnh-Táo không uể-oải là hằng Thức-Tỉnh, không Mê Ngủ.
e) Saddhã: Có Ðức-Tin Chân-Chánh là tin Lý Nhân-Quả (tin Nghiệp và tin Quả), tin nơi sự Giác-Ngộ của Ðức Phật và tin nơi 37 phần-Pháp Bồ-Ðề.
f) Sati Sampajanna: Có sự Ghi Nhớ Chân-Chánh và biết mình là Ghi Nhớ theo Tứ-Niệm-Xứ (Niệm-Thân, Niệm-Thọ, Niệm-Tâm, Niệm-Pháp) và biết rõ những hành-vi của mình về Thân, Khẩu, Ý.
g) Hiri: Hổ-Thẹn Tội-Lỗi đã làm.
h) Ottappa: Ghê-Sợ Tội-Lỗi, không dám tái phạm.
i) Bãhusacca: Nghe nhiều, Học Rộng (về Kinh, Luật, Luận và về các Pháp Giải-Thoát).
j) Viriya: Có sự Tinh-Tấn đúng theo Tứ-Chánh-Cần (Samappadhãna):
Cố-gắng diệt-trừ các Pháp Ác đã phát sanh nơi Thân-Tâm.
Cố-gắng ngăn-ngừa các Pháp Ác chưa sanh không cho xâm-nhập vào Thân.
Cố-gắng làm cho tăng-trưởng các Pháp Lành đã có (hoặc làm hoàn-bị những Pháp Hành đã đắc).
Cố-gắng làm cho phát sanh các Pháp Lành chưa có (hoặc hành các Pháp Hành chưa đắc).
k) Pathama Jhãna: Hành theo Sơ-Thiền.
l) Pannã: Có Trí-Tuệ hiểu biết thấy chân-chánh, là hiểu thấy theo 3 thật tướng của vũ-trụ (Vô-Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã) theo lý Tứ-Diệu-Ðế.
m) Dutiya Jhãna: Hành Nhị-Thiền.
n) Tatiya Jhãna: Hành cho đắc Tam-Thiền.
o) Catuttha Jhãna: Hành cho đắc Tứ-Thiền.
Nhờ toàn đắc 8 cái Giác mà Ðức Phật phát-sanh Trí-Tuệ Vô-Biên, nhờ hành viên mãn 15 cái hạnh mà Ngài phát Tâm Ðại-Bi Vô-Lượng.
Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức Phật đã tự mình đến bờ Giác-Ngộ, nhờ lòng Ðại-Bi mà Ngài dắt-dẫn chúng-sanh đến bờ Giải-Thoát.
Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức Phật đã chứng bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác, nhờ lòng Ðại-Bi mà Ngài thực-hành trọn-vẹn phận-sự của một bậc Chánh-Biến-Tri.
Do nhờ Trí-Tuệ mà Ðức Phật tri-tỏ Pháp nào có sự lơị-ích; Pháp nào có sự nguy-hại đến chúng-sanh, nhờ lòng Ðại-Bi mà Ngài khuyên bảo chúng-sanh lánh xa những điều tội-lỗi, khuyến-khích chúng-sanh làm những điều lành.
Nói tóm lại: Do nhờ 8 cái Giác và 15 cái Hạnh của Ðức Phật mà các hàng tứ-chúng môn-đệ của Ngài được dắt-dẫn chu-đáo trên con đường chân-chánh, lánh xa những con đường sai-lầm như tu khổ-hạnh, tà-kiến, lợi-dưỡng, vv...
Do nhờ những Ân-Ðức Cao-Quí vừa giải phía trên, nên Ngài có hiệu là VIJJãCARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc).
SUGATO (THIỆN-THỆ)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là SUGATO (Thiện-Thệ)?
- Bởi ngài:
* Có sự hành-trình Toàn-Hảo (Sobhana Gamana)
* Có ngôn-ngữ Chân-Chánh (Sammãgadattã)
Sự hành-trình Toàn-Hảo.
Sự hành-trình Toàn-Hảo đây, ý nói có 4 điều:
Tướng đi đẹp-đẽ.
Ðức Phật có tướng đi vừa oai-hùng, vừa trang-nghiêm tề-chỉnh, khiến cho chúng-sanh trông đến phải ngưỡng-mộ, tôn-kính và vui-thích nhìn xem.
Sau khi thành-đạo dưới cội Bồ-Ðề, Ngài cất bước thẳng tiến về phía vườn Lộc-Giả (Isipatana) để độ năm thầy Kiều-Trần-Như, có vô số Chư-Thiên và cầm-thú trông thấy diện-mạo quang-minh hào quang rực-rỡ và tướng đi trang-nghiêm đẹp-đẽ của Ðức Phật, đồng thanh phát Tâm thỏa-thích hoan-hô ca-tụng. Từ trên không, Chư-Thiên rắc hoa thơm ngào-ngạt và phổ tấu những bản nhạc du-dương cúng-dường tùng bước đi của Ngài. Dưới trần, muôn thú hân-hoan theo gót chân Ngài, chim chóc bay lượn, hót mừng ca tụng đấng Ðại-Bi... Vạn-vật như bừng lên một ánh-sáng huy-hoàng và rộn-rịp lên một niềm hân-hoan đón chào đấng Cứu-Thế, từ đây châu-du trọn 45 năm trường tế-độ quần-sanh...
Lại nữa, mỗi khi Ðức Thế-Tôn ngự đến xóm làng nào, đều có Chư-Thiên và đông người cung-kính đi theo nhìn xem tướng trang-nghiêm tốt-đẹp phát sanh Tâm ngưỡng-mộ tôn-sùng.
Cần nói thêm rằng có nhiều hạng chúng-sanh sùng-bái tôn-kính Ðức Phật vì Ngài có 4 Pháp Chan-Hòa (Pamãna) nghĩa là dồi-dào lai-láng sự tốt-đẹp, cao-quí như sau đây:
a) Sắc Chan-Hòa (Rũpa Pamãna): Dung-nhan Ngài tốt-đẹp phi-phàm trọn đủ 32 tướng hảo và 80 tướng phụ (xem giải rộng trong quyển "32 tướng Ðức Phật" của Ðại-Ðức Bửu Chơn), Chư-Thiên và Nhân-loại không ai sánh bằng.
b) Pháp Chan-Hòa (Dhamma Pamãna): Các Pháp mà Ngài đã tỏ-ngộ thật vi-diệu thậm-thâm và đúng chân-lý, các bậc thiện trí-thức khác không thể sánh bằng.
c) Thinh Chan-Hòa (Gosa Pamãna): Tiếng nói của Ngài thanh-tao, vang ngân như tiếng của trời Phạm-Thiên và êm dịu rõ-ràng như tiếng con chim quốc (Karavika)
d) Tâm Vui Thích Bình-Ðẳng Chan-Hòa (Luka Pamãna): Ngài có Tâm bình-đẳng, dầu bậc Vua chúa hoặc thường dân, người giàu sang hoặc kẻ bần hàn đem vật chi đến cúng dường, Ngài cũng đều thọ-lãnh một cách vui-vẻ hồn-nhiên không phân biệt giai-cấp của thí chủ và vật cúng cao quý hay thấp-hèn.
Vì thế, nên có người phát Tâm hoan-hỷ, ưa thích sắc tướng đẹp-đẽ phi-phàm của Ðức Thế-Tôn rồi xuất-gia vào tu theo Giáo-Pháp hoặc tin lời giáo-huấn của Ngài mà làm điều phước thiện.
Có người cảm mến Ngài vì những Pháp hợp-lý, cao-thượng, chân chánh mà Ngài đã giảng dạy rồi trở thành môn-đồ của Ngài.
Có người ưa-thích tiếng nói tao-nhã êm-ái của Ngài rồi tu theo Ngài.
Có người lại mến Tâm bình-đẳng của Ngài trong sự thọ-nạp vật-dụng cúng-dường rồi thọ-giáo với Ngài.
Do nhờ 4 "Pháp Chan-Hòa" cao-quí vừa kể trên mà Ðức Thế-Tôn ngự đến nơi nào, cũng hằng làm cho đại chúng phát Tâm tín-ngưỡng sùng mộ Ngài.
Chúng-sanh nào chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo, khi gặp Ngài rồi liền phát lòng cảm-mến tin-tưởng.
Chúng-sanh nào đã tu theo Giáo-Pháp của Ngài rồi, khi nghe Ngài thuyết-Pháp, hoặc nhìn sắc thân, hoặc nghe tiếng nói, hoặc cảm-thông Tâm bình đẳng của Ngài, lại càng có đức tin dũng-mãnh và thực-hành tinh-tấn nhưng Pháp mà Ngài đã giáo-huấn.
Ði đến nơi trong sạch.
Ðức Phật hằng đi đến nơi trong sạch vì nơi nào dầu ô-uế nhơ-bẩn đến đâu, khi Ngài ngự đến đều trở nên sạch-sẽ vui-tươi.
Như tích xưa, thành Vesãli bị bọn phi-nhân là Ngạ-Quỉ, dạ-xoa... hoành-hành, gieo rắc bệnh dịch-hạch làm cho dân chúng chết-chóc vô-số đến nỗi không kịp chôn, mùi tử-khí xông lên nồng-nặc. Trước khi Ðức Thế-Tôn ngự đến thành ấy, Chư-Thiên hay biết liền tuôn một đám mưa lành rất lớn, quét tan các hàng phi-nhân và mùi tử-khí thành Vesãli trở nên sạch-sẽ an-lành.
Ði con đường chân-chánh.
Ðức Phật đã đi con đường chân-chánh, thanh-tịnh là Thánh-Ðạo (Ariya Magga), không hề quay lại tìm các Phiền-Não trọng-đại và thụy-miên mà Ngài đã diệt-trừ do nhờ đạo-quả Tu-Ðà-Hườn, Tu- Ðà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán.
Con đường chân-chánh ấy trọn 4 A-Tăng-Kỳ và 100 ngàn đại-kiếp quả địa cầu, Ðức Thế-Tôn đã đi từ lúc còn là Bồ-Tát, được Ðức Phật Nhiên-Ðăng (Dipankãra) thọ-ký cho đến khi thành bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác dưới cội Bồ-Ðề với hoài-bảo thiết-tha cứu-vớt nhân-loại ra khỏi mê-tận khổ-ải, Ngài đã hành viên-mãn 30 Pháp Ba-la-mật và đã gian-lao khổ-nhọc trên con đường trung-đạo, không thiên về những quan-niệm cực-đoan là "Lợi-Dưỡng" và "Khổ-Hạnh", "Thường-Kiến" và "Ðoạn-Kiến".
Ði đến nơi an-lạc.
Ðức Phật đã đi đến nơi an-lạc, vô sanh bất-diệt là Ðại Niết-Bàn.
Trước ngày thành-đạo, Ngài chưa tùng đến nơi tịch-tỉnh ấy, nhưng Ngài không mảy-may e-ngại, vì Thân-Tâm đã được hoàn-toàn trong sạch thanh-tịnh, không còn Phiền-Não. Phiền-Não nào Ngài đã diệt-tận rồi, Phiền-Não ấy không còn trở lại Tâm Ngài và Ngài cũng không bao-giờ quay lại tìm Phiền-Não ấy.
Ngôn-ngữ chân-chánh.
Ngôn-ngữ chân-chánh, ý nói: Những huấn-từ chân-thật đúng theo Giáo-lý, nhằm vào sự lợi-ích và sự giải-thoát của chúng-sanh mà Ðức Phật thốt ra tùy theo trường hợp và tùy theo hoàn-cảnh thích-đáng.
Ngài hiểu biết tường-tận lời nào theo chân-lý hoặc không đúng theo chân-lý, lời nào có lợi-ích hoặc không có lợi-ích, lời nào vừa lòng thích-ý chúng-sanh.
Lời nào không đúng theo chân-lý, không lợi-ích và không vừa lòng chúng-sanh, Ngài không bao giờ thuyết.
Lời nào đúng theo chân-lý nhưng không có lợi-ích và không vừa lòng chúng-sanh, Ngài không bao giờ thuyết.
Lời nào đúng theo chân-lý, có lợi-ích nhưng không vừa lòng chúng-sanh, Ngài biết tùy cơ-hội thuận-tiện để thuyết.
Lời nào không đúng theo chân-lý nhưng không có lợi-ích, dầu vừa lòng chúng-sanh, Ngài không bao giờ thuyết.
Lời nào đúng theo chân-lý, có lợi-ích và vừa lòng chúng-sanh, Ngài biết lựa cơ-hội thuận-tiện để thuyết.
Như một ngày nọ, đi ngang qua cánh rừng nhỏ gần thành Kosambi, Ðức Thế-Tôn cầm một nắm lá trong tay và phán hỏi Ðức A-Nan như vầy:
"Này A-Nan lá cây mà Như-lai nắm trong tay đây và lá cây trong rừng này, lá nào nhiều hơn?"
Ðức A-Nan-Ða bèn bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế-Tôn! lá cây mà Ðức Thế-Tôn nắm trong tay rất ít, lá cây trong rừng thật là nhiều".
Ðức Phật mới phán rằng:
"Này A-Nan-Ða! cũng như thế ấy, những Pháp mà Như-lai đã thấy rõ, biết rõ thật là nhiều ví như lá cây trong cánh rừng này, còn những Pháp mà Như-lai đã thuyết ra cho chúng-sanh được biết, chỉ ít-ỏi như nắm lá trong tay Như-lai vậy".
"Tại sao thế?"
"Bởi vì các Pháp mà Như-lai không thuyết ra là những Pháp không đem lại sự lợi-ích, không liên-hệ chi đến sự hành phạm-hạnh, đến sự diệt-tận Phiền-Não, đến sự yên-lặng của Tâm-hồn, đến sự phát-sanh Trí-Tuệ viên-dung về Niết-Bàn. Vì vậy, Như-lai không thuyết ra.
Còn các Pháp mà Như-lai đã thuyết là những Pháp chỉ rõ đây là khổ, đây là nguyên-nhân phát-sanh sự khổ, đây là nơi diệt-khổ và đây là con đường đi đến nơi diệt-khổ. Vì các Pháp ấy đem lại sự lợi-ích liên-hệ đến đời sống thanh-cao, đến sự diệt-tận Phiền-Não, đến sự yên-lặng của Tâm-hồn, đến sự phát-sanh Trí-Tuệ viên-dung đến Niết-Bàn".
Như thế, ta nhận thấy rằng mặc dầu Ðức Phật đã hiểu biết tường tận Vô-Lượng Pháp, nhưng Ngài chỉ phổ-cập những Pháp nào đúng theo chân-lý và đem sự lợi-ích và sự giải-thoát đến cho chúng-sanh thôi.
Do nhờ những Ân-Ðức cao-quí vừa kể trên nên Ngài có hiệu là SUGATO (Thiện-Thệ).
LOKAVIDU (THẾ-GIAN-GIẢI)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải)?
Bởi Ngài thông suốt cả Tam-Giới. "Tam-Giới" nghĩa là 3 cảnh giới mà chúng-sanh đi thọ sanh:
- Kãmabhava: Dục-Giới
- Rũpa Bhava: Sắc-Giới
- Arũpa Bhava: Vô-Sắc-Giới.
Dục-Giới là cảnh giới mà chúng-sanh còn vui thích, ưa-muốn Ngũ-Trần là Sắc-Trần, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Dục-giới gồm 11 cõi là Ðiạ-Ngục, A-Tu-La, Ngã-Quỉ, Súc-sanh, Nhân-loại, và 6 cõi trời Dục-Giới.
Sắc-Giới là cảnh mà chúng sanh hưởng sự an-vui do nơi quả-phúc của Thiền-Ðịnh Hữu-Sắc. Tùy theo năng lực của bậc thiền đã đắc tại cõi-trần, các vị đã đắc từ Sơ-Thiền đến Ngũ-Thiền tái- sanh về 16 cõi trời Sắc-Giới không còn phân-biệt nam nữ và sống lâu từ một phần ba (1/3) kiếp đến 16.000 kiếp quả địa cầu.
Vô-Sắc-Giới là cảnh giới mà chúng-sanh không còn có sắc-tướng nữa, chỉ còn Tâm tinh-khiết, không nhơ-bẩn. Các vị trời này đã đắc 4 bậc thiền Vô-Sắc khi còn làm người ở cõi trần, tái-sanh về 4 cõi Vô-Sắc và tuổi thọ từ 20.000 kiếp đến 84.000 kiếp quả địa cầu.
