Biệt Biệt Giải Thoát Thu Thúc Giới (Pāṭimokkha Saṃvarasīla)

Biệt Biệt Giải Thoát Thu Thúc Giới (Pāṭimokkha Saṃvarasīla)

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - THERAVĀDA

    -----

    LUẬT XUẤT GIA TÓM TẮT
    (PABBAJITA VINAYA SAṄKHEPA)

    Quyển thượng

    Soạn giả

    Trưởng Lão Hòa Thượng Hộ Tông
    (Vaṅsarakkhita Mahāthera)

    Pl.2510 – Dl.1966

     

    BIỆT BIỆT GIẢI THOÁT THU THÚC GIỚI (PĀṬIMOKKHA SAṂVARASĪLA)

    I. BỐN ĐIỀU BẤT CỘNG TRỤ (PĀRĀJIKA)

    Biệt biệt giải thoát thu thúc giới nghĩa là giữ đặng 1 giới khỏi phạm 1 tội. Bất cộng trụ nghĩa là không được ở chung với các tỳ khưu khác.

    HÀNH DÂM (METHUNA DHAMMA)

    Tỳ khưu hành dâm phạt Bất cộng trụ. Ðiều học này đức Thế Tôn cấm chế tại xứ Kalanda, gần thành Vesālī, do tỳ khưu Sudinna hành dâm với vợ cũ.

    Chú giải: Tỳ khưu đã thọ Cụ túc giới và nuôi mạng chơn chánh theo các vị khác, rồi chưa xả tam y hoàn tục mà hành dâm, dầu là dâm với súc sanh, cũng phạm bất cộng trụ.

    Tỳ khưu là người đã thọ Cụ túc giới theo chánh pháp của Phật đã khẩu truyền cho tăng chúng thu nhận, rồi hòa hợp tiếp nối tương truyền21 cho nhau bằng lời tụng tuyên ngôn 4 lần (catutthakammavācā) tránh khỏi 5 điều hư hỏng là: hư hỏng vì giới tử (vatthuvipati)22, hư hỏng vì đọc sai giọng Phạn ngữ (natthivipati)23, hư hỏng vì hỏi thiếu (anussavanavipati)24, hư hỏng vì địa phận tăng hành sự phân ranh không đúng phép (sāmāvipati), hư hỏng vì thiếu số tăng (purisavipati)25. Như thế mới gọi là tỳ khưu. Tỳ khưu là người đi xin ăn, là xin được hoặc không cũng vẫn tự nhiên, xin theo thể thức của bậc thánh nhơn. Sớm mai mặc y cho kín mình, mang bát đến đứng trước nhà của thí chủ không kêu gọi xin ngay nơi người nào, cũng không liếc xem thí chủ là người cao, thấp, trắng, đen, mập ốm, trai, gái.

    Tỳ khưu dầu già, trẻ, cao hạ hoặc mới xuất gia, nếu có sự biết mình26, cố ý muốn bỏ tướng mạo tỳ khưu và tỏ lời xả điều học (giới) không nói chơi, không nói lầm lộn, mới gọi là xả điều học. Còn đọc xả điều học có 22 cách, nhưng đây chỉ kể vài câu thường dùng là: sikkhaṃ paccakkhāmi (tôi xin xả điều học), vinayaṃ paccakkhāmi (tôi xin xả luật), gihītimaṃ dhārehi (xin ngài ghi nhớ rằng tôi là người thế), upāsakotimaṃ dhārehi (xin ngài ghi nhớ rằng tôi là người cận sự nam). Tỳ khưu có lòng thiệt xả bỏ điều học đến vị nào, vị ấy được nghe và biết rõ lời xả ấy. Như thế mới gọi là xả điều học.

    Về sự hành dâm (methuna dhamma) là để ngọc hành của mình vào khiếu của người, của thú sống hoặc chết song khiếu chưa rã, hoặc chưa bị thú bươi mổ nhiều chỗ, dầu cho ngọc hành vào bằng 1 hột mè hoặc bằng đầu sợi tóc, vì lòng vui thích, hoặc có kẻ khác dọa dẫm đè ép ngọc hành của mình rồi vui thích trong 4 thời là: lúc để ngọc hành vào, cho ngọc hành vào khiếu, khi vào rồi để đó, rút ngọc hành ra. Hoặc ngọc hành của mình dài rồi đem vào miệng mình, hoặc lưng điệu xuống mút ngọc hành của mình vì lòng vui thích. Những thể cách như thế gọi là hành dâm. Tỳ khưu hành dâm phạm tội bất cộng trụ (pārājika), không được phép hành tăng sự chung cùng các vị tỳ khưu khác.

    30 khiếu phát sanh chỗ hành dâm là: nữ nhơn có 3 khiếu, nữ phi nhơn có 3 khiếu, thú cái có 3 khiếu. Chúng sanh có 2 bộ sanh trược khí: nhơn có 3 khiếu, phi nhơn có 3 khiếu, thú có 3 khiếu, nam nhơn có 2 khiếu, phi nhơn nam có 2 khiếu, thú đực có 2 khiếu, bộ nấp nhơn có 2 khiếu, bộ nấp phi nhơn có 2 khiếu, bộ nấp thú có 2 khiếu. Tổng cộng là 30 khiếu.

    Về phần thú như vầy. Thú không thuộc loại mình dài như rắn. Thủy tộc như cá, rùa v.v... đều có 3 khiếu vừa cho ngọc hành vào, dầu chỉ bằng hột mè hoặc cọng tóc. Như thế là vật của tội bất cộng trụ. Những khiếu nhỏ hơn là vật của tội “tác ác”. Về loại có 2 chân như: quạ, gà v.v..., Thú có 4 bốn chân như thú nhỏ. Nên hiểu là vật của tội “bất cộng trụ” và “tác ác” như đã nói.

    Tỳ khưu có mụt ruồi hoặc lông mọc nơi ngọc hành của mình còn biết sự tiếp xúc, cho vào 1 trong 30 khiếu như đã nói, dầu khiếu ấy mà da và thịt đã lột lở hết, song khiếu còn rõ rệt, nếu có ý muốn, rồi hành dâm thì phạm tội bất cộng trụ. Tỳ khưu có lông hoặc mụt ruồi mọc nơi ngọc hành, không còn biết sự tiếp xúc, cho vào khiếu như đã giải phạm tội tác ác. Nếu các khiếu ấy đã lở hết, dầu hình dạng các khiếu ấy chẳng còn sót, mà tỳ khưu cố ý cho ngọc hành vào nơi ấy phạm “Trọng tội”.

    Tỳ khưu cho ngọc hành vào nhãn môn, nhĩ môn, tĩ môn, và thẹo ghẻ (phạm khí giới) của loài người phạm “trọng tội”. Thẹo ghẻ, lỗ mũi của thú lớn như voi, ngựa, tử thi của loài người bị thú ăn nửa thân mình chưa sình, lưỡi hoặc răng bày ra ngoài miệng, đều là vật của “trọng tội”. Lỗ mắt, lỗ mũi, miệng, ghẻ trong thân loài thú nhỏ không thể cho ngọc hành vào được và khiếu đã lở, trong tử thi của người đã sình, đều là vật của tội tác ác. Tỳ khưu để ngọc hành vào miệng tử thi không đụng các phía, phạm tác ác.

    Những điều giải trên là phần phạm tội. Còn về thể thức không phạm tội trong điều học này là: Tỳ khưu không biết, không vui thích hoặc điên, tâm tán loạn, bị bịnh hôn mê và tỳ khưu phạm đầu tiên hết. Tỳ khưu ngủ quên (mê) có người đến hành dâm mà không hay biết không phạm tội song chẳng vui thích chi cả, như thế gọi là không vui thích không phạm tội. Tỳ khưu điên hoặc có người làm cho tâm tán loạn, tỳ khưu bị bịnh nặng làm cho tâm hôn mê, như thế gọi là hôn mê, không phạm tội. Tỳ khưu hành dâm đầu tiên (trước hết) làm cho đức Thế Tôn ra điều luật cấm chế như tỳ khưu Sudinna phạm tội hành dâm trước hết các tỳ khưu khác, gọi là “người phạm đầu, bị cấm chế” (ādikammika), không phạm tội.

    Lại nữa, điều học không phạm tội bất cộng trụ vì dạy kẻ khác (anāṇattika). Song không khỏi phạm tội tác ác (dukkhata). Có 2 chi: ý tính hành dâm (sevanacittaṃ), cho ngọc hành vào khiếu, tiếp xúc nhằm một chỗ khiếu nào (maggena maggapaṭipādanaṃ). Như thế mới phạm tội bất cộng trụ bằng không đủ 2 chi cũng không phạm tội.

    Ðiều học này có 1 chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) gọi là chỗ sanh tội điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika samuṭṭhāna), nghĩa là phát sanh do thân, và ý 1 chỗ sanh, phạm vì làm (kirayā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm tội vì đời chê trách (lokavajja), phạm do thân nghiệp (kāyakamma), ác tâm (akusalacitta), thọ vui và vô ký (dvivedanaṃ).

