ĐƯỜNG VÀO THẮNG PHÁP
Tỳ Khưu Chánh Minh
BÀI 7: CẢNH HỢP ĐỒNG (ĀRAMMAṆASAṄGAHA)
129 - Hỏi. Cảnh là gì?
Đáp. Cảnh là đối tượng bị tâm biết, bất luận pháp nào bị tâm biết, pháp ấy gọi là cảnh.
Cảnh được dịch từ chữ ārammaṇa hay ālambana, hai từ này còn được dịch là “đối tượng” hoặc “sở duyên”.
Ārammaṇa = ā + căn ram (bám vào, dính vào, thích thú). Hay:
Ālambana = ā căn lam (đeo níu theo) [22] .
130 - Hỏi. Cảnh bám theo tâm hay tâm bám theo cảnh?
Đáp. Tùy theo sức mạnh của cảnh và sức mạnh của tâm.
Với cảnh rất tốt đồng thời phù hợp với khuynh hướng tiềm ẩn, bấy giờ cảnh có sức mạnh hấp dẫn tâm.
Như người nghe nói “kho báu”, “vật quý có giá trị cao”... những điều này sẽ hấp dẫn tâm người ấy.
Nếu như tâm có sức mạnh, đồng thời cảnh không phù hợp với khuynh hướng cảnh sẽ đeo bám tâm. Ví như người mượn nợ, van nài chủ nợ.
Hay như vị tỳkhưu tu tập thiền chỉ tịnh, những cảnh dục lạc không hấp dẫn tâm vị ấy.
Cảnh đối với tâm ví như thanh nam châm với sắt, nếu thanh sắc dày - nặng thì thỏi nam châm sẽ chạy đến thanh sắc.
Nếu chỉ là những mảnh sắt nhỏ thì những mảnh sắt này chạy đến thỏi nam châm.
Thỏi nam châm ví như cảnh, mảnh sắt hay thanh sắt ví như tâm.
Pāli có giải thích: Ābhimukhaṃ ramanti etthāti = ārammaṇaṃ:
“Thích thú khi đối diện, gọi là cảnh”.
- Cittacetasika ālambanatīti =ālambanaṃ:
“Đeo níu theo tâm và tâm sở, gọi là cảnh”.
- Cittacetasika ālambiyatīti = ālambanaṃ:
“Bị tâm và tâm sở nắm giữ, gọi là cảnh” [23] .
131 - Hỏi. Cảnh hợp đồng có ý nghĩa như thế nào? Có bao nhiêu cảnh?
Đáp. Cảnh hợp đồng là: Mỗi cảnh có bao nhiêu chi pháp, có bao nhiêu tâm biết và tâm biết được bao nhiêu cảnh.
Nói gọn thì có 6 cảnh là: Cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh mùi, cảnh vị, cảnh xúc và cảnh pháp. Nói rộng thì có 21 cảnh.
132 - Hỏi. Cảnh sắc ra sao? Chi pháp cảnh sắc là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh sắc?
Đáp. Cảnh sắc (rūpārammaṇa) là những gì bị sắc thần kinh Nhãn thu bắt và bị tâm nhận biết.
Cảnh sắc bao gồm những màu sắc, hình dáng, cử động ...
Theo Abhidhamma (Thắng pháp), danh từ rūpa từ ngữ căn rup nghĩa là “biến đổi, hoại diệt”.
Pāli giải thích: Sītuṇhādivasena vaṇṇavikāramāpajjatī’ti = rūpaṃ:
“Thay đổi màu sắc bởi nóng lạnh, gọi là sắc.”
Đơn thuần chỉ là “màu sắc”, nhưng khi bị tâm biết, chúng trở thành cảnh sắc.
Nhưng sắc cảnh sắc không phải chỉ là “những màu sắc” mà là “tất cả những gì bị sắc thần kinh Nhãn nắm bắt, đồng thời bị tâm nhận biết”.
Chi pháp của cảnh sắc là sắc cảnh sắc.
Cảnh sắc có 48 tâm biết, như sau:
- Biết nhất định: Là 2 tâm Nhãn thức.
- Biết bất định có 46 tâm là: 44 tâm Dục giới (trừ năm đôi thức) + 2 tâm thông (abhiññāṇacitta).
*- Gọi là biết “nhất định” vì Nhãn thức chỉ biết độc nhất “cảnh sắc”.
*- Gọi là biết “bất định” vì ngoài cảnh sắc ra, những tâm này còn biết nhiều cảnh khác nữa.
Như tâm thiện dục giới chẳng hạn, ngoài cảnh sắc ra, chúng còn biết cảnh Nípbàn, cảnh thiền, cảnh chế định, cảnh thinh ...
Hoặc như tâm tham, ngoài cảnh sắc ra, chúng còn biết thêm cảnh thinh (ái cảnh thinh), cảnh vị (ái cảnh vị) .....
133 -Hỏi. Cảnh thinh (saddārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh thinh là gì? Có bao nhiêu tâm biết cảnh thinh?.
Đáp. Cảnh thinh là “tất cả âm thanh bị sắc thần kinh Nhĩ bắt được và bị tâm nhận biết”.
Âm thanh xuất phát từ sự va chạm của tứ đại, như tiếng gió “ù ù”, tiếng lửa “reo tí tách”, tiếng chuông, tiếng trống ...
Âm thanh do 2 nhân tạo là: Tâm (khi nói) và “nóng lạnh” (utuja).
Âm thanh có hai loại “rõ ràng (vyākata)” và “không rõ ràng (avyākata).
Như có những tiếng động được gọi là “siêu âm”, hay “có những âm thanh tai người nghe không được, trái lại loài chó nghe được”, đó là loại “âm thanh không rõ ràng”.
Những âm thanh cực nhỏ như thế phần lớn là sự “va chạm giữa nước với 3 đại kia”, hoặc do “va chạm nhẹ nhàng “như sợi tóc chạm vào mặt” ...