Trong Tam-Giới vừa kể, có cõi chúng-sanh chỉ có Nhất-Uẩn, cõi có Tứ-Uẩn và cõi có đủ Ngũ-Uẩn nhưng không thoát khỏi sự thọ-sanh do 4 cách là Noãn-Thai, Thấp-Hóa và vẫn còn dính mắc mãi trong vòng sanh-tử luân-hồi.
Tam-Giới thuộc về thế-gian còn xuất thế-gian là Niết-Bàn.
Pháp nào có sanh và có diệt, thể-trang nào bị chi-phối bởi lẽ vô-thường là phải bị tiêu-hoại tan-rã gọi là thế-gian (Loka).
Thế-gian có 3:
Sankhãra Loka: Pháp Hành Thế-Gian
Satta Loka: Chúng Sanh Thế-Gian
Ãkasa Loka: Hư-Không Thế-Gian
Pháp hành thế-gian.
Ðức Phật thông-suốt các Pháp-hành (là những pháp-hữu-vi, phát sanh lên do nhân-duyên tạo-tác khác nhau) thế-gian kể sau đây:
1. Ãhãrasankhãra Lakam: tất cả chúng-sanh đều nhờ thực-phẩm mà tồn-tại.
2. Nãmarũpa Sankhãtam:
- Nãma: Danh gồm có:
- Citta: 81 Tâm Vướng
- Cetasika: 52 Tâm Sở
(Xem chi tiết "Tâm Vướng" "Tâm Sở" và 24 Phụ-Sắc trong quyển Vi-Diệu-Pháp của Ðại-Ðức Hộ-Tông)
- Rũpa: Sắc gồm có 4 Tứ Ðại-Sắc (Mahãbhũta Rũpa) là Ðất, Nước, Gió, Lửa ; và 24 Phụ-Sắc (hoặc liên kết sắc: Upãdãya Rũpa).
Danh-Sắc cùng hiệp với nhau, nương với nhau thành lập nên thân hình hữu-trí được. Ví như chiếc thuyền và người lái thuyền, chiếc thuyền nhờ có người lái mới đi được. Hoặc như người bại và người mù, người bại nhờ chân của người mù, người mù nhờ mắt của người bại mới có thể đi và thấy đường được.
3. Tividhavedanã Sankhãtam: Tam Thọ Hành vi:
- Thọ Vui
- Thọ Khổ
- Thọ-Xả (không vui, không khổ).
4. Caturãhãra Sankhãtam: Hành vi bốn món vật thực là:
a) Kabalinkãrãhãra: Vật thực hữu-hình như cơm, bánh trái... gồm có tứ đại, màu sắc, mùi, vị và chất bổ dưỡng.
b) Phassãhãra: Vật thực tiếp xúc là sự tiếp xúc Lục-Căn và Lục-Trần làm cho Thọ (Vedanã) phát sanh lên.
c) Manosancetanãhãra: Tác-ý Thiện, Ác là vật thực dễ đưa đi tái-sanh trong Tam-Giới.
d) Vinnãnãhãra: Tâm thức là vật thực dễ phát sanh Danh-Sắc trong Lục-Thọ-Sanh.
5. Pancupãdãnakkhandhã Sankhãtam: Hành-vi-thủ (Upãdãnã) là cố chấp, giữ chặt 5 Uẩn: Sắc-Uẩn, Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn và Thực-Uẩn cho là Ta, là thân Ta, là của Ta.
6. Chãjjhattikãyatana Sankhãtam: Hành-vi Lục-Căn (ãyatana) là Nhãn-Căn, Nhĩ-Căn, Tỉ-Căn, Thiệt-Căn, Thân-Căn và Ý-Căn
7. Sattavinnãnatthiti Sankhãtam: Hành-vi về chỗ trú ngụ của thức có:
a) Nãnattakãyã Nãnattasanni: Có chúng-sanh thân hình khác nhau và tư-tưởng cũng khác nhau (như Nhân-Loại, Chư-Thiên, Ngã-Quỉ)
b) Nãnattakãyã Ekattasanni: Có chúng-sanh thân hình khác nhau nhưng tư-tưởng giống nhau (như Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-Giới thuộc hạng Sơ-Thiền là Hành-Kiến-Thiên (Parisajjã), Hành-Thần-Thiên (Parohitã) và Ðại-Phạm-Thiên (Mahã Brahmã)
c) Ekatta Kãyã Nãnattasanni: Có chúng-sanh thân hình giống nhau nhưng tư-tưởng khác nhau (như Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-Giới thuộc về hạng Nhị-Thiền là:
Parittãbhã: Thiều-Quang-Thiên
Appamãnãbhã: Vô-Lượng-Quang-Thiên
Abhassarã: Thân-Quang-Thiên
d) Ekattakaya Ekattasanni: Có chúng-sanh thân hình giống nhau và tư-tưởng cũng giống nhau. Chư-Thiên trong 3 cõi Sắc-giới thuộc hạng Tam-Thiền là:
Paritta Subhã: Thiều-Hảo-Thiên
Appamãna Subhã: Vô-Lượng-Hảo-Thiên
Subha Kinhã: Ða-Hảo-Thiên
Và Chư-Thiên trong 5 cõi Tịnh-Cư-Thiên (Suddhãvãsa) thuộc về Tứ-Thiền là chỗ ngụ của các bậc A-Na-Hàm đã diệt lòng tham muốn cảnh dục, chờ đắc A-La-Hán nhập Niết-Bàn luôn nơi ấy chớ không trở lại cõi trần nữa nên gọi là hạng bất lai. Năm cõi Tịnh-cư-thiên là:
Avihã: Vô-Phiền-Thiên
Atappã: Vô-Nhiệt-Thiên
Suddassã: Hảo-Thân-Thiên
Suddassi: Hảo-Kiến-Thiên
Akanithakã: Vô-Thiểu-Thiên
e) Akasanancayatana: Có chúng-sanh mà tư-tưởng vượt qua khỏi cảnh Sắc, nhập vào cõi Vô-Sắc thứ nhất là "Không Vô-Biến-Thiền", lấy hư không vô tận làm cảnh Giới.
f) Vinnãnancãyatana: Có chúng-sanh tư-tưởng vượt qua cõi "Không Vô-Biến-Thiền", nhập vào cõi Vô-Sắc thứ nhì là "Thức Vô-Biến-Thiền", lấy Thức vô-tận làm cảnh Giới.
g) Akincannãyatana: Có chúng-sanh tư-tưởng vượt qua khỏi "Thức Vô-Biến-Thiền", nhập vào cõi vô-sắc thứ ba là "Vô-Hữu-Sơ-Thiền", lấy "sự không có vật chi cả" (dầu vật chi hết sức nhỏ-nhen vi-tế cũng không có) làm cảnh Giới.
8. Atthalokadhamma: Hành-Vi Tâm của phàm nhân luôn luôn bị 8 pháp thế-gian chi-phối, ám-ảnh:
a) Lãbho: Ðược Lợi
b) Allãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Sanh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukham: Ðược Vui
h) Dukkham: Bị Khổ
9. Navasattavasa Sankhatam: Hành-Vi về chỗ trú-ngụ của chúng-sanh có 9.
Bảy chỗ trú ngụ của Thức vừa kể trên thêm 2 cõi trời sau đây nữa là 9:
Cõi trời Sắc-giới Vô-tưởng-thiên (Asannisatta) thuộc về Tứ-thiền.
Cõi trời Vô-sắc thứ tư là Phi-Phi-Tưởng-Thiên (Nevasannãnãsannãyatana) là cảnh Giới của hạng chúng-sanh không có tưởng và cũng không phải không có tưởng.
10. Dasãyatana Sankhãtam: Ngũ-Căn và Ngũ-Trần.
a) Cakkhavãyatana: Nhãn-căn
b) Sotãyatana: Nhĩ-Căn
c) Ghãnãyatana: Tỉ-Căn
d) Jivhãyatana: Thiệt-Căn
e) Kãyãyatana: Thân-Căn
f) Rũpãyatana: Sắc-Trần
g) Saddãyatana: Thanh-Trần
h) Gandhãyatana: Hương-Trần
i) Rasãyatana: Vị-Trần
j) Photthabbãyatana: Xúc-trần
11. Ekãdasavithãrammana Sankhãtam: 11 cái Tâm duyên theo cảnh giới bên ngoài đưa đến.
a) Somanassanãna Sampayutta: Tâm Vui Thích phối-hợp với cảnh giới có luôn cả Trí-Tuệ, sự Vui Thích có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng.
b) Somanassanãna Vippayutta: Tâm Vui Thích phối-hợp với cảnh giới nhưng không Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng.
c) Upekkhãnãna Sampayutta: Tâm Vô-Kỵ phối-hợp cảnh giới có luôn cả Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-Ðộng và Tự-Ðộng.
d) Upekkhãnãna Vippayutta: Tâm Vô-Kỵ phối-hợp với cảnh giới nhưng không Trí-Tuệ, có 2 là: Thụ-động và Tự-Ðộng.
e) Upekkhãsampaticchanna: Tâm-Thọ lãnh cảnh giới với ý Vô-Ký.
f) Upekkhãsantirana: Tâm xem-xét cảnh giới với Vô-Ký.
g) Somanassa Santirana: Tâm xem-xét cảnh giới với ý Vui Thích.
12. Ovãdasayatana Sankhãtam: Lục-Căn và Lục-Trần:
- Ngũ-Căn vừa kể trên thêm Ý-Căn (Manãyatana) là 6.
- Ngũ-Trần vừa kể trên thêm Pháp-Trần (Dhammãyatana) là 6
13. Terasahasanacitta sankhãtam: 13 cái Tâm Vui Thích là:
a) Lobhasomanassa: 4 Tâm Tham luôn cả ý Vui Thích
b) Mahakusalasomanassa: 4 Tâm Ðại-Thiện luôn cả ý Vui Thích
c) Mahãkiriyãsomanassa: 4 Ðại-Hạnh Tâm-Hiệp theo ý Vui thích
d) Hisituppãda: 1 Tâm Vui Thích để sanh-sự vui cười chuốm-chiếm
14. Cuddasacittuppãda Sankhãtam: 14 Ác-Tâm là:
a) Moho: Si mê
b) Ahirikam: Không Hổ-Thẹn tội
c) Anottappam: Không Ghê Sợ tội-lỗi
d) Uddhaccam: Tâm Phóng-Dật
e) Lobho: Sân-Tham
f) Ditthi: Tà-Kiến
g) Mãno: Ngã-Mạn
h) Dosa: Sân-Hận
i) Issã: Ganh-tị
j) Macchariyam: Bỏn-xẻn
k) Kukkuccam: Tâm hay Hối-Tiếc, lo nghĩ viễn-vong, nhớ theo chuyện chi không nhất-định
l) Thinam: Do-Dự, Uể-Oải, không sốt-sắng
n) Moddham: Hôn-Trầm, buồn ngủ
m) Vicikicchã: Hoài-Nghi, không tin chắc
15. Addhãrasadhatu Sankhãtam: 18 Bản-chất là.
a) Cakkhu Dhãtu: Chất-Nhãn (Thị-giác quan)
b) Sota Dhãtu: Chất-Nhĩ (Thính-giác quan)
c) Ghãna Dhãtu: Chất-Tỉ (Khứu-giác quan)
d) Jivhã Dhãtu: Chất-Thiệt (Vị-giác quan)
e) Kãya Dhãtu: Chất-Thân (Xúc-giác quan)
f) Mano Dhãtu: Chất-Ý (Tâm-thức)
g) Rũpa Dhãtu: Chất-Sắc (Sắc-cảnh)
h) Saddha Dhãtu: Chất-Thanh (Thanh-cảnh)
i) Gandha Dhãtu: Chất-Hương (Hương-cảnh)
j) Rasa Dhãtu: Chất-Vị (Vị-cảnh)
k) Photthabba Dhãtu: Chất-Xúc (Xúc-cảnh)
l) Dhamma Dhãtu: Chất-Pháp (Pháp-cảnh)
n) Cakkhu Vinnãya Dhãtu: Chất-Nhãn-Thức (khi Nhãn-Căn tiếp-xúc với Sắc-Trần thì phát sanh sự Giết gọi là Nhãn-Thức)
m) Sota Vinnãna Dhãtu: Chất-Nhĩ-Thức
o) Ghãna Vinnãna Dhãtu: Chất-Tỉ-Thức
p) Ivhã Vinnãno Dhãtu: Chất-Thiệt-Thức
q) Kãya Vinnãna Dhãtu: Chất-Thân-Thức
r) Mano Vinnãna Dhãtu: Chất-Ý-Thức.
Chúng-sanh Thế-gian (Satta Loka).
Ðức Phật thông-suốt Tâm-tánh của tất cả chúng-sanh như sau đây.
1. Sabbasattãnam Asayam: Ngài hiểu biết tường-tận nước Tâm của chúng-sanh, nghĩa là các pháp thường trụ trong thâm-tâm mỗi chúng-sanh như vậy:
- Thường-Kiến (Sassata Ditthi) và Ðoạn-Kiến (Uccheda Ditthi) hằng trụ trong Thân Tâm các hạng phàm-nhân,
- Còn 10 Minh-Sát-Tuệ (Vipassanãnãna) và Chân-Như Tuệ (Yathãbhũtanana) hằng trụ trong Thân Tâm các bậc Thánh-Nhân.
2. Anusayam: Ngài thông-hiểu các Phiền-Não Ngủ-Ngầm trong Tâm chúng-sanh chờ dịp phát khởi lên có 7:
a) Kãmarãgãnusaya: Tình-Dục Ngủ-ngầm (Ngũ-Trần)
b) Bhavarãganusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-ngầm
d) Manãnusaya: Cống-Cao, Ngã-Mạn Ngủ-ngầm
e) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-ngầm (Tà-kiến)
f) Vicikicchãnusaya: Hoài-Nghi Ngủ-ngầm
g) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-ngầm.
3. Caritram: Ngài biết rõ 6 tính chất (Carita) của chúng-sanh là:
a) Rãgacarita: Tính Tham là tính nhiều Ái-Dục, ưa thích sắc tốt, tiếng hay...
b) Dosacarita: Tính Sân là tính nhiều Sân-Hận, dễ giận, dễ bất-bình.
c) Mohacarita: Tính Si là tính nhiều Si-Mê, tối-tâm ngu-độn.
d) Saddhãcarita: Tính Tin là tính nhiều Ðức Tin, dễ tin, ít suy-xét.
e) Buddhicarita: Tính Giác là tính nhiều Trí-Tuệ hay suy-xét, mau hiểu biết sáng-suốt.
f) Vitakkacarita: Tính Tâm là tính nhiều Suy-Tâm, quen nghĩ tưởng các điều, không quyết định.
4. Adhimittam: Ngài biết rõ Tâm chúng-sanh nào ưa thích những pháp cao-thuợng hoặc thấp-hèn, ưa thích phước hay tội.
5. Apparajjakkhe Mahãrajjakkhe Satte: Ngài thông hiểu chúng-sanh nào có nhiều bụi-trần hoặc ít bụi-trần trong con mắt nghĩa là có nhiềư tình-dục hoặc ít tình-dục.
6 . Tikkhindriye Satte Muddindriye Satte: Ngài tri tỏ chúng-sanh nào có bản-căn tinh nhuệ Thượng-Căn, Thượng-Trí hay Hạ-Căn, Hạ-Trí . Ngũ-căn tinh-thần là:
a) Saddhindriyam: Tín-Căn
b) Viriyindriyam: Tấn-căn
c) Satindriyam: Niệm-Căn
d) Samãdhindriyam: Ðịnh-Căn
e) Pannindriyam: Huệ-Căn
7. Svã Kare Satte Dvãkãre Satte: Ngài biết rõ chúng-sanh nào có phẩm-hạnh thanh-cao lánh xa điều ác hoặc nết-hạnh xấu hèn thích điều tội-lỗi.
8. Suvinnãpaye Satte Duvinnãpaye Satte: Ngài biết tường-tận chúng-sanh nào nhiều Trí-Tuệ, mau thông hiểu các Pháp hoặc ít Trí-Tuệ khó thông hiểu các Pháp.
