Ăn Chay
Sự ăn chay phát xuất từ Ấn Độ, do hai nguồn gốc:
- Tập quán dùng lê hoát của người Ấn Độ, thuộc dòng Bà-la-môn, chiếm độc quyền làm trung gian giữa thần Bà- la-môn và ba giai cấp dưới (võ sĩ, thương gia, nô lệ) trong việc cầu đảo cúng tế.
- Lời thỉnh cầu của Devadatta (Đề-bà-đạt-ta) để lên xin Phật Gotama bắt buộc các thầy tỳ khưu trong Phật giáo ăn toàn đồ lê hoát trọn đời49. Phật Gotama không phê chuẩn, nhưng chịu để cho tín đồ tùy thích bố thí50.
Sự ăn chay của dòng Bà-la-môn là một quy luật lưu truyền từ thượng cổ, nên họ coi như là một thói thường, không có tính cách quan trọng. Đề nghị của Đề-bà-đạt-ta dựa theo tục lệ trên để chứng tỏ rằng người tu trong Phật giáo cũng thuộc dòng cao thượng như dòng Bà-la-môn51 .
Một số dòng đệ tử của Phật là người thuộc dòng Bà- lamôn. Ngoại trừ những bậc đắc đạo quả và những người xin nhập môn với chí nguyện giải thoát, có nhiều hạng giả dạng tu hành để tìm cách tái lập uy tín của đạo Bà-la-môn, hoặc để nuôi mạng, trong khi đạo giáo của họ bị dân chúng phế bỏ. Các hạng tỳ khưu không mục đích chơn chánh ấy, tạm thời buộc lòng ở dưới hệ thống Tăng già, nhưng lòng họ vẫn không khâm phục Phật Gotama, hằng chờ cơ hội gieo mầm móng của đạo họ trong tư tưởng tứ chúng, hầu ngày kia lật đổ Phật giáo, như đã có giải nơi chương Lịch sử (quyển 1). Chính các thầy Bà-la-môn trá hình nói trên đã làm hậu thuẫn cho Đề-bà-đạt-ta khuấy nhiễu Phật nhiều khi, và cũng chính họ đem thuyết ăn chay thay thế cho giới luật Tân Tiến sau khi Phật Gotama tịch diệt.
Một thói quen muôn phần dễ dàng hơn giới luật nghiêm khắc, ai lại không hoan nghinh. Với cái khẩu hiệu “Ăn chay để cử sát sanh và nuôi lòng từ bi đối với muôn loài vạn vật” ai lại không mê thích. Như có mấy ai biết rằng, mỗi khi tế thần, các thầy Bà-la-môn giết bao nhiêu sanh vật, như cừu, dê, trâu, bò và đồng nam đồng nữ, mà không gớm tay. Thầy Huyền Trang, khi qua Ấn Độ thỉnh kinh, cũng suýt bị họ làm thịt cúng thần Durga, tại Prayaga (hiện giờ là Allahabad), trên sông Găng.
Người Bà-la-môn từ già đến trẻ, cả vợ lẫn chồng, đều ăn chay, mà lòng họ mấy chay? Ta nên biết rằng lòng từ bi, cũng như tinh thần siêu việt, không phải ở trong chỗ “ăn”. Nói cho rõ hơn, cái ăn chẳng phải phương pháp rửa tâm. Tâm tối mê ví như nước đục, dùng lê hoát lóng cho nước trong, nước không bao giờ trong được. Tâm là vật vô hình, thân khẩu là chỗ của tâm biểu hiện. Không dùng giới luật để câu thúc thân khẩu, biết tâm đâu mà chế ngự? Vì đó mà Phật Gotama đặt ra những điều răn cấm, để cho chúng ta kiềm chế thân khẩu, hầu gián tiếp sửa trị tâm, không cho tự do hành động, nhất là duyên theo điều ác.
Như ta đã từng thấy, trong phương diện nào các thầy Tân Tiến cũng muốn tỏ ra rằng họ giỏi hơn Phật. Thử hỏi người tu Phật chơn chánh, muốn tìm đường giải thoát, nghĩ thế nào? Đại thừa Phật giáo mà chúng ta hấp thụ từ Ấn Độ, Trung Hoa, Cao Ly, Nhựt Bổn, hiện giờ ở trong tình trạng nào? Chúng ta có nên đeo đuổi theo tập quán “bỏ giới chấp chay” không?