    TRỘM CẮP (ADINNĀDĀNĀ)

    Tỳ khưu trộm cắp của người đáng giá 5 māsaka(27) trở lên phạm tội bất cộng trụ. Điều học này đức Thế Tôn cấm chế tại núi Kỳ Xà Quật (Gijjakūta) gần thành Vương Xá (Rājagaha) do tỳ khưu Dhaniya lấy cây của vua Tần Bà Sa (Bimbisāra) đem đi cất tịnh thất.

    Chú giải: Thể thức trộm cắp có 6 là.

    1) Kiện lấy (adiyana): là kiện lấy ruộng vườn, đất của kẻ khác về làm của mình. Trong khi kiện phạm tội tác ác. Khi chủ đất nghĩ rằng: “ta được hay không được” tỳ khưu phạm trọng tội. Khi chủ bỏ hẳn rằng “không còn là của ta nữa” và tỳ khưu quyết định không trả của ấy lại cho họ mới phạm tội bất cộng trụ. Nếu tỳ khưu thầm tính, chỉ dọa dẫm thôi thì chưa phạm bất cộng trụ. Khi nào cả 2 bên là tỳ khưu chắc chắn không trả lại cho chủ và chủ cũng đã định bỏ của ấy không kêu nài, mới phạm tội bất cộng trụ.

    2) Tiếp đem đi (harana): tỳ khưu tiếp (đội, vác) đem của người đi. Nếu cố ý rờ đụng vật (đội) ấy, phạm tội tác ác; mỗi lần rờ đụng làm cho vật ấy cử động qua lại phạm trọng tội; mỗi lần cử động để vật ấy xuống vai hoặc dở hỏng đầu phạm bất cộng trụ; còn về gánh vác trên vai và đem cầm nơi tay cũng kể như đội trên đầu.

    3) Dấu nói ngược (ayaharana): tỳ khưu lãnh của người gởi, khi người chủ đến đòi, tỳ khưu cố ý giấu rồi nói ngược lại rằng: “Ta không biết, ta không có lãnh của người đâu”, cố ý như thế phạm tội tác ác; làm cho người chủ nghi ngờ, phạm trọng tội. Khi người chủ tính bỏ vì không đòi được, và tỳ khưu quyết định không cố ý trả lại, phạm bất cộng trụ(28).

    4) Làm cho đổi oai nghi (iriyapathavikopana): tỳ khưu cố ý trộm cắp đem của cải và người mang của, rồi đuổi người mang của ấy, đi khỏi bước đầu theo ý mình phạm trọng tội, đi khỏi bước thứ nhì phạm bất cộng trụ.

    5) Dời khỏi chỗ (thānācāpana): tỳ khưu tính trộm cắp của để trên khô hoặc trong nước, rồi đụng chạm nhằm, phạm tác ác; làm cho vật cử động tới lui, phạm trọng tội; làm cho vật ấy ra khỏi chỗ, phạm bất cộng trụ.

    6) Qua khỏi chỗ quan thuế tra xét (sanketavitināmana): tỳ khưu biết chỗ quan thuế đi đến chỗ tính không đóng thuế, cố ý rờ đụng cầm lấy vật mà mình đem đi, đánh giá thuế 6 cắc, phạm tác ác; đi bước đầu ra khỏi chỗ quan thuế phạm trọng tội, qua bước thứ 2 phạm bất cộng trụ.

    Lại nữa, tỳ khưu dạy các vị khác đi trộm cắp rằng “ông đi trộm lấy vật ấy”, tỳ khưu dạy phạm tác ác trong lúc dạy. Tỳ khưu đi trộm phân biện rằng của này hoặc vật này, hoặc biết rằng vật khác, rồi đi lấy được theo lời dạy như thế, cả 2 đều phạm tội. Nếu tỳ khưu trộm cắp phân biện rằng vật này hoặc vật khác, rồi trộm được vật khác, ngoài ra vật của tỳ khưu dạy đi ăn trộm và đã nhứt định, như thế tỳ khưu dạy không phạm, tỳ khưu đi trộm phạm bất cộng trụ thôi.

    Tỳ khưu dạy rằng “ông đi trộm của ấy, vật ấy của người kia trong giờ nào, trộm trong giờ ấy”. Như thế, nếu tỳ khưu dạy trộm được theo giờ đã định, cả 2 tỳ khưu đều phạm tội bất cộng trụ trong giờ trộm. Nếu trộm ngoài giờ dạy, tỳ khưu dạy không phạm, tỳ khưu trộm phạm tội bất cộng trụ. Nhiều tỳ khưu rủ nhau đi trộm, chỉ có 1 vị trộm được, cả thảy cũng đều phạm tội bất cộng trụ.

    Tỳ khưu hăm dọa cho người sợ, để lấy của như của bọn trộm cướp, phạm bất cộng trụ. Tỳ khưu đổi thẻ có viết tên vị khác mà thí chủ để trên y đem bố thí; lấy thẻ của người cao giá, hoặc thấp hơn hoặc bằng giá như nhau, để gần của phần mình, tỳ khưu cắm thẻ của mình lên, vì muốn để trong phần của người khác, lấy thẻ của mình hoặc của người, mà chưa đổi thẻ để xuống, phần của người về mình, phần của mình về người thì chưa phạm, khi đổi xong, để thẻ xuống rồi mới phạm bất cộng trụ.

    Lại nữa, tỳ khưu tính trộm của người rồi đi, lúc đi trộm, đi mỗi bước là 1 Tác ác, rờ đụng nhằm cũng phạm tác ác, làm cử động của trộm phạm trọng tội. Đến khi trộm được của đáng giá 1 cắc, phạm tác ác. Nếu của ấy đáng giá hơn 1 cắc trở lên, chưa đến 6 cắc, phạm trọng tội. Của ấy đáng 6 cắc hoặc nhiều hơn phạm bất cộng trụ.

    Lại nữa, điều học trộm cắp này rất sâu xa, vi tế có giải trong luật (sāmantapāsādika). Đây chỉ giải tóm tắt vậy thôi, và chư vị A-la-hán có dạy: điều học này rất cao sâu, khó định nghĩa được. Cho nên khi có người tố cáo tỳ khưu trộm cắp, dầu luật sư có hỏi theo thể thức trộm cắp, nếu thấy cũng không nên vội định tội, nên hỏi đến 5 điều này trước: vật (vatthu), giờ (kāla), xứ (puratesa), giá (agha), dùng (paribhoga). “Vật” là của tỳ khưu trộm, đem vật ấy đến hỏi tra coi, vật ấy có chủ hay không, nếu có chủ, sau khi trộm được, chủ còn thương tiếc hay bỏ. Nếu chủ còn thương tiếc, phải xử theo giá vật trộm, bằng chủ đã bỏ, không nên xử phạm bất cộng trụ. Nếu chủ đòi thì nên trả lại, như thế mới là chơn chánh. “Thời” là lúc trộm vật ấy, có khi của ấy cầm giá, có khi lên giá. “Xứ” là chỗ mà tỳ khưu trộm của được, trộm trong xứ nào, phải xử theo giá trong xứ ấy. “Giá” là giá của vật trộm đã dùng rồi hoặc chưa. Nếu vật ấy người đã dùng rồi thì giá rẻ. Ấy là 5 điều nên tra hỏi trước.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu tưởng là của mình rồi cầm lấy, lấy vì thân thiết với nhau, mượn nhau để dùng, vật ấy của tinh, quỉ hoặc súc sanh, không phải của người lượm ngoài đường là vật không có chủ và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác trộm (sāṇattika) có 5 chi: của người gìn giữ (parapariggahitaṃ); tưởng là của người gìn giữ (parapariggahitasaññitā); của ấy đáng giá 1 bát(29) hoặc cao hơn (garuparikkhāro); ý tính trộm cắp (theyyacittaṃ); đã trộm được theo lẽ đã giải trước (avaharanaṃ). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm bất cộng trụ.

    Điều học này có 3 chỗ sanh gọi là “chỗ sanh tội trộm cắp” (adinnādānā samuṭṭhāna), là tội sanh do: thân-ý, khẩu-ý, thân-khẩu-ý, phạm vì làm (kiriyā), khỏi tội vì tưởng (saññāvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), ác tâm (akusalacitta). Có 3 thọ: thọ khổ (ekāvedanā), thọ vui (dvivedanā), thọ vô ký (tissovedanā).

    GIẾT NGƯỜI (MANUSSA VIGGAHA)

    Tỳ khưu cố ý giết người phạm tội bất cộng trụ.

    Ðiều học này đức Thế Tôn cấm chế tại phước xá(30) có đãnh trong rừng Tuyết sơn, gần thành Vesāli do chư sư sát hại lẫn nhau vì được nghe đức Phật giảng giải sự ô trược và điều khổ của thân ngũ uẩn, rồi tưởng lầm, nên giết lẫn nhau cho hết khổ.

    Chú giải: Tỳ khưu cố ý giết người, dầu là bào chế thuốc uống, đập, đánh, chỉ cách giết, hoặc để khí giới giết người, hoặc giảng lời tặng khen về sự chết rằng: người sống có ích chi, xấu xa, đê hèn, không bằng chết còn hơn, chết sanh về cõi vui hoặc dạy cách chết, là dạy “người nên đâm họng, nên uống thuốc độc...” giải như thế mà người chết trong khi ấy, hoặc lâu ngày mới chết, tỳ khưu phạm bất cộng trụ. Người là vật của bất cộng trụ, không phải người tinh, quỉ (phi nhơn) là vật của trọng tội, thú là vật của ưng đối trị.

