Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Cung kỉnh đảnh lễ Đức Thế Tôn bậc Ưng cúng Chánh đẳng giác.
ĐƯỜNG VÀO THẮNG PHÁP - VẤN ĐÁP
* * * * *
PHẦN I
HỢP ĐỒNG (SAṄGAHA)
BÀI 1:TÂM VÀ TÂM SỞ HỢP ĐỒNG (CITTACETASIKASAṄGAHA)
1 - Hỏi. Gọi là saṅgaha với ý nghĩa gì?
Đáp. Saṅgaha = saṃ (thu lại, gọn) + gaha (gom góp). Saṅgaha là “gom lại thành nhóm”.
Một cách giải tự khác: Saṅgaha = saṅga + gaha.
Saṅga = saṃ (thu lại, gọn) +ga (sự bám níu, sự dính líu). Saṅga là “gom lại kết nối nhau”.
Saṅga + saha (giống nhau, đồng nhau). Saṅgaha là “gom những pháp giống nhau liên kết lại”.
Như người gom đậu, gạo, mè, vừng... chứa vào bao riêng, không lẫn lộn.
Hoặc ví như người điều hành công trình xây dựng, phân chia đây là “nhóm thợ mộc”, đây là “nhóm thợ nề”, đây là “nhóm thợ sắt”...
Saṅgaha được dịch là “cùng phối hợp”, “hợp đồng”, “gom lại”.
Ngoài ra, saṅgaha còn được dịch là “tế độ” hay “nhiếp phục”, như:
“Dveme, bhikkhave, saṅgahā. Katamedve?: Này các Tỳ khưu, có hai pháp tế độ này, thế nào là hai?
Āmisasaṅgaho ca dhammasaṅgaho:
Tế độ bằng vật chất và tế độ bằng pháp” [1] .
Và: Cattārimāni, bhikkhave, saṅgahavatthūni. Katamāni cattāri?:
Này các tỳ khưu, có bốn nhiếp pháp này? Thế nào là bốn?
Dānaṃ peyyavajjaṃ, atthacariya samānattarā...
Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng nhau ...” [2]
Chữ samānattā có 2 nghĩa:
- “Quân bình”, là trạng thái tâm không nghiêng về “khổ hay lạc”. Tập sớ giải thích là “thản nhiên trước vui - khổ”.
- “Ngang bằng”. Đây là một ẩn nghĩa, ám chỉ “trợ giúp cho người được như mình”. Như người Phật tử trợ giúp người khác thọ trì quy giới như mình, hay như bậc Dự lưu tế độ người khác cũng thành bậc Dự lưu như vị ấy ... [3]
2 - Hỏi. Gọi “tâm và tâm sở hợp đồng” có ý nghĩa ra sao?
Đáp. Gọi là “tâm và tâm sở hợp đồng” là xem “trong một tâm có được bao nhiêu tâm sở phối hợp” và “một tâm sở có thể phối hợp với bao nhiêu tâm”.
Ví như trong một đoàn kịch có bao nhiêu diễn viên. Và mỗi diễn viên có thể hợp tác với bao nhiêu đoàn kịch.
3 - Hỏi. Trong phương thức “tâm và tâm sở phối hợp”, nên phân chia tâm và tâm sở như thế nào?
Đáp. Để dễ nắm bắt phương thức “tâm và tâm sở phối hợp”, chúng ta phân chia tâm theo ba loại là:
*- Tâm vô nhân. Có 18 tâm là: 15 tâm quả vô nhân + 3 tâm duy tác vô nhân.
*- Tâm bất thiện. Có 12 tâm là: 8 tâm Tham + 2 tâm Sân + 2 tâm Si.
*- Tâm Tốt đẹp (sobhanacitta – chữ sobhana còn được dịch là “tịnh hảo”). Có 91 tâm là: 24 tâm Dục giới Tốt đẹp + 27 tâm Đáo đại (mahaggatā cittā) [4] + 40 tâm Siêu thế.
Tâm sở được phân theo ba nhóm:
*- Tâm sở Tợ tha [5] . Có 13 tâm sở là: 7 tâm sở Biến hành + 6 tâm sở Biệt cảnh.
*- Tâm sở Bất thiện. Có 14 tâm sở.
*- Tâm sở Tốt đẹp (sobhanācetasikā). Có 25 tâm sở.
Vì sao tâm Vô nhân được nêu lên trước tiên?
Vì sự phối hợp giữa những tâm này với tâm sở ít phức tạp, so với các tâm Bất thiện và tâm Tốt đẹp.
4 - Hỏi. Hãy dịch kệ ngôn sau [6] :
“Tesaṃ cittāyuttānaṃ ; yathāyogam’ito paraṃ.
Cittuppādesu paccekaṃ ; sampayogo pavuccati.
Satta sabbattha yujjanti ; yathāyogaṃ pakiṇṇakā
Cuddasā’kusalev’eva; sobhanes’eva sobhanā.
Đáp: Kệ ngôn Pāli trên được hiểu như sau:
“Chúng [7] không tách lìa tâm; kể từ đây, tùy theo sự kết hợp.
Mỗi một tâm sinh lên; sự hòa hợp được nói đến.
Bảy (7) kết hợp tất cả; biệt cảnh (6) từng trường hợp.
Mười bốn (14) chỉ có với bất thiện; Tốt đẹp (sobhana) có với tốt đẹp”.
5 - Hỏi. Ý nghĩa kệ ngôn trên ra sao?
Đáp: Ngài Anuruddha nêu lên kệ ngôn trên với ý nghĩa:
- Bảy (7) tâm sở Biến hành hợp với tất cả tâm.
-Sáu (6) tâm sở Biệt cảnh chỉ có trong một số tâm thích ứng với chúng.
- Mười bốn (14) tâm sở Bất thiện chỉ hợp trong những tâm bất thiện.
- Hai mươi lăm (25) tâm sở Tốt đẹp (sobhanācetasikā) chỉ hợp trong những tâm Tốt đẹp.
Đây là công thức cơ bản cho tâm và tâm sở phối hợp.
Vì sao có công thức này?
Các Giáo thọ Sư tiền bối dựa theo lời Đức Phật dạy:
Dhātusova, bhikkhave, sattā saṃsandanti samenti:
Này các tỳ khưu, tùy thuộc theo giới, các chúng sinh cùng hòa hợp, cùng đi chung với nhau” [8] .
Ý nghĩa của lời dạy trên của Đức Phật, được hiểu theo khía cạnh nội tại.
Tức là “bất thiện đi chung với bất thiện”, “tốt đẹp đi chung với tốt đẹp”. Riêng nhóm Tợ tha thì đi chung với cả hai.
I. TÂM PHỐI HỢP VỚI TÂM SỞ
A- TÂM VÔ NHÂN PHỐI HỢP VỚI TÂM SỞ
6 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm vô nhân?
Đáp. Có 18 tâm vô nhân (ahetukacitta) là:
- Năm đôi Thức: 2 tâm Nhãn thức, 2 tâm Nhĩ thức, 2 tâm Tỷ thức, 2 tâm Thiệt thức và 2 tâm Thân thức.
- 2 tâm Tiếp thâu (sampaṭicchana).
- 3 tâm Quan sát (santīraṇa).
-Tâm Hướng ngũ môn (pañcadvāravajjana).
- Tâm Hướng ý môn (manodvāravajjana).
- Tâm Sinh tiếu (hasituppāda) [9] .
7 - Hỏi. Mỗi thức trong năm đôi thức có bao nhiêu tâm sở hợp? Giải thích.
Đáp. Mỗi thức trong năm đôi thức có 7 tâm sở Biến hành (sabbacittasādhāraṇa) phối hợp.
Theo quy luật của pháp (dhammaniyāma), thành phần cơ bản của danh hay sắc pháp, phải có ít nhất là 8 pháp.
Nhóm danh pháp cơ bản, gồm 8 pháp là: 1 tâm (trong năm đôi thức) + 7 tâm sở Biến hành.
Nhóm sắc pháp cơ bản là 8 sắc bất ly (xem phần sau).
Chúng ta lấy một tâm Nhãn thức (cakkhuviññāṇa) để minh họa.
Tâm Nhãn thức (1 tâm) chỉ có 7 tâm sở biến hành phối hợp.
Vì sao chúng chỉ có 7 tâm sở Biến hành, không thể có nhiều hơn?
- Bảy tâm sở Biến hành là loại tâm sở không thể vắng mặt trong bất cứ loại tâm nào, do đó chúng phải có mặt đầy đủ trong Nhãn thức.
Và 7 tâm sở này được xem là “thành phần cơ bản” của danh pháp.
Ví như một đoàn hát tối thiểu phải có: Đàn, kèn, trống, nam diễn viên chánh, nữ diễn viên chánh, diễn viên hài và người giúp việc.