Đơn thuần chỉ là âm thanh, nhưng khi bị tâm biết thì âm thanh ấy trở thành cảnh thinh.
Chi pháp của cảnh thinh là sắc cảnh thinh.
Tương tự như cảnh sắc, có 48 tâm biết cảnh thinh là:
- Biết nhất định: 2 tâm nhĩ Thức.
- Biết bất định có 46 tâm = 44 tâm Dục giới (trừ 5 đôi thức) + 2 tâm thông.
134 - Hỏi. Cảnh mùi (gandhārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh mùi là gì? Có bao nhiêu tâm nhận biết cảnh mùi?
Đáp. Cảnh mùi là “tất cả mùi bị thần kinh Tỷ thu bắt, đồng thời bị tâm nhận biết”.
Gandha (mùi) từ ngữ căn “gandh” có nghĩa là “lộ ra –sūcane”.
Chi pháp cảnh mùi là sắc cảnh mùi.
Có 48 tâm biết cảnh mùi:
- Biết nhất định: 2 tâm Tỷ thức.
- Biết bất định: 46 tâm = 44 tâm Dục giới (trừ 5 đôi thức) + 2 tâm thông.
135 - Hỏi. Cảnh vị (rasārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh vị là gì? Có bao nhiêu tâm biết cảnh vị?
Đáp. Cảnh vị là “tất cả những vị chất: mặn, ngọt, bùi, chua, cay, đắng... bị thần kinh Lưỡi thu bắt và bị tâm nhận biết”.
Chi pháp cảnh vị là sắc cảnh vị.
Có 48 tâm nhận biết cảnh vị:
- Biết nhất định: 2 tâm Thiệt thức.
- Biết bất định có 46 tâm = 44 tâm Dục giới (trừ 5 đôi thức) + 2 tâm thông.
136 - Hỏi. Khi biết thức ăn cứng, mềm, nóng, lạnh có phải là cảnh vị không?
Đáp. Không, biết vị chất mới là cảnh vị, còn biết vật thực cứng, mềm, nóng, lạnh ... là do thần kinh Thân thâu bắt cảnh xúc.
Trên mặt nhạy của lưỡi phần lớn là thần kinh vị giác, nhưng chìm sâu bên trong mặt nhạy ấy là thần kinh thân, như người cắn nhầm vào lưỡi có cảm nhận đau đớn.
Theo luận Atỳđàm, Thiệt thức thọ xả còn Thân thức thì thọ khổ hoặc tho, lạc. Cảm nhận đau đớn là thọ khổ.
Nói cách khác, nơi nào có “hệ thống thần kinh Thân” đi qua, nơi ấy có sự cảm nhận “khổ - lạc”.
Một số cơ quan trong thân như ruột, bao tử... có sự tiếp cận với sắc thần kinh Thân nên phát sinh đau khi chạm vào thần kinh Thân, một số không “tiếp cận với thần kinh Thân”, tuy bị ung thối vẫn không có cảm nhận gì chi cả, như gan, tim, phổi chẳng hạn.
137 - Hỏi. Cảnh xúc (phoṭṭhappārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh xúc là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh xúc?.
Đáp. Cảnh xúc là “bao gồm những gì va chạm vào thần kinh Thân và bị tâm nhận biết”.
Chi pháp của cảnh xúc là : Đất, lửa, gió.
Nước (āpo) là loại sắc vi tế (sukhumarūpa), không thể nhận biết qua 5 giác quan.
Nước có trạng thái “trôi chảy hay quến tụ”; khi dùng tay chạm vào nước thông thường, chúng ta cảm nhận “mềm”, mà “mềm là trạng thái của đất.
Nếu cảm nhận “nóng hoặc lạnh”, đó là trạng thái của lửa.
Khi đưa mắt nhìn thấy “nước trôi chảy hay xoáy cuộn lại” đó lại là cảnh sắc ...
Có 48 tâm biết cảnh xúc là:
- Biết nhất định: 2 tâm Thân thức.
- Biết bất định có 46 tâm = 44 tâm Dục giới (trừ 5 đôi thức) + 2 tâm Thông.
Sắc cảnh sắc, sắc cảnh thinh, sắc cảnh vị, sắc cảnh mùi, đất, lửa, gió, gọi chung là 7 sắc cảnh.
138 -Hỏi. Số lượng 21 cảnh đó là những cảnh nào?
Đáp. Năm cảnh vừa giải thích được gom chung là cảnh ngũ (pañcārammaṇa), đó là cảnh thứ sáu.
7- Cảnh pháp (dhammārammaṇa).
8- Cảnh chân đế ( paramatthasaccārammaṇa).
9- Cảnh tục đế (lokiyasaccārammaṇa).
10- Cảnh Dục giới (kāmāramāṇa).
11- Cảnh Đáo đại (mahaggatārammaṇa).
12- Cảnh Nípbàn (nibbānārammaṇa).
13- Cảnh danh pháp (nāmārammaṇa).
14- Cảnh sắc pháp (rūpārammaṇa).
15- Cảnh quá khứ (ātītārammaṇa).
16- Cảnh hiện tại (paccuppannārammaṇa).
17- Cảnh vị lai (anāgatārammaṇa).
18- Cảnh ngoại thời (kālavimuttārammaṇa).
19- Cảnh nội phần (ajhattārammaṇā).
20- Cảnh ngoại phần (bahiddhārammaṇa).
21- Cảnh nội ngoại phần (ajjhattabahiddhārammaṇa).
Thật ra, tất cả đều là cảnh pháp, nhưng tùy theo mỗi pháp đang làm cảnh cho tâm, nên phân ra theo từng nhóm có đặc tính giống nhau để dễ phân biệt.
Nếu Tón gọn thì có 6 cảnh: Sắc thinh, mùi vị, xúc và cảnh pháp.
Từ cảnh pháp lại phân tích thành 16 cảnh như đã nêu trên, tổng cộng có 21 cảnh.
139 - Hỏi. Gọi là cảnh ngũ (pañcārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh ngũ là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh ngũ?