    Tỳ khưu dạy người giết có 6 điều: 1) Định giết người: Dạy kẻ nào, người chịu lời đi giết kẻ ấy thì phạm tội cả 2 người (người dạy và người đi giết), nếu giết lầm kẻ khác, người bảo không phạm bất cộng trụ; 2) Định giờ: Nếu người chịu lời, giết ngoài giờ dạy, thì người dạy không phạm bất cộng trụ; 3) Định chỗ: Nếu tỳ khưu dạy giết người ở trong nhà này, nơi khoảng trống kia, mà người chịu lời đi giết ngoài chỗ đã định, thì người dạy không phạm bất cộng trụ; 4) Định khí giới: Dạy người giết bằng đao, chĩa, người chịu lời lại đi giết bằng khí giới khác, thì người bảo giết không phạm bất cộng trụ; 5) Định oai nghi: Dạy giết kẻ đứng hoặc đi, người chịu lời lại giết kẻ ngồi hoặc nằm, thì người bảo giết không phạm bất cộng trụ; 6) Định cách giết: Dạy giết bằng cách đâm hoặc chém, người chịu lời lại giết bằng cách đánh hoặc cưa, thì người bảo giết không phạm bất cộng trụ.

    Lại nữa, nếu người chịu lời đi giết không được, người dạy bảo thêm rằng: nếu ngươi có thể giết được giờ nào nên giết giờ ấy, như thế dầu là lâu đến đâu, người giết chắc sẽ giết được, người dạy phạm trọng tội trong lúc dạy, người giết phạm tội trong khi giết.

    Tỳ khưu đào giếng, đào hầm, gài bẫy, để khí giới hoặc bỏ thuốc độc để giết người, nếu muốn giết người nào, người ấy chết mới phạm tội, bằng không định, nghĩ rằng: “nhằm kẻ nào thì kẻ ấy chết”, như thế phạm tội theo hạng người chết; như nhằm A-la-hán, cha, mẹ của tỳ khưu ấy chết thì phạm ngũ ngịch đại tội và “Bất cộng trụ”. Nếu kẻ khác hoặc tinh, ngạ quỉ, hoặc thú chết thì phạm trọng tội hoặc ưng đối trị. Nếu tỳ khưu đưa bẫy, viết thơ cho kẻ khác hoặc bán cho người đem dùng để giết thì phạm tội cả 2 bên. Nếu tỳ khưu ăn năn, đi đòi hoặc mua vật ấy lại thì mới khỏi tội. Tỳ khưu tự mình làm bẫy, viết thơ nên đem đốt cho hết mới khỏi tội. Nếu đốt chưa cháy hết, kẻ khác đem giết người, tỳ khưu cũng không khỏi tội; thơ chưa cháy tiêu có kẻ khác đem học biết cách để giết người, rồi giết theo thơ ấy, tỳ khưu cũng không khỏi tội.

    Tỳ khưu đào giếng, đào hầm cho sanh vật chết, lúc đào phạm tội tác ác mỗi lần đào; nếu thú, phi nhân sa vào bẫy, tỳ khưu phạm tội tác ác, thú chết phạm ưng đối trị, phi nhơn chết phạm trọng tội; người mắc bẫy phạm trọng tội, chết phạm bất cộng trụ.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu không cố ý giết, không biết (như không biết trong cơm có thuốc độc, đem cho kẻ khác ăn rồi chết và tỳ khưu điên đều không phạm tội).

    Ðiều học này “phạm tội vì dạy kẻ khác giết” (sānatika) có 5 chi: loài người (manussajātipāno), biết là người có sanh mạng (pānasaññiṭā), cố ý giết (upakkamo), ráng sức giết 1 trong 6 điều đã giải (vadhakacittaṃ), người ấy chết vì nình ráng sức (tena maranaṃ). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm bất cộng trụ.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā samuṭṭhāna), phạm vì làm (kiriyā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha). Cố ý (sacittaka), phạm vì tội đời (lokavajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (ekāvedanā).

    KHOE PHÁP BẬC CAO NHƠN (UTTARIMANUSSADHAMMA)

    Tỳ khưu khoe pháp của bậc cao nhơn là pháp của người cao thượng mà tự mình không có, phạm bất cộng trụ.

    Ðiều học này đức Thế Tôn cấm chế tại phước xá, có đỉnh (kutāgārasālā), trong rừng Tuyết Sơn gần thành Vesāli, do nhóm tỳ khưu tu gần mé sông Veggumudā khoe pháp bậc cao cho người tín ngưỡng bố thí.

    Chú giải: Tỳ khưu chưa giác ngộ, song là người ham muốn sự tặng khen, rồi khoe rằng đắc pháp bậc cao thượng, mà tự mình chưa được, nếu có người biết nghe rõ, trong khi ấy, sau rồi bị tra hỏi hoặc không bị tra hỏi, tỳ khưu ấy cũng phạm bất cộng trụ trong khi khoe ấy. Dầu muốn được trong sạch, hoàn tục rồi trở lại nói rằng: “Tôi không đắc đạo cao nhơn cố ý nói đắc, là tôi nói dối”, như thế ấy cũng không phạm bất cộng trụ.

    Pháp của bậc cao nhơn là “4 thiền hữu sắc, 4 thiền vô sắc, lục thông(31); 4 đạo, 4 quả và Niết-bàn, 37 phần pháp Bồ đề; không tham, không sân, không si, 3 cái giác, 8 cái giác...” Đều là pháp của bậc cao nhân, vì người nào đắc các pháp ấy đều gọi là bậc cao thượng hơn thường nhơn.

    Tỳ khưu không có pháp cao nhơn trong mình mà nói rằng “ta đắc sơ thiền... ta đắc thần thông, ta đắc quả...”, nói như thế, khi tính nói cũng biết ta sẽ nói dối, lúc đang nói cũng biết ta đang nói dối, khoe đến kẻ nghe khác, kẻ ấy dầu là bậc xuất gia hay cư sĩ được hiểu biết trong khi ấy rằng: “Vị tỳ khưu đã đắc thiền định đạo quả...”. Họ tin thiệt hoặc họ không tin lời nói thiệt, tỳ khưu cũng phạm bất cộng trụ. Nếu nói đến người nghe, không hiểu biết, tỳ khưu phạm trọng tội. Muốn khoe khoang mà nói mé rằng “người nào mà ngụ trong chùa này đều là người đắc thiền định”, người nghe hiểu biết trong khi ấy, tỳ khưu phạm trọng tội; người nghe không hiểu biết, tỳ khưu phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Nói thiệt rằng mình đã đắc... không cố ý khoe và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác khoe (anāṇattika), có 5 chi: khoe pháp cao nhơn mà tự mình không có (uttarimanussadhammassa atāni asantatā); khoe vì muốn được lợi, được khen (pāpicchatāya tassa ārocanaṃ); khoe theo lời của người khác (anaññāpadeso); khoe nói đến người nào, người ấy là loài người (yassu āroceti tassa manussajātikatā); khoe mà người nghe hiểu biết rõ rệt trong khi ấy (taṃ khanaṃ vijānanam). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm bất cộng trụ.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trộm cắp (adinnādānā).

    Ðức Phật giải về 5 bọn cướp lớn:

    Này các tỳ khưu, trong Phật pháp này có 5 bọn tỳ khưu cướp lớn. Này các tỳ khưu! 5 bọn tỳ khưu cướp lớn như thế nào?

    Này, các tỳ khưu! Có bọn cướp lớn trong thế gian, suy xét rằng: bao giờ ta được 100 hoặc 1000 bộ hạ quy thuận, ta sẽ vào trong xóm, làng, châu, quận giết hại đốt phá hoặc bảo kẻ khác giết hại đốt phá dân cư ấy. Ðến sau, bọn cướp ấy được 100 hoặc 1000 người tùy tùng, rồi đem nhau vào xóm, làng, châu, quận đánh đập giết hại các cư dân ấy, thế nào. Này các thầy tỳ khưu! Sự suy xét của tỳ khưu ác trong Phật pháp này cũng như thế. Tỳ khưu ác ấy suy xét rằng: bao giờ ta được 100 hoặc 1000 người sùng bái, ta sẽ vào xóm, làng, châu, quận, ta sẽ được các thứ y, món ăn, chỗ ở và thuốc men mà các hàng cư sĩ hoặc bậc xuất gia thành tâm cúng dường. Đến khi sau, tỳ khưu ác ấy được 100 hoặc 1000 người phục tùng, rồi vào xóm làng châu, quận, xin được y, vật thực, chỗ ở và thuốc men mà các hàng cư sĩ hoặc bậc xuất gia hết lòng tôn kính cúng dường. Nầy các tỳ khưu! Tỳ khưu ấy gọi là kẻ cướp lớn thứ nhất, có rõ rệt trong thế gian.