9. Bhabbãbhabbe Satte: Ngài tri tỏ chúng-sanh nào có duyên-lành, có thể giác-ngộ đạo-quả hoặc không có duyên-lành, không thể giác-ngộ đạo-quả:
a) Chúng-sanh nào trong Tâm còn nhiều Ái-Dục (Tanhã), nhiều Phiền-não (Kilesa), nhiều Tà-kiến (Micchã Ditthi) là những Pháp Ngăn-Cản (ãvaram Dhamma) thiện-duyên khó có thể đắc đạo-quả Niết-Bàn được:
Ái-Dục trong Ngũ-Uẩn có 5:
Rũpa Tanhã: Sắc-Ái
Saddha Tanhã: Thanh-Ái
Gandha Tanhã: Hương-Ái
Rasa Tanhã: Vị-Ái
Photthabba Tanhã: Xúc-Ái.
Phiền-não có 10:
Lobha: Tham-Lam
Dosa: Sân-Hận
Moha: Si-Mê
Mãna: Ngã-Mạn
Ditthi: Kiến-Thức (Tà-kiến)
Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân và Quả)
Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, buồn-ngủ.
Uddhacca: Phóng-Tâm
Ahirika: Không Hổ-Thẹn tội-lỗi
Anottappa: Không Ghê Sợ tội-lỗi.
Tà kiến chia ra 2 loại (xem giải rộng trong quyển "Tà-Kiến và Chánh-Kiến" của Ðại-Ðức Bửu-Chơn):
Sassatã Ditthi: Thường-Kiến là sự hiểu biết cho rằng trời, người hay thú khi mãn kiếp này cũng tái-sanh y như trước vậy, chớ không hề tiến-hóa hoặc thối-hóa
Uccheda Ditthi: Ðoạn-kiến là sự hiểu biết rằng khi chết đi thì mất luôn, chớ không có tái-sanh lại ở đâu cả. Ðoạn-kiến lại chia ra làm 3 là:
Akiriyã Ditthi: Vô-Hành-Kiến
Ahetuka Ditthi: Vô-Nhân-Kiến
Natthika Ditthi: Vô-Quả-Kiến
Lại nữa, chúng-sanh nào phạm 5 Vô-Gián-Nghiệp (cùng gọi là Ngũ-Nghịch-Tội "Pancãnantariya Kamma " là:
Mãsughãta: Giết mẹ
Pitughãta: Giết cha
Arahantaghãta: Giết A-La-Hán
Buddhalohituppãda: Làm cho Ðức Phật đổ máu.
Sanghabheda: Làm cho tăng chúng chia rẽ (từ 8 vị trở lên) và phạm đến trinh-tiết của Tỳ-Khưu-Ni thánh-nhân, chúng-sanh ấy không thể đắc đạo-quả trong quả địa cầu này được.
b) Chúng-sanh nào không còn ở 3 Pháp Ngăn-Cản, không chấp Tà-Kiến, không phạm Ngũ-Nghịch-tội và không phạm đến trinh-tiết Tỳ-Khưu-Ni thánh nhân, là người chuyên cần Bố-Thí, Trì-Giới, Tham-Thiền, có lòng hầu-hạ cha-mẹ, chúng-sanh ấy hằng tạo nhiều duyên-lành có thể giác-ngộ đạo-quả trong kiếp hiện-tại. Bằng chưa đắc được đạo-quả trong kiếp này, cũng hằng được hưởng những phước-báu cao-quí trong cõi người và cõi trời, đến khi trọn đủ các Pháp Ba-La-Mật thì được giác-ngộ đắc đạo-quả Niết-Bàn dễ-dàng.
Hư không Thế-gian (Akãsa Loka).
Hư-không thế-gian thường gọi là vũ-trụ gồm có vô số thế-giới nhỏ. Mỗi một thế-giới nhỏ đều nằm trên nước, nước chồng lên gió, gió nằm lên trên hư-không. Nơi trung-tâm có núi Tu-Di (Sineru hoặc Meru) cao 84 000 do tuần.
Chung quanh núi Tu-Di có 7 vòng biển cách xa nhau bằng 7 vòng núi tên là: Yugandhara, Isadhara, Karavika, Sudassana, Nemindhara, Vinataka và Assakanna. Thể chất núi Tu-Di và 7 vòng núi ấy bằng 4 thứ báu hiệp thành, chớ không phải chất đất và đá như núi thường.
Bề cao và bề sâu của vòng núi Yugandhara bằng phân nữa của núi Tu-Di. Bề cao vòng núi Isadhara bằng nữa vòng núi Yugandhara và cứ như thế, bề cao và bề sâu của vòng núi bên ngoài chỉ bằng phân nữa của vòng núi bên trong.
Trung-Tâm 7 vòng núi ấy ở 4 hướng có 4 châu thiên hạ, mỗi châu đều có 500 hòn-đảo nhỏ bao-bọc. Bốn châu ấy là:
Jambudipa: Nam-Thiện-Bộ-Châu
Pubbavidaha: Ðông-Thắng-Thần-Châu
Uttarakuru: Bắc-Cu-Lu-Châu
Aparagoyãra: Tây-Ngưu-Hóa-Châu
Trái đất chúng ta là Nam-Thiện-Bộ-Châu (Tàu âm là Diêm-Phù-Ðề).
Mặt trời xoay vần chung quanh núi Tu-Di vào khoảng giữa núi ấy và soi-sáng 4 châu thiên-hạ.
Dưới chân núi Tu-Di có vương-quốc A-Tu-La (Asura) là các hạng thần nhiều sân-hận, thường gây giặc với Chư-Thiên cõi trời Dục-Giới thấp nhất do Tứ-Ðại Thiên-Vương (Cãtumahãrãja) cai-quản, để chiếm các triền núi thấp của Tu-Di.
Cõi trời Tứ-Ðại-Thiên-Vương cao từ các triền núi Tu-Di sắp lên đến khoảng giữa núi kế đến Ðao-Lợi-Thiên (Tãvatimsa) từ khoảng giữa đến đỉnh núi do Ðức Ðế-Thích (Sakka) trị vì.
Bốn cõi trời Dục-Giới trên là:
Yãma: Dạ-Ma-Thiên
Tusita: Ðấu-Xuất-Thiên
Nimmãnarati: Lạc-Biến-Thiên-Hóa
Paranimmitavasavati: Tha-Hóa-Tự-Tại-Thiên
Ở trên hư-không núi Tu-Di.
Trên các cõi trời Dục-Giới là 16 cõi trời Sắc-Giới, kế tiếp là 4 cõi Vô-Sắc-Giới.
Vô-Gián-Ðịa-Ngục (Lokantariya) ở khoảng giữa hư-không hình tam-giác luôn-luôn tối-tăm lạnh-lẽo, không có ánh sáng mặt trời là khoảng 3 thế-giới giáp nhau.
Tất cả núi, biển, châu, cõi trời... vừa kể trên gồm lại như vậy gọi là một thế-giới nhỏ. Một ngàn thế-giới nhỏ hợp lại thành một cõi Tiểu-Thiên. Một ngàn cõi Tiểu-Thiên hợp lại thành một cõi Trung-Thiên. Một ngàn cõi Trung-Thiên hợp lại thành một cõi Ðại-Thiên. Như thế, một cõi Ðại thiên gồm có: 1.000 x 1.000 x 100 = 1.000.000.000 thế-giới nhỏ. Vì nhơn bội lên 3 lần 1.000 như vậy nên gọi là "Tam-Thiên Ðại-Thiên thế-giới".
Ðức Phật đã thấy rõ và hiểu biết tường-tận Pháp-Hành Thế-Gian, Chúng-Sanh Thế-Gian và Hư-Không Thế-Gian. Do nhờ những ân-đức ấy nên Ngài có hiệu là LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải).
-ooOoo-
ANUTTARO (VÔ-THƯỢNG-SĨ)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)?
Bởi Ngài có đức-hạnh không ai sánh bằng.
Trong kinh Samyutta Nikãya có câu Phật-ngôn như vầy:
"Như-Lai chẳng thấy trên thế-gian này, luôn cả Chư-Thiên, Ma-Vương và Phạm-Thiên, trong thế-hệ này luôn cả đạo-sĩ, Bà-La-Môn, Vua Chúa và Nhân-Loại, có chúng-sanh nào đức-hạnh cao thượng hơn Như-Lai".
Thật vậy, trong thế-gian này không ai có thể sánh bằng Ðức Phật vì Ngài có những ân-đức cao quí-trọng kể sau đây:
1. Rupakãyesu Anuttaro: Quí trọng vì Sắc Thân không tội-lỗi, tật nguyền, có oai-nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), tốt đẹp, đằm thắm, đầy-đủ 32 tướng hảo và 80 tướng phụ có hào-quang phóng ra sáng ngời, nhân-loại và Chư-Thiên không ai sánh bằng.
2. Silesu Anuttaro: Quí trọng vì Giới-Hạnh. Giới có 2:
- Lokiya Sila: Phàm-Giới
- Lokuttara Sila: Thánh-Giới
a) Phàm-Giới là Ngũ-Giới, Bát-Quan-Trai-Giới, Thập Giới và Cụ-Túc-Giới. Ðức Phật đã luôn-luôn gìn-giữ những giới ấy không bẩn-nhơ trong lúc còn lăn-hụp trong vòng sanh-tử luân-hồi trọn 4 A-Tăng-Kỳ và 100 ngàn đại kiếp của quả địa-cầu. Lại nữa, Ngài đã thực-hành trọn đủ Giới Ba-La-Mật:
Silã Pãrami: Bậc-Hạ
Silã Upparami: Bậc-Trung
Silã Paramattha Parãmi: Bậc-Thượng
b) Thánh-Giới: Từ vô số kiếp quá khứ, Ngài đã thực-hành viên mãn 3 Pháp Chân-Chánh là:
Sammãvãcã: Chánh-Ngữ
Sammã Kammanto: Chánh-Nghiệp
Sammã ãjivo: Chánh-Mạng
khiến cho phát sanh Thánh-Ðạo diệt tận các Pháp Ác.
3. Samãdhimhi Anuttaro: Quí trọng vì Thiền-định. Thiền-định có 2:
Upacãra Samãdi: Cận-Ðịnh
Appanã Samãdhi: Nhập-Ðịnh
Cận-Ðịnh là trạng thái Tâm lành an-trụ trong một cảnh-giới song chưa vững chắc.
Nhập-Ðịnh là trạng thái Tâm lành an trụ kiên-cố trong một cảnh-giới. Nhập-Ðịnh có 2:
Lokiya Samãdhi: Phàm-Ðịnh là định trong thế gian, là thiền của phàm-nhân có lực tiêu-hoại. Phàm-Ðịnh có 8: 4 Bậc thiền trong cõi Sắc-Giới (Rũpãvacara Samãpatti) và 4 Bậc thiền trong cõi Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Samãpatti)
Lokuttara Samãdhi: Thánh-Ðịnh là định xuất thế gian, là thiền của bậc thánh-nhân, chắc vững, không hư-hoại.
4. Pannãsu Anuttaro: Quí trọng vì Trí-Tuệ:
a) Mahãpanno: Ngài có Trí-Tuệ vô-lượng vô-biên, Chư-Thiên và nhân-loại không ai sánh bằng.
b) Pathuppanno: Có Trí-Tuệ thậm-thâm, sâu dày như quả địa cầu.
c) Hãsappanno: Có Trí-Tuệ làm cho chúng-sanh vui-thích trong khi nghe Ngài thuyết Pháp.
d) Javanappanno: Có Trí-Tuệ thông-hiểu mau lẹ các Pháp
e) Tikkhanappanno: Có Trí-Tuệ sắc-bén.
f) Nibbedhikappanno: Có Trí-Tuệ trong sự thuyết Pháp là không bao giờ lẫn-lộn hoặc vấp-váp trong khi thuyết Pháp.
Những Trí-Tuệ ấy chẳng phải Ðức Phật mới đắc được trong khi thành đạo, ngay trong những kiếp quá-khứ lúc còn Bồ-Tát tu huệ Ba-La-Mật (Pannã Parãmi), Ngài có tên là Mahodatha, Vidhura ... đã có Trí-Tuệ trội hẳn các bậc trí-thức khác trong thời-gian bấy giờ.
5. Purisasilamãcãresu: Quí trọng vì sanh làm người Nam (Thái-tử Sỉ-Ðạt-Ta) đầy đủ ngũ quan, diện mạo phi-phàm, học lực xuất chúng, thông hiểu trọn bộ kinh: phệ-đà, kiếm cung, tài-lực siêu phàm bạt-tụy, không người nam nào có thể sánh bằng, ai-ai cũng đều cảm-phục kính-nể.
6. Bhavassa Sammãcãresu: Quí trọng vì phẩm-hạnh thanh cao hơn tất-cả chúng-sanh trong Tam-Giới.
7. ParapuggalaVimuttinnãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ thông-hiểu phương-pháp giải-thoát khỏi các Pháp-Ác (Phiền-Não) hơn các bậc trí-thức khác.
8. Pubbenivãsãnussatinnãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ các tiền-kiếp của Ngài và của các chúng-sanh là đắc Túc-Mạng-Thông.
9. Dibbacakkhunnãne: Quí trọng vì Ngài có Thiên-Nhãn-Thông.
10. Kammavipãkannãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ cái quả của mỗi chúng-sanh đều do nghiệp thiện hoặc ác đã tạo.
11. Yamakappãtihãriyannane: Quí trọng vì Ngài đã dùng lưỡng-thông là thần-thông hóa thân làm 2 vị Phật:
- Một vị ở cõi trời Ðao-Lợi thuyết tạng Luận độ Phật mẫu liên tiếp trong ba tháng hạ thứ 7.
- Một vị đi trì-bình mỗi buổi sáng ở Bắc-Cu-Lu-Châu.
12. Lokavivaranappãtihãriyannãne: Quí trọng vì Ngài đã dùng thần-thông làm cho Chư-Thiên, nhân-loại và chúng-sanh trong địa ngục đồng nhìn thấy nhau rõ-ràng sau khi Ngài thuyết xong Tạng Luận, từ cõi trời Ðao-Lợi trở xuống trần-gian.
13. Apattikusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch sự phạm tội, vị tăng nào phạm tội (Giới-Luật) hoặc không phạm tội. Ngài đều rõ biết.
14. Apattivutthanakusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch cách thoát khỏi tội là nếu vị tăng nào sơ-ý phạm tội, Ngài từ-bi cho phép thực-hành những phương-thế giải-tội (sám-hối...)
15. Dhãtukusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch bản-chất Tứ-Ðại Hữu-thức (Upãdinnaka Dhãtu) của chúng-sanh và bản-chất Tứ-Ðại Vô-thức (Anupãdinnaka Dhãtu) của Ðất, Núi, Cây, Ðá... luôn cả bản-chất của chúng-sanh vui-thích trong Tứ-Ðại là Ðất, Nước, Gió, Lửa.
16. Manasikãrakusalatãya: Quí trọng vì Ngài rành-mạch cách chú Tâm, điều chi Ngài để Tâm ghi nhớ thì không bao giờ quên.
17. Thãnãthãnakusalatãya: Quí trọng vì Ngài rành-mạch trong nguyên-nhân (Hetu) hay không phải nguyên-nhân. Nhân đây là nhân lành, có 3 là:
a) Alobho: Không Gian-Tham
b) Adoso: Không Sân-Hận
c) Amoho: Không Si-Mê
18. Dvisu Iddhisu: Quí trọng vì Thần-lực có 2:
a) Cittiddhi: Thần-Lực do Tâm là Tâm thanh-tịnh nhờ thiền.
b) Vimamsiddhi: Thần-Lực do Trí-Tuệ là Trí-Tuệ sáng suốt nhờ Minh-Sát.
19. Dvisu Anuttariyesu: Quí trọng vì 2 oai-đức cao thượng không ai sánh bằng là:
a) Silãnuttariya: Giới Cao-Thượng
b) Pannãnuttariya: Trí-Tuệ Cao Thượng
20. Tisukathãvatthũsu: Quí trọng vì 3 hạnh Tuyệt-Luận là:
a) Dãna: Bố-Thí
b) Sila: Trì-Giới
c) Bhãvana: Tham-Thiền
21. Tisusamãdhisu: Quí trọng vì 3 bậc Thiền-Ðịnh là:
a) Vitakkavicãrasamadhi: Bậc Thiền có đủ Tầm Sát
b) Avitakkasavicãrasamadhi: Bậc Thiền không có Tầm nhưng có Sát
c) Avitakka Avicãrasamãdhi: Bậc Thiền không Tầm và không Sát.
22. Tisu Pãtihãriyesu: Quí trọng vì những điều phi-thường xảy ra khi Ngài lên pháp-tòa, trong lúc đang thuyết pháp và khi xuống pháp-tòa.