Đáp. Cảnh ngũ là gom 5 cảnh: Sắc, thinh, mùi, vị và xúc mà gọi tên, không phải có một “cảnh ngũ” riêng biệt.
Sở dĩ gọi là “cảnh ngũ”, là ám chỉ “môi trường có đầy đủ “sắc, thinh, hương, vị và xúc”.
Như người thọ thực trong căn phòng sang trọng, ngào ngạt hương, lại có đoàn vũ nữ ca múa phục vụ.
Dĩ nhiên, mỗi thời điểm sátna, tâm chỉ nhận biết một cảnh mà thôi.
Còn gọi từng cảnh sắc, thinh ... là chỉ cho từng cảnh xuất hiện riêng lẽ hoặc chỉ cho môi trường không có đủ 5 cảnh.
Chi pháp cảnh ngũ chính là 7 sắc cảnh.
Có 46 tâm biết cảnh ngũ là:
- Biết nhất định có: 3 ý giới.
- Biết bất định có 43 tâm = 41 tâm Dục giới (54 tâm Dục giới – (5 đôi thức+ 3 ý giới) + 2 tâm thông.
Biết nhất định ví tâm Hướng ngũ môn và 2 tâm Tiếp thu chỉ biết có 5 cảnh: Sắc, thinh, mùi, vị, xúc mà thôi.
Ba tâm Quan sát có thể biết hơn 5 cảnh khi chúng làm việc Na cảnh.
140 - Hỏi. Gọi là cảnh pháp (dhammārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh pháp là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh pháp?
Đáp. Cảnh pháp là “đặc tính riêng của pháp nào đó khi bị tâm biết”, như tâm sở Tín có đặc tính “hướng tâm tin”, đặc tính này bị tâm khác biết, hay vị tỳ khưu hành pháp Tứ niệm xứ quán tâm trong tâm, khi tâm có tham vị ấy biết, khi có tâm thiện vị ấy biết v...v, hoặc quán pháp trong pháp v...v..
Hoặc vị tu thiền chỉ nhận lấy chế định “đất, nước, lửa, gió, xanh vàng...” làm đề mục, bấy giờ tâm lấy chế định làm cảnh.
Gọi là cảnh pháp là loại trừ 5 cảnh sắc và cảnh ngũ ra để dễ phân biệt, thật ra 5 cảnh và cảnh ngũ vẫn có thể gom vào cảnh pháp, vì chúng có “đặc tính riêng”, đồng thời chúng bị tâm biết.
Chi pháp của cảnh pháp là “tất cả pháp [24] ” trừ cảnh ngũ + năm cảnh. Nói rõ hơn là: 121 tâm + 52 tâm sở + 21 sắc pháp ( 28 sắc pháp - 7 sắc cảnh) +
Có 110 tâm biết cảnh pháp là:
- Biết nhất định có 67 tâm thiền = 27 tâm thiền Đáo đại + 40 tâm Siêu thế.
*- Các tâm thiền Đáo đại chỉ biết “cảnh đề mục của mình”, ngoài ra khôbng biết cảnh nào khác, nên gọi là biết nhất định.
Tương tự như thế với 40 tâm Siêu thế chỉ biết cảnh Nípbàn.
*- Về tâm thiền Đáo đại thì:
- 3 tâm Thức Vô biên xứ và 3 tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ biết cảnh pháp chân đế.
Tâm Thức vô biên xứ bắt lấy “tâm Không vô biên xứ đã diệt” làm cảnh.
Tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ bắt lấy “các hành còn sót của tâm Vô sở hữu xứ làm cảnh”.
Nên nói “6 tâm này biết cảnh chân đế”. Những tâm thiền Đáo đại ngoài ra chỉ biết cảnh “chế định”.
- Biết bất định có 43 tâm = 41 tâm dục giới biết 6 cảnh [25] + 2 tâm Thông.
141- Hỏi. Cảnh chân đế (paramatthasaccārammaṇa) ra sao?
Chi pháp cảnh chân đế là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh chân đế?
Đáp. Chân đế là “sự thật tột củng”, khi điều này bị tâm biết, bấy giờ trở thành cảnh chân đế.
Chi pháp của cảnh chân đế là: Tâm, tâm sở, sắc pháp và Nípbàn.
Như vậy, vị hành giả “quán thọ trong thọ”, quán “tâm trong tâm”, quán pháp trong pháp”, là nhận “chân đế làm cảnh”.
Với vị có tha tâm thông, với tâm mình biết được tâm người khác, vị ấy đang nhận chân đế làm cảnh.
Với vị có thiên nhãn minh, thấy được các sắc thô, tế, trong, ngoài... như vậy vị ấy nhận chân đế làm cảnh.
Có 70 hoặc 102 tâm biết cảnh chân đế là:
- Biết nhất định có 71 tâm = 17 tâm vô nhân (trừ tâm Hướng ý môn) + 8 tâm quả Dục giới [26] +3 tâm Thức vô biên xứ + 3 tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ + 40 tâm Siêu thế.
- Biết bất định có 31 tâm = 12 tâm bất thiện + 16 đổng lực Dục giới hữu nhân + tâm Hướng ý môn + 2 tâm Thông.
Gọi là biết nhất định cảnh chân đế là “những tâm không hề biết cảnh chế định”.
Những tâm vừa biết cảnh chân đế lẫn cảnh chế định, gọi là biết bất định [27] .
142 - Hỏi. Gọi là cảnh Tục đế (lokiyasaccārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh tục đế là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh tục đế?
Đáp. Có hai sự thật: Sự thật tột cùng và sự thật theo thế gian.
Sự thật thế gian là nương theo sự thật tột cùng mà định đặt ra, như “người, thú ...” là do nương theo danh - sắc mà gọi, chứ thật ra “chẳng có chi gọi là người hay thú cả”.
Sự thật thế gian chỉ là “quy ước để hiểu với nhau”, như gọi là “tiền”, cái chi gọi là tiền? Nhưng mọi người chấp nhận giá trị của nó, dùng để trao đổi hàng hóa lẫn nhau.