    Nầy các tỳ khưu! Còn nguyên nhân khác nữa: trong Phật pháp này, có tỳ khưu ác, học hỏi pháp luật mà Như Lai đã giảng giải, rồi tự thiêu đốt lấy mình(32). Này, các tỳ khưu! Tỳ khưu ấy gọi kẻ cướp lớn thứ nhì, có rõ rệt trong thế gian. Này, các tỳ khưu! Còn nguyên nhân khác nữa trong Phật pháp này có bọn tỳ khưu khác vô cớ(33) tố cáo tỳ khưu trì giới thanh cao đang hành pháp cao thượng trong sạch, rằng tu hành không cao thượng(34). Này, các tỳ khưu! Tỳ khưu ấy gọi là kẻ cướp lớn thứ ba, có rõ rệt trong thế gian. Này, các tỳ khưu! Còn nguyên nhân khác nữa trong Phật pháp này có tỳ khưu ác, muốn làm cho vừa lòng hành cư sĩ, đem tài sản của tăng hoặc phụ tùng là: 1) bông và cây, 2) chỗ trồng bông và cây, 3) tịnh thất, 4) chỗ cất tịnh thất, 5) giường, 6) bàn thấp dài, 7) nệm, 8) gối, 9) nồi, 10) cân, 11) thùng, 12) chậu làm bằng loại kim, 13) dao nhỏ, 14) búa, 15) rìu, 16) xuổng, 17)(35) vá, 18) dây, 19) tre dài 8 ngón tay trở lên, 20) cỏ thường, 21) cỏ năn nỉ, 22) cỏ ống, 23) đất sét, 24) vật làm bằng cây, 25) vật làm bằng đất. Này, các tỳ khưu, tỳ khưu ấy gọi là kẻ cướp lớn thứ tư, rõ rệt trong thế gian. Này, các tỳ khưu! Tỳ khưu nào khoe pháp bậc cao nhơn, mà chính mình không có rõ rệt, tỳ khưu ấy gọi là kẻ cướp thứ năm, là kẻ cướp lớn tột bực trong thế gian và cả luôn cõi trời, cõi Dạ ma thiên (Yāmā), cõi Phạm thiên, trong các bọn chúng sanh cho đến Sa-môn, Bà la môn và các bậc vua chúa.

    Vì sao Như Lai giải như thế? Này, các tỳ khưu, vì tỳ khưu cướp cục cơm của hàng cư sĩ đem ăn. (Đức Chánh Biến Tri muốn cho việc này được rõ rệt, mới giải thêm kệ ngôn sau đây): Tỳ khưu nào tu hành không được trong sạch, mà làm cho kẻ khác biết mình là trong sạch, tỳ khưu ấy gọi là cướp vật thực của họ, đem về dùng, như người thợ săn núp mình bên lùm cây mong chờ bắn thú. Tỳ khưu chỉ dùng y ca sa mặc cho kín mình, nhưng tu hành theo phép xấu xa, không thu thúc (theo pháp luật) là người rất dơ bẩn, tỳ khưu ấy chắc hẳn phải đọa vào địa ngục vì tự mình gây ra nghiệp quấy. Nên ăn cục sắt đang cháy như ngọn lửa còn tốt hơn tỳ khưu phá giới không thu thúc (theo pháp luật) ăn cục cơm của hàng cư sĩ.

    II. MƯỜI BA ĐIỀU HỌC TĂNG TÀN (SAṄGHĀDISESA)

    Tăng tàn là tăng nhờ tăng hợp lại phạt cấm phòng sửa lỗi cho giáo hội giao thiệp (vuttānagamini).

    DI TINH (SUKKAVISATTHI)

    Tỳ khưu cố ý làm tinh di khỏi chỗ, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do tỳ khưu Seyyasaka làm cho tinh di.

    Chú giải: Tỳ khưu muốn tinh di cho khỏi bịnh, cho được vui thích... rồi ráng sức dùng tay hoặc dạy kẻ khác làm, hoặc rờ rẫm ngọc hành bằng tay, hoặc nằm sắp đè ngọc hành, hoặc kẹp trong bắp vế ... rồi làm cho tinh di, dầu chỉ vừa cho con ruồi nhỏ nuốt được, dầu tinh chưa ra, là chưa xuất ra ngoài cũng phạm tội tăng tàn. Cố ý muốn cho tinh di, cầm da ngọc hành để tiểu tiện, tinh di phạm tăng tàn, tinh không di phạm trọng tội. Cố ý nắm ngọc hành của sa di đang ngủ, tinh di phạm tác ác. Xem chỗ kín của phụ nữ, tinh di phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Lúc nằm mộng không cố ý và tỳ khưu điên đều không phạm tội. Không cố ý cho tinh di và không cố ý vui thích cũng không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika) có 3 chi: tác ý muốn làm cho tinh di (cetanā); ráng sức làm (upakkamo); tinh đã di (mocanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tăng tàn.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika samuṭṭhāna).

    ĐỤNG CHẠM VÀO MÌNH PHỤ NỮ (KĀYASAṂSAGGA)

    Tỳ khưu cố ý đụng cọ nhằm mình phụ nữ, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi rờ rẫm phụ nữ.

    Chú giải: tỳ khưu rờ rẫm mình phụ nữ, dầu mới sanh trong vòng 1 ngày cũng phạm tội tăng tàn. Bộ nấp, nữ, ngạ quỉ, tinh, đều là vật Trọng tội; thú cái, thú đực, người nam đều là vật của tội tác ác. Phụ nữ, tỳ khưu biết là phụ nữ rồi chạm nhằm, vì lòng vui thích cho đến sự đụng chạm lông với lông. Phụ nữ đụng mà tỳ khưu có lòng vui thích sự đụng chạm ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn. Phụ nữ, tỳ khưu nghi là phụ nữ, hoặc không phải là phụ nữ, hoặc tưởng là bộ nấp, là người nam, là thú rồi đụng nhằm vật dính với thân mình hoặc chạm nhằm vật dính với thân phụ nữ, như cọ nhằm y phục của phụ nữ, hoặc bộ nấp, tỳ khưu phạm trọng tội. Tỳ khưu đụng vật dính với thân phụ nữ, do vật dính với thân mình, hoặc phụ nữ liệng đồ tỳ khưu lãnh, liệng qua lại hoặc chạm nhằm bộ nấp, tỳ khưu nghi hoặc tưởng là phụ nữ, là người nam hoặc người nam mà tỳ khưu tưởng là phụ nữ, là bộ nấp, là thú, hoặc nghi rồi mà có lòng vui thích, rồi đụng nhằm mình hoặc cọ nhằm vật dính với thân liệng vật ấy qua lại... như thế đều phạm tội tác ác, phạm nhiều hay ít tùy theo vật và mỗi lần đụng. Tỳ khưu rờ hình phụ nữ, hoặc nắm chặt, rờ bằng 1 ngón tay hoặc trọn bàn tay, rờ từ đầu tới chân không rời chỉ phạm 1 tội. Nếu vật khác nhau rồi rờ bằng 5 ngón tay thì phạm đến 5 tội.

    Thể thức không phạm tội: Phụ nữ đụng nhằm tỳ khưu, tỳ khưu không vui thích vì không cố ý muốn đụng, dầu biết sự đụng chạm ấy hoặc muốn cho khỏi rồi xô ra hoặc chạm nhằm vì vô ý, không biết, quên vì không lòng vui thích, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm vì dạy người khác (anāṇattika) có 5 chi: người phụ nữ (manussitthī); tưởng là phụ nữ (itthīsaññitā); ráng sức đụng chạm vừa theo sự vui thích (tenarāgena vāyāmo); vui thích vì sự chạm nhằm mình phụ nữ (kāyasaṃsaggarāgo); đụng chạm với nhau, nhất là nắm tay (hatthagāhādi samapajjānaṃ). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika sikkhāpada).

    NÓI LỜI HOA TÌNH (DUTTHULLAVĀCĀ)

    Tỳ khưu nói lời thấp hèn, nói ngay sản môn, nói với phụ nữ, như thế phạm tăng tàn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthi do tỳ khưu Udāyi nói lời đê hèn thô tục với phụ nữ.

    Chú giải: Tỳ khưu cố ý vui thích rồi trêu ghẹo phụ nữ như trai trêu ghẹo gái, phụ nữ biết được trong khi ấy, phạm tăng tàn. Người phụ nữ biết lời tốt hoặc xấu về sự hành dâm là vật phát sanh tăng tàn. Vật làm cho sanh trọng tội và tác ác như trong điều học trước. Lời nói về sản môn và giang môn về sự dâm dục với phụ nữ đều gọi là đê hèn, thuộc về chỗ phát sanh tăng tàn. Trong thân phụ nữ từ ngực xắp xuống, từ đầu gối trở lên là vật cho sanh Trọng tội, tứ chi ngoài ra là vật cho sanh Tác ác. Tỳ khưu nói: Này phụ nữ nào hầu hạ bằng nhục dục, đến người có giới luật, có đạo đức hành pháp phạm hạnh (hạnh thanh cao) như ta, sự hầu hạ ấy là cao thượng hơn các sự hầu hạ khác, nếu phụ nữ hiểu được trong khi ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn.

    Ðiều học này có 5 chi: người nữ (manussitthī); tưởng là người nữ (itthīsaññitā); vui thích trong chỗ nói lời hoa tình (dutthullavācāsarāgo); khen sự vui thích ấy (tenarāgena); phụ nữ nghe hiểu được trong khi ấy (tamkhanaṃ vajānanaṃ).