23. Catũsu Satipatthãnesu: Quí trọng vì thông thấu Tứ-Niệm-Xứ là:
a) Kãyãnupassanã Satipatthãna: Niệm Thân
b) Vedanãnupassanã Satipatthãna: Niệm Thọ
c) Cittãnupassanã Satipatthãna: Niệm Tâm
d) Dhammãnupassanã Satipatthãna: Niệm Pháp.
24. Catũsu Sampadãsu: Quí trọng vì 4 điều đầy đủ (Sampadã) khiến cho sự phước-thí được quả-báu cao-thượng.
a) Cetanã Sampada: Ðầy đủ cả 3 tác-ý:
Pubba Cetanã: Tác-ý đầu tiên là suy-tính trước khi làm phước.
Muncana Cetanã: Tác-ý trong khi làm là Tâm vui thích trong lúc đang làm phước.
Aparãpara Cetanã: Tác-ý suy-nghĩ thỏa-thích sau khi làm rồi.
b) Paccaya Sampada: Ðầy đủ tứ vật dụng (y-phục, vật thực, cốc liêu, thuốc trị bệnh).
c) Vatthu Sampada: Ðầy-đủ các vật cúng-dường.
d) Gunãtireka Sampadã: Ðầy đủ ân-đức của cả 2 bậc thánh-Nhân là A-La-Hán khi các Ngài vừa xuất Ðại-định.
25. Catũsu Iddhipãdesa: Quí-trọng vì Tứ-Thần-Túc (cũng gọi là 4 pháp căn-bản để thực-hành cho đắc thần-thông):
a) Chandiddhipãda: Nguyện-Vọng Thần-Túc
b) Viriyiddhipãda: Tinh-tấn Thần-Túc
c) Cittiddhitãda: Tâm-năng Thần-Túc
d) Vimamsiddhipãda: Trí-Tuệ Thần-Túc.
26. Catũsu Maggesu Catũsu Phalesu: Quí trọng vì 4 quả bắt đầu từ Tu-Ðà-Hườn-Ðạo, Tu-Ðà-Hườn-Quả...
27. Catũsu Ariyavamsesu: Quí trọng vì 4 pháp Thánh Tông:
a) Appiccho: Có sự Ham-Muốn ít
b) Sallekho: Có sự Tri-Túc
c) Saddhã: Có Ðức-tin kiên-cố trong 10 Pháp Ba-La-Mật
d) Silam: Trì-Giới trong sạch theo Ngũ-Giới, Bát- Quan-Trai-Giới và Tứ-Thanh-Tịnh-Giới.
28. Catũsu vimuttinnãnesu: Quí trọng vì Trí-Tuệ, thông hiểu 4 phương-pháp giải-thoát khỏi các Pháp-Ác (Phiền-não):
a) Pannãvimuti: Giải-thoát bằng Thánh-Tuệ là Tuệ Xuất Thế-Gian.
b) Samuccheda Vimutti: Giải-thoát bằng sự đoạn tuyệt.
c) Vikkhambhana Vimuti: Giải-thoát bằng sự đè-nén của Thiền-Ðịnh.
d) Tadanga Vimutti: Giải-thoát các pháp-ác trong mỗi nấc Tâm do Minh-Sát-Tuệ.
29. Pancabalesu: Quí trọng vì Ngũ-Lực:
a) Saddha Balam: Tín-Lực là đức-tin dũng-mãnh nơi Tam-Bảo và Lý-Nhân-Quả để diệt trừ lòng mê tín, tà kiến
b) Viriya Balam: Tấn-Lực là tinh-tấn dũng-mãnh để diệt trừ sự lười-biếng, giải-đãi.
c) Sati Balam: Niệm Lực là trí nhớ dũng-mãnh để diệt trừ Tâm nhớ vẫn-vơ bên ngoài.
d) Samãdhi Balam: Ðịnh-Lực là Thiền-Ðịnh dũng-mãnh để diệt trừ Tâm không chăm-chú, không an-trụ.
e) Pannã Balam: Tuệ-Lực là Trí-Tuệ dũng-mãnh để diệt trừ Vô-Minh.
30. Pancindriyesu: Quí trọng vì Ngũ-Căn (Tinh-Thần):
a) Saddhindriyam: Tín-Căn là cội tin Ân-Ðức Tam-Bảo và tin nhân quả để diệt-trừ tà-kiến
b) Viriyindriyam: Tấn-Căn là cội Tinh-Tấn để diệt-trừ sự lười-biếng, giải-đãi
c) Satindriyam: Niệm-Căn là cội Trí-Nhớ để diệt-trừ Tâm nhớ vẫn-vơ bên ngoài
d) Samãdhindriyam: Ðịnh-Căn là cội Chánh-Ðịnh để diệt-trừ Tâm không an-trụ
e) Pannindriyam: Tuệ-Căn là cội Trí-Tuệ để diệt-trừ Vô-Minh.
31. Pancãbhinnãsu: Quí trọng vì Ngũ-Thông.
a) Dibbacakkhu: Nhãn-Thông
b) Dibba Sota: Nhĩ-Thông
c) Iddhividha: Thần-Thông
d) Paracitta Vijjã: Tha Tâm-Thông
e) Pubbenivãsãnussati: Túc-Mạng-Thông
Ngũ-Thông kể trên còn trong phạm-vi của hạng phàm-nhân, các bậc Thánh-Nhân đắc thêm Lậu-Tận-Thông (Asavakkhaya) là Tuệ biết rõ các Pháp Trầm-Luân để diệt-tận, cộng chung là 6 cái Thông (Abhinnã).
32. Chãsãdhãranannãreru: Quí trọng vì Trí-Tuệ Vô-Thường (Asãdhãranannãna), có 6:
a) Asayãnusayannãna: Huệ biết rõ các Pháp Khuynh-Hướng (ãsaya) và các pháp Ngủ-Ngầm (Anusaya) trong Tâm chúng-sanh.
b) Indriyaparopariyattinnãna: Huệ biết rõ căn-cơ dũng-mạnh hay yếu-hèn của chúng-sanh.
c) Yamãkappãtihãriyannãna: Huệ lanh-lẹ trong sự dùng lưỡng-thông là Thần-Thông hóa thân làm 2 vị Phật.
d) Mahãkarunãsamãpattinnãna: Huệ biết rõ phương-pháp tế độ chúng-sanh khi xả Ðại-Bi-Ðịnh.
e) Sabbannũtannãna: Huệ thông hiểu tất-cả mọi vật không dư sót (Toàn-giác).
f) Anãvarannãna: Huệ thông hiểu mọi vật không chướng ngại, không chi che án được.
33. Sattavisuddhidesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 7 Pháp Thanh-Tịnh.
a) Sĩla Visuddhi: Thanh-Tịnh do sự Trì-Giới
b) Citta Visuddhi: Thanh-Tịnh do sự sửa trị Tâm làm cho phát-sanh Cận-định và Nhập-định.
c) Ditthi Visuddhi: Thanh-Tịnh do sự hiểu thấy chân-chánh là Tuệ thấy rõ "Danh và Sắc" (Ngũ-Uẩn), do sự hòa hợp của Tứ-Ðại và hằng bị chi phối bởi 3 tướng Vô-
Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã.
d) Kankhãvitarana Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ thấy rõ nhân-duyên của Danh-Sắc và dứt khỏi hoài-nghi đối với Danh-Sắc trong Tam-Thế.
e) Maggãmaggannãnadassana Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ không sai lầm theo 10 Phiền-Não của Minh-Sát, thấy rõ là Ðạo hay chẳng phải là Ðạo.
f) Patipadãnãnadassana Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ thấy rõ cách thực tiến-hóa là nên thực-hành 9 pháp Minh-Sát-Tuệ.
g) Nãnadassana Visuddhi: Thanh-Tịnh do Tuệ Xuất-Thế-Gian thấy rõ 4 Thánh-Ðạo và 4 Thánh-Quả.
34. Sattãkhinãsavabalesu: Quí trọng vì thông hiểu Ðạo-Tuệ của 7 bậc Thánh-nhân là những bậc hữu học (Sekkho Puggalo) có mãnh-lực diệt-tận từng giai-đoạn các Pháp Trầm-Luân; nhất là 10 Sử (Samyouana: Pháp Thẳng-Thúc). 7 bậc Thánh-nhân ấy là:
Tu-Ðà-Hườn đạo
Tu-Ðà-Hườn quả
Tu-Ðà-Hàm đạo
Tu-Ðà-Hàm quả
A-Na-Hàm đạo
A-Na-Hàm quả
A-La-Hán đạo.
35. Navasattãvãsadesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 9 chỗ trú-ngụ của chúng-sanh.
36. Dasakasinãyatanesu: Quí trọng vì 10 đề Kasina.
a) Pathavi Kasina: Ðề-mục đất
b) Apo Kasina: Ðế-mục nước
c) Vãgo Kasina: Ðề-mục gió
d) Tejo Kasina: Ðề-mục lửa
e) Nĩla Kasina: Ðề-mục màu xanh
f) Pita Kasina: Ðề-mục màu vàng
g) Lohita Kasina: Ðề-mục màu da
h) Odãta Kasina: Ðề-mục màu trắng
i) Akãsa Kasina: Ðề-mục hư-không
j) Aloka Kasina: Ðề-mục ánh-sáng.
37. Ekãdasamettãnisansadesanãsu: Quí trọng vì hiểu rõ 11 phước-báu do sự rải lòng bác-ái:
a) Sukham supati: Khi ngủ được an-vui.
b) Sukham Patibujjhati: Khi thức dậy cũng được an-vui.
c) Na Pãpakam Supinam Passati: Không nằm mộng thấy điều dữ xấu-xa.
d) Manussãnam Piyohoti: Mọi người đều thương mến.
e) Amanussãnam Piyohoti: Phi-nhân cũng thương mến.
f) Devatã Rakkhantri: Chư-Thiên thường hộ-trì.
g) Nãssa Aggi, Visam, Sattham và Kamati: Lửa, thuốc độc và khí-giới không làm hại được.
h) Tuvãtam Cittam Samãdhiyati: Tâm nhập thiền một cách mau lẹ.
i) Mukhavanno Vippasidati: Màu da, gương mặt được tươi-tỉnh sáng-sủa.
j) Asammulho Kãlam Karoti: Khi sắp lâm chung, Tâm được bình-tĩnh không mê loạn.
k) Uttarim appativijjhanto Brahmalokũpagohoti: Nếu chưa đắc đạo-quả cao thượng thì khi chết được sanh về cõi trời Phạm-Thiên (Sắc-Giới).
38. Dvãdasãkusaladesanãsu: Quí trọng vì biết rõ Tâm của chúng-sanh ở trong đều tội-lỗi là 12 Ác-Tâm (Akusalacitta):
8 Tâm Gian-Tham
2 Tâm Sân-Hận
2 Tâm Si-Mê
39. Terasa Dhutangagunesu: Quí trọng vì thông hiểu cách hành 13 Pháp Ðầu-Ðà.
a) Pamsukũlika: Hành bằng cách lượm vải bỏ để may-mặc.
b) Tecivarika: Hành bằng cách chỉ có tam-y.
c) Pindapãtika: Hành bằng cách chỉ đi khất-thực không thọ trai tăng.
d) Sapadãnacãrika: Hành bằng cách thường đi khất-thực theo mỗi nhà mỗi xóm.
e) Ekãsanika: Hành bằng cách chỉ ngồi thọ-thực một chỗ (chỉ thọ một ngày một lần thôi).
f) Pattapindika: Hành bằng cách chỉ thọ-thực trong bát mà thôi.
g) Khalupashãbhatika: Hành bằng cách khi đã ngăn (không dùng, không thọ-lãnh) vật-thực người dâng rồi thì không được phép thọ-thực nơi nào nữa.
h) Arannika: Hành bằng cách chỉ ở trong rừng (không được ở trong xóm làng).
i) Rukkhammũlika: Chỉ ở nơi cội cây (không được ở cốc, lều hoặc chỗ có che lợp).
j) Abbhokãsika: Chỉ ở ngoài trời, khoảng trống (dầu dưới bóng cây cũng không được).
k) Sosanika: Chỉ ở nơi mồ mả hoặc chỗ bỏ tử-thi.
l) Yathãsanthalika: Chỉ ở chỗ nào chư-tăng đã chỉ định đầu tiên, không dời đổi.
m) Nesajjiaka: Chỉ ngồi chớ không nằm (đi, đứng được).
40. Cuddasabuđhannãnesu: Quí trọng vì Trí-Tuệ hoàn-toàn sáng-suốt, vô-lượng vô-biên, có 14:
a) Dukke Nãnam: Huệ thấy rõ Khổ-Ðế là chân-thật.
b) Dukkha Samudaye Nãnam: Huệ thấy rõ Tập-Ðế là chân-thật.
c) Dukkha Nirodhe Nãnam: Huệ thấy rõ Diệt-Ðế là thật.
d) Dukkha Nirodhagãminipatipadãya Nãnam: Huệ thấy rõ Ðạo-Ðế là thật.
e) Atthapatisambhidã: Huệ thấy rõ cái quả hay cái lý (thông-suốt cả nghĩa lý của chú giải).
f) Dhammapatisambhidã: Huệ biết rõ cái nhân hay suốt thông cả các pháp.
g) Nirutti Patisambhisã: Huệ biết rõ Ngũ-Căn hay suốt thông các thứ tiếng.
h) Patibhãna Patisambhidã: Huệ phân tách rõ-ràng và mau lẹ tất-cả sự vật.
i) 8 cái Huệ vừa kể trên + 6 cái Huệ đã giải ở chi số 32, thành 14 cái Huệ
41. Ekavisatikusaladesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về Sanginippakarana (trong Tạng-Luận) chia Tâm lành ra 21:
8 Kãmãvacarakusale: Thiên Tâm lành trong cảnh Dục-Giới
5 Rũpãvacarakusala: Thiên Tâm trong cảnh Sắc-Giới
4 Arũpãvacarakusala: Thiên Tâm trong cảnh Vô-Sắc-Giới
4 Lokuttarakusala: Thiên Tâm của bậc Thánh-Nhân.
42. Catuvisatipasayadesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp Mãhãpatthãna (Duyên-Khởi-Ðại-Luận) về 24 cái nhân (Paccaya) [1] bắt đầu từ Hetuppaccaya (Nguyên-Khởi-Nhân) và cuối cùng là Avigatappaccaya (Bất-Tán-Nhân).
43. Kotisatasahassa Sancaritadhamma Vajirannãnesu: Quí trọng vì Huệ thông suốt hằng-hà vô-tận; Pháp Môn là Dukapatthãna, Tikapatthãna, Dukatikapatthãna, Tikadukapatihana... [2].
Do nhờ những Ân-Ðức quí trọng, không ai có thể sánh bằng vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ).
PURISADAMMASÃRATHI (ÐIỀU-NGỰ TRƯỢNG-PHU)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều-Ngự Trượng-Phu)?
Bởi Ngài là đấng tế-độ những người hữu duyên nên tế-độ.
Người hữu-duyên.
Người Hữu-Duyên là người trong kiếp quá khứ đã thực-hành pháp Ba-La-Mật, là người năng bố-thí, chuyên cần trì-giới, tham-thiền, thính pháp.
Người đã thực-hành những hạnh thanh cao ấy là người đã tập duyên lành (Upanissaya) đáng được tế-độ. Tùy theo trình-độ phẩm hạnh thấp hoặc cao, thiện-duyên nhiều hoặc ít, Ðức Thế-Tôn dùng phương-tiện thích-ứng để tế-độ mỗi người Hữu-Duyên. Có 2 hạng người Hữu-Duyên:
- Buddhaveneyya: Hạng người do Ðức Phật tế-độ.
- Sãvakaveneyya: Hạng người do các bậc Thinh-Văn tế-độ.
Hạng người nào Hữu-Duyên cùng Ðức Phật thì tự Ngài đến tế-độ, còn hạng người nào Ngài biết rõ hữu-duyên với bậc Thinh-Văn nào thì Ngài bảo vị ấy đến tế-độ.
Phương-tiện tế-độ chúng-sanh.
Ðức Thế-Tôn tùy theo tâm tánh và căn-cơ của mỗi hạng người mà giảng-giải rõ-ràng về phước hoặc tội:
- Chúng-sanh nào ưa thích những điều lành thì Ngài thuyết về các pháp hành Thiện, là hành Thiện do Thân (Kãya Sucarita), do Khẩu (Vaci Sucarita) và do Ý (Mano Mano Sucarita) cùng phước báu của các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm thỏa-thích trong sự làm các điều thiện.