Nói cách khác, sự thật thế gian chỉ là “chế định pháp”, nên cảnh Tục đế còn gọi là cảnh Chế định.
Pháp chế định bao gồm 2 phần: Danh từ và nghĩa theo quy ước (danh chế định – nghĩa chế định), như khi nói “cha” nghĩa là “người sinh ra con”, chỉ cần nói cha, người nghe hiểu được ý nghĩa, không cần phải giải thích thêm v ...v.
Khi pháp chế định này bị tâm biết, bấy giờ chúng trở thành cảnh chế định.
Chi pháp của cảnh chế định là pháp chế định.
Có 52 tâm biết cảnh chế định:
- Biết nhất định có 21 tâm = 15 tâm thiền Sắc giới + 3 tâm thiền Không vô biên xứ + 3 tâm thiền Vô sở hữu xứ.
- Biết bất định có 31 tâm = tâm Hướng ý môn + 12 tâm bất thiện + 8 tâm thiện Dục giới + 8 tâm Duy tác dục giới hữu nhân + 2 tâm thông.
143 - Hỏi. Vì sao tâm Sinh tiếu (hasituppāda) có trong lộ ngũ lẫn lộ ý, lại không bắt cảnh chế định?
Đáp. Tâm Sinh tiếu là tâm làm sinh khởi nụ cười “theo thói quen” của vị Thánh Alahán khi gặp cảnh, cảnh ấy có thể là “cảnh đáng cười”, có thể là “cảnh không đáng cười”, như khi “bị mắng cũng cười, được khen ngợi cũng cười”...
Trong lộ ngũ không có cảnh chế định, cảnh chế định xuất hiện trong lộ ý với hai cách: Lộ ý thuần túy và lộ ý nối lộ ngũ [28] .
Trong lộ ý nối lộ ngũ do định danh hoặc định nghĩa, nên tâm Sinh tiếu không sinh.
Chế định làm cảnh trong lộ ý thuần túy có 2 trường hợp: Là cảnh thông thường và cảnh thiền chỉ tịnh.
Với cảnh thiền Sắc giới không có tâm Sinh tiếu.
Với cảnh chế định thông thường phải hiểu được ý nghĩa, khi hiểu được ý nghĩa thì không thể sinh khởi nụ cười theo thói quen.
Nếu sinh khởi nụ cười của vị Thánh Alahán khi nhận cảnh chế định thông thường trong lộ ý thuần túy, hay trong lộ ý nối lộ ngũ, tâm ấy phải là tâm Duy tác thọ hỷ dục giới hữu nhân.
144 - Hỏi. Cảnh Dục giới (kāmārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh dục giới là gì? Bao nhiêu tâm nhận biết cảnh Dục giới?
Đáp. Pháp Dục giới bao gồm: Sắc pháp, tâm Dục giới và tâm sở hợp với tâm Dục giới.
Khi những pháp này bị tâm biết chúng trở thành cảnh Dục giới.
Ngay cả 5 cảnh: Sắc, thinh, mùi, vị và va chạm (xúc) cũng là cảnh Dục giới, nhưng loại trừ ra để phân biệt với những cảnh dục giới khác.
Chi pháp cảnh Dục giới là: 21 sắc pháp (28 sắc pháp – 7 sắc cảnh), 5 4 tâm Dục giới + 52 tâm sở hợp.
Có 56 tâm biết cảnh Dục giới là:
- Biết nhất định có 25 tâm = 17 tâm vô nhân (trừ tâm Hướng ý môn) + 8 tâm Đại quả.
- Biết bất định có 31 tâm = 12 tâm bất thiện + 8 Đại thiện + 8 Đại tố + tâm Hướng ý môn + 2 tâm Thông.
145 - Hỏi. Cảnh Đáo đại (mahaggatārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh Đáo đại là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh Đáo đại?
Đáp. Đáo đại là “đến nơi rộng lớn”, ám chỉ những tâm thiền Hiệp thế (lokiyajhānacitta) cùng với những tâm sở hợp trong tâm thiền ấy.
Khi những tâm thiền hiệp thế cùng tâm sở hợp bị tâm khác biết, chúng trở thành cảnh đáo đại.
Chi pháp cảnh Đáo đại là 27 tâm thiền hiệp thế + tâm sở hợp.
Trường hợp nào chúng làm cảnh cho tâm? Có 4 trường hợp:
- Chúng xuất hiện trong lộ phản khán chi thiền, khi ấy các chi thiền bị tâm Thiện Dục giới hay tâm Duy tác Dục giới biết.
- Với vị có Tha tâm thông biết được tâm thiền của người khác. Như trường hợp Ngài Anuruddha theo dõi tâm của Đức Phật vào thời điểm Đức Phật sắp viên tịch [29] .
- Với vị tu tập thiền Vô sắc với đề mục “Thức vô biên xứ” và “phi tưởng phi phi tưởng xứ”.
- Nhớ tưởng lại sự chứng đắc thiền.
Có 37 tâm biết cảnh Đáo đại là:
- Biết nhất định có 6 tâm = 3 tâm Thức vô biên xứ + 3 tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- Biết bất định có 31 tâm = tâm Hướng ý môn + 12 tâm bất thiện + 8 đại thiện + 8 đại tố + 2 tâm Thông.
Vì sao tâm bất thiện biết cảnh đáo đại? Do nhớ tưởng lại phát sinh tham, sân hay hoài nghi...
146 - Hỏi. Cảnh Nípbàn ra sao? Chi pháp cảnh Nípbàn là gì? Có bao nhiêu tâm biết cảnh Nípbàn?
Đáp. Nípbàn là “trạng thái tịch tịnh tuyệt đối, yên lặng các pháp hữu vi, không có danh sắc chi cả”.
Khi Nípbàn bị tâm biết, bấy giờ gọi là cảnh Nípbàn.