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước, chỉ khác nhau chỗ nói, khen sự hầu hạ bằng nhục dục.

    HẦU HẠ MÌNH BẰNG NHỤC DỤC (ATTAKĀMA PARICARIYA)

    Tỳ khưu có tình dục nói ướm cho phụ nữ hầu hạ mình bằng nhục dục, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi bảo phụ nữ hầu hạ mình bằng nhục dục.

    Chú giải: Tỳ khưu nói: Này em gái, phụ nữ nào hầu hạ người có giới, có đạo đức, hành pháp phạm hạnh như ta, bằng nhục dục, sự hầu hạ ấy cao thượng hơn các sự hầu hạ khác. Nếu phụ nữ hiểu được trong khi ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn.

    Ðiều học này có 5 chi: người (manussitthī); tưởng là người nữ (itthīsaññitā); vui thích trong sự hầu hạ mình bằng nhục dục (attakāma pāricāriyāyarāgo); khen sự vui thích (tenaraganavannabhananaṃ); phụ nữ hiểu biết trong khi ấy (taṃkhanaṃvacānanaṃ).

    Chỗ sanh tội như trong điều học trước, chỉ khác nhau chỗ nói khen bằng sự nhục dục.

    LÀM MAI DONG (SAÑCARITTA)

    Tỳ khưu làm mai dong cho trai và gái làm vợ chồng nhau phạm tăng tàn.

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi làm mai dong.

    Chú giải: Người nam, người nữ (không phải là ngạ quỉ, tinh) là kẻ thế hoặc là người xuất gia chưa được làm chồng vợ, hoặc đã làm chồng vợ mà từ bỏ hẳn nhau rồi, dầu là cha mẹ của tỳ khưu, đều là vật cho sanh tăng tàn.

    Sự đem mai mối có 3 chi: 1) nam hoặc nữ, hoặc cha mẹ của người nữ, hoặc của người nam, cầu tỳ khưu nói đến người nữ, hoặc người nam cầu tỳ khưu nói đến cha mẹ của người nữ hoặc tỳ khưu hứa lời của người (patigganhāti); 2) họ cầu đi nói người nào, tỳ khưu nói với người ấy rằng: “ngươi hãy làm chồng, làm vợ với nhau, hoặc trai gái cùng nhau (vimamseti)”; 3) người nào cầu đi nói, tỳ khưu trở về nói lại với người ấy (paccāharati). Làm mai dong cho người, được hoặc không được không quan trọng, nếu có đủ 3 chi ấy, phạm tội tăng tàn. Nếu chỉ có 2 chi, là chịu đi nói hoặc đã nói rồi, trở lại cho hay (1 trong 2 chi nào) thì phạm trọng tội. Nếu chỉ có 1 chi là chịu đi nói hoặc trở về nói lại (trong 1 chi nào) thì phạm tội tác ác.

    Nếu trai cầu tỳ khưu đi nói với gái có mẹ gìn giữ, tỳ khưu đi nói với gái ở với cha, như thế sai lời cầu, không phạm tăng tàn. Tỳ khưu làm mai dong cho bộ nấp phạm trọng tội.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu đem tin của tăng, tin của tỳ khưu bịnh và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy kẻ khác (sānattika) tỳ khưu đã chịu lời người, dạy kẻ khác nói đến trai, hoặc gái đã nói rồi, dạy kẻ khác trở về nói cho người cầu ấy hay, cũng phạm tăng tàn, có 5 chi: đem lời cho người nào, người ấy là người thiệt (không phải phi nhơn) (yesaṃ sañcariṭṭaṃ samāpajjati tesaṃ manussajātikatā); họ không phải là vợ chồng với nhau từ trước hoặc là đã có làm chồng vợ rồi, song đã từ bỏ nhau hẳn rồi (nanālaṃvacaniyatā); chịu lời cầu (paṭigganhānaṃ); nói theo lời người cầu (vimamsanaṃ); trở lại cho người cầu hay biết (paccāharanāni). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

    Có 6 chỗ sanh (sāmutthāna) là: Tỳ khưu không biết luật cấm, hoặc không biết họ đã từ bỏ hẳn nhau rồi, chịu lời đi nói, hoặc ra dấu hiệu trở lại cho hay bằng cách ra dấu hiệu, như thế là tội phát sanh do thân.

    Tỳ khưu ngồi, trai đến cầu gởi rằng: “gái ấy sẽ lại tìm ông, xin ông biết bụng người” rồi tỳ khưu chịu lời rằng “Ờ, phải rồi”. Khi gái đến, tỳ khưu nói lại, khi trai trở lại thì tỳ khưu cho hay như thế, là tội phát sanh do khẩu, vì tỳ khưu không có ra dấu hiệu.

    Lại nữa, tỳ khưu nhận lời của trai bằng khẩu, rồi đi đến nhà gái, vì nguyên nhân nào khác, gặp gái ấy rồi nói, rồi vì nguyên nhân nào khác trở lại gặp nói lại với trai ấy, như thế, gọi là chỉ phát sanh do khẩu.

    Tỳ khưu không biết luật cấm, dầu bậc A-la-hán cha dạy đi, ngài cũng đi nói với mẹ (đây nói về cha mẹ đã từ bỏ nhau rồi), rằng: người hãy trở về hầu hạ cha đi, rồi tỳ khưu trở về cho cha hay biết, như thế gọi tội phát sanh do thân, khẩu (3 cách) như thế gọi là “chỗ sanh tội vì vô ý” (acittaka samuṭṭhāna) nghĩa là: tỳ khưu biết, hoặc là không biết cũng phạm tội.

    Tỳ khưu biết luật cấm, hoặc biết rằng: họ đã từ bỏ hẳn rồi, còn đem mai mối cả 3 cách ấy, 3 chỗ sanh ấy gọi là “chỗ sanh điều học làm mai dong” vì ý biết luật cấm và biết rõ họ đã bỏ hẳn nhau rồi gọi là: có 6 chỗ sanh như thế.

    Phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), không cố ý cũng phạm (acittaka), tội vì Phật cấm (paṇṇatiitvajja) thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), có 3 tâm (ticittaṃ), có 3 thọ (tissovedanā), thọ vui, thọ khổ và thọ vô ký.

    TẠO THẤT (SAÑÑĀCIKA)

    Tỳ khưu tạo thất tô bằng vôi với đất sét không có người đứng làm chủ cất cho mình ở, phải làm cho đúng mực thước, là: bề dài 12 gang, bề ngang 7 gang (1 gang của đức Phật, bằng 3 gang người bực trung), khi cất phải cho tăng chỉ chỗ trước rồi mới nên cất, nếu không do tăng (saṅgha) chỉ chỗ hoặc cất cho quá mực, phạm tăng tàn. (Điều học này gọi kūtikāra cũng được)

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvanā) gần thành Vương Xá (Rājagaha) do chư sư A-la-vi dạy người cất thất cho mình quá mực định.

    Chú giải: Tỳ khưu chủ thất không cho tăng chỉ chỗ cho cất, hoặc cất lớn quá thước tấc, trong mỗi khi làm phạm tội tác ác, còn dư vôi 2 cục nữa thì cất xong, còn dư 1 cục đầu phạm trọng tội, làm xong phạm tăng tàn.

    Ðiều học này có 7 chi: mô tả phía trong và phía ngoà; phía dưới không đúng thước; không có tăng chỉ chỗ cho; cất lớn quá thước; cất cho mình ở; cất làm để ở; tô cả nóc và vách

    Chỗ sanh tội như trong điều học làm mai dong (sañcarita).

    TẠO THẤT LỚN (MAHALLAKA)

    Tỳ khưu tạo thất lớn, nếu thất ấy có thí chủ, làm chủ cất, làm lớn quá mực thước được, song phải trình cho tăng chỉ chỗ trước mới nên làm. Nếu tỳ khưu không cho tăng chỉ chỗ, cất phạm tăng tàn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá của trưởng giả (ghosita) gần thành Kosambi do tỳ khưu Channa tạo thất lớn quá mực thước.

    Chú giải: điều học này như điều học trước, chỉ khác nhau đây là không định “thất lớn, nhỏ”.

    VÔ CỚ CÁO GIAN (AMŪLAKA)

    Tỳ khưu giận rồi cố ý cáo vị khác phạm tội bất cộng trụ, do không có cớ, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana), gần thành Vương Xá (Rājagaha) do tỳ khưu Mettiya và Kummajaka cáo gian đại đức Dabbamallaputta, sa di 7 tuổi đắc A-la-hán quả.

    Chú giải: tỳ khưu vô cớ cáo gian dầu sau có ai hỏi, hoặc không có ai hỏi, rồi tự mình khai rằng “Tôi đã nói dối”, như thế ấy cũng phạm tăng tàn. Trong khi tố cáo ấy, mắt không thấy, tai không nghe, không nghi rằng: “Tỳ khưu ấy phạm 1 trong 4 tội bất cộng trụ”, không nghe ai nói, như thế gọi là vô cớ cáo gian. Cáo gian có 4 cách, cáo rằng: ông hành dâm (chỉ vật); ông phạm tội vì hành dâm (chỉ tội); hành lễ phát lộ (uposatha), là lễ tự tứ (pavāraṇā(36)), hành tăng sự với ông không được; ông không phải là Sa-môn (cấm ngăn sự tôn kính). Cáo gian đều đủ đến điều thứ tư, mới phạm tội.