Nhãn thức ví như trưởng đoàn, 7 tâm sở Biến hành ví như những thành viên.
- Nhãn thức chỉ thực hiện chức năng “thấy” mà thôi, nên không cần có thêm những tâm sở khác hổ trợ.
Ví như “việc nhẹ nhàng, không cần có nhiều người giúp”.
- Sắc thần kinh Nhãn (cakkhupasādarūpa) dung chứa cảnh Sắc lẫn Nhãn thức [10] .
Nhãn thức nhận được cảnh sắc ngay, không cần phải “có thêm những tâm sờ khác hổ trợ”.
Các thức còn lại trong năm đôi thức cũng được lý giải tương tự.
8 - Hỏi. Tâm Tiếp thu (saṃpaticchanacitta) có bao nhiêu tâm sở hợp? Giải thích?
Đáp. Tâm Tiếp thu có 10 tâm sở phối hợp = 7 tâm sở Biến hành + tâm sở Tầm (vitakka) + tâm sở Tứ (vicāra) + tâm sở Thắng giải (adhivimokkha).
Chúng ta lấy cảnh Sắc xuất hiện trong sắc thần kinh Nhãn để minh họa.
- Tâm Tiếp thu sinh lên và trú ở sắc Ý vật (hadayavatthu), tâm này muốn nhận được cảnh Sắc phải có tâm sở Tầm giúp, vì chức năng của tâm sở Tầm là “mang cảnh đến cho tâm”.
Gọi là “mang cảnh đến cho tâm”, nghĩa là tâm sở Tầm chỉ “phản chiếu cảnh”, như người dùng gương rọi vật ở xa cho người ở gần thấy được[11].
- Tầm - Tứ là cặp “bài trùng” trong những tâm thường (ngoại trừ tâm thiền); khi có tâm sở Tầm tức là có tâm sở Tứ.
- Tâm Tiếp thu “không do dự đối với cảnh”, vì chức năng của tâm Tiếp thu là “nhận cảnh”.
Ví như người nhận đơn, bất kỳ loại đơn nào y cũng nhận không hề do dự.
“Không do dự với cảnh” là đặc tính của tâm sở Thắng giải (adhimokkha cetasika).
Vì sao không có tâm sở Cần (viriya), tâm sở Hỷ (pīti) và tâm sở Dục (chanda)?
Vì rằng:
- Tâm Tiếp thu chỉ có phận sự duy nhất là “nhận lấy”, nên không cần có tâm sở Cần.
- Không có tâm sở Hỷ vì tâm Tiếp thu luôn đi chung với thọ xả.
Ví như “người chỉ có phận sự nhận đơn”, dù đơn tốt hay xấu y vẫn thản nhiên “đón nhận”.
- Không có tâm sở Dục vì tâm Tiếp thu “không có mong muốn với cảnh”.
Ví, như “người nhận đơn không hề mong nhận được đơn”. Có đơn thì y nhận, không có thì thôi.
9 - Hỏi. Có những tâm nào có cấu trúc như tâm Tiếp thu không?
Đáp. Có, đó là 2 tâm Quan sát (saṇtīranacittā) thọ xả và tâm Hướng ngũ môn.
*- Tâm Quan sát thọ xả tuy có thêm vài chức năng khác, nhưng cũng chỉ là “sự vận hành của tâm sở Tác ý”.
Ví như nhiều đường ray xe lửa gặp nhau ở một điểm, bánh xe lửa theo đường ray này hoặc theo đường ray khác là do ý người lái xe.
Cũng vậy, các phận sự của tâm Quan sát sẽ vận hành theo tâm sở Tác ý (manasikāra), do đó không cần phải “cố gắng”.
Đồng thời tâm Quan sát cũng là loại tâm quả như tâm Tiếp thu.
*- Tâm Hướng ngũ môn chỉ có chức năng “mở cửa” khi có cảnh đến, nên cũng không cần “cố gắng”.
Ví như người gác cổng, khi có khách đến thì y mở cửa và y cũng không “mong chờ có khách”.
Mỗi tâm trong 5 tâm này (2 tâm Tiếp thu, 2 tâm Quan sát thọ xả và tâm Hướng ngũ môn), có 11 danh pháp (1 tâm + 1o tâm sở hợp = 11 pháp).
10 - Hỏi. Tâm Quan sát thọ hỷ có bao nhiêu tâm sở hợp?
Đáp. Tâm Quan sát có thêm tâm sở Hỷ phối hợp thành ra nhóm 12 danh pháp.
11 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tâm Hướng ý môn? Giải thích.
Đáp. Có 11 tâm sở hợp trong tâm Hướng ý môn là: 13 tâm sở Tợ tha trừ tâm sở Hỷ và tâm sở Dục.
Tâm Hướng ý môn có chức năng là “mở cửa ý”.
Giữa hai sự “mở cửa này”, có ví dụ như sau: cửa khép hờ và cửa được khóa.
Mở của khép hờ không cần cố gắng (ví như mở năm cửa giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), trái lại mở cửa có khóa cần nhiều sức (ví như mở cửa ý).
Ngoài ra, tâm Hướng ý môn còn có chức năng “phán đoán” (trong lộ ngũ môn). Đây là chức năng chủ yếu, đòi hỏi tâm Hướng ý môn phải “nỗ lực”, do đó có tâm sở Cần.
Tâm Hướng ý môn trợ giúp cho tâm Đổng lực (javanacitta) sinh lên để “xử lý” cảnh, nên tâm Hướng ý môn còn có tên là “tác ý thành đổng lực”.
Chính “tác ý khéo (yoni so manasikāra)” hay “tác ý không khéo” (ayoni so manasikāra) nằm trong giai đoạn này.
Với những lý do trên, tâm Hướng ý môn có thêm tâm sở Cần.
Tâm Hướng ý môn không có tâm sở Hỷ phối hợp vì là thọ xả.
Tâm Hướng ý môn không có tâm sở Dục, vì “không có sự trông đợi cảnh”.
Có câu hỏi: Vì sao có 2 loại tác ý: Khéo và không khéo, xuất hiện trong tâm Hướng ý môn?
Đáp rằng: Là do “thường cận y duyên”.
Trong quá khứ hay trong hiện tại khi gặp cảnh ấy, thường phát sinh loại tác ý ấy.
Như vị tỳkhưu tu tập Tứ niệm xứ với đề mục thể trược, khi gặp cảnh sắc tốt sẽ sinh khởi tác ý khéo theo cách nhìn “không trong sạch”.
Một người thường thích cảnh sắc tốt, khi gặp cảnh tốt, tác ý không khéo sẽ sinh lên để trợ giúp cho tâm tham sinh khởi ...
Tuy có hai loại tác ý như thế, nhưng không phải do “ý muốn - dục” mà là do “thường cận y duyên”.
Tâm Quan sát thọ hỷ và tâm Hướng ý môn cùng các tâm sở hợp tạo thành nhóm 12 danh pháp.
12 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tâm Sinh tiếu? Giải thích.
Đáp. Có 12 tâm sở phối hợp trong tâm Sinh tiếu là: 13 tâm sở Tợ tha trừ đi tâm sở Dục.
Tâm Sinh tiếu là loại tâm Đổng lực, làm phát sinh nụ cười “theo thói quen” của vị Thánh Alahán.
Do phải “xử lý” cảnh (thực hiện chức năng hưởng cảnh), nên tâm Sinh tiếu có nổ lực nhiều trong sự “điều khiển sự cười hở răng”, vì thế có tâm sở Cần phối hợp.
- Đồng thời khi ấy có sự hài lòng vui thích, nên có tâm sở Hỷ phối hợp.
- Sở dĩ không có tâm sở Dục, vì đó là “nụ cười theo thói quen”, không phải do “ý muốn cười”.
Tâm Sinh tiếu cùng với các tâm sở hợp, tạo thành nhóm 13 danh pháp.
B- TÂM BẤT THIỆN PHỐI HỢP VỚI TÂM SỞ
Tâm bất thiện có 3 loại là: Tâm tham (8), tâm sân (2) và tâm si (2), gồm 12 tâm.
Tâm sở bất thiện có 14 tâm sở:
- Nhóm si phần.
Có 3 tâm sở: Si (moha), vô tàm (ahirika- không hổ thẹn tội lỗi), vô quý (anottappa – không ghê sợ tội lỗi) và phóng dật (uddhacca).
- Nhóm tham phần.
Có 3 tâm sở: Tham (lobha), mạn (māna) và tà kiến (micchādiṭṭhi).
- Nhóm sân phần.
Có 4 tâm sở: Sân (dosa), Ganh tỵ (issā), Bỏn xẻn (macchāriya), Hối hận (kukkucca).