Tâm biết cảnh Nípbàn không phải “có tâm trong Nípbàn”. Ví như người đứng dưới chân núi, thấy được đỉnh núi.
Chi pháp cảnh Nípbàn chính là Nípbàn.
Biết cảnh Nípbàn có 51 tâm là:
- Biết nhất định: 40 tâm Siêu thế.
- Biết bất định có 11 tâm = tâm Hướng ý môn + 8 Đổng lực Dục giới có trí [30] + 2 tâm Thông.
Trường hợp nào 8 đổng lực hợp trí Dục giới biết cảnh Nípbàn?
- Tâm Thiện Dục giới hợp trí biết được cảnh Nípbàn với 3 trường hợp:
*- Là tâm Gotrabhū (Chuyển tánh) hoặc tâm Vodanā (Tiến bậc) trong lộ Đắc đạo.
*- Là tâm phản khán trong lộ phản khán Đạo, quả Siêu thế và Nípbàn (trong lộ tâm đắc Đạo).
*- Là tâm Gotrabhū trong lộ nhập thiền quả của bậc Thánh Hữu học.
- Tâm Đại tố hợp trí biết được cảnh Nípbàn với 2 trường hợp:
*- Trong lộ phản khán đắc Tứ đạo.
*- Là Gotrabhū trong lộ nhập thiền quả của vị thánh Alahán.
147 - Hỏi. Cảnh danh pháp (nāmārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh danh pháp là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh danh pháp.
Đáp. “Danh” là những thể thuộc tinh thần có thực tính (sabhāva), đó là “thọ, tưởng, hành, thức và Nípbàn” [31] .
Khi những pháp này bị tâm khác biết, bấy giờ trở thành cảnh danh pháp.
Chi pháp cảnh danh pháp là: Tâm + tâm sở + Nípbàn.
Biết cảnh danh pháp có 89 tâm là:
- Biết nhất định có 46 tâm = 40 tâm Siêu thế + 3 tâm Thức vô biên xứ + 3 tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- Biết bất định có 43 tâm = 41 tâm Dục giới (trừ 5 đôi thức + 3 ý giới) + 2 tâm Thông.
148 - Hỏi. Cảnh sắc pháp (rūpārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh sắc pháp ra sao? Bao nhiêu tâm biết cảnh sắc pháp?
Đáp. Sắc pháp là thể vật chất vô tri giác, sắc pháp ở đây chỉ cho tứ đại, nói rộng hơn là chỉ cho 28 sắc pháp.
Trong 28 sắc pháp được chia thành 2 loại:
- Sắc thô (odārikarūpa). Là loại sắc có thể nhận biết qua 5 giác quan, gồm 12 sắc là: 7 sắc cảnh + 5 sắc thần kinh.
- Sắc tế (sukhumarūpa). Là loại sắc không thể nhận biết qua 5 giác quan, chỉ nhận thức được qua “cảm giác”. Đó là 16 sắc còn lại.
Khi tâm nhận một trong 28 sắc này làm cảnh, bấy giờ chúng trở thành cảnh sắc pháp.
Chi pháp cảnh sắc pháp là 28 sắc pháp hay tứ đại.
Biết cảnh sắc pháp có 56 tâm là:
- Biết nhất định có 13 tâm = Năm đôi thức + 3 ý giới.
- Biết bất định có 43 tâm = 41 tâm Dục giới (còn lại) + 2 tâm thông.
Hai tâm thông ở đây chỉ cho thiên nhãn thông là chủ yếu.
149 - Hỏi. Cảnh quá khứ (ātītārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh quá khứ là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh quá khứ?
Đáp. Gọi là “quá khứ” ám chỉ tâm+ tâm sở + sắc pháp đã diệt.
Khi những pháp này bị tâm biết, những pháp này gọi là “cảnh quá khứ”.
Trong lộ phản khán Đạo - quả Siêu thế và Nípbàn, tuy do nhớ lại Nípbàn đã tác chứng, nhưng cảnh Nípbàn này không gọi là cảnh quá khứ.
Vì sao? Vì Nípbàn không bị diệt do định luật vô thường, như Phật ngôn:
-“Sabbe saṅkhārā aniccāti...: Tất cả pháp hữu vi là vô thường...” [32]
Nípbàn là pháp vô vi nên là thường, không bị định luật vô thường chi phối.Do đó Nípbàn không là pháp quá khứ, hiện tại lẫn vị lai.
Nípbàn là pháp “vượt ra khỏi thời gian – kālavimutti”.
Gọi là “cảnh quá khứ” nhưng xuất hiện trong sátna hiện tại. Như người đang hoài niệm quá khứ.
Sở dĩ gọi là “cảnh quá khứ” là chỉ cho “đang nhớ lại những gì đã mất, đã diệt”. Như vị tỳkhưu quán tâm tứ niệm xứ .... (cùng một lúc không thể có 2 tâm)
Chi pháp cảnh quá khứ là: Tâm+ tâm sở + sắc pháp đã diệt.
Biết cảnh quá khứ có 49 tâm là:
- Biết nhất định có 6 tâm = 3 tâm Thức vô biên xứ + 3 tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ .
*- Ba tâm Thức vô biên xứ bắt lấy tâm Không vô biên xứ đã diệt làm cảnh.
*- Ba tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ bắt các hành của tâm Vô sở hữu xứ đã diệt làm cảnh.
- Biết bất định có 43 tâm = 41 tâm Dục giới (trừ năm đôi thức + 3 ý giới) + 2 tâm Thông.
Hai tâm Thông ở đây chủ yếu là Túc mạng thông.
150 - Hỏi. Cảnh hiện tại (paccuppannārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh hiện tại là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh hiện tại?
Đáp. “Hiện tại” là những gì đang sinh, đang hiện bày.
Ở đây ám chỉ tâm + tâm sở + sắc pháp đang hiện hữu.
Khi những pháp này bị tâm biết, gọi là “cảnh hiện tại”.
Chi pháp cảnh hiện tại là: Tâm + tâm sở + sắc pháp đang hiện hữu.