Theo tục lệ xưa nay, cư sĩ chúng ta có 4 cách ăn chay: 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày và trường chay. Bậc xuất gia, lẽ thì trường chay, nhưng có nhiều thầy cũng giữ 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày như cư sĩ. Không có thói quen như người Bà-lamôn, nên chúng ta xem sự ăn chay như một việc quan trọng đặc biệt. Gặp nhau, muốn biết ai tu cao, tu thấp, người ta thường gợi chuyện ông hay bà ăn chay mấy ngày trong tháng? Đây là cái hãnh diện mà người Phật tử Việt Nam hay bộc lộ trong câu chuyện hàn huyên, làm cho mất vẻ lịch sự và thương tổn đức tánh khiêm tốn của con nhà Phật. Ngoại trừ những người có khấn vái để cầu xin một ân huệ chi, hoặc những người bị bịnh phải kiêng cử đồ mặn, hàng Phật tử lấy sự ăn chay làm thước đo lường trình độ tiến hóa trong việc tu hành. Ngày ăn chay là một ngày lành, bởi trong ngày ấy ai ai cũng cố gắng kiêng cử điều ác. Kiêng cử là tạm ngưng, chớ không phải dứt bỏ, để ngày mai tiếp tục lại đường lối cũ. Trong một tháng 30 ngày, trừ ra 2, 6, 10 ngày kiêng cử, còn lại 28, 24, 20 ngày tự do. Tự do chài lưới, săn bắn, tự do cắt cổ gà, vịt, cũng tự do gian xảo, dối trá, lường gạt, cấu xé. Thậm chí cho đến người trường chay cũng ganh tị, thù hiềm, láo xược, tham lam, tranh quyền, cướp lợi, khẩu Phật tâm xà. Dẫu sao cư sĩ chúng ta cũng còn phàm, có thể châm chế cho nhau. Vì sự nuôi sống, chúng ta còn phải lăn lóc với đời, sao khỏi ô nhiễm. Tiếc một điều là trên sân khấu chính trị, chúng ta rất đau lòng gặp các ông Hòa thượng, Pháp sư, Thượng tọa, khoác áo cà sa đứng ra làm trò cười cho muôn miệng. Muốn giải thoát ra ngoài khuôn khổ giới luật, Phật pháp suy đồi đến mức diệt vong, mà môn đệ của các vị đại đức ấy vẫn thản nhiên, lấy đó làm vinh dự.
Phần đông cư sĩ chúng ta lại là người thường hay cung cấp súc vật cho đồ tể. Nhà nào lại không nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, để ăn trong mấy ngày mặn và bán kiếm chút huê lợi. Có chùa trong thôn quê cũng nuôi gà, vịt để lấy trứng, và có khi cũng để ăn, nếu ông trụ trì chưa trường chay được. Trong ngày chay, nếu gặp tôm, cá, gà, vịt, chúng ta vẫn có thể mua rộng, nhốt để dành qua ngày khác. Những người mê tín lỡ khấn vái ăn chay, không dám bỏ qua, sợ thần linh quở phạt, ngày chay là một ngày khổ sở của họ. Ăn chay không vô, trời vừa sụp tối, họ đã ngả mặn rồi. Người có tâm đạo, nhất là các cụ ông cụ bà, hết sức kỹ lưỡng trong món ăn. Bếp núc, nồi niêu, chén bát đều để riêng biệt, không ai được phép trộn lộn với đồ dùng ăn mặn. Cách kiêng cử tinh nghiêm như thế ấy thật là hoàn toàn. Nhưng đôi khi, vì quá tin lời truyền dạy của thầy tổ, các cụ phải chứng minh cho người nhà cắt cổ gà cổ vịt hoặc thọc huyết heo trong ngày đơm quảy. Để chi? Để tụng bảy biến vãng sanh cầu siêu cho những con vật bị giết. Thầy tổ đã có nói rằng hạ trâu ngã bò để báo hiếu, hoặc cúng tế thần linh, không có tội lỗi chi cả. Chính đây là phong tục của Bà-la-môn giáo. Tin rằng giết thú để cúng thần, đã không tội lại còn có phước, các thầy Tân Tiến đã sửa luật nhân quả của Phật dạy, theo tín ngưỡng của Bà-la-môn.