- Nhóm hôn phần.
Có 2 tâm sở: Hôn trầm (ṭhīna), thụy miên (middha).
- Tâm sở Hoài nghi.
13 - Hỏi. Trong sự phối hợp với tâm bất thiện, nên lưu ý như thế nào? Giải thích.
Đáp. Trong sự phối hợp với tâm bất thiện, cần lưu ý như sau:
- Nhóm tâm sở Biến hành luôn luôn có mặt trong các tâm bất thiện.
- Nhóm tâm sở Biệt cảnh phải tùy từng đối tượng, như tâm sở Hỷ không thể có trong tâm Sân; tâm sở Thắng giải không thể có trong tâm Si hợp hoài nghi ...
- Nhóm tâm sở Bất thiện thì:
*- Nhóm si phần luôn hợp trong 12 tâm bất thiện. Có Pāli sau:
Akusalesu pana moho ahirikaṃ anottappaṃ, uddhaccaṃ ceti cattārome cetasikā sabbākusalasādhāraṇā nāma:
Trong các tâm sở bất thiện, bốn tâm sở: Si, vô tàm, vô quý, phóng dật, gọi là “tâm sở bất thiện biến hành”.
Sabbesu pi dvādasākusalesu labbhanti:
Chúng được tìm thấy trong 12 tâm bất thiện. [12]
*- Nhóm Tham phần chỉ hợp trong 8 tâm Tham, như sau:
- Tâm sở Tham có trong 8 tâm tham.
- Tâm sở Tà kiến chỉ hợp với 4 tâm tham hợp tà (diṭṭhigatasampayuttaṃ).
-Tâm sở Ngã mạn chỉ hợp với 4 tâm tham ly tà (diṭṭhigatavippayuttaṃ).
Có Pāli sau: “Lobho aṭṭhasu lobhasahagatacittasveva labbhati:
Tâm sở Tham được tìm thấy trong những tâm tham”.
Diṭṭhi catusu diṭṭhigatasampayuttesu:
Tâm sở Tà kiến được tìm thấy trong những tâm hợp tà”.
Māna catusu diṭṭhigatavippayuttesu:
Ngã mạn được tìm thấy trong những tâm không hợp tà kiến” (sđd).
Tâm sở Tà kiến hợp trong những tâm hợp tà là nhất định, còn tâm sở Mạn có khi hợp trong những tâm ly tà, có khi không.
Vì rằng: Khi có sự so sánh “mình với người” hay khi tâm “phần phật bốc cao” bấy giờ mới có tâm sở ngã mạn, còn khi tham bình thường, như thích ăn ngon, mặc đẹp... là tham “đơn thuần”, bấy giờ không có tà kiến hay mạn (māna) sinh khởi.
*-Nhóm sân phần chỉ hợp trong 2 tâm sân, như sau:
- Tâm sở Sân có mặt trong 2 tâm sân nhất định.
- Ba tâm sở Ganh ty, tâm sở Bỏn xẻn, tâm sở Hối hợp trong 2 tâm sân bất định, nếu có cũng chỉ có một mà thôi .
Vì sao ? Vì cảnh của chúng khác nhau.
- Khi có người xin tài sản ... có nơi ta, bấy giờ tâm sở Bỏn xẻn mới có cơ hội sinh lên.
- Khi thấy sự thành công của người, hay thấy thân, tâm, tài sản... của người hơn ta, bấy giờ tâm sở Ganh tỵ mới có cơ hội sinh lên.
Như ganh tỵ với người có sức khỏe hơn mình, ganh tỵ với người đang vui vẻ hạnh phúc....
- Khi nhớ đến việc ác đã làm hay việc thiện đã bỏ qua, khi ấy tâm sở Hối mới có cơ hội sinh lên.
Còn như cảm thấy “buồn buồn”, thấy “khó chịu” với thời tiết ... chỉ là sân đơn thuần.
*- Nhóm hôn phần chỉ hợp với những tâm hữu trợ (sasaṅkhārika).
Như có Pāli sau: Ṭhīnaṃ middhaṃ pañcasu sasaṅkhārikacittaṃ:
Hôn trầm, thụy miên được tìm thấy trong 5 tâm hữu trợ” [13] (sđd).
A- TÂM THAM VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
14 - Hỏi. Mỗi tâm Tham có bao nhiêu tâm sở hợp? Giải thích.
Đáp. Với mô thức tổng quát đã nêu ở trên, chúng ta thấy:
- Tâm Tham có khả năng hợp với 13 tâm sở Tợ tha.
- Trong 14 tâm sở Bất thiện, tâm Tham không phối hợp với 5 tâm sở là: 4 tâm sở Sân phần + tâm sở Hoài nghi.
Như vậy tổng quát tâm Tham phối hợp được: 13 tâm sở Tợ tha + 4 tâm sở si phần + 3 tâm sở tham phần + 2 tâm sở Hôn phần = 22 tâm sở.
*- Khi phân tích theo thọ (vedanā), tâm tham có 2 loại:
Bốn tâm tham thọ hỷ (somanassa vedanā) và 4 tâm tham thọ xả (uppekhā vedanā).
Với tâm tham thọ xả thì không có tâm sở Hỷ phối hợp.
*- Khi phân tích theo sự hòa hợp (sampayutta – tương ưng):
Có 4 tâm Tham hợp với tà kiến, có 4 tâm Tham không hợp với tà kiến.
Với tâm hòa hợp với tà kiến thì có tâm sở tà kiến phối hợp, nhưng không có tâm sở Mạn.
Vì sao? Vì khi ấy tâm tham bám chặt với “lý thuyết sái quấy”, không có sự “so sánh mình với người”, “không có sự tự hào”.
Với tâm không hòa hợp với tà kiến thì không có tâm sở Tà kiến hợp, còn tâm sở Mạn có khi có, có khi không.
Vì sao? Trước tiên, hai tâm sở Tà kiến và Ngã mạn có cảnh khác nhau.
Với cảnh là “sự thấy sai, hiểu sai”, bấy giờ tâm sở Tà kiến sinh lên.
Khi có sự “so sánh mình với người” hay tâm “phần phật bốc cao như lá cờ gặp gió”, bấy giờ tâm sở Ngã mạn sinh lên.
Do đó, 2 tâm sở này không đi chung với nhau.
Mặt khác, đôi khi trong tâm Tham chỉ có tâm sở Tham, như người thích ăn ngon, mặc đẹp... đó chỉ là tham đơn thuần.
Tâm sở Tà kiến hay tâm sở Ngã mạn không sinh lên.
*- Khi phân tích theo: Hữu trợ (sasaṅkhārika) [14] , vô trợ (asaṅkhārika):
Có 4 tâm Tham vô trợ, 4 tâm Tham hữu trợ.
Với tâm hữu trợ có thêm 2 tâm sở hôn phần.Vì sao?
Vì tâm hữu trợ là loại tâm thụ động, bị co rút lại không muốn hoạt động, sở dĩ tâm bất thiện có trạng thái như vậy là do tác năng của 2 tâm sở Hôn phần.
Với tâm vô trợ thì không có 2 tâm sở Hôn phần.
Trên là trình bày mô thức tổng quát, bây giờ là chi tiết.
- Bốn tâm Tham thọ hỷ.
1’ - Tâm Tham thọ hỷ hợp tà vô trợ:
Có 19 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 4 Si phần + tâm sở Tham + tâm sở Tà kiến.
2’ - Tâm tham thọ hỷ hợp tà hữu trợ:
Có 21 tâm sở hợp = 19 tâm sở (như trên) + 2 tâm sở Hôn phần.
3’- Tâm tham thọ hỷ ly tà vô trợ:
Có 19 tâm sở hợp = 19 tâm sở trong tâm tham thứ 1, trừ đi tâm sở Tà kiến, cộng thêm tâm sở Ngã mạn.
4’- Tâm tham thọ hỷ ly tà hữu trợ:
Có 21 tâm sở hợp = 19 tâm sở trong tâm tham thứ 3 + 2 tâm sở Hôn phần.
- Bốn tâm Tham thọ xả.
5’- Tâm Tham thọ xả hợp tà vô trợ:
Có 18 tâm sở hợp = 12 tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Hỷ) + 4 si phần + tâm sở Tham + tâm sở Tà kiến.
6’- tâm Tham thọ xả hợp tà hữu trợ:
Có 20 tâm sở hợp = 18 tâm sở hợp ở trên +2 tâm sở Hôn phần.
7’- Tâm Tham thọ xả ly tà vô trợ:
Có 18 tâm sở hợp = Lấy 18 tâm sở hợp trong tâm Tham thứ 5, trừ đi tâm sở Tà kiến , cộng thêm tâm sở Mạn.