- Chúng-sanh nào ưa thích những điều ác, Ngài thuyết về các pháp hành Ác, là hành Ác do Thân (Kãya Duccarita), do Khẩu (Vaci Duccarita) và do Ý (Mano Duccarita) cùng quả báo của các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm ghê-sợ những điều tội-lỗi và hồi Tâm làm các việc lành.
Kế tiếp với những hạng người đã trau-giồi giới-hạnh thanh-tịnh rồi, Ngài thuyết về các pháp Thiền-Ðịnh và phước báu do các pháp ấy từ bậc Sơ-Thiền đến Tứ-Thiền.
Với những bậc đã đắc Thiền-Ðịnh, Ngài lại giảng-giải về các pháp Minh-Sát, hầu những vị ấy tu-tập lần lần để phát sanh Trí-Tuệ thấy rõ thật tướng các pháp hữu-vi diệt-trừ Phiền-Não và đắc đạo-quả Thánh-Nhân từ Tu-Ðà-Hườn đến A-La-Hán.
Chúng ta không lấy làm lạ rằng trong tích xưa, có nhiều Chư-Thiên và bậc Ðại Thiện-Duyên, khi nghe qua một câu kệ-ngôn hoặc một thời pháp do Ðức Phật thuyết được, liền chứng đạo-quả Thánh-nhân ngay tại chỗ ngồi của mình. Nguyên do là các bậc ấy đã thực-hành viên-mãn, các pháp Ba-La-Mật và tập hợp Thiện-Duyên cao dày, quí báu từ vô-số kiếp quá-khứ, đến kiếp hiện-đại, hữu phước gặp Ðức Phật giảng dạy tế-độ cho, nên được nếm hương-vị an-vui tuyệt-đối, ví như trái cây đã chín mùi từ bao nhiêu ngày trên cành cao, chỉ một luồng gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng vậy.
Trong kinh Anguttara Nikãya, có câu Phật-ngôn như vậy: "Này Kesi! Như-Lai huấn-luyện chúng-sanh đáng tế-độ khi thì bằng phương cách dịu-dàng, lúc thì bằng phương-tiện cứng rắn và khi thì bằng cả 2 cách: dịu-dàng và cứng rắn".
Nói tóm lại, Ngài tế-độ chúng-sanh bằng 3 phương-tiện sau đây:
1. Abhinnã: Ngài giảng dạy rõ-ràng về các điều thiện và điều ác.
2. Sanidãna: Ngài dạy bảo theo nguyên-nhân là tùy theo quả lành hoặc dữ xảy ra, Ngài chỉ cho thấy do nhân thiện hoặc nhân ác.
3. Sappãtihãriya: Ngài giáo-hóa bằng 3 pháp phi-thường là:
a) Iddhippãtihãra: Bằng cách dùng các pháp Thần-thông.
b) Adesanãpãtihãra: Bằng cách biết rõ Tâm của chúng-sanh.
c) Anusasanipatihãra: Bằng những lời khuyên-răn, nhắc-nhở và giao-huấn về Giới, Ðịnh, Huệ.
Ðức Thế-Tôn rất thông-thạo, rành-mạch trong sự giáo hóa chúng-sanh ví như nài voi đã thuần-thục trong sự tập luyện voi, bởi Ngài thông-hiểu Tâm của tất-cả chúng-sanh như đã giải trong hiệu Thế-Gian-Giải, đoạn "Chúng-Sanh Thế-Gian". Do nhờ hiểu biết tường-tận tánh nết, hạnh-kiểm, trình-độ Trí-Tuệ và duyên lành của mỗi chúng-sanh, nên Ngài mới có thể giáo-hóa Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng. Vì thế các bậc hữu-duyên nên tế-độ đều vâng theo lời khuyên bảo và giáo-huấn của Ngài.
Chúng-sanh được tế-độ.
Nếu dịch sát nghĩa thì chữ "Parisadammasãrathi" có nghĩa là Bậc Chỉ Ðạo (Sãrathi) những người Nam (Purisa) đáng được Giáo-Hóa (Damma).
Như thế thì Ðức Phật chỉ độ toàn những người Nam thôi hay sao? Không phải vậy, Ngài tế-độ cả người Nam và người Nữ, những lệ thường thì nói đến người Nam trước vì theo Phật-giáo người Nam hữu phước hơn người Nữ và hành-đạo cũng được tiện-lợi dễ-dàng hơn.
Lại nữa, chẳng những chỉ riêng Nhân-Loại thôi, Ngài còn tế-độ luôn cả loài thú và phi-nhân (Chư-Thiên, Dạ-xoa, Ngã-Quỉ...) có duyên lành.
Hạng Nam (Purisa) được tế-độ có 3:
Tiracchãna Purisa: Thú Ðực
Manussa Purisa: Người Nam
Amanussa Purisa: Phi-Nhân Nam
Những thú đực như rồng chúa Apalãlo trong núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, Cũlodara và Mahodara trong thế-giới loài rồng. Aggisikha và Dhũmasikha trong đạo Tích-Lan, Aravãla.., đã được Ðức Thế-Tôn có Tâm Bi-Mẫn dùng Thần-Thông tế-độ cho, khiến các rồng chúa ấy hết hung-dữ và dứt nộc-độc là lòng sân-hận, rồi thọ Tam-Qui Ngũ-Giới. Voi Dhanãpãlaka cũng được Ngài tế-độ cho thọ Tam-qui. Không phải chỉ có bao nhiêu ấy thôi, các thú khác nữa cũng được Ngài từ-bi tế-độ rất nhiều.
Những người Nam đã làm các điều tội-lỗi, hằng chấp tà-kiến như người con trai ngoại-đạo Nigantha (Jain) tên Saccaka, những người Bà-La-Môn tên Ambattha, Pokkharasãti, Sonadanda, Kutadanta..., đã được Ðức Thế-Tôn từ-bi thuyết-pháp tế-độ cho, khiến phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, xa lìa Tà-Kiến; được Chánh-Kiến và đắc đạo-quả cao thượng. Những người Nam đã rơi vào lưới Huệ của Ngài và được tế-độ không phải chỉ bao nhiêu ấy thôi, còn rất nhiều không kể hết được.
Những phi-nhân Nam như các dạ-xoa Alavaka, Sũciloma, Kharaloma, Ðức Ðế-Thích (Sakka), Ðại-Phạm-Thiên Pakã... đã chấp Tà-Kiến và Ngã-Mạn, tự cho mình là bậc có đức-hạnh tối cao, được Ðức Phật thuyết pháp tế-độ cho đến khi phát Tâm tín thành Tam-Bảo.
Huấn-từ của Ðức Thế-Tôn.
Lời Ðức Thế-Tôn thốt ra để giáo-hóa chúng-sanh rất nhiều không thể kể xiết. Khi giáo-huấn, Ngài tùy theo:
Tâm Tính và duyên lành,
Trí-Tuệ và căn-cơ mỗi chúng-sanh,
Nguyên-nhân, thời buổi và cơ-hội,
Phong-tục tập quán mỗi quốc-độ...
Nói tóm lại, huấn-từ của Ngài có 3:
Sabbapãpassa Akaranam: Không nên làm điều ác.
Kusalassũpasampada: Nên làm các điều lành.
Sacittapariyodapanam: Nên trau dồi Tâm cho trong sạch.
1. Ðức Thế-Tôn bảo đừng làm điều ác là nên xa lánh 10 Pháp Hành Ác do Thân, Khẩu, Ý gọi là Thập-Ác:
Sát-Sanh
Trộm-Cắp
Tà-Dâm
Nói Dối
Nói Lời Ðâm Thọc
Nói Lời Ðộc-Ác (Chửi Rủi)
Nó lời Viễn-Vong Vô-Ích
Tham-Lam
Thù Oán
Tà-Kiến (không tin nhân-quả tội phước...)
2. Ngài khuyến-lệ nên làm các điều lành là nên hành 10 Phạm Hành Pháp (Punnakiriya):
- Bố-Thí
- Phụng-Sự Sốt-Sắng (Veyyãvacca)
- Ngũ-Giới
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Appamannã)
- Xa lánh sự dâm-dục (Methunavirati)
- Chỉ Vui Thích Vô-Minh
- Không ngoại tình
- Tinh-Tấn Tri Bát-Quan-Trai (Uposatha)
- Bát-Thánh-Ðạo (Ariyamagga)
- Giáo-Pháp: Sasana (Giới, Ðịnh, Huệ)
3. Ngài dạy bảo nên trau-dồi Tâm cho sạch là nên cố-gắng diệt-tận các Phiền-não (Kilesa) và các pháp Ngủ-ngầm trong Tâm (Anusaya) là những điều làm cho Tâm bẩn nhơ và khiến chúng-sanh sa-đọa trong vòng sanh tử luân-hồi.
Những Phiền-Não ấy chia ra 2 hạng:
a) Phiền-Não Trọng-Ðại (Thô-Sơ), Tâm muốn Sát-Sanh, Tham muốn của cải người, mong làm của mình... có thể diệt trừ được bằng sự Trì-Giới và Thiền-Ðịnh.
b) Phiền-Não Vi-Tế, khó mà nhận thức được là căn nguyên làm cho phát-khởi các Phiền-Não khác, có thể diệt-tận được bằng Thánh-Tuệ.
Nếu tóm tắt thêm nữa, huấn-từ của Ðức Chánh-Biến-Tri có thể thâu ngắn lại trong 2 khuyên ngôn quí báu sau đây:
- Nên xa-lánh Sự Dễ-Duôi (Pamãda) (Sự giải đãi)
- Nên thực-hành Sự Không Dễ-Duôi (Appamãda).
1. Sự Dễ-Duôi hằng ngự trong Tâm của hạng người hay quên mình, thường buông-lung trí-nhớ, không nhất quyết làm một việc gì cho lâu dài, thành tựu.
Tâm chúng-sanh mải say-mê theo sự cám-dỗ của Ngũ-Trần lục-dục, tự nghĩ rằng ta còn trẻ chưa già, còn đang mạnh chưa đau, còn vui chưa khổ.... nên ít có dịp tưởng nhớ đến các Pháp lành và các công-đức. Dẩu có nhớ đi nữa cũng làm qua-loa cho có chừng, khộng để hết Tâm-Trí vào sự thực-hành những Thiện-Pháp. Ðó là Tâm Dễ-Duôi.
Lại nữa, chẳng khác nào con cắc-kè chạy một đoạn đường rồi ngừng lại một chập, không bao giờ chạy một mạch đến đích; có người làm việc phước thí hoặc Trì-giới hoặc Thính-Pháp, Tham-Thiền... một hôm rồi bỏ luôn nhiều ngày; có người xuất gia trong một thời-gian rồi hoàn-tục, không còn tưởng nhớ chi đến Phật-Pháp nữa... Tất cả sự kiện ấy là trạng-thái của Tâm Dễ-Duôi.
Sự dễ-duôi là nguồn cội và chủ-động các Pháp Ác. Chúng-sanh nào làm nô-lệ cho sự dễ-duôi rồi thì bằng chất-chứa Phiền-Não trong thân tâm, phải chịu những sự thống-khổ của Sanh, Già, Ðau, Chết, đời này qua kiếp khác không ngừng.
2. Sự Không Dễ-Duôi Nghịch hẳn với Sự Dễ-Duôi. Người không Dễ-Duôi là người hằng có sự ghi nhớ trong Tâm, chẳng phải chỉ trong một thời-gian mà thôi, trong bất cứ lúc nào, nơi nào và hành động nào cũng vậy.
Ðặc-tính của người Không Dễ-Duôi có 5:
a) Sĩlepatitthito: Ở trong khuôn khổ giới-luật
b) Indriyesu Smavuto: Thâu-thúc Lục-Căn cho thanh-tịnh.
c) Bhojane Mattannu: Biết độ lượng trong sự ăn uóng
d) Jãgariyam Anuyanjati: Thường hay thức tỉnh, ít mê ngủ.
e) Bhãvagam Kusalam Dhamman: Tinh-Tấn tham thiền, hành-đạo để đắc những Pháp cao-siêu.
Sự Không Dễ-Duôi là bức tường ngăn-cản rất hiệu-quả các Pháp Ác không cho xâm-nhập và nảy-nở trong thân-Tâm được, là nguồn cội và chủ-động các Pháp Lành. Nên có câu Phật-ngôn như vậy:" Này các thầy Tỳ-Khưu! dấu chân của tất cả loài thú đều có thể nằm trọn trong dấu chân của con voi như thế nào; các thiện Pháp hằng qui-tụ cả thảy dưới năng lực của sự không dễ-duôi như thế ấy!".
"Appamãdo Amatam Padam ": Sự Không Dễ-Duôi là con đường đi đến nơi bất-diệt. Chúng-sanh nào có Tâm Không Dễ-Duôi, thường tưởng nhớ đến những pháp hành, chuyên cần thực-hành các công đức như Bố-Thí, Trì-Giới, Thính-Pháp, Tham Thiền... và cố gắng không ngừng gìn-giữ Lục-Căn thanh-tịnh, không cho duyên theo trần-dục; chúng-sanh ấy, chắc chắn một ngày kia sẽ diệt-tận được các Phiền-Não trọng đại, vi-tế và sẽ được nếm hương-vị Niết-Bàn là nơi Vô-Sanh Bất-Diệt vậy.
Vì thế, nên trong khi lâm trọng bệnh sắp nhập Niết-Bàn, Ðức Thế-Tôn nhìn hàng tứ-chúng đang ngồi đầy-dẫy trước mặt Ngài, người thì gương mặt âu-sầu, buồn-bã, người thì giọt lệ đầm-đìa... ai ai cũng đều tỏ vẻ ảo não, tiếc thương đấng Từ-phụ trong giờ vĩnh-biệt... Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, Ngài bèn thốt lời căn dặn như vậy:" Này các đệ tử! Các người nên nhớ rằng các Pháp Hữu-Vi đều phải bị tiêu hoại, ấy là lẽ dĩ nhiên. Các người không nên Dễ-Duôi, hãy cố-gắng hành những điều lợi-ích đến thân-Tâm cho được mau kết quả!" Ấy là lời cuối cùng của Ðức Thế-Tôn khi sắp lìa cõi thế-gian, tiếng Palĩ gọi là "Pacchimabuddhavacana " (Tối-Hậu-Ngôn).
Bao nhiêu lời ấy bao gồm trọn vẹn Giáo-Pháp mà Ðức Thế-Tôn đã khổ công truyền bá trong 45 năm trường dài đăng-đẳng, vì vậy chúng ta là hàng Phật-tử, hữu-duyên gặp được Chánh-Pháp, cũng nên khắc tạc nơi Tâm khảm lời di-huấn vàng ngọc của Ngài và cố-gắng thực-hành "Sự Không Dễ-Duôi" hầu thấy rõ con đường giải-thoát trong ngày tương-lai.
Do nhờ những Ân-Ðức Từ-Bi phổ-độ chúng-sanh vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều- Ngự-Trượng-Phu).
-ooOoo-
SATTHÃDEVAMANUSSÃNAM (THIÊN-NHÂN-SƯ)
Tại sao Ðức Phật có hiệu SATTHÃDEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)? Bởi Ngài là Thầy cả Chư-Thiên và Nhân-Loại.
Sự lợi ích của Giáo-Pháp.
Giáo-Pháp Ðức Thế-Tôn đã giảng dạy cho Chư-Thiên và Nhân-Loại nhằm vaò ba sự lợi-ích sau đây:
Ditthadhammikattha: Lợi-Ích Hiện Tại
Samparãyikattha: Lợi-Ích Tương Lai
Paramattha: Lợi-Ích Cao-Thượng là Niết-Bàn.
Sự Lợi-Ích Hiện Tại có bốn:
- Utthàna Sampadã: Nên siêng-năng làm những công việc nuôi mạng hằng ngày là những nghề-nghiệp chân-chánh vô tội-lỗi.
Nghiệp có tội là: Buôn bán khí giới (Satthavanijjã), buôn bán người hoặc thú (Sattavanijjã), buôn bán thịt (Mamsavanijjà), buôn bán rượu (Majjavanijjã), bán thuốc độc (Visavanijjã).
- Arakkha Sampadã: Nên gìn-giữ tài sản đã kiếm đặng không cho hao mòn tiêu hoại vì những nguyên nhân khác nhau như lửa cháy, trộm cướp, chơi bời, cờ bạc v.v...
- Kalyãnamittatã: Nên thân-cận bạn lành là những bạn có đức tin, có giới-hạnh, năng làm những việc phước thí, có Trí-Tuệ v.v...