    Tỳ khưu cáo gian đến người trong sạch (vô tội) hoặc không trong sạch, cáo vì tội bất cộng trụ nào, người ấy không phạm tội bất cộng trụ ấy, muốn làm cho tỳ khưu ấy xa khỏi phạm hạnh (brahmacariya), không cho tỳ khưu biết trước bằng lời này “Ngài hãy cho phép tôi, tôi muốn nói với ngài (karotume āyasmā okāsaṃ ahantaṃ)”, nếu không nói như thế trước, rồi tố cáo sau, mà tỳ khưu ấy biết trong khi ấy rằng “Họ cáo mình như thế”, tỳ khưu tiên cáo phạm tội tăng tàn và tội tác ác trong mỗi lời cáo gian, khi tiên cáo cho tỳ khưu bị cáo biết trước rồi sẽ cáo sau, chỉ có phạm 1 tội tăng tàn, dầu là tỳ khưu cáo bằng lời nói hoặc ra dấu hiệu trước mặt, cũng vậy. (Cáo “sau lưng”, lúc vắng mặt không kể).

    Tỳ khưu dạy kẻ khác cáo, người cáo, do theo lời dạy cáo gian, thì chỉ có người dạy phạm tội, như đoạn trên đã có giải rõ. Nếu người chịu lời đi cáo nói “ta cũng được thấy, được nghe vậy”, thì phạm tội tăng tàn cả 2 người. Tỳ khưu không cho người biết trước rồi chửi mắng phạm tội ưng đối trị và tội tác ác. Nếu cho biết trước rồi cảnh cáo sau, chỉ phạm 1 tội ưng đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu tưởng là người không trong sạch là người trong sạch, là người trong sạch trong người không trong sạch đi cáo, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người (sānattika), có 5 chi: tự mình cáo hoặc dạy người cáo người đã tu lên bực trên (upasampannoti saṃkhayaṃ gamaṇaṃ); tưởng người ấy là người trong sạch (tasmiṃ suddhasaññitā); cáo vì tội bất cộng trụ, không có cớ (amūlakatā); tự mình cáo hoặc dạy người cáo trước mặt, cho xa khỏi phạm hạnh (cāvanādhippāyenasammukhācodanāvācodāpadāvā); người bị cáo biết trong khi ấy (tassataṃ khanaṃ vijānanaṃ). Ðều đủ 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna) chỉ khác nhau điều học này thuộc về thọ khổ.

    NHƠN CỚ KHÁC CÁO GIAN (ANNABHĀGIYA)

    Tỳ khưu giận hờn vị khác rồi cố tìm cớ, nhất là tìm dòng, phái đem cáo người vì tội bất cộng trụ, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Mettiyavākummajaka nhơn cớ khác mà cáo gian vị A-la-hán Dabhamallaputta.

    Chú giải: tỳ khưu nhơn cớ khác, nhất là dòng vua, đem cáo vị khác phạm một tội bất cộng trụ nào, rồi dùng dòng ấy làm cớ để cho tỳ khưu cũng thuộc dòng vua như nhau rằng “người là dòng vua, hành dâm phạm tội bất cộng trụ” vì ta được thấy, được nghe, hoặc nghi như thế; phạm tội tăng tàn trong khi ấy, dầu sau có khai thiệt cũng không khỏi phạm tội.

    CHIA RẼ TĂNG (SAṄGHABHEBA)

    Tỳ khưu ráng sức chia rẽ tăng (saṅgha(37)) cho xa nhau, tăng đã tụng lời khuyên can, ngăn cấm cho bỏ sự ấy, nếu không bỏ, phạm tăng tàn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Đề bà đạt đa (Devadatta) chia rẽ tăng.

    Chú giải: tỳ khưu khuyên “ngài chẳng nên làm như thế, ngài hãy thuận hoà với tăng, vì Tăng hoà hảo như thế mới được an vui”, nếu tỳ khưu không nghe lời khuyên can thì phạm tội tác ác. Tỳ khưu được nghe, được thấy mà không ngăn cấm cũng phạm tội tác ác. Tỳ khưu không thể khuyên can được nữa, nên cho các tỳ khưu khác hay biết để gọi tỳ khưu ấy vào giữa tăng, cho tăng tụng samanubhāsana(38), nếu chịu bỏ thì tốt, bằng không thuận, phạm tác ác. Tăng tụng Samanubhāsana xong 1 bận, tỳ khưu phạm 1 tội tác ác; tụng xong 2 bận, tỳ khưu không bỏ, phạm trọng tội; tụng xong 3 bận, phạm tăng tàn.

    Thể thức không phạm tội: Tăng chưa tụng samanubhāsana mà tỳ khưu chịu bỏ, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này có 4 chi: ráng sức chia rẽ tăng (bhedāyaparakkamanaṃ); tăng hành tăng sự theo pháp (dhammakammena samanubhāsanaṃ); tụng dứt thời khuyên can lần thứ ba (dhammavācā pariyosānaṃ); không chịu bỏ tà kiến (appatinissajanaṃ).

    Chỗ sanh tội: thuộc về tụng lời khuyên răn (samanubhāsana samuṭṭhāna), phạm vì không làm (akiriyā) không phạm vì tưởng (saññāvimokkha), cố ý (sacittaka), tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacīkamma), ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (dukkhavedanā).

    HÀNH THEO TỲ KHƯU CHIA RẼ TĂNG (BHEDĀNUVATTAKA)

    Tỳ khưu hành theo tỳ khưu chia rẽ tăng, các vị khác khuyên can không nghe, tăng tụng samanubhāsana ngăn cấm cho dứt bỏ sự hành vi ấy, nếu không tuân theo phạm tăng tàn.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trước.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Vương Xá (Rājagaha) do tỳ khưu Kajamo, Rakatissa, Khanda, Deviputta và Samuddadatta hành theo tỳ khưu chia rẽ tăng.

    TỲ KHƯU CỨNG CỎI (DUBBACCAYĀTIKA)

    Tỳ khưu có tánh khó dạy, vị khác khuyên dạy cũng không nghe, tăng đã tụng samanubhāsana ngăn cấm cho bỏ chừa nghiệp ấy, nếu không tuân theo phạm tăng tàn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Ghositārāma gần thành Kosambi do tỳ khưu Channa cứng cỏi.

    Chú giải: tỳ khưu không cho vị khác thức tỉnh, nói rằng “các ngài đừng nói lời chi tốt, hoặc lời chi xấu đến tôi, tôi cũng chẳng nói lời lành hoặc dữ đến với các ngài, vậy các ngài hãy nín thinh, đừng nhắc nhở tôi như thế”. Khi các vị khác đã khuyên lơn mà không nghe, nên đem tỳ khưu ấy đến giữa tăng để tụng samanubhāsana. Khi tụng đến 3 bận mà không chừa bỏ tánh cũ, không tuân theo lời khuyên nhủ của tăng thì phạm tội tăng tàn.

    TỲ KHƯU NỊNH HÓT (KULADŪSAKA)

    Tỳ khưu bợ đỡ kẻ thế, tăng đã xử, đuổi ra khỏi chùa, rồi còn trở lại hủy báng tăng. Tăng đã tụng samanubhāsana ngăn cấm, nếu không tuân theo, phạm tội tăng tàn.

    Ðiều học này cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do tỳ khưu Assagi, Punabhasuka nịnh hót.

    Chú giải: tỳ khưu ngụ nơi làng, xóm, nịnh hót, cho trái cây, bông cây... đến kẻ thế cho họ mất quả phước của sự bố thí đã làm đến mình, như thế gọi là nịnh hót.

    Tỳ khưu có tánh xấu xa trồng cây để cho người thế, làm những việc ấy rõ rệt, đến tai, mắt người, vị khác được thấy, được nghe, nên đuổi ra khỏi xóm làng, tỳ khưu ấy trở lại nói xấu tăng đã đuổi rằng “thiên vị”, vì thương (chandāgati) hoặc ghét (dosāgati), hoặc lầm lạc (mohagati) hoặc sợ (bhayagati), nói như thế, các vị khác nghe được, thấy được, nên ngăn cấm không cho hủy báng tăng, nếu ngăn cấm không được phải đem đến giữa tăng để tụng samanubhāsana 3 bận rồi mà không bỏ tánh xưa thì phạm tăng tàn.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước.

    Từ điều học “di tinh” (sukkavisatthi) đến điều học “nhơn cớ khác cáo gian” (aññabhāgiya), tỳ khưu phạm tội trong khi phá giới lần đầu (pathamāpattikā) trong 4 điều học sau (10,11,12,13) tỳ khưu phạm tội sau khi tăng đã tụng samanubhāsana xong 3 bận (yāvatatiyakā) mà không tuân theo thì mới phạm tăng tàn.