8’ - Tâm Tham thọ xả ly tà hữu trợ:
Có 20 tâm sở hợp = Lấy 18 tâm sở hợp trong tâm Tham thứ 7 + 2 tâm sở Hôn phần.
Giải thích:
Lấy tâm Tham thứ 1 (tâm Tham thọ hỷ hợp Tà kiến vô trợ) để diễn giải.
Trong tâm này có 19 tâm sở hợp, trước tiên là 7 tâm sở Biến hành, vì 7 tâm sở này hiện diện trong tất cả tâm.
- Khi có cảnh, vật và tâm hợp mặt, xúc (phassa) sinh lên.
- Khi cảnh chạm tâm, tâm hứng nhận với sự vui thích (như người nhận được vật hài lòng), thế là thọ hỷ (somanassavedanā) sinh lên.
- Thọ luôn đi chung với tưởng (saññā), khi nhớ lại dấu hiệu (nimitta) đã từng biết. Vì thọ - tưởng là ý hành.
- Sự tạo tác, đôn đốc các tâm sở cùng sinh là chức năng của tâm sở Tư (cetanācetasika).
- Tâm nhận trúng cảnh, như người thợ may, xe sợi chỉ xỏ qua lỗ kim, đó là chức năng của tâm sở Nhất hành (ekaggatācetasika).
- Tâm tồn tại tròn đủ 3 sátna tiểu là chức năng của tâm sở Mạng quyền (jīvitindriya cetasika).
- Thu vén cảnh để vừa vặn với tâm là việc làm của tâm sở Tác ý (manasikāracetasika).
*- Sáu tâm sở Biệt cảnh.
- Tâm nhận biết được cảnh rõ rệt là chức năng của tâm sở Tầm (vitakkacetasika).
- Cảnh được kềm giữ, được chăm nôm là chức năng của tâm sở Tứ (vicāracetasika).
- Có sự ráng sức nắm giữ cảnh là tâm sở Cần (viriya cetasika).
- Vui thích với cảnh là tâm sở Hỷ (pīti cetasika).
- Không có phân vân trước trước cảnh là tâm sở Thắng giải (adhimokkha cetasika).
- Mong muốn hưởng cảnh đáng hài lòng là chức năng của tâm sở Dục (chanda cetasika).
*- Bốn tâm sở Si phần.
- Trạng thái tâm “mê muội” trước cảnh, ví như người “sửng sờ” trước người lạ, là tâm sở Si (mohacetasika).
- Không e dè khi hưởng cảnh là tâm sở Vô tàm (ahirika cetasika).
- Không ngần ngại khi hưởng cảnh là tâm sở Vô quý (anottappa cetasika).
- Tâm không an trụ vững trong cảnh do thích ý, là chức năng của tâm sở Phóng dật (uddhacca cetasika).
*- Ba tâm sở Tham phần.
- Có sự dính mắc, không muốn buông lìa cảnh là chức năng của tâm sở Tham (lobha cetasika).
- Hưởng cảnh với sự thái quá, bất cập theo cách “thường còn” hay “mất hẳn” là chức năng của tâm sở Tà kiến (diṭṭhi cetasika).
*- Hai tâm sở Hôn phần (không có trong tâm này). Vì là tâm bất thiện Vô trợ.
Các tâm Tham còn lại cũng theo cách lý giải như trên tùy theo từng trường hợp thêm tâm sở vào hay bớt tâm sở ra.
Như tâm Tham thọ xả thì không có tâm sở Hỷ phối hợp, tâm Tham vô trợ thì không có 2 tâm sở Hôn phần phối hợp, tâm tham Hữu trợ thì thêm 2 tâm sở Hôn phần.
B- TÂM SÂN VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
15 - Hỏi. Mỗi tâm sân có bao nhiêu tâm sở hợp?
Đáp. Trước tiên chúng ta tìm mô thức chung.
Tâm Sân thọ ưu, nên không có tâm sở Hỷ phối hợp, đồng thời không có 3 tâm sở Tham phần lẫn tâm sở Hoài nghi.
Như vậy, tổng quát tâm Sân có 22 tâm sở hợp = 12 tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Hỷ) + 4 tâm sở Si phần + 4 tâm sở sân phần + 2 tâm sở Hôn phần.
Có hai loại tâm sân: Tâm Sân vô trợ và tâm Sân hữu trợ.
*- Tâm Sân vô trợ trừ đi 2 tâm sở Hôn phần, còn lại 20 tâm sở hợp.
*- Tâm Sân hữu trợ có đủ 22 tâm sở hợp.
Tính tổng quát là như thế, nhưng 3 tâm sở Ganh tỵ, Bỏn xẻn và Hối khi có chỉ có một, đôi khi chúng đều vắng mặt.
Như vậy, tâm Sân vô trợ có 17 hoặc 18 tâm sở hợp.
- Tâm Sân hữu trợ có 19 hoặc 20 tâm sở hợp.
16 - Hỏi. Tâm sở Sân có trạng thái hủy diệt đối tượng, tâm sở Dục có trạng thái “ao ước” đối tượng, vì sao chúng lại sinh chung với nhau?
Đáp. Tuy trạng thái hai tâm sở này khác nhau, nhưng có chung mục đích.
Ví như người bịnh nặng, người này “muốn có thuốc” để diệt trừ chứng bịnh, tuy người này “không thích thú” khi phải uống thuốc vì chén thuốc đắng, hôi ... (ví như tâm sở Sân), nhưng người này vẫn “muốn có thuốc để uống” (ví như tâm sở Dục).
Do đó, tâm sở Dục sinh chung với tâm sở Sân.
C- TÂM SI VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
17 - Hỏi. Mỗi tâm Si có bao nhiêu tâm sở hợp? Giải thích.
Đáp. Có hai tâm Si: Tâm Si hợp Hoài nghi và tâm Si hợp Phóng dật.
a- Tâm Si hợp hoài nghi.
Có 15 tâm sở hợp = 7 tâm sở Biến hành+ tâm sở Tầm + tâm sở Tứ + tâm sở Cần + 4 tâm sở Si phần + tâm sở Hoài nghi.
Giải thích.
- Trong 6 tâm sở Biệt cảnh không có tâm sở Hỷ phối hợp, vì tâm Si hợp với thọ xả.
- Không có tâm sở Thắng giải vì có tâm sở Hoài nghi.
- Không có tâm sở Dục (chanda cetasika), vì không có sự quyết đoán của tâm sở Thắng giải.
Ví như người đang phân vân trước ngả ba đường, chẳng biết phải chọn con đường nào để đi, chưa “quyết định phải đi theo con đường nào”, “nên sự muốn đi” không sinh khởi.
Nhưng phần chủ yếu để tâm sở Dục không sinh khởi chính là cảnh.
Cảnh của tâm Si không rõ ràng, mù mờ.
Tâm sở Dục sinh khởi khi có cảnh dù tốt hay xấu cũng phải rõ ràng.
- Vì hợp với Nghi, tất nhiên phải có tâm sở Hoài nghi.
b- Tâm Si hợp Phóng dật.
Có 15 tâm sở hợp = 11 tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Hỷ, tâm sở Dục) + 4 tâm sở Si phần.
Giải thích.
- Hai tâm Si do mượn tâm sở có sức mạnh nhất trong tâm mà đặt tên.
Được định danh là “tâm Si hợp phóng dật”, nghĩa là khi ấy “không có tâm sở Hoài nghi”.
Vì khi so sánh về sức mạnh thì tâm sở Hoài nghi có sức mạnh hơn tâm sở Phóng dật.
- Vì không có tâm sở Hoài nghi nên tâm sở Thắng giải có mặt.
Tuy tâm sở Phóng dật có ảnh hưởng mạnh đến các tâm sở, đồng thời không an trụ vững trong cảnh, nhưng sự “quyết đoán” với cảnh vẫn có.
Ví như con khỉ chuyền trên cây, nó bỏ cành cây này chụp sang cành cây khác một cách nhanh chóng, nhưng rõ ràng nó vẫn có “quyết định chụp cành cây”.
C- TÂM TỐT ĐẸP (SOBHANĀCITTĀ) PHỐI HỢP VỚI TÂM SỞ
18 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm Tốt đẹp (sobhana citta)? Được phân chia theo giới vức như thế nào?
Đáp. Có 91 tâm Tốt đẹp. Được phân theo giới vức như sau:
- Cõi Dục giới, có 24 tâm.
- Cõi Sắc giới có 15 tâm.
- Cõi Vô sắc giới có 12 tâm.
- Siêu thế (lokuttara) có 8 hay 40 tâm.
A- TÂM DỤC GIỚI TỐT ĐẸP
19 - Hỏi. Tâm Dục giới Tốt đẹp phối hợp với các tâm sở ra sao?