Biết cảnh hiện tại có là:
- Biết nhất định, có 13 tâm = Năm đôi thức + 3 ý giới.
- Biết bất định, có = 41 tâm Dục giới (trừ năm đôi thức + 3 ý giới) + 2 tâm Thông.
Hai tâm Thông ở đây chủ yếu là Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông.
151- Hỏi. Cảnh vị lai(anāgatārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh vị lai là gì? Có bao nhiêu tâm biết cảnh vị lai?
Đáp. “Vị lai “là những gì sẽ sinh, sẽ hiển lộ, sẽ hiện bày, ở đây ám chỉ tâm + tâm sở + sắc pháp sẽ sinh khởi trong tương lai.
Những pháp này khi bị tâm biết sẽ trở thành cảnh vị lai.
Chi pháp cảnh vị lai là: Tâm + tâm sở + sắc pháp sẽ sinh.
Biết cảnh vị lai có 43 tâm biết là: 41 tâm dục giới (trừ năm đôi thức + 3 ý giới) + 2 tâm thông. Tất cả đều biết bất định.
Hai tâm thông ở đây chủ yếu là “vị lai trí”, như trường hợp Đức Phật Chánh giác thọ ký cho những thiện gia nam tử có ước nguyện thành Thượng thủ thinh văn trong tương lai, hay những vị Đại đệ tử tối thắng về hạnh thiểu bịnh, hạnh hiếu học, hạnh ở rừng... [33]
Về 41 tâm Dục giới biết cảnh vị lai, như người hành thiện mong muốn sinh về cõi chư thiên, hay nghĩ đến “phương án trả thù”...
152 - Hỏi. Cảnh ngoại thời (kālavimuttārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh ngoại thời là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh ngoại thời?
Đáp. “Pháp ngoại thời” là pháp vượt ra khỏi thời gian, không bị thời gian chi phối. Đó là Nípbàn và pháp chế định.
Pháp chế định sở dĩ gọi là pháp phi thời, vì ngôn ngữ hay ý nghĩa chỉ là những khái niệm, hoặc nương vào pháp chân đế mà định đặt tên cùng ý nghĩa.
Như Bồtát Sumedha từ khi được Đức Phật Dipaṅkara (Nhiên Đăng) xác nhận là “vị Phật Chánh giác trong tương lai”.
Trải qua 4 Atăngkỳ (asaṅkheyya) và 100 ngàn kiếp trái đất, danh tự Sumedha bị quên lãng, đến thời Đức Phật hiện tại, Ngài thuyết lên Bổn sự, thế là danh tự Sumedha lại hiện khởi.
Tương tự như thế với các danh tự các vị Phật Chánh Đẳng giác như Vipassī, Konāgamana, Kakusandha, Kassapa...
Pháp ngoại thời khi bị tâm biết, khi ấy là cảnh ngoại thời.
Chi pháp cảnh ngoại thời là Nípbàn và chế định.
Biết cảnh ngoại thời có 92 tâm là:
- Biết nhất định có 61 tâm = 15 tâm thiền Sắc giới + 3 tâm Không vô biên xứ + 3 tâm Vô sở hữu xứ + 40 tâm Siêu thế.
- Biết bất định có 31 = 8 tâm Đại thiện + 8 tâm Đại tố + 12 tâm bất thiện + tâm hướng ý môn + 2 tâm Thông.
153 - Hỏi. Cảnh nội phần (ajjhattārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh nội phần là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh nội phần?
Đáp. Pháp nội phần là “những gì trong thân” của chúng sinh, ám chi cho tâm + tâm sở+ sắc pháp có trong thân mỗi chúng sinh.
Với cõi ngũ uẩn thì có đủ 3 pháp này, ở cõi Vô sắc chỉ có tâm và tâm sở. Ở cõi Vô tưởng chỉ có sắc pháp.
Khi pháp nội phần bị tâm biết, khi ấy là cảnh nội phần.
Như một người biết mắt mình tinh tường hay bị lờ mờ, tai thính hay bị lảng ... hay biết tâm mình là tâm sân, tâm tham...
Chi pháp cảnh nội phần là: tâm + tâm sở + sắc pháp trong thân.
Biết cảnh nội phần có 62 tâm biết là:
- Biết nhất định có 6 tâm = 3 tâm Thức vô biên xứ + 3 tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- Biết bất định có 56 tâm = 54 tâm Dục giới + 2 tâm Thông.
Trường hợp ngũ song thức biết cảnh nội phần là : Mắt thấy tay chân mình, hay tai nghe chính âm thanh mình, mũi ngửi mùi nơi thân mình...
154 - Hỏi. Cảnh ngoại phần (bahiddhārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh ngoại phần là gì? Có bao nhiêu tâm biết cảnh ngoại phần?
Đáp. Pháp ngoại phần là những gì “ở ngoài thân chúng sinh”, tức là tâm + tâm sở + sắc pháp ở ngoài thân.
Pháp ngoại phần khi bị tâm biết, trở thành cảnh ngoại phần.
Chi pháp cảnh ngoại phần là : Tâm + tâm sở + sắc pháp ở ngoài thân.
Biết cảnh ngoại phần có 114 tâm là:
- Biết nhất định có 58 tâm = 15 tâm Sắc giới + 3 tâm Không vô biên xứ + 4o tâm Siêu thế.
- Biết bất định có 56 tâm = 54 tâm Dục giới + 2 tâm Thông.
155 - Hỏi. Vì sao 15 tâm Sắc giới, 3 tâm Không vô biên xứ và tâm Siêu thế biết cảnh ngoại phần nhất định?
Đáp. Thật ra các pháp Chế định và Nípbàn không thể gọi là “cảnh nội phần” hay “cảnh ngoại phần” được.
Nípbàn là trạng thái tịch lặng, vượt ra ngoài pháp hữu vi, trong khi chi pháp của cảnh ngoại phần là pháp hữu vi ở ngoài thân. Nên không có pháp Nípbàn ở đây.