- Samajivitã: Nên tiêu xài tiền một cách độ-lượng cân phân, là tùy theo sức mình đã kiếm được, đừng hoang phí.
Sự Lợi-Ích Tương Lai có bốn:
- Saddhà Sampadã: Có Ðức Tin là tin ân-đức Tam Bảo, tin nghiệp, tin quả.
- Sila Sampada: Có Giới-Hạnh, là trì giới trong sạch (Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, v.v...)
- Cãga Sampadã: Có sự Dứt Bỏ là đem tiền của ra làm việc phước thí đến các bậc sa-môn và kẻ bần-cùng, bệnh-tật v.v...
- Pannã Sampadã: Có Trí-Tuệ là biết rõ tội-phước và thật-tướng của các Pháp Hữu-Vi.
Người nào thực-hành đầy đủ cả 4 điều kể trên là người đã dọn xong con đường đi về buổi vị lai; đến khi tan-rã Ngũ-Uẩn này rồi sẽ đi dễ dàng không chướng ngại.
Sự Lợi-Ích cao-thượng là Niết-Bàn.
Ðức Thế-Tôn giảng dạy, chỉ bảo cho thấy chân-lý là Tứ-Diệu-Ðế (Ariya Sasa):
Dukkham: Khổ-Ðế (12 sự thống khổ hiển nhiên của nhân-loại).
Dukkhasamudayo: Tập-Ðế (nhân sanh của các sự thống khổ là lòng Ái-Dục).
Dukkha Nirodho: Diệt-Ðế (nơi diệt của các sự thống khổ là Niết-Bàn).
Dukkha Nirodhagãminipattipadã: Ðạo-Ðế (con đường Bát-Chánh-Ðạo hành theo để đi đến nơi diệt khổ).
Ngài đã giáo-hóa tùy theo duyên lành (Upanissaya). Chúng sanh nào ít duyên lành, nhiều phiền-não thì Ngài dạy bảo về sự lợi-ích hiện-tại và vị-lai. Chúng sanh nào thiện duyên cao dày thì Ngài dạy bảo về sự lợi ích cao-thượng là Niết-Bàn.
Bậc dẫn đạo tuyệt luân.
Trong bộ Mahã Niddesa có giải về chữ Thầy (Satthu) như vầy:
"Ðức Thế-Tôn là thầy, vì Ngài là bậc dẫn đạo chuyên nghiệp là dắt dẫn đoàn lữ-hành qua những con đường xa hẻo lánh đầy sự hiểm nguy tai-hại, về đến nhà hoặc đi đến nơi đã định trước một cách an-toàn vô-sự. Con đường xa hẻo lánh đầy sự hiểm nguy tai-hại ấy có 5:
Corakantãra: Tai hại vì trộm cướp
Bãlakantãra: Nguy hiểm vì thú dữ
Nirudakakantãra: Nguy hiểm vì không có nước uống
Amanussakantãra: Nguy hiểm vì phi-nhân (dạ-xoa,...)
Appabhakkhakantãra: Nguy hiểm vì không có vật-thực.
Cũng như thế ấy, Ðức Thiên-Nhân-Sư đã hướng dẫn chúng-sanh qua khỏi 13 con đường xa (Kantãra) có nhiều sự khổ-não và tai-hại như sau:
Jãti Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Sanh
Jãra Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Già
Byãdhi Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Ðau (bệnh)
Marana Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Chết
Dukkha Dukkha: Khổ vì sự thống khổ của các sự Khổ
Soka: Khổ vì buồn rầu, thương tiếc
Parideva: Khổ vì khóc than kể lể
Domanassa: Khổ vì phiền muộn
Upãsa: Khổ vì khó chịu, bực tức
Ditthi: Tai hại vì kiến thức
Uddhacca: Tai hại vì phóng Tâm
Vicikiccha: Tai hại vì hoài nghi
Silabbatta Parãmãsa: Tai hại vì giới cấm thủ (chấp lệ cúng tế thần thánh, thần lửa, v.v...)
Ðức Thế-Tôn đă dùng 30 Pháp Ba-La-Mật kết lại làm 1 thớt tượng dũng mạnh hoặc một chiếc xe kiên cố, vượt qua 13 con đường xa đầy khổ não tai hại kể trên, đến nơi vô sanh bất diệt là Niết-Bàn. Sau khi tự mình vượt qua rồi, Ngài Từ-Bi dạy bảo chúng-sanh dùng những phương tiện quí báu ấy và hướng dẫn chúng sanh qua những con đường xa đầy dẫy những sự thống khổ Sanh, Lão, Bệnh, Tử... đến nơi an-lạc cũng như ngài. Hoặc giả Ngài dùng 30 Pháp Ba-la-mật tạo thành một chiếc thuyền, tự mình vượt qua khổ-hải là sanh-tử luân-hồi, rồi Ngài lại dùng chiếc thuyền ấy đưa chúng sanh từ bờ mê đến nơi bến giác.
"Ye te kappasatasahassã dhammam sutvã pannãya passanti"
Chúng sanh nào đã thực-hành các Pháp Ba-La-Mật được 100 ngàn đại kiếp hữu-phước, rồi sau được thính Pháp Ðức Thế-Tôn, khiến cho phát sanh Trí Tuệ thông hiểu giáo lý của Ngài, thấy rõ Tứ-Diệu-Ðế, diệt tận phiền-não aí dục trong thân tâm bằng A-La-Hán đạo-tuệ; chúng sanh ấy được qua khỏi đường xa có nhiều thống khổ vì sự sanh, nghĩa là không còn thọ sanh vào thai bào của người mẹ nữa như năm thầy Kiều-Trần-Như và ông Yasakola cùng người bạn,...
Theo "Nhân Quả Liên Quan" thường gọi là "Thập-Nhị Nhân-Duyên", các Pháp Hữu Vi đều do nguyên-nhân mà phát sanh lên, khi nguyên-nhân bị diệt tắt rồi thì các Pháp ấy cũng bị diệt-tắt theo.
Sanh (Jãti) là nguyên-nhân của lão tử (Jarãmaranam), khi sanh diệt thì lão tử diệt. Ðúng với câu Phật-Ngôn "Jãtinirodhã Jãra Maranam Soka Paridevadukkha Domanassupayasa nirujjhanti": khi sanh diệt đi rồi, thì sự già chết, thương tiếc, khóc than, khổ não, phiền muộn, bức rức cũng diệt theo tất cả.
Vì thế, bậc thánh nhân nào không còn tái sanh nữa, thì bậc ấy cũng không còn có thân ngũ-uẩn. Nếu không có thân ngũ-uẩn thì cũng không có sự gìa, đau, chết và các điều thống khổ khác trong buổi vị lai. Các Pháp Hữu Vi đều bị diệt tắt rồi, ta có thể nói rằng bậc thánh nhân ấy đã qua khỏi 13 con đường xa vừa kể trên vậy.
Chư-Thiên và Nhân-Loại.
Chư-Thiên và Nhân-Loại (Devamanussãnam) đây, ý nói các hàng chúng sanh có nhiều thiện duyên, có thể đắc đạo, đắc quả trong kiếp hiện tại (Bhabba Puggala).
Sự thật, không phải Ðức Phật chỉ tế-độ các hàng Chư-Thiên và Nhân-Loại ấy mà thôi đâu, Ngài cũng tế-độ luôn cả loài thú nữa. Vì mặc dầu loài thú trong kiếp hiện tại, nhưng khi nghe được Pháp của Ðức Thế-Tôn rồi tạo duyên lành, và nhờ duyên lành ấy, trong hai ba kiếp tương-lai sẽ dược đắc đạo quả. Một lẽ nữa, các loài thú ấy, trong những kiếp quá-khứ, khi làm người, lúc làm trời v.v... đã tập hợp được nhiều thiện-duyên, đến kiếp hiện-tại tuy đã trả quả khổ do nghiệp ác đã tạo nên thân làm súc-sanh nhưng thiện duyên vẫn còn tồn tại, đến khi kiếp này, hữu phước, được gặp Ðức Phật tế-độ cho.
Như tích vị trời Mandũka sau đây:
Trong khi Ðức Thế-Tôn thuyết Pháp độ dân chúng trong thành Campã, cạnh bờ hồ Gaggarã, có một con ếch nhận biết được một tiếng trong lời nói của Ngài. Có người chăn bò đứng gần đó, chống cây gậy bọc sắt trên mặt đất, nào ngờ trúng ngay con ếch và đè bẹp nát đầu ếch. Con ếch chết ngay và liền tái sanh ở cõi trời Ðao-lợi trong một đền đài bằng vàng rộng 12 do-tuần, đương thể mới thức dậy sau một giấc ngủ. Khi nhìn thấy đền đài nguy nga và đoàn Chư-Thiên nữ bao quanh mình, vị Trời ấy ngạc-nhiên, tự hỏi "Ta đã làm điều phước-thiện gì mà được như vậy?". Sau khi cố tìm kiếm trong trí, mới nhớ ra rằng điều phước-thiện đã làm không chi hơn là sự nhận biết được một tiếng trong lời thuyết Pháp của Ðức Phật thôi. Vị Trời ấy liền mang đèn vàng bay xuống cõi trần đảnh lễ Ðức Phật.
Mặc dầu đã rõ biết, nhưng Ngài vẫn hỏi bằng lời kệ rằng:
"Ko me vandati pãdãti iddhiyã yasasã jalam abhikantena vannena sabba obhãsayam disã "
(Vị nào mà có nhiều thần-lực, có địa-vị cao quí và có hào-quang rực-rỡ chiếu sáng cả bốn phương, đến đảnh lễ dưới chân Như-lai đó?)
Vị Trời ấy bèn bạch bằng lời kệ rằng:
"Mandukoham pure asim udake vãrigocaro tava dhammam sunantassa avadhi vacchapalako"
(Bạch Ðức Thế-Tôn! Lúc trước tôi là con ếch sống ở dưới nước; khi đang nghe Pháp Ðức Thế-Tôn, người chăn bò đã vô-ý giết tôi).
Ðức Thế-Tôn thuyết Pháp cho vị Trời ấy nghe, có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đắc đạo-quả trong buổi đó, còn vị Trời Mandũka được đắc quả Tu-Ðà-Hườn, mỉm cười thỏa-thích về cõi trời.
Do nhờ những Ân-Ðức vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là SATTHADEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư).
BUDDHO (PHẬT)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là BUDDHO (Phật)? Bởi Ngài là:
- Bậc đã Thức-Tỉnh
- Bậc đã Thoát Ly
- Bậc đã Thông-Suốt lý Tứ-Diệu-Ðế và đem ra giáo hóa cho chúng sanh cùng biết như Ngài.
Bậc đã thức-tỉnh.
Ðức Thế-Tôn là bậc đã thức-tỉnh, vì Ngài không còn trong Tâm 7 Pháp ngủ-ngầm (Anusaya) là những Phiền-Não vi-tế tiềm-tàng chờ có dịp thì dấy động lên:
1) Kãmarãgãnusaya: Mê thích tình-dục ngủ-ngầm
2) Bhavarãgãnusaya: Ưa thích Tam-Giới ngủ-ngầm
3) Patighãnusaya: Bất-bình ngủ-ngầm
4) Mãnãnusaya: Cống cao, Ngã mạn ngủ-ngầm
5) Ditthãnusaya: Kiến thức ngủ-ngầm (Tà-kiến)
6) Vicikicchãnusaya: Hoài-nghi ngủ-ngầm
7) Avijjãnusaya: Vô-Minh ngủ-ngầm.
Ngài là bậc Giác-Ngộ, nghĩa là tự mình đã hiểu-biết tường-tận (Bujjhi) và diệt-tận trong Tâm bảy Pháp ngủ-ngầm vừa kể trên, rồi Ngài lại cảnh tỉnh chúng sanh đang ngủ mê hoặc ngủ quên trong các Pháp ấy cho tỉnh dậy như Ngài. Chúng sanh nào, tròn đủ thiện-duyên thì tỉnh dậy liền. Chúng sanh nào ít hoặc không có thiện-duyên thì lăn qua trở lại rồi tiếp-tục ngủ nữa.
Ðức Thế-Tôn đã tự mình tỉnh dậy, không ai nhắc-nhở hoặc thức-tỉnh cho, chỉ do nhờ 30 Pháp Ba-La-Mật đã đào-tạo trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp. Chính sự thực-hành viên mãn 30 Pháp Ba-La-Mật ấy đã thức-tỉnh Ngài, ví người ngủ đã giấc hoặc đúng giờ rồi tự nhiên thức dậy không cần ai kêu gọi.
Từ khi thành đạo dưới cội Bồ-Ðề đến lúc nhập Niết-bàn, Ngài đã châu-du hoằng hóa, tế-độ quần sanh trọn 45 năm trường đằng-đẳng không ngừng-nghỉ. Vì Ngài là bậc Giác-Ngộ, thức-tỉnh trước tiên, nên Ngài thấy rõ tội-lỗi và khổ-não do sự ngủ quên, và sự an lạc trong cõi Niết-bàn. Ngài thấy chúng sanh đang lặn-hụp rên siết trong khổ hải, nên phát Tâm Bi-Mẫn bao-la, lo-lắng nhắc-nhở, cảnh-tỉnh (Bodhesi) chúng sanh đang ngủ mê trong vòng sanh tử luân hồi, cho tỉnh dậy cũng như Ngài.
Bậc đã thoát ly.
Ðức Thế-Tôn là bậc đã thoát ly, ra khỏi Vô-Minh. Vô-Minh (Avijjã) có hai nghĩa:
- Adassanam: Không Thấy,
- Annãnam: Không Biết.
Vô-Minh đây, ý nói không thấy, không biết những Pháp chân thật là Tứ-Diệu-Ðế. Có bốn điều:
1) Dukkha Annãnam: Không biết rõ cái khổ. Chúng sanh có thức tánh như trời người, thú, v.v... đang bị các sự thống khổ đè nén hãm hại không ngừng là khổ sanh, khổ già, khổ đau, khổ chết, khổ thương tiếc, khổ khóc than, khổ phiền muộn, khổ thất vọng, v.v... nhưng vẫn thản-nhiên như dường không hay biết những sự thống khổ ấy, vẫn miệt-mài theo Ngũ-Trần lục-dục, mê-muội, không rõ lẽ hợp tan của Ngũ-Uẩn. Cái khổ cho là vui, cái trược cho là trong sạch, cái chi Vô-Thường cho là bền vững v.v...
2) Dukkha Samudaye Annãnam: Không thấy, không biết Tập-Ðế là lòng Ái-Dục (có 3 hoặc 108) là nguyên-nhân phát sanh các sự thống khổ.
3) Dukkha Nirodhe Annãnam: Không thấy, không biết Diệt-Ðế là nơi diệt tận các sự khổ.
4) Dukkha Nirodha Gãmini Patipadãya Annãnam: Không thấy, không biết Ðạo-Ðế, là con đường dắt-dẫn đến nơi diệt tắt các sự khổ [*].
[*] Vô-Minh vừa giải trên là giải theo tạng Kinh (Suttanta), còn giải theo tạng Luận (Abhidamma) thì có 8 điều: 4 điều về Tứ-Diệu-Ðế đã giải và thêm:
5) Pubbante annãnam: Không biết rõ sự khởi thì của Ngũ-Uẩn
6) Aparante annãnam: Không biết rõ chỗ cuối cùng của Ngũ-Uẩn.
7) Pubbantãparante annãnam: Không biết rõ sự khởi thì và chỗ cuối cùng của Ngũ-Uẩn.
8) Paticcasamupadde annãnam: Không rõ lý nhân-quả liên-quan (12 nhân-duyên).
Màn Vô-Minh bao-trùm tất cả chúng sanh không cho thấy ánh sáng tức là Trí Tuệ thấy rõ, biết rõ những Pháp chân thật, ví như gà con chưa nở, còn trong vỏ trứng không thể thấy ánh sáng mặt nhựt vậy. Ðến khi gà con đó cố gắng lấy mỏ soi vỏ trứng, lấy chân phá lỗ cho rộng, mới chui ra khỏi vỏ và thấy ánh sáng mặt trời được.
Ðức Phật là bậc tiên khởi phá tan vỏ trứng Vô-Minh bao bọc tâm Ngài từ bao A-tăng-kỳ kiếp quá-khứ, đắc được Tuệ-Giác thông-suốt các Pháp Diệu-Ðế, rồi Ngài cần chuyên thực-hành phận-sự (Buddha Kicca) không ngừng nghỉ cho đến lúc nhập Niết-bàn.