Đáp. Trước tiên chúng ta tìm mô thức tổng quát.
- Tâm Tốt đẹp chỉ phối hợp với những tâm sở Tốt đẹp.
- Tâm Tốt đẹp chỉ có 2 loại thọ (thọ hỷ và thọ xả), như vậy chúng có khả năng hợp được với 13 tâm sở Tợ tha.
Tổng quát những tâm Tốt đẹp phối hợp được với 38 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 25 tâm sở Tốt đẹp.
*- Đối với những tâm Tốt đẹp thọ xả thì không có tâm sở Hỷ.
*- Trong 25 tâm sở Tốt đẹp, có 19 tâm sở gọi là tâm sở Tốt đẹp Biến hành (cetasikā sobhanasādhāraṇā) [15] .
Những tâm sở này luôn hiện diện trong những tâm Tốt đẹp.
*- Ba tâm sở Giới phần, 2 tâm sở Vô lượng phần và tâm sở Trí, là những tâm sở bất định, có khi chúng hợp trong những tâm Tốt đẹp, có khi không tùy theo từng trường hợp, như sau:
- Ba tâm sở Giới phần: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
- Ba tâm sở này có mặt đầy đủ trong những tâm Siêu thế, chúng không có trong những tâm Thiền hiệp thế và tâm Duy tác Dục giới.
Vì sao chúng có mặt đầy đủ trong tâm Siêu thế? Vì rằng:
*- Khi tâm Đạo (maggacitta) sinh lên trong thời giải thoát (vimuttikāla) [16] , chúng cùng sinh lên để làm phận sự sát trừ phiền não thô.
Do đó, chúng có mặt đầy đủ.
- Tâm quả Siêu thế là “kết quả của tâm Đạo”, do đó 3 tâm sở Giới phần cũng có mặt.
Vì sao trong tâm Duy tác của vị Thánh Alahán không có 3 tâm sở Giới phần?
Vì các Ngài đã tận diệt hoàn toàn những tội lỗi từ thân, khẩu, ý.
Ví như người còn bịnh thì còn dùng thuốc trị bịnh; khi bịnh hoàn toàn chấm dứt thì không cần dùng thuốc nữa.
Cũng vậy, ba Giới phần có chức năng ngăn trừ những tội lỗi, vị Alahán thân, ngữ, ý của Ngài đã trọn lành nên ba Giới phần không cần có trong tâm của các Ngài.
Có Pāli dẫn chứng như sau:
Viratiyo pana tisso pi lokuttaracittesu sabbathā’ pi niyatā ekato’va labbhanti:
Ba giới phần luôn có mặt một lần trong các tâm Siêu thế”.
Lokiyatesu pana kāmāvacarakusalesveva kadāci sandissanti visuṃ visuṃ:
Trong tâm Thiện dục giới, chúng khởi lên tùy lúc và riêng biệt.” [17] .
Vì sao 3 tâm sở Giới phần không có trong tâm Thiền hiệp thế?
Đáp: Vì không có cảnh để chúng sinh lên.
- Khi nói lời đúng theo sự thật, đó là chức năng của tâm sở Chánh ngữ (sammāvācā).
- Khi thực hiện việc làm tốt đẹp, đó là chức năng của tâm sở Chánh nghiệp (sammākammato).
- Khi nuôi mạng đúng theo pháp, đó là chức năng của tâm sở Chánh mạng (sammā-ājīva).
Tâm thiền hiệp thế là tâm đang gắn chặt vào cảnh thiền, không phải là “cảnh nói”, “cảnh làm việc” hay “cảnh nuôi mạng”.
Ba tâm sở này không có cảnh tương ứng, nên chúng không sinh lên.
*- Ngoài tâm Siêu thế, ba tâm sở Giới phần chỉ có thể có trong tâm thiện Dục giới, chúng không có trong tâm quả Dục giới. Vì sao?
- Khi tâm quả Dục giới làm việc hữu phần, cảnh của tâm hữu phần khác với ba cảnh của 3 tâm sở Giới phần.
- Khi tâm quả Dục giới làm việc Nacảnh, bấy giờ cảnh đã muội lược, không đủ sức trợ giúp cho ba tâm sở Giới phần sinh khởi.
*- Trong tâm thiện Dục giới tuy có thể có 3 tâm sở Giới phần phối hợp, nhưng nếu có chỉ có một mà thôi, đôi khi không có tâm sở Giới phần nào cả. Vì sao? Vì rằng:
- Cảnh của 3 tâm sở này khác nhau, mỗi thời điểm tâm chỉ nhận một cảnh, do đó “nếu có chỉ có 1 mà thôi”.
- Tâm thiện Dục giới đôi khi không nhận cảnh nào trong ba cảnh (cảnh nói đúng, cảnh làm việc đúng và cảnh nuôi mạng đúng).
Như trường hợp những tâm thiện Dục giới trong lộ đắc thiền, khi ấy những tâm này nhận cảnh thiền tướng, hoặc như trường người Phật tử nhớ lại “việc lành của mình đã thực hiện” hay “nhớ lại bài pháp đã được nghe”....
Do đó cả 3 tâm sở Giới phần đều không sinh lên, vì không có cảnh tương ứng.
- Hai tâm sở Vô lượng phần.
Là tâm sở Bi (karunā cetasika) và tâm sở Tùy hỷ (mudutā cetasika).
Hai tâm sở này có trong tâm Thiền Sắc giới kể từ tâm Tứ thiền trở xuống và có trong tâm Thiện Dục giới. Và nếu có cũng chỉ có một tâm sở mà thôi.
Vì sao 2 tâm sở này chỉ có trong tâm từ Tứ thiền trở xuống?
- Ở trạng thái Ngũ thiền, tâm hành giả đã quân bình, không còn “bi mẫn” hay “hoan hỷ”, không còn “thương hay ghét”, nên tâm sở Bi và tâm sở Tùy hỷ không thể sinh lên.
Và cũng vì thế mà đề mục Từ - Bi và Hỷ không thể chứng đạt Ngũ thiền.
Vì sao nếu có, chúng chỉ có một mà thôi?
Tâm sở Bi và tâm sở Tùy hỷ tuy cùng có đối tượng là “chúng sinh”, nhưng đối cảnh lại khác nhau.
- Khi thấy “chúng sinh khổ”, tâm sở Bi (karuṇā cetasika) mới sinh lên.
- Khi thấy “chúng sinh hạnh phúc”, vui thích với hạnh phúc của chúng sinh ấy, bấy giờ tâm sở Tùy hỷ (mudutācetasika) mới sinh lên.
Trong một thời điểm, tâm không thể bắt 2 cảnh, do đó nếu có chỉ có một mà thôi.
Như thế, cả 5 tâm sở: 3 tâm sở Giới phần + 2 tâm sở Vô lượng phần, nếu có hợp trong tâm Thiện Dục giới cũng chỉ có 1, hoặc đôi khi không có 5 tâm sở này phối hợp.
Lại nữa, một số Giáo thọ sư cho rằng : “Bi và Tùy hỷ không sinh khởi trong những tâm thiện thọ xả”, vì khi ấy tâm “thản nhiên”, không “thương hay thích thú”.
- Tâm sở Trí chỉ có trong những tâm hợp trí.
20 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tám tâm thiện Dục giới? Nêu từng tâm.
Đáp. Tổng quát có tất cả 38 tâm sở hợp trong tâm Thiện Dục giới là: 13 tâm sở Tợ tha + 25 tâm sở tốt đẹp.
Chi tiết. Tâm thiện Dục giới có 8 tâm.
- Phân tích theo thọ, có: Bốn tâm thọ hỷ, 4 tâm thọ xả.
Với tâm thọ xả, không có tâm sở Hỷ hợp.
- Phân tích theo hợp với trí. Có bốn tâm hợp trí, 4 tâm không hợp với trí.
Với tâm thiện ly trí, không có tâm sở Trí.
1’- Tâm thiện Dục giới thọ hỷ hợp trí vô trợ.
Có 38 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 25 tâm sở tịnh hảo.
Đây là tính tổng quát, thật ra chỉ có 33 hoặc 34 tâm sở hợp.
Vì 3 Giới phần, 2 Vô lượng phần, nếu có chỉ có một, đôi khi không có cả 5 tâm sở này.
Như người đang nghe pháp ..., đang thực hành Tứ niệm xứ niệm Hơi thở.... khi ấy tâm thiện này chỉ có 33 tâm sở hợp.
Các tâm thiện còn lại, cũng hiểu theo lý này.
2’ - Tâm thiện Dục giới thọ hỷ hợp trí hữu trợ. Tương tự như trên.