Chơn lý ở chỗ nào? Từ cái mâu thuẫn này, chúng ta bị dẫn dắt đến cái mâu thuẫn khác, mà chúng ta vẫn thản nhiên, không quan tâm suy xét.
Giới Luật
- Bây giờ xin hỏi người giữ ngũ giới có nên ăn chay không?
- Ăn thì quý lắ́m, nhưng chớ nên cố chấp đó là đồ chay, mà không ăn cũng không sao.
- Vậy là chỗ nào gọi là cử sát sanh?
- Tự mình không giết, không xúi biểu kẻ khác giết, không nghe không thấy người ta giết cho mình ăn.
- Chớ người ta giết cho mình ăn, mặc dầu không xui biểu, cũng không mang tội đồng lõa, bởi có mình ăn mới có người giết?
- Tâm không gây nhân, quả không chỗ sanh. Nghiệp không tạo, tội không do đâu mà báo ứng.
- Tâm ưa thích thịt cá, thân đi mua về ăn, sao gọi không gây nhân?
- Tâm vẫn bình đẳng, không chấp chay, cũng không thiên mặn, đây chỉ là thói quen của vật chất đòi hỏi.
- Có tâm dung túng chấp thân, nên sự đòi hỏi của vật chất mới được thỏa mãn chớ!
- Đúng như vậy, nhưng tâm đâu có chủ trương giết, hoặc xúi quẩy kẻ khác giết; tai không nghe, mắt cũng chẳng thấy. Cả thân lẫn tâm không vi phạm một điều kiện khinh trọng nào trong giới sát sanh kia mà.
- Không phạm, nhưng đã thấy biết thịt cá, mà còn nhẫn tâm ăn vào, thì lòng từ bi của người Phật tử ở chỗ nào?
- Tín đồ đã bị đầu độc nhiều rồi, giờ này mà còn đem cái từ bi giả dối ấy ra làm quảng cáo không ai tin đâu. Từ bi đối với chúng sanh đương bay đương chạy, không nỡ giết bỏ để nuôi mạng. Đó là từ bi thật sự. Còn từ bi đối với miếng thịt, khứa cá, là từ bi dối trá, từ bi ngoài miệng của người bị nhồi sọ. Tu hành, trong giới sát sanh, chưa biết Phật dạy những gì, mà muốn tỏ ra mình hơn Phật.
- Phi lý: Phật dạy kiêng cử thịt, cá, người ăn thịt cá là người cãi lời Phật. Cãi lời Phật, tức là muốn hơn Phật đó vậy.
- Phật dạy cử giết, chúng ta cử ăn, ấy mới phi lý. Phật dạy
giữ năm giới, chúng ta không giữ một giới nào, ấy mới hơn Phật.
- Ăn chay không phải giữ giới hay sao?
- Đã nói rằng “ăn” không phải giới. Không thấy đem “giới” ra nói chuyện, cứ đem cái “ăn” ra bàn hoài không rồi.
- Vậy chớ sao, nó là vấn đề căn bản mà.
- Phải, nó là vấn đề sanh tử của dạ dày, nào phải vấn đề cần thiết của giải thoát. Chỉ có cái nghệ thuật “ăn” mà quanh năm quẩn tháng giải quyết không xong.
- Đề mục “thịt cá” tham khảo chưa dứt khoát, nên muốn bàn cãi cho ra lý do thôi.
- Nên tìm những hành giả đã tu chứng được cái quả “từ bi” mà hỏi thì ra ánh sáng.