Phận-sự của Ðức Phật trong mỗi ngày có 5:
1) Pubbanhe Pindapãtam: Buổi sáng trì bình khất thực.
2) Sãyanke Dhammadesanam: Buổi xế thuyết Pháp độ đời.
3) Padose Bikkhu Ovãdam: Buổi chiều tối ban huấn-từ cho hàng Tỳ-Khưu.
4) Addharatte Devapanhanam: Trong lúc nửa đêm, trả lời những câu hỏi của Chư-Thiên.
5) Paccũseva Gotte Kãle Bhabbãhabbe Vilokanam: Gần rạng đông, Ngài xem coi chúng-sanh nào có duyên lành hay không đặng đi đến tế-độ.
Bậc đã thông-suốt lý Tứ-Diệu-Ðế.
Ðức Thế-Tôn đã thông-suốt 4 Pháp chân-thật là Tứ-Diệu-Ðế (Caturãriyasacca):
- Dukkha Sacca: Khổ-Ðế,
- Samudaya Sacca: Tập-Ðế,
- Nirodha Sacca: Diệt-Ðế,
- Magga Sacca: Ðạo-Ðế.
Lý (Attha).
Mỗi Diệu-Ðế đều có 4 lý hoặc trạng thái hay năng-lực.
Khổ-Ðế có 4 lý:
1) Pilanattho: Có năng-lực hãm hại, phá-hoại chúng-sanh.
2) Sankhatattho: Có trạng thái do nguyên-nhân Ái-Dục cấu tạo nên.
3) Santãpattho: Có năng lực làm nóng nảy bực bội.
4) Viparinãmattho: Có trạng thái luôn luôn thay đổi không bền vững.
Tập-Ðế có 4 lý:
1) Ayuhanattho: Có năng lực hội hợp các sự Khổ-Ðế cho phát sanh lên.
2) Nidãnattho: Có trạng thái là nguyên nhân của sự khổ (có sự khổ là quả)
3) Samyyogattho: Có năng lực c?t trói, giam hãm chúng sanh trong Tam-Giới (trong sự khổ)
4) Palibodhanattho: Có năng lực làm bận rộn chúng sanh trên con đường giác ngộ là không cho đắc đạo-quả.
Diệt-Ðế có 4 lý:
1) Nissaranattho: Có năng lực làm cho thoát khỏi phiền-não (sự khổ) và ra khỏi Tam-Giới.
2) Vivekattho: Có trạng thái yên lặng lánh xa sự khổ.
3) Asankhatattho: Có trạng thái không do nguyên nhân tạo thành được (vô sanh).
4) Amatattho: Có trạng thái không chết (bất diệt).
Ðạo-Ðế có 4 lý:
1) Niyãnattho: Có năng lực đưa ra khỏi vòng sanh-tử luân-hồi.
2) Hetvattho: Có tánh cách là nguyên nhân đưa đến Niết-Bàn.
3) Dassanattho: Có năng lực làm cho thấy rõ Niết-Bàn.
4) Adhipateyyattho: Có tánh cách quan trọng trong các Pháp hành cho thấy rõ Niết-Bàn.
Tướng hoặc Ðặc-tính (Lakkhana).
Tứ-Diệu-Ðế có 2 đặc-tính: Sankhãta Lakkhana (đặc-tính Hữu-Vi) và Asankhãta Lakkhana (đặc-tính Vô-Vi).
Ðặc-tính Hữu-Vi chia làm 3:
- Uppãdo: Tánh-cách phát-sanh lên
- Vayo: Tánh-cách tiêu-diệt
- Thiti: Tánh-cách trụ-lai.
Ðặc-tính Vô-Vi cũng chia làm 3:
- Anuppãdo: Tánh-cách không phát-sanh lên
- Navayo: Tánh-cách không tiêu-diệt
- Tánh-cách không an-trụ.
Khổ-Ðế, Tập-Ðế và Ðạo-Ðế thuộc về đặc-tính Hữu-Vi, còn Diệt-Ðế thuộc về đặc-tính Vô-Vi.
Sự (Kicca).
Tứ-Diệu-Ðế nếu chia ra Pháp Thiện (Kusala) và Pháp Ác (Akusala) và Pháp không Thiện không Ác (Abyãkata), thì Tập-Ðế là Pháp Ác, Ðạo-Ðế là Pháp Thiện, Diệt-Ðế là Pháp không Thiện không Ác, Khổ-Ðế vừa là Pháp Thiện vừa là Pháp Ác và cũng là Pháp không Thiện không Ác.
Khổ-Ðế là Pháp Thiện nếu đi đôi với Ðạo-Ðế (Pháp Thiện). Ý nói: Khi người nào cố-gắng học Kinh và Tham-Thiền hoặc hành 13 Pháp Ðầu-Ðà, hoặc chuyên-cần làm những việc lành (Bố Thí, Trì Giới, v.v...) trong sự học hỏi và thực-hành như thế, hằng có nhiều sự cam go cực-nhọc gọi là khổ, nhưng những hành-vi ấy đều là nghiệp lành, nên mới gọi Khổ-Ðế là Pháp Thiện.
Khổ-Ðế là Pháp Ác nếu đi đôi với Tập-Ðế (Pháp Ác). Ý nói: khi người nào cố-gắng làm những điều ác (Sát Sanh, Trộm Cắp, Tà Dâm, v.v...), nhiều lúc phải chịu dầm mưa dãi nắng, tìm kiếm mưu-kế để thỏa lòng dục-vọng và có Tâm luôn luôn lo sợ (sợ bị chê bai, bị hành phạt v.v...), như thế gọi là khổ. Lại nữa những hành-vi ấy đều là nghiệp ác, nên mới gọi Khổ-Ðế là Pháp Ác.
Khổ-Ðế là Pháp không Thiện không Ác nếu đi đôi với Diệt-Ðế (Pháp không Thiện không Ác). Ý nói: Các bậc Ðạo-Quả A-la-hán (Ðức Phật, Thinh-Văn,...) đều cố gắng thực-hành tròn đủ phận-sự cao-thượng và thuyết Pháp phổ-độ chúng sanh thật là mệt nhọc, nhưng không có phước báu (Quả) chi cả, nên mới gọi Khổ-Ðế là Pháp không Thiện không Ác.
Quán-tưởng về Ngũ-Uẩn theo lý Tứ-Diệu-Ðế.
Nếu quán-tưởng về Ngũ-Uẩn theo lý Tứ-Diệu-Ðế, phải quán-tưởng từng uẩn một. Ðầu tiên là Sắc-Uẩn.
Sự vui-thích nào đã phát sanh lên do nơi Sắc, gọi là sự vui thích của Sắc. Ấy là Tập-Ðế, có thể giác-ngộ được bằng sự dứt bỏ.
Sắc không bền-vững, là khổ-não, luôn luôn thay đổi Vô-Thường, gọi là tội-lỗi của Sắc phát sanh lên do nơi Sắc. Ấy là Khổ-Ðế, có thể giác-ngộ được bằng sự nhận-thức.
Sự dứt bỏ được Tâm ý tham muốn trong Sắc, gọi là thoát-ly khỏi Sắc. Ấy là Diệt-Ðế, có thể giác-ngộ được bằng cách làm cho rõ-rệt.
Bát-Chánh-Ðạo có Chánh-Kiến (là thấy biết chân-chánh trong 3 nhân) là đầu, gọi là Ðạo-Ðế, có thể giác-ngộ được bằng phép Quán Niệm-Tưởng.
Nên quán-tưởng thêm về Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn, Thức-Uẩn, y theo phương-pháp đã giải trên về Sắc-Uẩn.
Quán-Tưởng Nhân-Quả Liên-Quan theo lý Tứ-Diệu-Ðế.
Pháp Nhân-Quả Liên-Quan (Thập-Nhị Nhân-Duyên) - Paticca Samuppãda - có 12 chi nương nhau và liên-hệ với nhau. Chi này là nhân của chi sau và cũng là quả của chi trước, ví như một sợi dây xích có 12 khoan liền nhau, khoan này là quả của khoan trước và cũng là nhân để nối liền với khoan sau (xin xem giải rộng chi tiết trong quyển Nhân-Quả Liên-Quan của Ðại-Ðức Bửu Chơn).
12 chi là:
1) Vô Minh (Avijjã) sanh ra Hành
2) Hành (Sankhãra) sanh ra Thức
3) Thức (Vinnãna) sanh ra Danh Sắc
4) Danh Sắc (Nãma Rũpa) sanh ra Lục Căn
5) Lục Căn (Salãyatana) sanh ra Xúc
6) Xúc (Phassa) sanh ra Thọ
7) Thọ (Vedanã) sanh ra Ái
8) Ái (Tanhã) sanh ra Thủ
9) Thủ (Upãdanã) sanh ra Hữu
10) Hữu (Bhava) sanh ra Sanh
11) Sanh (Jãti) sanh ra Lão, Tử (Jarã Maranam)
12) Luôn cả sự thương-tiếc, khóc than, khó chịu, phiền muộn v.v... là những sự thống-khổ cùng phát sanh lên với già, chết thành ra 12 chi.
Nếu quán tưởng 12 Nhân-Duyên ấy theo lý Tứ-Diệu-Ðế thì:
- Lão, Tử là Khổ-Ðế, Sanh là Tập-Ðế, sự thoát-ly Lão Tử và Sanh là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Sanh là Khổ-Ðế, Hữu là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Sanh và Hữu là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Hữu là Khổ-Ðế, Thủ là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Hữu và Thủ là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Thủ là Khổ-Ðế, Ái là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Thủ và Ái là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Ái là Khổ-Ðế, Thọ là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Ái và Thọ là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Thọ là Khổ-Ðế, Xúc là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Thọ và Xúc là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Xúc là Khổ-Ðế, Lục Căn là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Xúc và Lục Căn là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Lục Căn là Khổ-Ðế, Danh-Sắc là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Lục Căn và Danh-Sắc là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Danh-Sắc là Khổ-Ðế, Thức là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Danh Sắc và Thức là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Thức là Khổ-Ðế, Hành là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Thức và Hành là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
- Hành là Khổ-Ðế, Vô-Minh là Tập-Ðế, sự thoát-ly khỏi Hành và Vô-Minh là Diệt-Ðế, Tuệ biết rõ Diệt-Ðế là Ðạo-Ðế.
Những sự thống-khổ do già, chết, thương tiếc, khóc than, khổ não, phiền muộn, khó chịu, bực tức, thất vọng v.v... gọi là Khổ-Ðế.
Ðức Phật đã thấy biết tường-tận tinh-vi Vô-Minh và Ái-Dục là hai gốc (Mũla) của bánh xe nhân quả, là nguồn cội của Luân-Hồi, là nguyên-nhân phát sanh sự khổ, gọi là Tập-Ðế.
Do nhờ Thánh-Ðạo, Ngài đã cắt đứt (diệt tận) cả hai gốc rễ ấy. Vô-Minh và Ái-Dục đã bị diệt rồi, thì các Pháp khác là Hành, Thức, Danh-Sắc,... cũng bị diệt theo và bánh xe Nhân-Quả Liên-Quan cũng ngừng xoay. Sự diệt tận ấy gọi là Diệt-Ðế.
Do nhờ Thiền-Ðịnh và Minh-Sát, Ngài đã làm cho rõ-rệt con đường đi đến nơi diệt khổ, gọi là Ðạo-Ðế.
Sau khi giác-ngộ, thông suốt lý Tứ-Diệu-Ðế rồi, Ngài đem ra giáo-hóa chúng sanh cùng biết, hầu thực-hành theo để diệt-tận các sự thống-khổ và được giải-thoát cũng như Ngài.
Lại nữa, Ðức Ðại-Bi có hiệu là BUDDHO (Phật) cũng do nhờ những ân-đức sau đây.
Sabbadassavita buddho.
Ngài đã thấy rõ tất-cả những điều kinh khủng trong quá-khứ, vị-lai và hiện-tại (ý nói các điều kinh sợ mà chúng sanh phải chịu khi sa vào ác-đạo là Súc-sanh, Ngạ-quỉ, A-tu-la, Ðịa-ngục (Duggatibhaya).
Khinasavasankhatena buddho.
Ngài không còn trong Tâm ba Pháp Trầm-Luân (Asavã) là Trầm-Luân trong Ngũ-Trần (Kãmãsava), Trầm-Luân trong Tam-Giới (Nhavasava) và Trầm-Luân trong Vô-Minh (Avijjãsava).
Nirupakilesankhatena buddho.
Ngài đã xa lià 10 Phiền-Não (Kilesa) là tham, sân, si, ngã mạn, kiến thức (tà kiến), hoài nghi, phóng tâm, tâm dụ-dự uể-oải, không hổ thẹn tội lỗi, không ghê sợ tội lỗi.
Ekayamaggam gatoti.
Ngài đã đi theo con đường chân-chánh chỉ có một, là con đường Trung-đạo (Majjhimãpatipadã) để đến đích là Niết-Bàn.
Eko anuttara sammasambodhim abhisam buddho.
Ngài là bậc đã tự mình giác-ngộ chân-chánh, thông suốt 10 Huệ-lực (Dasabalannãna) [*] và Tuệ thông hiểu tất cả các Pháp Hữu Vi và Vô Vi không dư sót (Sabbannutanãna: Diệu-Giác Viên-Minh), không Chư-Thiên và Phạm-Thiên nào sánh bằng.
[*] 10 Huệ Lực của Ðức Phật:
1 - Thãnãthãnannãna: Huệ biết rõ nguyên-nhân hay không phải nguyên-nhân đúng theo chân-lý.
2 - Vipãkannãna: Huệ biết rõ cái quả của nghiệp (thiện hay ác) đã tạo.
3 - Sabbathagãmimaggannãna: Huệ biết rõ hành-vi thế nào đưa chúng sanh đến cảnh giới vui hay khổ.
4 - Nãnãdhãtunnãna: Huệ biết tất cả nguyên-chất khác nhau.
5 - Nãnãdhimuttinnãna: Huệ biết rõ trình-độ của chúng sanh thấp hèn hay cao thượng.
6 - Indriyaparopariyatannãna: Huệ biết rõ căn-cơ chúng sanh khác nhau.
7 - Jhãnãdinnãna: Huệ biết rõ điều nhơ bẩn hay trong sạch của các cõi thiên và sự giải-thoát.
8 - Pubbenivãsannãna: Huệ biết rõ những tiền kiếp của mình và chúng sanh.
9 - Cutupapãtannãna: Huệ biết rõ sanh tử luân-hồi của chúng sanh do theo nghiệp (Lành hay Ác).
10 - Asavakkhayannãna: Huệ biết rõ các pháp trầm luân và diệt tận không còn dư sót
Do nhờ những ân-đức cao quí vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là BUDDHO (Phật).
BHAGAVÃ (THẾ-TÔN)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là BHAGAVÃ (Thế-Tôn)?
Bởi Ngài là:
- Bậc có Phần (Bhãga)
- Bậc Phân Chia (Bhãgi)
- Bậc Cảm Thắng (Jaya)
- Bậc Ðã Diệt Tận (Bhagga)
- Bậc Ðại Phước-Ðức (Bhãgyavã)
- Bậc có Hạnh-Phúc (Bhagi)
- Bậc Năng Lai Vãng (Bhaji)
- Bậc Ðã Dứt Nẻo Tam-Giới (Bhavãnam Antakariti).
Tiếng Bhagavã (Thế-Tôn) là một danh-từ dùng để phát biểu sự tôn kính và lòng sùng bái của chúng sanh đối với Ðức Phật vì Ngài là bậc tối-thượng hơn cả chúng sanh và có những ân-đức cao quí không ai bì.
Bậc có phần.
Ðức Phật là bậc có phần. Phần đây, ý nói phần thiện quí báu cao thượng là 30 Pháp Ba-La-Mật mà Ngài đã đào-tạo trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp quả địa-cầu, có năng-lực đem lại sự an vui cho Ngài và cả chúng sanh trong thế-gian và xuất thế-gian.
Bậc phân chia.
a) Ngài phân chia cho chư tăng tứ vật dụng (y-phục, vật thực, chỗ cư ngụ và y-dược) do thí chủ cúng dường Ngài.
b) Ngài phân chia hương vị của giáo-lý là các Pháp đem lại sự lợi-ích và cứu-cánh giải-thoát cho chúng sanh.
c) Ngài phân chia các Pháp từng phần, từng loại cho rõ ràng minh bạch, ví dụ: 3 phần là Pháp Thiện, Pháp Ác, Pháp không Thiện không Ác; 4 loại là Tâm Vương, Tâm Sở, thuộc về thế-gian và xuất thế-gian v.v... Ngài phân tách các Pháp ấy ra: Uẩn, Bản Chất, Căn, Trần, Diệu-Ðế, Duyên-Khởi v.v...