Hai tâm thiện này chỉ khác nhau khía cạnh “không cần trợ giúp” hoặc “cần trợ giúp”. Điều này không ảnh hưởng đến sự phối hợp của các tâm sở.
Như thế nào? Có ví dụ như sau:
Có hai người; một người không muốn làm việc,y được người khác nhắc nhở nên mới làm việc.
Người thứ hai đang làm việc nhưng quên việc nào cần làm trước, việc nào làm sau, y được người chỉ bảo nên thực hiện việc cần làm trước.
Người thứ nhất ví như tâm bất thiện hữu trợ; người thứ hai ví như tâm thiện hữu trợ.
3’- Tâm thiện Dục giới thọ hỷ ly trí vô trợ.
Có 37 tâm sở hợp (38 tâm sở hợp trừ tâm sở Trí).
Đây là tính tổng quát, thật ra tâm thiện này mỗi thời điểm chỉ có 32 hoặc 33 tâm sở hợp.
4’- Tâm thiện Dục giới thọ hỷ ly trí hữu trợ.
Tương tự như tâm thiện số 3.
5’- Tâm thiện Dục giới thọ xả hợp trí vô trợ.
Có 37 tâm sở hợp ( 38 tâm sở hợp trừ tâm sở Hỷ).
Tính tổng quát là như thế, thật ra tâm thiện này vào mỗi thời điểm chỉ có 32 hoặc 33 tâm sở hợp.
6’- Tâm thiện Dục giới thọ xả hợp trí hữu trợ. Tương tự như tâm thiện số 5.
7- Tâm thiện Dục giới thọ xả ly trí vô trợ. Có 36 tâm sở hợp (38 tâm sở trừ (tâm sở hỷ + tâm sở trí).
Tính tổng quát là như thế, thật ra trong mỗi thời điểm tâm thiện này chỉ có 31 hoặc 32 tâm sở hợp.
8’- Tâm thiện Dục giới thọ xả ly trí hữu trợ. Như trên.
21 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tâm quả Dục giới hữu nhân? Nêu chi tiết.
Đáp. Trong tâm quả Dục giới không hề có 3 tâm sở Giới phần và 2 tâm sở vô lượng phần phối hợp, vì tâm quả Dục giới không nhận cảnh “chúng sinh”, và tâm quả Dục giới không có chức năng javana (đổng lực) để “xử lý” cảnh như ba Giới phần.
Tổng quát, tâm quả Dục giới hữu nhân (còn gọi là tâm Đại quả - mahāvipākacitta) có 33 tâm sở hợp= 38 tâm sở hợp trừ (3 giới phần + 2 vô lượng phần).
Chi tiết. Cách phân tích giống như tâm thiện Dục giới, chỉ thay đổi “tâm thiện “ bằng “ tâm quả” mà thôi.
1’- Tâm quả dục giới thọ hỷ hợp trí vô trợ.
Có 33 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 20 tâm sở tịnh hảo (25 tâm sở tịnh hảo – (3 giới phần + 2 vô lượng phần).
2’- Tâm quả Dục giới thọ hỷ hợp trí hữu trợ. Như trên.
3’- Tâm quả Dục giới thọ hỷ ly trí vô trợ.
Có 32 tâm sở hợp (lấy 33 tâm sở ở trên trừ đi tâm sở trí).
4’- Tâm quả Dục giới thọ hỷ ly trí hữu trợ. Như trên.
5’- Tâm quả Dục giới thọ xả hợp trí vô trợ.
Có 32 tâm sở hợp (lấy 33 tâm sở ở trên trừ đi tâm sở Hỷ).
6’- Tâm quả Dục giới thọ xả hợp trí hữu trợ. Như trên.
7’- Tâm quả Dục giới thọ xả ly trí vô trợ.
Có 31 tâm sở hợp (33 tâm sở hợp trừ (tâm sở Hỷ + tâm sở trí).
8’- Tâm quả Dục giới thọ xả ly trí hữu trợ. Như trên.
22 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp vói tâm Duy tác hữu nhân Dục giới?
Đáp. Tâm Duy tác hữu nhân Dục giới (còn gọi là tâm Đại hạnh hay Đại tố), là loại tâm có riêng cho vị Thánh Alahán trong đời sống thường ngày, khi Ngài còn mang thân năm uẩn.
Loại tâm này tương tự như tâm thiện Dục giới, chỉ khác là: Tâm thiện Dục giới lưu lại hạt giống (bīja) cho quả trong tương lai và có 3 tâm sở Giới phần, còn tâm Đại tố thì không.
Tổng quát, chúng ta có 35 tâm sở hợp trong 8 tâm Đại tố = 13 tâm sở Tợ tha + 22 tâm sở Tốt đẹp (trừ 3 giới phần).
Về chi tiết.
*- Tâm Đại tố thọ hỷ hợp trí vô trợ.
Có 35 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 22 tâm sở tịnh hảo (trừ 3 giới phần).
*- Tâm Đại tố thọ hỷ hợp trí hữu trợ. Có 35 tâm sở hợp.
*- Tâm Đại tố thọ hỷ ly trí vô trợ.
Có 34 tâm sở hợp (lấy 35 tâm sở ở trên trử thêm tâm sở trí).
*- Tâm Đại tố thọ hỷ ly trí hữu trợ.
Có 34 tâm sở hợp.
*- Tâm Đại tố thọ xả hợp trí vô trợ.
Có 34 tâm sở hợp (lấy 35 tâm sở ở trên trừ đi tâm sở Hỷ).
*- Tâm Đại tố thọ xả hợp trí hữu trợ.
Có 34 tâm sở hợp.
*- Tâm Đại tố thọ xả ly trí vô trợ.
Có 33 tâm sở hợp (lấy 34 tâm sở ở trên trừ thêm tâm sở Hỷ).
*- Tâm Đại tố thọ xả ly trí hữu trợ. Có 33 tâm sở hợp.
B- TÂM SẮC GIỚI VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
23 - Hỏi. Tâm Sắc giới có bao nhiêu tâm sở hợp? Nêu chi tiết.
Đáp. Tâm Sắc giới có tất cả là 35 tâm sở hợp (13 tâm sở Tợ tha + 22 tâm sở Tốt đẹp (trừ 3 giới phần).
Đây là tính tổng quát, có khi tâm Thiền không có 2 tâm sở Vô lượng phần; nếu có chỉ có một mà thôi.
Sở dĩ có một trong 2 tâm sở Vô lượng phần, là do hành giả tu tập đề mục Bi vô lượng tâm, hay Hỷ vô lượng tâm.
Nếu hành giả không tu tập một trong 2 đề mục này thì trong tâm thiện Sắc giới không có 2 tâm sở Vô lượng phần.
Tuy nhiên, cho dù có tu tập 2 đề mục này, nhưng khi chứng Ngũ thiền cũng không có 2 tâm sở này.
Chi tiết.
*- Tâm Sơ thiền có 35 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 22 tâm sở Tốt đẹp (trừ 3 tâm sở giới phần).
*- Tâm Nhị thiền có 34 tâm sở hợp = (lấy 35 tâm sở hợp ở trên trừ thêm tâm sở Tầm (vitakka). Vì tâm Nhị thiền mất chi Tầm.
*- Tâm Tam thiền có 33 tâm sở hợp (trử thêm tâm sở Tứ (vicāra).
*- Tâm Tứ thiền có 32 tâm sở hợp (trừ thêm tâm sở Hỷ).
* - Tâm Ngũ thiền, có 30 tâm sở hợp (trừ thêm 2 tâm sở Vô lượng phần và thay chi Lạc bằng chi Xả của thiền).
Tương tự như thế với tâm quả Sắc giới và tâm Duy tác Sắc giới.
24 - Hỏi. Vì sao trong tâm Đại quả không có 2 tâm sở Vô lượng phần, trái lại trong tâm quả thiền Sắc giới lại có 2 tâm sở này?
Đáp. Sở dĩ trong tâm quả thiền Sắc giới có hai tâm sở Vô lượng phần, là do vị hành giả tu tập một trong hai đề mục này.
Nếu vị hành giả không tu tập một trong 2 đề mục này thì trong tâm quả Thiền sắc giới cũng không có 2 tâm sở Vô lượng phần.
C- TÂM VÔ SẮC GIỚI VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
25 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tâm Vô sắc giới?
Đáp. Trong tâm Ngũ thiền Sắc giới có 2 chi thiền là Xả và Định thì trong những tâm thiền Vô sắc giới cũng có 2 chi thiền này.
Nói cách khác, thiền Vô sắc chỉ thay đổi đề mục nhưng không thay đổi chi thiền.