- Nghe nói họ lấy thịt và cá làm đề mục để trước mắt, rồi quán tưởng cho thấy con thú bị cột trói khiêng đến lò thịt, bị hành huyết kêu la thảm khổ rồi bị phân thây xẻ thịt đem đi bán, hoặc thấy con cá đương tự do bơi lội dưới nước, kế bị mắc câu, kéo lên bờ, ngột thở giãy giụa rồi chết. Thấy cảnh tượng đau khổ như vậy, lòng từ bi vô lượng phát sanh lên, từ đó đến sau họ không nỡ ăn thịt cá nữa. Mình cũng muốn kinh nghiệm như họ, ngồi trước mâm cơm cũng ráng sức quán tưởng, không thấy từ bi ứng hiệu chút nào, trái lại mùi vị thịt cá xông lên thơm mũi, bắt trớn nịch đầy bụng rồi lại thấy thỏa mãn là khác.
- Tại mình tu thấp, chưa biết nghệ thuật ăn chay.
- Ăn chay mà cũng có nghệ thuật nữa sao?
- Bữa nào chịu khó lẽn vô hậu liêu, chỗ mà hành giả quán tưởng mỗi ngày cho biết, hay là đột nhập vào bếp của mấy ông pháp sư tại gia thì sẽ thấy mánh lới nhà nghề của họ.
- Cơ mưu đã bại lộ, hèn chi các sư cụ giảm phần thuyết minh về sự ăn chay, giao phó trách nhiệm lại cho cư sĩ trổ tài thuyết phục tín đồ. Càng đi xâu vào đạo, càng gặp mâu thuẫn trong lời nói và hành vi của các ông đại cư sĩ pháp sư. Nếu chay miệng không đem lại chay lòng chay đức, có lẽ trai giới có lợi ích hơn, nhưng cũng có lẽ khó thực hành?
- Nói đến giới đã thấy lo sợ khó rồi đó thấy chưa? Người ăn chay trường có thể tránh được tội sát sanh thôi. Người giữ giới tránh cả các thứ tội. Đường vào địa ngục còn rộng mở cho người trường chay, nẻo đến thiên đàng là giới luật của hàng Phật tử.
- Trường chay còn sa địa ngục, mà người giữ giới còn ăn thịt cá cũng đi thiên đàng được sao?
- Người trước không thể sánh với người sau, bởi họ sợ giới mà không sợ bốn đường ác đạo. Người sau hơn người trước, bởi họ nhờ giới để ngăn ngừa tội lỗi. Người trước chay trong lý thuyết, người sau chay theo thực tế.
- Thực tế trong chỗ ăn mặn phải không?
- Thực tế trong chỗ không quanh quẩn, không miệt mài trong cái ăn, không tự đắc với cái ăn, mà trầm tĩnh trong chỗ trau dồi thân khẩu. Tu không lo cứ lo tranh chấp hoài về cái ăn, nói đã khô nước miếng mà câu chuyện ăn cũng vẫn không rồi. Bao giờ chúng ta phá được cái chấp, thì vấn đề “ăn” mới có thể chấm dứt được.
- Vì chúng ta còn ăn mặn, ít nhất cũng 20 ngày trong tháng, nên vẫn còn thắc mắc, hoài nghi đó thôi. Giải thích cho xuôi vấn đề ăn mặn thì cái chấp kia mới không tồn tại.
- Tu cốt để phá chấp, mà cả thầy lẫn trò chúng ta, mặc dầu đại đa số cũng không dứt bỏ nổi cái mặn, cứ bám chặt vào lý thuyết chay, nghĩ thật buồn cười. Đức Phật đã phá chấp cho Đề-bà-đạt-ta, mà ông này vẫn ngoan cố, chúng ta tài nào thức tỉnh môn đệ của ông.
Để chấm dứt câu chuyện ăn mặn, xin trình bày một vài ngu kiến:
Nên nhớ rằng nghiệp dữ nghiệp lành đều do tâm tạo ra. Các đồ tể và các bạn hàng tôm, cá, vì quyền lợi cá nhân mà họ phải giết hại thú vật để bán kiếm lời. Họ giết nhiều, giết ít tùy theo nhân số của hai hạng người tiêu thụ: một hạng chẳng bao giờ lập tâm tính trước phải ăn món chi trong ngày, chờ ra chợ gặp gì mua nấy. Người vô tình, tức là vô can, vô tội. Hạng khác thường lập sẵn một đơn vị trong ngày, bằng chẳng vậy, nếu thích món chi, họ cố tìm kiếm cho ra món ấy, với giá nào cũng mua được, và nếu kiếm không ra, họ đòi hỏi bạn hàng: nay không được thì mai cũng có cho họ dùng. Cố ý như hạng này, tức là đồng lõa, cố sát.