Bậc cảm thắng.
Sau khi thành đạo, chứng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác, Ngài đem Giáo-lý truyền bá cho chúng sanh thấm-nhuần những Pháp vi-diệu cứu khổ. Có hàng chúng sanh phát tâm chán nản thế sự phù du, cắt ái ly-gia sống cuộc đời phạm-hạnh của Tăng-già. Có hạng trở nên có đức tin trong sạch, tín thành Tam-Bảo. Tăng đồ và thiện-tín trong Giáo-Pháp của Ngài rất là đông-đảo không kể xiết.
Một lẽ nữa, trên con đường châu du thuyết pháp tế-độ quần sanh, nhiều lúc có bọn ngoại đạo quyết tâm cật-vấn tranh-luận với Ngài, nhưng Ngài không bao giờ nao-núng e-ngại, điềm tĩnh bắt bẻ lập luận sai lầm của chúng và giảng giải cho họ thấy rõ đâu là nẻo chánh, đâu là đường tà. Chỉ mình Ngài mới có Trí-Tuệ thậm thâm, đầy đủ oai-lực cảm thắng bọn ngoại đạo kích bác Ngài. Nhiều khi sau buổi tranh luận, có người tự thấy mình lầm lạc đi bấy lâu nay, phát tâm qui y Tam-Bảo và trở nên môn-đệ của Ngài.
Bậc đã diệt-tận.
Ngài đã tàn phá, diệt tận tất cả phiền-não trọng-đại và vi-tế, có tham, sân, si là nguồn-cội. Hoặc nói một cách khác, Ngài đã chiến-thắng và diệt trừ Ngũ-Ma (Pancamara) khi còn ngự dưới cội bồ-đề trước khi thành đạo.
5 Hạng Ma-Vương là:
1) Khandha mãra: Ngũ-Uẩn Ma-Vương
2) Kilesa mãra: Phiền-Não Ma-Vương
3) Abhisankhãra mãra: Pháp Hành Ma-Vương
4) Devaputta mãra: Chư-Thiên Ma-Vương
5) Maccu mãra: Tử-Thần Ma-Vương.
Ngũ-Uẩn Ma-Vương: Chính vì có thân Ngũ-Uẩn này, nên chúng sanh mới có những sự thống-khổ và cũng vì lầm-lạc chấp rằng: trong thân Ngũ-Uẩn này có ta, cho Sắc Uẩn là ta, là của ta, là thân ta...
Và vì chấp thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn cũng như thế ấy, nên các sự khổ-não mới phát sanh lên được. Cả năm điều chấp (Ngũ-Uẩn) Upãdãnakkhandha ấy ví như năm tên đạo-tặc theo dính chúng sanh để chờ có dịp hãm-hại, nên gọi là Ngũ-Uẩn Ma-Vương.
Phiền-não Ma-Vương: Phiền-não có 10 hoặc 1500.
10 phiền-não (Kilesa) là: Lobbha (Tham), Dosa (Sân), Moha (Si), Màna (Ngã-Mạn, Cống cao), Ditthi (kiến-thức Tà-kiến), Vicikicchã (Hoài-nghi về Nhân-quả), Thina (Tâm do-dự, uể-oải), Uddhacca (phóng Tâm), Arihika (không hổ thẹn tội lỗi), Anottappa (không ghê sợ tội lỗi).
Về 1500 phiền-não, xin xem phía trước, phần tiếp theo hiệu ARAHAM (Ứng Cúng).
10 phiền-não kể trên là nguồn cội các pháp ác hằng làm cho chúng sanh nóng nảy, khổ sở không ngừng trong kiếp hiện tại và vị lai và phải bị trầm luân mãi mãi trong vòng sanh tử luân hồi, nên gọi là phiền-não ma-vương.
Pháp hành Ma-Vương:
Hành vi tạo tác do Thân, Khẩu, Ý, dầu ác hay thiện đều gọi là pháp hành.
Pháp hành ác (Apunnàbhisankhara) có 12: 8 nhân tham lam (Lobha mùla), 2 nhân sân hận (Dosa mùla) và 2 nhân si-mê (Moha mùla).
Pháp hành thiện (Punnàbhisankhara) có 17: 8 hành thiện về Dục-giới (Kãmàvacara Kusala), 5 hành thiện về Sắc-giới (Rùpãvacara Kusala) và 4 hành thiện Vô-sắc-giới (Arupãvacara kusala).
Các pháp hành ác và hành thiện trên đây đều gọi là Ma-vương. Vì pháp hành ác thường xúi dục, xô đẩy chúng sanh tạo những nghiệp dữ, phải chịu khổ trong kiếp hiện tại và bị sa-đọa trong 4 đường ác-đạo. Còn pháp hành thiện thì thường rủ-ren chúng sanh làm những việc phúc thiện (bố-thí, trì-giới, tham-thiền, v.v...) cho hưởng nhân thiên phước báu, hết làm trời đến làm người v.v..., xoay vần mãi trong ba cõi không được ra khỏi vòng sanh-tử luân-hồi.
Chư-Thiên Ma-Vương:
Có một hàng Chư-Thiên ganh-ghét những người lành, cứ theo ngăn cản không cho làm những điều thiện. Cầm đầu hạng Chư-Thiên ấy gọi là Ma-Vương (Mãra) thường ở một nơi riêng-biệt trong cõi trời Tha-Hóa-Tự-Tại (Paranimmitavasavatti). Chính Ma-Vương này đã đến khuấy rối và cám dỗ Ðức Phật nơi cội bồ-đề, nhưng bị Ngài cảm thắng do nhờ pháp thập-độ nhất là pháp bố-thí ba-la-mật.
Lợi-khí của Chư-Thiên Ma-Vương là 3 tấm lưới: lưới tình-dục (Ràja), lưới sân-hận (Dosa), lưới ái-dục Ngũ-Trần (Tanhã). Chúng sanh nào bị sa vào 3 tấm lưới ấy rồi, luôn luôn phải chịu khổ-sở đau-đớn dầu cố vùng vẫy cũng không sao thoát khỏi, ví như loài phi cầm tầu thú đã dính mắc trong lưới của thợ săn rồi không dễ gì thoát thân được.
Tử-thần Ma-Vương:
Gọi là Ma-Vương, vì sự chết có quyền-lực cắt-dứt tuổi thọ chúng sanh. Không có cái khổ nào lớn bằng cái khổ chết. Dầu không muốn xa-lìa những nhân-vật thương yêu trìu mến, dầu Tâm còn những tham luyến tiền của sản-nghiệp, song khi tử-thần đã đến, thì vua chúa hay thường dân, sang cả hay bần-cùng, trí hay ngu, ai ai cũng không thể cưỡng lại được tử-thần.
Ðức Phật đã chiến-thắng và diệt-trừ cả 5 hạng Ma-Vương ấy nên Ngài được hoàn-toàn giải-thoát.
Bậc đại-phước-đức.
Ngài là bậc Ðại-Phước-Ðức vì hai lẽ:
1) Sắc Thân Hoàn Mỹ: đầy-đủ 32 tướng tốt và 80 tướng phụ.
2) Ðức Hạnh Toàn Thiện: Ngài đã thực-hành trọn đủ các pháp thiện và diệt tận các pháp không dư sót.
Có hạng chúng sanh ngưỡng-mộ sắc thân hoàn-mỹ, phát tâm có đức tin trong sạch nơi Ngài. Có hạng tin-tưởng nơi đức-hạnh toàn-thiện, ly gia cắt ái trở thành môn-đệ và vâng lời giáo-huấn của Ngài.
Cả hai hạng chúng sanh ấy, sau khi tin-tưởng Ngài rồi, đều được giảm bớt khổ-não trong tâm và tùy theo thiện duyên và sự tinh-tấn, được hưởng hạnh-phúc thế-gian và xuất thế-gian.
Bậc có hạnh-phúc.
Ngài là bậc có 6 hạnh phúc sau đây:
1) Có khả lực đè nén, chế ngự tư-tưởng không cho tâm ác phát sanh lên.
2) Ðã thực-hành trọn đủ các pháp thiện, thế-gian và xuất thế-gian.
3) Danh-tiếng quí-trọng vang-lừng khắp Tam-giới không ai sánh bằng
4) Sắc thân rực rỡ như vàng ròng, hào quang tủa khắp khiến cho chúng sanh vui thích khi nhìn Ngài.
5) Khi ước mong điều chi hay cần dùng vật chi riêng cho Ngài và cho người khác đều được như ý-nguyện.
6) Có Chánh-tinh-tấn là cố-gắng trong 4 điều (tứ-chánh-cần), khiến các hàng chúng sanh thán phục tôn kính.
Bậc năng lai-vãng.
a) Ngài năng lai-vãng nơi thâm sơn cùng cốc là nơi thanh vắng xa tiếng ồn-ào, để tham-thiền nhập-định.
b) Ngài năng lai-vãng các pháp hành thế-gian là các pháp thiền-định về Sắc-giới và Vô-sắc-giới, các pháp Minh-sát theo 3 tướng Vô-thường, Khổ-não, Vô-ngã và 8 thánh-đạo thánh quả và Niết-Bàn.
Bậc đã dứt nẻo Tam-giới.
Ngài đã dứt nẻo Tam-giới. Ý nói: cuộc hành trình của Ngài từ bao A-tăng-kỳ kiếp trong Tam-giới đến kiếp hiện tại đã đến mức cùng rồi, vì nhân sanh ái-dục đã hoàn toàn diệt tắt, thì bánh xe luân hồi cũng ngừng xoay. Nói một cách khác, Ngài đã siêu xuất ra khỏi Tam-giới và không còn tái sanh lại nữa.
Do nhờ những ân-đức quí trọng vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là BHAGAVA (Thế-Tôn).
Phần cuối cùng
Cả 10 danh-hiệu từ Araham (Ứng-Cúng) đến hiệu Bhagavã (Thế-Tôn) đã giảng-giải, không phải do nhân vật nào trong cõi nhân thiên dâng tặng cho Ðức Phật đâu. Không phải phụ-hoàng và mẫu-hậu Ngài là đức vua Tịnh-Phạn (Sudhodhana) và bà Mahã Mãyã, không phải 80 ngàn người quyến-thuộc dòng Thích-ca của Ngài, cũng không phải vị Thiên-Vương nào có nhiều thần-lực như đức Ðế-Thích (Sakka), đức Ðẩu-Suất Thiên-Vương (Santusita),v.v... kính dâng những danh hiệu ấy đến Ngài.
Cả 10 danh-hiệu ấy tự phát-khởi lên đến chư Phật quá-khứ, hiện-tại và vị-lai cùng một lúc với Tâm Diệu-Giác Viên-Minh là tuệ hoàn toàn sáng-suốt thông hiểu các pháp không dư-sót (Sabbannutanãna) khi vừa thành đạo dưới cội Bồ-Ðề.
Cả 10 danh-hiệu ấy, nếu kể vào 3 ân-đức trọng-đại của chư Phật là Tịnh-đức (Visuddhiguna), Bi-đức (Karunaguna) và Tuệ-đức (Pannãguna) đã có giải trong chương đầu quyển sách này, thì:
* 3 hiệu ARAHAM (Ứng-Cúng), SUGATO (Thiện-Thệ), ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ) thuộc về Tịnh-đức.
* 4 hiệu PURISADAMMASARATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu), SATTHADEVAMANUSSANAM (Thiên-Nhân-Sư), BUDDHO (Phật), BHAGAVA (Thế-Tôn) thuộc về Bi-đức.
* 3 hiệu SAMMASAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri) , VIJJACARA NASAMPANNA (Minh-Hạnh-Túc), LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải) thuộc về Tuệ-đức.
Một lẽ nữa, nếu chia theo lợi ích thì:
* 5 hiệu ARAHAM (Ứng-Cúng), SAMMASAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri), VIJJACARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc), SUGATO (Thiện-Thệ), LOKAVIDU (Thế-Gian-Giải) thuộc về ân-đức có lợi-ích riêng cho Ngài (Attaheta guna)
* 3 hiệu ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ), PURISADAM-MASARATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu), SATTHADEVA-MANUSSANAM (Thiên-Nhân-Sư) thuộc về ân-đức có lợi-ích riêng cho chúng-sanh (Parahetaguna).
* 2 hiệu BUDDHO (Phật) và BHAGAVA (Thế-Tôn) thuộc về ân-đức vừa có lợi-ích cho Ngài vừa có lợi-ích cho chúng-sanh.
Lời vàng Ðức Phật xưa ban
Hành pháp nhẫn-nại Niết-Bàn tối cao
Xuất-gia không hại người nào
Sa môn chẳng giọt máu đào dính tay.
-ooOoo-
[1] 3 Cái Giác (hoặc Minh) và 6 cái Thông: Xin xem giải rộng trong hiệu "Vijjãcaranasampanno" (Minh-Hạnh-Túc) phía sau.
[2] 4 Cái Huệ Phân Tích:
a) Atthapatisambhidã: Huệ Biết Rõ cái quả hay cái lý (là thông-suốt cả nghĩa lý của chú giải tóm-tắt).
b) Dhammapatisambhidã: Huệ Biết Rõ cái nhân hay thông suốt cả các Pháp.
c) Niruttipatisambhidã: Huệ biết rõ Ngữ Căn hay thông suốt các thứ tiếng.
d) Patibhana Patisambhidã: Huệ Phân Tích rõ-ràng và mau lẹ tất cả sự vật.
[3] 9 Thánh-Pháp:
Tu-Ðà-Hườn Ðạo
Tu-Ðà-Hườn Quả
Tu-Ðà-Hàm Ðạo
Tu-Ðà-Hàm Quả
A-Na-Hàm Ðạo
A-Na-Hàm Quả
A-La-Hán Ðạo
A-La-Hán Quả
Niết-Bàn.
[4] 3 Pháp-Hành là:
a) Punnãbhi Sankhãna: Hành Thiện
b) Apunnãbhi Sankhãna: Hành Ác
c) Anenjãbhi Sankhãra: Hành Ðiềm Tỉnh Không Lay Ðộng
[5] Xin xem giải rộng trọng quyển "Vi-Diệu Pháp" vấn đáp của Ðại-Ðức Hộ-Tông.
[6] 4 Pháp Trầm-Luân là:
a) Kãmãsavo: Trầm-Luân trong Ái-Dục (Ngũ-Trần)
b) Bhãvãsavo: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãvaso: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
d) Avijjãsavo: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
[7] Xin xem giải rộng trong quyển "Nhân Quả Liên Quan" của Ðại-Ðức Bửu-Chơn.
[8] 3 Tác-Ý là:
a) Pubbacetanã: Tác-Ý trong sạch đầu tiên toan tính
b) Munncanã Cetanã: Tác-Ý trong sạch khi đang dâng cúng
c) Aparãparacetanã: Tác-Ý thỏa-thích sau khi dâng cúng.
[9] 4 Ðiều Tư-Vị là:
a) Chandãgati: Thiên-Vị vì lòng Thương
b) Dosãgati: Thiên-Vị vì Giận-ghét
c) Mohãgati: Thiên-Vị vì Si Mê
d) Bhayãgati: Thiên-Vị vì Sợ.
---
[1] "Hetu" là nhân sanh ra (Janaka), "Paccaya" là pháp củng cố (Upatthambhaka) cái nhân ấy. Nói một cách khác "Hetu" là cốt từ nguồn gốc (Mũla) vốn "Paccaya" là phù trợ nhân, ví như phận sự của hột giống làm cho mộc mầm non, còn phận sự của đất nước là phụ trợ cho cái mầm ấy được vững chắc. Tuy chia ra danh từ riêng biệt như thế, nhưng nói chung "Hetu" hay "Paccaya" cũng có thể gọi chung là "nhân" được.
[2] - Dukapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 2 chi
- Tikapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 3 chi
- Dukatikapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 2 và 3 chi
- Tikadukapatthãna: Luận về duyên khởi từng đoạn 2 và 3 chi.
Người nay như lá vàng khô
Phất-phơ đứng tựa cửa mồ diệt vong
Tu thân chớ đợi bên trong
Tư lương sao chửa dọn lòng lo tu
Một khi thần chết hiện về
Nào ai có thể chở che cho mình
Vợ con dầu có chí tình
Ngậm-ngùi chỉ biết làm thinh đứng nhìn.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.