Như vậy, những tâm thiền Vô sắc có 30 tâm sở hợp = 1o tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Tầm + tâm sở Tứ + tâm sở Hỷ) + 2o tâm sở Tốt đẹp (25 tâm sở tịnh hảo trừ 3 tâm sở Giới phần + 2 tâm sở Vô lượng phần).
D- TÂM SIÊU THẾ VÀ TÂM SỞ PHỐI HỢP
26 - Hỏi. Có bao nhiêu tâm sở hợp trong tâm Siêu thế.
Đáp. Tâm Siêu thế (lokuttaracitta) là tâm nhận Nípbàn làm cảnh, do đó không có 2 tâm sở Vô lượng phần.
Như vậy tổng quát có 36 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 23 tâm sở Tốt đẹp (trừ 2 Vô lượng phần).
Nếu tính theo tầng thiền thì loại trừ dần chi thiền tương ứng với tầng thiền như trong tâm thiện Sắc giới. Như sau:
*- Tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ đạo) Sơ thiền và tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ quả) Sơ thiền.
Có 36 tâm sở hợp = 13 tâm sở Tợ tha + 23 tâm sở Tịnh hảo (trừ 2 tâm sở Vô lượng phần).
*- Tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ đạo) Nhị thiền và tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ quả) Nhị thiền.
Có 35 tâm sở hợp (trừ tâm sở Tầm).
*- Tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ đạo) Tam thiền và tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ quả) Tam thiền.
Có 34 tâm sở hợp (trừ thênm chi Tứ).
*- Tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ đạo) Tứ thiền và tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ quả) Tứ thiền.
Có 33 tâm sở hợp (trừ thêm chi hỷ).
*- Tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ đạo) Ngũ thiền và tâm (Sơ - Nhị - Tam - Tứ quả) Ngũ thiền.
Có 33 tâm sở hợp (trừ chi Lạc và thêm chi Xả).
II. TÂM SỞ PHỐI HỢP PHỐI HỢP VỚI TÂM
A. TÂM SỞ TỢ THA
*- Tâm sở Biến hành.
27 - Hỏi. Tâm sở Biến hành hợp được bao nhiêu tâm? hợp được bao nhiêu tâm sở?
Đáp. Bảy tâm sở Biến hành có mặt trong tất cả tâm.
Như vậy mỗi tâm sở trong nhóm Biến hành hợp được 121 tâm, đồng thời mỗi tâm sở hợp được 51 tâm sở còn lại (trừ chính nó).
Vì sao phải trừ “chính nó”?
Vì không thể nói “nó hợp với chính nó”.
Như khi nói “đứa bé đi chung với thân quyến” hàm ý “đứa bé không phải là “thân quyến với chính nó”.
Do đó, phải loại trừ chính tâm sở đang đề cập đến.
*- Tâm sở Biệt cảnh (pakiṇṇakacetasikā).
28. Hỏi. Sáu tâm sở Biệt cảnh, mỗi tâm sở hợp được bao nhiêu tâm? Không hợp được bao nhiêu tâm?
Đáp. *- Tâm sở Tầm (vitakka) hợp được 55 tâm = 44 tâm Dục giới (trừ ngũ song thức) + 11 tâm Sơ thiền [18] .
Như vậy, tâm sở Tầm không hợp với 66 tâm = Ngũ song thức + 56 tâm thiền (11 tâm nhị thiền + 11 tâm Tam thiền + 11 tâm Tứ thiền + 23 tâm Ngũ thiền).
*- Tâm sở Tứ (vicāra) hợp được 66 tâm = 55 tâm (có tâm sở tầm) + 11 tâm Nhị thiền.
Như vậy, tâm sở Tứ không hợp với 55 tâm = Ngũ song thức + 45 tâm thiền (11 tâm tam thiền + 11 tâm Tứ thiền + 23 tâm ngủ thiền).
*- Tâm sở Thắng giải (adhivimokkha) hợp được 110 tâm = 121 tâm trừ (năm đôi thức + tâm Si hợp hoài nghi).
Như vậy, tâm sở Thắng giải không hợp với 11 tâm = Năm đôi thức + tâm Si hợp hoài nghi.
*- Tâm sở Cần (vīriya) hợp được 105 tâm = 121 tâm trừ (15 tâm quả vô nhân + tâm Hướng ngũ môn).
Như vậy, tâm sở Cần không hợp với 16 tâm = 15 tâm quả vô nhân + tâm Hướng ngũ môn.
*- Tâm sở Hỷ (pīti) hợp được 51 tâm = 4 tâm Tham thọ hỷ + tâm Quan sát thọ hỷ + tâm Sinh tiếu + 12 tâm Đại thiện thọ hỷ + 33 tâm Thiền thọ hỷ (Sơ, nhị, tam thiền).
Như vậy, tâm sở Hỷ không hợp với 70 tâm = 4 tâm Tham thọ xả+ 2 tâm Sân + 2 tâm Si + 16 tâm Vô nhân (trừ tâm Quan sát thọ hỷ + tâm Sinh tiếu) + 12 tâm Dục giới Tốt đẹp thọ xả + 11 tâm Tứ thiền + 23 tâm Ngũ thiền.
*- Tâm sở Dục (chanda) hợp được 101 tâm = 121 tâm trừ (18 tâm Vô nhân + 2 tâm Si).
Như vậy, tâm sở Dục không hợp 20 tâm = 18 tâm Vô nhân + 2 tâm Si.
Trong sáu tâm sở Biệt cảnh:
- Ba tâm sở : Tầm, Tứ, Cần mỗi tâm sở hợp được 51 tâm sở (trừ chính nó).
- Tâm sở Thắng giải hợp 50 tâm sở = 52 tâm sở - (tâm sở Hoài nghi và chính nó).
- Tâm sở Hỷ hợp được 46 tâm sở = 52 tâm sở - (4 tâm sở sân phần + tâm sở Hoài nghi + chính nó).
- Tân sở Dục hợp được 50 tâm sở = 52 tâm sở - (tâm sở Hoài nghi + chính nó).
B. TÂM SỞ BẤT THIỆN (AKUSALACETASIKĀ) PHỐI HỢP
29 - Hỏi. Mỗi tâm sở Bất thiện phối hợp được bao nhiêu tâm? Không phối hợp với bao nhiêu tâm? Hợp được bao nhiêu tâm sở?
Đáp. *- Bốn tâm sở bất thiện Biến hành là: Si, Vô tàm, Vô quý, Phóng dật. Mỗi tâm sở có trong 12 tâm bất thiện.
Như vậy, chúng không có 109 tâm = 18 tâm vô nhân + 91 tâm Tốt đẹp.
Có Pāli sau:
Akusalesu pana moho, ahirikaṃ anottappaṃ, uddhaccaṃ c’āti cattāro’me cetasikā sabbākusalasādhāraṇā nāma:
Trong tâm sở bất thiện, có bốn tâm sở là: Si, Không hổ thẹn tội lỗi (vô tàm), Không ghê sợ tội lỗi (vô quý), Phóng dật, gọi là tâm sở Bất thiện Biến hành”.
Sabbesu’pi dvādasākusalesu labbhanti:
(Chúng) có trong tất cả 12 tâm bất thiện” [19] .
*- Ba tâm sở Tham phần.
- Tâm sở Tham chỉ hợp trong tám tâm Tham.
Như vậy, tâm sở Tham không hợp với 113 tâm.
*- Tâm sở Tà kiến chỉ hợp trong 4 tâm tham hợp tà.
Như vậy, tâm sở Tà kiến không hợp với 117 tâm.
*- Tâm sở Ngã mạn hợp trong 4 tâm tham ly tà.
Như vậy, tâm sở Mạn không hợp với 117 tâm.
Có Pāli sau:
Lobho aṭṭhasu lobhasahagatesv’eva labbhati:
Tâm sở Tham tìm thấy trong tám tâm đồng sinh với tham”.
Diṭṭhi catusu diṭṭhigatasampayuttesu:
Tâm sở Tà kiến được tìm thấy trong bốn tâm hòa hợp với tà kiến”.
Māno catusu diṭṭhigatavippayuttesu:
Ngã mạn được tìm thấy trong bốn tâm tham không hòa hợp với tà kiến” (sđd).
*- Bốn tâm sở Sân phần.
Cả bốn tâm sở Sân phần (sân, tật, lận, hối) đều hợp với 2 tâm Sân.
Như vậy, bốn tâm sở này, mỗi tâm sở không hợp với 119 tâm.
Có Pāli sau:
Doso, issā, macchariyaṃ, kukkuccaṃ ca dvīsu paṭighacittesu:
Sân, Ganh tỵ, Bỏn xẻn, Hối được tìm thấy trong hai tâm hòa hợp với hận (paṭigha)” (sđd).
*- Hai tâm sở Hôn phần.
Hai tâm sở này chỉ hợp với những tâm bất thiện hữu trợ.