Một đàng gặp chi ăn nấy, dầu thịt, cá, lê hoát, không cố chấp đây mặn, kia chay và xem các món thức ăn ấy như vật chất bên ngoài để bồi thường vật chất bên trong, đủ sống ngoài vòng tội lỗi, sống theo trung đạo của giới luật. Đằng khác lại phân biệt gắt gao chay với mặn. Khi ăn chay họ ăn toàn đồ lê hoát, lúc ăn mặn họ mạnh dạn đòi hỏi hoặc giết heo, bò, gà, vịt. Lắm khi bề ngoài họ thiên về chay, bề trong họ ngã qua mặn, cho nên đồ chay cũng có tên, nào là cá hấp, mấm ruột, sườn xào, tôm kho v.v... Tóm lại họ sống trong lợi dưỡng, sống ngoài khuôn khổ giới luật, nên họ thành người cực đoan. Vì đó mà chay họ cũng chấp, mặn họ cũng chấp. Hai cái chấp đã ăn sâu vô xương tủy trí óc, hết còn xét đoán được phải quấy, chánh tà. Cho nên đức Phật có nói rằng: số người đi về nhàn cảnh sánh như sừng bò (có 2); số người sa ác đạo sánh như lông bò (vô số kể). Tới đây đã cạn lời xin chấm dứt vấn đề “ăn”.
Bây giờ xin bàn qua câu chuyện “Tu”.
Pháp Bửu Đàn kinh chép rằng tại Thần Tú phá rối nên y bát chơn truyền đã thất lạc mất hết rồi. Theo luật Phật, lúc xuất gia, giới tử phải sắm y bát để dùng, khi y rách phải đổi cái khác. Không lẽ mỗi vị Tổ sư chỉ sắm có một bộ y và một cái bát để dành chờ đến tuổi già giao phó lại cho vị Tổ khác, rồi trọn đời Tổ ấy mặc cái chi? Có phải tại Lục Tổ không truyền y bát, nên các nhà sư Thiền tông bây giờ không dùng y bát nữa chăng? Còn nếu nói thất chơn truyền có nghĩa là không còn ai truyền tâm pháp, thì sao lại còn người tu theo Thiền tông?
Trong các tông khác, như: Câu Xá, Thành Thật, Duy Thức, Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tịnh Dộ...có anh Thần Tú nào sang đoạt, hà tất cũng mất y? Mất y bát tức là mất tăng tướng. Mất tăng tướng nên không còn tỳ khưu, tỳ khưu ni, sa di, sa di ni. Mất người có phận sự bảo tồn và duy trì Chánh pháp có nghĩa là mất cả một sự nghiệp “Giải thoát” của Phật Gotama di truyền.
Còn một điều khó hiểu nữa là: Trong giới tu sĩ còn một đôi chỗ cũng làm lễ xuất gia tỳ khưu và tỳ khưu ni theo hệ thống Nguyên Thủy. Giới tử sắm y bát đến xin thọ cụ túc giới. Các vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ nhóm lại tổ chức một buổi lễ long trọng. Các thầy tế độ, chứng minh, không có tam y, không còn tăng tướng, mà còn mạnh dạn đứng ra tuyên ngôn truyền y bát cho giới tử. Xong cuộc lễ xuất gia linh đình ấy, các thầy thâu y bát lại giấu mất, không cho môn đệ họ sử dụng và nói rằng: tại nhà ngươi muốn, chúng ta làm cho có lệ, chớ thời buổi này ai còn xài thứ đó nữa, nhà ngươi không thấy sao?