Nípbàn không thể nói “trong thân” hay “ngoài thân”.
Tuy có 3 loại Nípbàn là “không tánh Nípbàn”, “Vô tướng Nípbàn”, “Vô nguyện Nípbàn”. Đó chỉ là “nương theo ba tường mà định danh cho dễ nhận thức, chứ không phải có 3 loại Nípbàn; Nípbàn chỉ có một.
- Không tánh Nípbàn (suññatanibbāna). Là người thực hành pháp quán tướng Vô ngã của danh sắc chứng đắc đạo quả.
- Vô nguyện Nípbàn (appanihitanibbāna). Là người thực hành pháp quán tướng Khổ của danh sắc chứng đắc đạo quả.
- Vô tướng Nípbàn (animittanibbāna). Là người thực hành pháp quán tướng Vô thường của danh sắc đắc Đạo quả.
Ba tướng này do nương nơi danh sắc mà có, xuyên qua được 3 tướng này Nípbàn mới hiển lộ.
Tương tự như thế với pháp Chế định, tức là do nương theo danh sắc nơi thân mới đạt tên là “mắt”, “tai”, “mũi”.... Do nương theo vật thể bên ngoài mà đặt tên như “núi”, “sông”...
Nói cách khác, Nípbàn và Chế định không rõ ràng là “trong hay ngoài thân”. Nên chi pháp cảnh nội phần, cảnh ngoại phần, không đề cập đến Nípbàn và Chế định.
156 - Hỏi. Cảnh nội ngoại phần (ajjhattabahiddhārammaṇa) ra sao? Chi pháp cảnh nội - ngoại phần là gì? Bao nhiêu tâm biết cảnh nội ngoại phần?
Đáp. Pháp nội - ngoại phần là sự giao tiếp giữa “bên trong và bên ngoài”. Như mắt (nội phần) chạm với sắc trần (ngoại phần) phát sinh nhãn xúc; nhãn xúc là pháp nội - ngoại phần, nhãn thức là pháp nội - ngoại phần...
Khi những pháp này bị tâm biết chúng là cảnh nội - ngoại phần.
Chi pháp cảnh nội - ngoại phần cũng là tâm + tâm sở + sắc pháp.
Có câu hỏi: Sắc pháp là sắc nội - ngoại phần ra sao?
Như dưỡng tố của vật thực bên ngoài chẳng hạn, khi được cơ thể dung nạp để nuôi dưỡng sắc Mạng quyền, bấy giờ dưỡng tố (ojā) ấy trở thành sắc nội (có nguồn gốc là ngoại phần).
Hay chất kích thích tố nam, chất kích thích tố nữ bên ngoài, trước tiên chỉ là sắc thời tiết (utujarūpa), nhưng khi xâm nhập vào cơ thể chúng làm biến dạng một số cơ quan trong thân, bấy giờ chúng trở thành sắc nội phần (có nguồn gốc là ngoại phần) ... Gọi chung là sắc nội- ngoại phần.
Biết cảnh nội-ngoại phần có 56 tâm = 54 tâm Dục giới + 2 tâm Thông.
Tất cả những tâm này đều biết cảnh nội - ngoại phần bất định.
157 - Hỏi. Cảnh nghiệp (kammārammaṇa), cảnh nghiệp tướng (kammanimittārammaṇa), cảnh thú tướng (gatinimittārammaṇa) trong tâm hữu phần thuộc cảnh nào trong 21 cảnh nào?
Đáp. Trước khi tục sinh, chúng sinh ở giai đoạn cận tử sẽ thấy 1 trong ba cảnh : Cảnh nghiệp, cảnh nghiệp tướng và cảnh thú tường.
Khi tục sinh, tâm Tục sinh sẽ nhận lại 1 trong ba cảnh ấy, sau tâm tục sinh là tâm hữu phần, tâm hữu phần cũng nhận 1 trong ba cảnh ấy như tâm tục sinh.
Một trong ba cảnh ấy là cảnh pháp, hoặc cảnh quá khứ (là cảnh nghiệp, cảnh nghiệp tướng) hay cảnh vị lai ( cảnh thú tướng).
158 - Hỏi. Ngũ song thức biết bao nhiêu cảnh?
Đáp. Mỗi đôi thức biết 7 cảnh, như nhãn thứcc chẳng hạn:
Nhãn thức biết được 8 cảnh là: Cảnh sắc, cảnh hiện tại, cảnh sắc pháp, cảnh dục giới, cảnh Chân đế, cảnh nội phần, cảnh ngoại phần, cảnh nội ngoại phần.
Tương tự như thế với 4 đôi thức: Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức.
Chỉ thay cảnh sắc bằng cảnh tương ứng với thức như cảnh thinh đối với Nhĩ thức, cảnh mùi đối với Tỷ thức ....
159 - Hỏi. Ý giới biết mấy cảnh?
Đáp. Ý giới (gồm 3 tâm : Hướng ngũ môn + 2 tâm Tiếp thu) biết được 13 cảnh:
- Năm trần cảnh, cảnh ngũ, cảnh hiện tại, cảnh sắc pháp, cảnh dục giới, cảnh chân đế, cảnh nội phần, cảnh ngoại phần, cảnh nội ngoại phần.
160 - Hỏi. Tâm Siêu thế biết được mấy cảnh?
Đáp. Tâm Siêu thế biết được 5 cảnh là: Cảnh Nípbàn, cảnh chân đế, cảnh ngoại thời, cảnh pháp và cảnh danh pháp.
Biết cảnh ngoại phần là bất định.
161 - Hỏi. Ba tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ và ba tâm Thức vô biên xứ, mỗi tâm biết bao nhiêu cảnh?
Đáp. Ba tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ và ba tâm Thức vô biên xứ.
Mỗi tâm biết được 6 cảnh: Cảnh pháp, cảnh danh pháp, cảnh chân đế, cảnh đáo đại, cảnh quá khứ, cảnh nội phần.