Chúng hợp được 5 tâm = 4 tâm Tham hữu trợ + tâm Sân hữu trợ.
Như vậy, mỗi tâm sở Hôn phần không hợp với 116 tâm.
Có Pāli như sau:
Thīnaṃ, Middhaṃ pañcasu sasaṅkhārikacittesu:
Hôn trầm, Thụy miên được tìm thấy trong 5 tâm hữu trợ”(sđd).
*- Tâm sở Hoài nghi. Chỉ hợp trong tâm Si hoài nghi, không hợp với 120 tâm còn lại.
Tâm sở bất thiện không hợp với 25 tâm sở Tốt đẹp; tổng quát mỗi tâm sở Bất thiện hợp được 26 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 13 tâm sở bất thiện (trừ tâm sở đang đề cập).
Chi tiết.
*- Bốn tâm sở Si phần.
Mỗi tâm sở hợp được 26 tâm sở (trừ chính nó).
*- Tâm sở Tham phần.
- Tâm sở Tham hợp được 21 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 4 tâm sở si phần + 2 tâm sở Tham phần (trừ tâm sở Tham) + 2 tâm sở Hôn phần.
- Tâm sở Tà kiến hợp được 20 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 4 tâm sở Si phần + tâm sở Tham + 2 tâm sở Hôn phần.
- Tâm sở Ngã mạn hợp được 20 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 4 tâm sở Si phần + tâm sở Tham + 2 tâm sở Hôn phần.
*- Tâm sở Sân phần.
- Tâm sở Sân hợp được 21 tâm sở = 12 tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Hỷ) + 4 tâm sở Si phần + tâm sở Tật + tâm sở Lận + tâm sở Hối + 2 tâm sở Hôn phần.
Ba tâm sở Tật, Lận, Hối không cùng hiện khởi chung nhau. Do đó:
- Tâm sở Tật hợp với 19 tâm sở = 12 tâm sở Tợ tha (trừ tâm sở Hỷ) + 4 tâm sở Si phần + tâm sở Sân + 2 tâm sở Hôn phần.
Tương tự như vậy với tâm sở Lận và tâm sở Hối, chỉ thay đổi tâm sở Tật bằng tâm sở Lận hay tâm sở Hối.
*- Tâm sở Hôn phần.
Hai tâm sở Hôn trầm và Thụy miên không hợp với 2 tâm Si nhất định.
Như vậy, chúng không hợp với tâm sở Hoài nghi.
Mỗi tâm sở Hôn phần hợp được 25 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 4 tâm sở Si phần + 3 tâm sở Tham phần + 4 tâm sở Sân phần + 1 tâm sở Hôn phần (trừ chính nó).
C. TÂM SỞ TỐT ĐẸP (SOBHANACETASIKĀ) PHỐI HỢP
30 - Hỏi. Mỗi tâm sở Tịnh hảo hợp được bao nhiêu tâm ? Không hợp với bao nhiêu tâm?
Đáp. *- Trước tiên là 19 tâm sở Tốt đẹp biến hành.
Mỗi tâm sở hợp được 91 tâm Tốt đẹp = 24 tâm tốt đẹp Dục giới + 27 tâm Đáo đại + 40 tâm Siêu thế.
Như vậy, chúng không hợp với 30 tâm “không tốt đẹp” = 12 tâm Bất thiện + 18 tâm Vô nhân.
*- Ba tâm sở Giới phần.
Ba tâm sở Giới phần hợp với 48 tâm:
- Hợp nhất định đầy đủ trong 40 tâm Siêu thế.
- Hợp riêng lẽ trong 8 tâm Thiện dục giới.
Ba Giới phần không hợp trong 73 tâm = 30 tâm “không tốt đẹp”+ 8 tâm Đại quả + 8 tâm Đại tố + 27 tâm Đáo đại.
Như vậy mỗi tâm sở hợp được 48 tâm, không hợp với 73 tâm.
Mỗi tâm sở Giới phần hợp được 37 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 24 tâm sở tốt đẹp (trừ chính nó).
*- Hai tâm sở Vô lượng phần.
Hai Vô lượng phần không có trong 8 tâm quả Dục giới, 40 tâm Siêu thế và 15 tâm Ngũ thiền hiệp thế.
Như vậy, mỗi tâm sở hợp được 28 tâm = 8 tâm thiện Dục giới + 8 tâm Đại tố + 12 tâm thiền Sắc giới ( Sơ, nhị, tam, tứ thiền).
Không hợp với 93 tâm = 30 tâm “không tốt đẹp” + 8 tâm Đại quả + 15 tâm Ngũ thiền hiệp thế + 40 tâm Siêu thế.
* - Tâm sở Trí. Hợp được 79 tâm có trí = 67 tâm thiền + 12 tâm Dục giới có trí.
Không hợp với 42 tâm ly trí = 30 tâm “không tốt đẹp” + 12 tâm Dục giới hữu nhân ly trí.
31 - Hỏi. Mỗi tâm sở Tốt đẹp hợp được bao nhiêu tâm sở?.
Đáp. *- Tâm sở Tốt đẹp biến hành, hiện diện trong tất cả tâm Tốt đẹp.
Như vậy mỗi tâm sở Tốt đẹp biến hành hợp được 37 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 24 tâm sở Tốt đẹp (trừ chính nó).
* Ba tâm sở Giới phần.
Ba tâm sở này không cùng hiện khởi với 2 tâm sở Vô lượng phần.
Như vậy, mỗi tâm sở giới phần hợp được 35 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 22 tâm sở Tốt đẹp ( trừ 2 tâm sở Vô lượng phần + chính nó).
*- Hai tâm sở Vô lượng phần.
Hai tâm sở này không cùng có mặt với nhau. Lại nữa, chúng cũng không cùng có mặt với 3 giới phần.
Như vậy, mỗi tâm sở chỉ hợp được 33 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 20 tâm sở tốt đẹp ( trừ 3 giới phần và 2 Vô lượng phần).
* Tâm sở Trí, hợp với 37 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 24 tâm sở Tốt đẹp (trừ tâm sở trí).
Dứt tâm và tâm sở phối hợp.
-ooOoo-
[1] - A.i, 91, Pháp 2 chi, phẩm Bố thí (dānavaggo).
[2] - HT. TMC (d). A.ii, 32; pháp bốn chi, kinh Nhiếp pháp (saṅgahasuttaṃ).
[3] - Xem Nhiếp phục lực (saṅgahabalaṃ) ở phần sau.
[4] –Là 15 tâm thiền Sắc giới + 12 tâm thiền Vô sắc giới.
[5] - Aññasamāna dịch là Tợ tha, nghĩa là “giống như bên ngoài”.
[6] - Abhs. Chương II. Phần 3 .
[7] - Tesaṃ (chúng), ở đây chỉ cho các tâm sở.
[8] - S.ii, 157. Tương ưng giới (dhātusaṃyuttaṃ), kinh các bài kệ (Sagāthāsuttaṃ).
[9] - Là tâm làm phát sinh nụ cười “theo thói quen” của vị Thánh Alahán.
[10] - Sắc thần kinh Nhãn thu bắt cảnh Sắc, đồng thời Nhãn thức sinh lên trú ở sắc thần kinh Nhãn.
[11] - Không gọi là “mang tâm đến cảnh” vì tâm sở Tầm không thể mang tâm Tiếp thu đến sắc thần kinh Nhãn.
[12] - Abhs . Chương II.
[13] - 4 tâm Tham hữu trợ + tâm Sân hữu trợ = 5 tâm.
[14] - Hữu trợ là “có sự trợ giúp” hay “có sự kích thích”; còn vô trợ thì ngược lại.
[15] - Xem Tỳ Khưu Chánh minh; Tâm sở tịnh hảo vấn đáp.
[16] - Thời chứng đắc Đạo - Quả Siêu thế.
[17] - Abhs. Chương II.
[18] - 11 tâm Sơ thiền = 3 tâm Sơ thiền hiệp thế + 8 tâm Sơ thiền Siêu thế.
- 11 tâm Nhị thiền = 3 tâm Nhị thiền hiệp thế + 8 tâm Nhị thiền Siêu thế.
- 11 tâm Tam thiền = 3 tâm Tam thiền hiệp thê + 8 tâm Tam thiền Siêu thế.
- 11 tâm Tứ thiền = 3 tâm Tứ thiền hiệp thế + 8 tâm Tứ thiền Siêu thế.
- 23 tâm Ngũ thiền = 3 tâm ngũ thiền Sắc giới + 12 tâm thiền Vô sắc giới + 8 tâm Ngũ thiền Siêu thế.
Tổng cộng có 67 tâm thiền.
[19] - Abhs. Chương II.
-ooOoo-
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.