Ai có đọc luật xuất gia rồi, xem diễn tuồng ấy mới thấy hay dỡ. Trên Bửu điện, các vị Cổ Phật nghiêm nghị làm thinh, dưới một màu sắc phục như các thầy; dòm qua tượng ông Giáo chủ Thích Ca, dưới bộ cà sa vàng, thấy Ngài thản nhiên nhít miệng cười. Một nụ cười rất sâu kín, để cho người Phật tử, tùy trình độ, xét đoán ý nghĩa của buổi lễ xuất gia kia. Hèn chi đức Phật có nói: Đến lúc Phật pháp suy vong, các thầy tu chỉ còn có một chéo vải vàng vắt trên mép tai, để phân biệt là người xuất gia. Hiện giờ ở Nhựt Bổn, có nhiều ông Đại đức mặc âu phục, có choàng một sợi dây băng cho mọi người biết đó là ông thầy tu; thầy tu có vợ có con như người thế. Có lẽ ngày kia sư của chúng ta cũng đến đó.
Khi mất tăng tướng rồi, các nhóm tu sĩ có được gọi là Tăng già không? Ông Thái Hư Pháp sư, một vị Hòa thượng Trung Hoa danh tiếng nhất và đã có giúp một phần công tác đắc lực cho Chánh phủ quốc dân trong trận giặc vừa qua, nói được. Vượt khỏi mức Tân Tiến, không còn phân biệt xuất gia tại gia, ngài cho rằng mỗi nhóm, từ 4 trở lên, đồng tâm hiệp lực, phục vụ cho Phật pháp, (hoặc cho một chủ nghĩa xã hội nào) là Tăng già. Thành ra trong giới tu Phật của ta, tục cũng như Tăng, mà Tăng cũng như tục.
Theo Phạn ngữ Pāḷī, chữ Saṅgha (tăng-già) là một danh từ riêng biệt có nghĩa là một nhóm thầy tỳ khưu từ 4 vị trở lên, ăn theo Phật, mặc theo Phật, ở theo Phật, đủ tư cách thay thế cho Như Lai, để bảo tồn giáo pháp của Phật di truyền. Saṅgha là ngôi thứ ba trong Phật giáo, rất tôn nghiêm tối trọng, đã bị ông Thái Hư Pháp sư bắc thang cho tín đồ lên chiếm mất. Vì tham vọng muốn lôi kéo tín đồ làm hậu thuẫn cho một chủ nghĩa chánh trị, ông tôn họ lên ngang hàng với Tăng bảo, cho nên Phật pháp ở Trung Hoa bị tiêu diệt, mà ông cũng cùng chung một số phận. Vô tình ông lây ảnh hưởng cách mạng tôn giáo đến Việt Nam, cho nên có nhóm cư sĩ cũng tự xưng là Tăng già. Hành vi của giới này, xét lại cũng hạp thời, bởi trình độ học thức và hạnh kiểm của cư sĩ hiện giờ, chẳng những không thua kém các nhà sư, mà lại có phần trội hơn là khác. Có lẽ ông Thái Hư, khi lìa bỏ thiền môn thanh tịnh, tâm ông đã bị gió trần lung lạc ông cũng tự biết rằng, trong mọi phương diện, ông khác với người thế tục chỉ có cái sắc phục của một nhà tu sĩ thôi.
Nhân loại tiến thì Phật giáo cũng tiến theo, chẳng vậy người ta cho là lạc hậu. Vì đó mà mạnh ai nấy tiến, tiến đến chỗ không còn Phật Pháp Tăng nữa là cùng. Phải chăng đây cũng là một nghệ thuật phá chấp?
Ghi chú:
49 Đề-bà-đạt-đa xin Phật bắt buộc các thầy tỳ khưu trọn đời: Phải ở nơi rừng, khất thực nuôi mạng, ăn chay trường, mặc y phục làm bằng vải vơ lượm nơi tha ma mộ địa, ở dưới cột cây. Vì thấy thói đời hay quý trọng những khổ hạnh, Đề-bà-đạt-đa muốn lợi dụng tâm lý ấy, để tranh giành ngôi Giáo chủ với Phật.
50 Vì đây là cách thức nuôi mạng, chẳng phải phương pháp trau dồi thân khẩu.
51 Phật thường nói người cao quý, do nơi lòng cao quý, chẳng phải vì dòng cao quý.
Trích: Chọn Đường Tu Phật
Soạn giả: Cư Sĩ Nguyễn Văn Hiểu ( Trùng Quang Cư Sĩ)
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.