162 - Hỏi. Ba tâm Vô sở hữu xứ biết được bao nhiêu cảnh?
Đáp. Ba tâm Vô sở hữu xứ biết được 3 cảnh: Cảnh pháp, cảnh chế định, cảnh ngoại thời.
163 - Hỏi. Ba tâm Không vô biên xứ và 15 tâm Sắc giới biết được bao nhiêu cảnh?
Đáp. Ba tâm Không vô biên xứ và 15 tâm Sắc giới, mỗi tâm biết được 4 cảnh: Cảnh pháp, cảnh chế định, cảnh ngoại thời, cảnh ngoại phần.
164 - Hỏi. Vì sao 3 tâm Không vô biên xứ biết cảnh ngoại phần, trong khi ba tâm Vô sở hữu lại không biết?
Đáp. Tuy ba tâm Không vô biên xứ và 3 tâm Vô sở hữu xứ đều biết cảnh chế định, nhưng:
- Chế định của Vô sở hữu xứ là chế định do nương theo thức vô biên xứ. Tức là vị ấy suy nghĩ “thức này không có nơi trú”, rồi niệm tưởng “vô sở hữu xứ”, mà “thức Vô biên xứ” lại ở bên trong.
Còn chế định của tâm Không vô biên xứ phải nương từ “ấn tướng thiền Sắc giới.
Như Kinh văn: Sabbaso rūpa saññānaṃ samatikkamā paṭigha saññānaṃ atthagamā nānatta saññānaṃ amanasikārā, “Ananto ākāso” ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati”.
“Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng đối nghịch, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy tư "không gian là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ” [34] .
Mà “sắc tưởng” ở bên ngoài thân.Do đó, 3 tâm Vô biên xứ biết được cảnh ngoại phần, còn 3 tâm Vô sở hữu xứ thì không.
165 - Hỏi. Tâm Đại thiện có trí, tâm Đại tố có trí, tâm Hướng ý môn và 2 tâm Thông biết được bao nhiêu cảnh?
Đáp. Mỗi tâm biết được 21 cảnh tùy theo từng trường hợp.
Tâm Thông biết được cảnh Nípbàn đó là Sinh tử thông của bậc Thánh hữu học và bậc Vô học.
Như Đức Phật xác nhận vị Thánh Alahán Godhika viên tịch...
- Tâm Hướng ý môn biết cảnh Nípbàn trong lộ nhập thiền quả.
- Tâm Đại thiện có trí và Đại tố có trí biết cảnh Níp bàn trong lộ “phản khán Nípbàn”.
166 - Hỏi. Tâm nào biết được 20 cảnh?
Đáp. Tâm biết được 20 cảnh là: 12 tâm bất thiện + 4 đại thiện ly trí + 4 đại tố ly trí, những tâm này không biết cảnh Nípbàn, thành ra biết 20 cảnh.
167-Hỏi. 11 tâm Na cảnh và tâm Sinh tiếu biết được bao nhiêu cảnh?
Đáp. 11 tâm Na cảnh và tâm Sinh tiếu biết được 17 cảnh = 21 cảnh – (cảnh Nípbàn + cảnh đáo đại + cảnh chế định và cảnh ngoại thời).
168 - Hỏi. Mỗi tâm sở biết được bao nhiêu cảnh?
Đáp. *- 13 tâm sở biến hành + 19 tâm sở tịnh hảo biến hành + tâm sở Trí biết đủ 21 cảnh nhưng bất định.
*- 13 tâm sở bất thiện (trừ tâm sở Tật) không biết cảnh Nípbàn, biết 20 cảnh nhưng bất định.
*- Tâm sở Tật là “ganh tỵ với hạnh phúc của người khác”, do đó biết cảnh ngoại phần nhất đinh.
Còn 19 cảnh còn lại (trừ cảnh Nípbàn) thì biết bất định.
*- Ba tâm sở Ngăn trừ phần biết 20 cảnh (trừ cảnh quá khứ), trong đó biết cảnh chân đế là nhất định, còn 19 cảnh còn lại là biết bất định.
*- Tâm sở Bi và tâm sở Tùy hỷ biết nhất định 4 cảnh là: cảnh pháp, cảnh chế định, cảnh ngoại thời và cảnh ngoại phần.
Dứt cảnh hợp đồng.
-ooOoo-
[22] - Đại trưởng Lão Nārada (Ô. Phạm Kim Khánh dịch) – Vi diệu pháp toát yếu; tr.220.
[23] - Đại Đức Giác Chánh; Vi diệu pháp nhập môn, tr. 112.
[24] - Tất cả pháp là: Tâm + tâm sở + sắc pháp + Nípbàn + chế định (sammuti).
[25] - 54 tâm Dục giới trừ đi (5 đôi thức + 3 ý giới) = 41 tâm. Mỗi đôi yhức chỉ biết 1 cảnh, 3 ý giới chỉ biết 5 cảnh.
[26] - Tám tâm quả Dục giới hữu nhân còn được gọi là tâm Đại quả (mahāvipākacitta).
[27] - 15 tâm thiền Sắc giớin + 3 tâm Không vô biên xứ + 3 tâm Vô sở hữu xứ = 21 tâm. Những tâm này chỉ biết cảnh Chế định.
[28] - Xem Tỳkhưu Chánh Minh – Quy trình tâm pháp.
[29] - D.iii, kinh Đại bát Nípbàn.
[30] - 4 tâm Đại thiện có trí + 4 Đại tố có trí.
[31] - Thọ, tưởng, hành, thức là danh pháp hữu vi, Nípbàn là danh pháp vô vi. Tuy chế định (sammuti) cũng là danh pháp vô vi nhưng không có thực tính pháp, nên không kể vào đây.
[32] - Dhp- kệ ngôn số 277.
[33] - A.i, 23. Phẩm người tối thắng.
[34] D.iii, kinh Đại viên tịch (Mahāparinibbānasuttaṃ) . A.i, 267. Kinh Không vô biên xứ
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.