    III. HAI ĐIỀU HỌC BẤT ĐỊNH (ANIYATTA)

    Bất định nghĩa là chỗ kín hoặc chỗ trống không định cho nên có phạm tội, nhưng không có thể định tội trước được

    CHỖ CÓ THỂ HÀNH DÂM (ALAṂKAMMANIYA)

    Tỳ khưu ngồi trong chỗ khuất mắt, chỉ hai người với phụ nữ, nếu có người đáng tin lời nói được, đến cáo vì phạm 1 trong 3 tội bất cộng trụ hoặc tăng tàn hoặc ưng đối trị, nếu tỳ khưu thú tội nào cho luật sư xử đoán theo điều luật ấy, hoặc họ đã cáo ngay tội nào cho luật sư trừng phạt ngay điều ấy.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Vihāra Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do nàng Visākhā thấy tỳ khưu Udāyi, ngồi nơi khuất mắt với 4 người nữ.

    Chú giải: tỳ khưu nằm hoặc ngồi trong chỗ khuất mắt với 1 người phụ nữ, nếu có tín nữ đáng tin lời là bậc quý nhơn được thấy tỳ khưu rồi đi cáo vì tội bất cộng trụ hoặc tăng tàn hoặc ưng đối trị, tỳ khưu thú tội nào cho luật sư xử theo tội ấy, nếu chịu có hành dâm thì phạm theo điều học Bất cộng trụ, chịu có rờ rẫm phụ nữ thì nên phạt cấm phòng, do theo điều học tăng tàn, nếu chỉ có ngồi hoặc nằm với phụ nữ nên phạt ưng đối trị, bằng khai rằng: mình đứng hoặc phụ nữ đứng, không có làm điều chi thì luật sư không nên xử phạt, vì sự thấy ấy có khi cũng đúng như được thấy, có khi cũng không đúng thiệt như thấy không rõ rệt.

    Tỳ khưu tìm phụ nữ nơi thanh vắng vì tình dục, đi mỗi bước mỗi phạm tội tác ác, đi đến nơi ngồi, hoặc nằm và phụ nữ mới đến ngồi hoặc nằm xuống hoặc phụ nữ đã ngồi hoặc nằm, tỳ khưu mới đến ngồi hoặc nằm xuống, hoặc hai người cùng ngồi hay nằm cùng nhau phạm ưng đối trị. Nếu có người nam sáng mắt ngồi xa 1, 2 hắc tay, vừa xem thấy được, là người có tâm phóng đãng, dầu ngồi ngủ gục, tỳ khưu cũng không khỏi phạm tội, người sáng mắt nhưng ngủ quên,tỳ khưu cũng không khỏi phạm tội, người mù dầu ngồi kề bên, dầu có 100 phụ nữ, tỳ khưu cũng không khỏi phạm tội.

    Thể thức không phạm tội: Có người nam biết chuyện, mắt không mù, nằm không ngủ, hoặc người nam đi vào nơi ấy, hoặc tỳ khưu khi đứng, hoặc phụ nữ đứng, tỳ khưu ngồi mà tâm tưởng đâu đâu và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika).

    Chỗ phạm tội trong điều học này là lời thú nhận của tỳ khưu. Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhứt (pathama pārājikakkhāpada).

    CHỖ KHÔNG THỂ HÀNH DÂM (ANĀLAM KAMMANIYA)

    Tỳ khưu ngồi chỗ khuất tai 2 người với phụ nữ, nếu có người đáng tin lời được đến cáo vi phạm 1 trong 2 tội tăng tàn hoặc ưng đối trị. Nếu tỳ khưu nhận phạm tội nào cho luật sư xử theo tội ấy, nếu họ cáo ngay điều học nào, cho luật sư xử phạt ngay tội ấy.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do nàng Visākhā thấy tỳ khưu Udāyi ngồi chỗ khuất tai với hụ nữ.

    Chú giải: điều học này cũng như điều học trước, chỉ khác nhau chỗ, dầu phụ nữ hoặc người nam biết chuyện, không mù, không điếc, ngồi hoặc đứng trong khoảng cách xa 12 hắc dầu có tâm phóng túng hoặc ngủ quên, tỳ khưu cũng khỏi tội. Người điếc dầu mắt sáng, người mù không điếc cũng không ngừa khỏi tội được.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trộm cắp (sikkhāpada adinnādānā).

    IV. BA MƯƠI ĐIỀU HỌC ƯNG XẢ ĐỐI TRỊ (NISSAGGIYA PĀCITTIYA)

    Ưng xả đối trị nghĩa là phạm phép chứa cất y cāsa, bình bát, vàng, bạc... trái phép, nếu chịu xả vật ấy giao cho tăng rồi sám hối mới được khỏi tội.

    Chia làm 3 phần: lễ dâng y lần thứ nhất (civaravagga) có 10 điều, ngọa cụ trộn với chỉ tơ lần thứ nhì (kosivavagga) có 10 điều, bình bát dư lần thứ ba (pattavagga) có 10 điều.

    LỄ DÂNG Y LẦN THỨ NHẤT

    Có 10 điều học:

    1) Lễ dâng y lần thứ nhất (paṭhama kathina). Y chưa gởi, chưa nguyện gọi là y dư (atirekacivara) khi hết hạn quả báo lễ dâng y rồi tỳ khưu cất giữ y dư ấy, lâu lắm là đến 10 ngày. Nếu quá 10 ngày phạm ưng xả đối trị, nghĩa là y ấy là vật phải xả, còn tỳ khưu phạm ưng xả đối trị (pācittiya).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tháp Gotamaka gần thành Xá vệ (Sāvatthī) do Ānanda hỏi Phật.

    Chú giải: Y có 6 thứ: y dệt bằng chỉ vỏ cây (khomaṃ); y dệt bằng chỉ bông (kappāsikaṃ); y dệt bằng chỉ tơ (koseyyaṃ); y dệt bằng lông thú (trừ lông của người, lông đuôi, lông cánh của thú) (kambalaṃ); y dệt bằng cây gai (sānaṃ); y làm trộn với 5 thứ chỉ trên (bhangaṃ). Tất cả y làm bằng 1 trong 6 thứ chỉ ấy, nếu tỳ khưu cất giữ đến mặt trời mọc đến ngày thứ 11 kể từ ngày thọ y mà không gởi, không nguyện, không xả, trong hạn kỳ 10 ngày, thì phạm ưng xả đối trị. Nếu không xả cho tăng, cho 1, 2 hoặc 3 tỳ khưu trước mà đem ra mặc, phạm tác ác (dukkaṭa). Y đã quá 10 ngày, tỳ khưu biết rằng quá 10 ngày hoặc nghi, hoặc tưởng chưa quá cũng phạm ưng xả đối trị. Y chưa quá 10 ngày, tưởng đã quá, hoặc nghi đem ra mặc, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu đã nguyện, gởi, xả cho người nào trước 10 ngày, y thấy tiêu mất, bị lửa cháy, bị trộm cắp, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) có 5 chi: y của mình (civarassa attanosantakatā); y ấy đã đến tay mình, hoặc được nghe rồi là y của mình (gananupagātā); 2 điều bận (palibodha) đã dứt (niccha palibodhabhāvo)(39); y ấy là y dư (atirekacivaratā); đã quá 10 ngày (dasāhātikamo). Đều đủ cả 5 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội như trong điều học lễ dâng y lần nhứt (paṭhamakathina), phạm tội phát sanh do thân nghiệp (kayakamma), do thân-khẩu-ý (kāyavācācitta), phạm vì không làm (akiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), vô ý cũng phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannāttivajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacīkamma), có 3 tâm (ticittam), có 3 thọ (tissovedanā).

    LỄ DÂNG Y LẦN THỨ NHÌ (DUTIYA KATHINA)

    Khi mãn hạn kỳ quả báo lễ dâng y rồi, tỳ khưu còn xa lìa tam y, dầu chỉ trong 1 đêm cũng phạm ưng xả đối trị, trừ ra tỳ khưu có bịnh và được tăng cho phép (điều học này gọi là “uddosita” cũng được).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do đức Ānanda đi thấy tỳ khưu đem y để hong nắng rất nhiều, nên hỏi thăm mới hay là y của chư tỳ khưu gởi, bỏ đi đến xứ khác, do cớ ấy, đức Ānanda bèn bạch với Phật.

    Chú giải: Tỳ khưu để y trong chỗ không có ngăn, che, phải ở trong nơi ấy không nên ở xa khỏi 1 hắc, 1 gang. Nếu nơi ấy có nhiều chủ, là nơi có ngăn che, để y nơi nào, phải ở trong nơi ấy, hoặc ở trong chỗ đô hội, hoặc gần cửa là nơi vô ra, không nên xa lìa khỏi hắc (hatthapāsa). Nếu để xa khỏi hắc đến mặt trời mọc, phạm ưng xả đối trị. Phải xả y ấy đến tăng, đến 2, 3 tỳ khưu hoặc đến 1 tỳ khưu, mới nên mặc được. Phải xả trước rồi sám hối sau mới khỏi tội. Tam y mà tỳ khưu đã xa lìa rồi, biết rằng đã xa lìa, hoặc nghi, hoặc tưởng, không xa lìa cũng phạm ưng xả đối trị. Tam y mà tỳ khưu chưa xa lìa, hoặc chưa xả mất mà tưởng đã mất... nghi, hoặc chưa xả, chưa nguyện (đặt tên y làm dấu) rồi xa lìa y ấy, cũng phạm ưng xả đối trị. Tam y mà tỳ khưu chưa xa lìa, tưởng rằng đã xa lìa hoặc nghi rồi đem mặc, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: tỳ khưu đã xả nguyện gởi... trước khi mặt trời mọc, tỳ khưu có bịnh, có tăng cho phép; và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm vì dạy người (anāṇattika) có 4 chi: y mà tỳ khưu đã nguyện đặt tên rồi (adhiṭṭhita civaratā); không có quả báo lễ dâng y (anatthatakathinatā); không có tăng cho phép (aladdhasammatitā); ở xa y ấy đến khi mặt trời mọc (rattivikappavāso). Ðều đủ cả 4 chi ấy phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất chỉ khác nhau là điều học trước không được nguyện, không được gửi gọi là phạm vì không làm (akirayā), trong điều học này phạm vì không xả nguyện trước khi mặt trời mọc gọi là phạm vì không làm (akiriyā).

    LỄ DÂNG Y LẦN THỨ 3 (TATIYA KATHINA)

    Nếu vải phát sanh ngoài lễ dâng y(40) (akālacivara) đến tỳ khưu, tỳ khưu được rồi muốn làm y nhưng vải ấy thiếu, không đủ, nếu cố ý để tìm thêm hoặc tin chắc rằng sẽ được vải nữa, nên để vải ấy lâu lắm đến 1 tháng, bằng cất giữ hơn 1 tháng phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do Ngài ngự xem thấy tỳ khưu được vải muốn làm y mà thiếu, song cố ý tìm vải thêm để may y.

    Chỗ sanh tội như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất, chỉ khác nhau là điều học này để quá 1 tháng.

    DẠY TỲ KHƯU NI GIẶT Y (CIVARA DHOVANA)

    Tỳ khưu sai tỳ khưu ni không phải bà con đi giặt y hoặc nhuộm y cũ, phạm ưng đối trị (điều này gọi là purānacivara cũng được).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi sai tỳ khưu ni là vợ cũ đi giặt y.

    Chú giải: Tỳ khưu bảo tỳ khưu ni không phải bà con đi giặt, nhuộm y cũ đã có mặc rồi, dầu chỉ đã mặc rồi 1 lần, cũng phạm ưng xả đối trị.

    LÃNH Y NƠI TAY TỲ KHƯU NI (CIVARAPPAṬIGAHANA)

    Tỳ khưu thọ y nơi tay tỳ khưu ni không phải bà con phạm ưng xả đối trị, trừ ra đổi y với nhau.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Udāyi lãnh y nơi tay tỳ khưu ni.

    XIN Y NƠI NGƯỜI KHÔNG PHẢI BÀ CON (AÑÑATAKAVIÑÑATTI)

    Tỳ khưu xin y nơi người thế không phải bà con, không phải người có yêu cầu, nếu xin được y phạm ưng xả đối trị (trừ ra có duyên cớ nên xin y được, là khi y bị cướp, hoặc bị hư, mất, cháy).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda xin y nơi nhà phú trưởng giả không phải bà con.

    Chú giải: thí chủ là bà con, tỳ khưu tưởng không phải bà con, nghi rồi đi xin phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Xin có duyên cớ(41), hoặc xin nơi bà con, hoặc nơi người có yêu cầu, xin cho người khác, đổi với nhau và tỳ khưu điên đều không phạm tội. Nếu có cớ, đức Phật cho phép xin y nơi người không phải bà con, nếu chưa được xin đi đến chùa trước, dùng y để trong chùa, y để trải giường, nệm của tăng trong chùa này rồi sẽ trả lại cũng nên. Nếu không có ý như thế, nên che mình bằng cỏ hoặc lá cây rồi mới nên đi, nếu đi lõa thể, phạm tác ác. Người thế có đức tin bạch rằng “tôi yêu cầu bố thí 4 món vật dụng, nếu đại đức cần dùng món chi xin cho tôi biết, tôi sẽ dâng” như thế gọi là yêu cầu, người yêu cầu bố thí ngay món nào, nếu cần dùng chỉ nên xin món ấy; dâng sao dùng vậy chẳng nên đòi hỏi thêm. Xin nơi bà con và người yêu cầu của mình, xin cho tỳ khưu khác không phạm.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) nhờ tỳ khưu khác đi xin nơi bà con và người yêu cầu của tỳ khưu cho mình, không phạm tội, có 4 chi: y có thước tất vừa gởi (vikappanupagacivaratā); không có duyên cớ (samayābhāvo); xin nơi người không phải bà con (aññātakaviññattita); xin được (patilābho). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học làm mai dong (sañcarita samuṭṭhāna), phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), vô ý cũng phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacīkamma), có 3 tâm(ticitam), có 3 thọ (tissovedanā).

    TRONG MẤY DUYÊN CỚ ẤY (TADUTTARA)

    Trong mấy duyên cớ ấy, tỳ khưu chỉ được phép xin y nội và y vai trái thôi (antaravāsaka, uttāsanga), nếu xin quá số, xin được thì phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu phe thập thất sư, tìm các tỳ khưu bị mất y rồi dạy đi xin y rất nhiều.

    Chú giải: Tỳ khưu cố ý muốn xin nhiều y nơi người không phải bà con, ra đi mỗi bước phạm mỗi tội ác, nếu xin được y phạm ưng xả đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu nói “ta chỉ làm 2 cái y còn dư ta trả lại”, thí chủ nói “vải còn dư xin để dâng ngài”, xin nơi bà con hoặc người có yêu cầu và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) có 4 chi: vui thích trong y nhiều quá số (taduttarita); không có duyên cớ mất hết y (acchinnādikāramatā); xin y nơi người không phải bà con (aññātakaviññathitā); xin y được để cho mình (patilābho).

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước.

    ĐỊNH GIÁ Y LẦN THỨ NHẤT (PATHAMA UPAKKHATA)

    Nếu thí chủ không phải bà con, không có yêu cầu họ nói sẽ dâng y đến tỳ khưu tên này, tỳ khưu ấy được biết rồi, đi nói cho họ dâng y như vầy, như kia, cao giá tốt hơn y của người đã định dâng, được y phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda dạy người dâng y ca sa cao giá hơn của họ đã định.

    Chú giải: Thí chủ bà con, tưởng không phải bà con, phạm tác ác.

    Thí chủ mua y tốt hoặc giá cao, tỳ khưu dạy mua y xấu hoặc rẻ, hoặc bằng giá y mà họ đã định hoặc xin nơi bà con, nơi người có yêu cầu hoặc của mình nhờ kiếm giùm và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này thuộc về tikkapācittiya, có 3 chi: dạy dâng y cao giá hơn của người đã định (civarabhiyyokamyatā); xin nơi thí chủ không phải bà con (aññātakaviññathitā); được y theo giá định ấy (patilābho). Đều đủ 3 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học “trong mấy duyên cớ ấy”.

    ĐỊNH GIÁ Y THỨ NHÌ (DUTIYA UPAKKHATA)

    Nếu có người thí chủ, họ chung đậu dâng y đến tỳ khưu, từ 2 người trở lên đều là không phải bà con, không phải người có yêu cầu, tỳ khưu đi nói cho họ chung đậu nhau để mua y cao giá hoặc tốt hơn y mà họ đã định dâng ấy, được y phạm ưng xả đối trị.

    Điều học này như trước, chỉ khác nhau là điều học này có nhiều thí chủ.

    10) Các thí chủ nhất là vua (rāja). Nếu có người đem dâng để mua y, họ hỏi tỳ khưu “Bạch ngài, người nào hộ ngài?” Tỳ khưu cần dùng y nên chỉ người hộ (veyyāvaccakaraṇa) hoặc cận sự nam(42) (upāsaka) cho họ biết rằng “người này hộ chư sư trong chùa”. Khi họ đã giao y đến người hộ ấy, rồi đến bạch với tỳ khưu rằng: “Nếu ngài cần dùng y, xin cho người ấy hay. Khi tỳ khưu cần dùng y, nên cho người hộ ấy hay rằng “Ta cần dùng y”, như thế đến 3 lần, nếu không được y nên đi đứng cho vừa người hộ ấy xem thấy, đứng nhiều lắm đến 6 lần, nếu chưa được mà đi đòi cho quá 3 lần, đi đứng quá 6 lần, được y phạm ưng xả đối trị. Nếu đã đi đòi, đi đứng đủ, theo luật định, mà không được y, nên đi cho thí chủ hay hoặc dạy người đi nói rằng “Của ấy không được thành sự lợi ích đến người đâu”. Cho họ đòi của họ lại.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda thúc hối người dâng y lập tức, người hộ vì có việc gấp nên yêu cầu để qua ngày khác mà tỳ khưu Upananda không chịu.

    Chú giải: khi tỳ khưu cần dùng y nên cho hay rằng “Ta cần dùng y”, không nên nói “Ngươi nên dâng y đến ta, đem y đến cho ta”, nói như thế không nên. Nếu đi đòi 2, 3 lần được thì tốt, bằng không được tỳ khưu nên đi đến đứng làm thinh đến 4, 5 lần hoặc 6 lần là nhiều, đừng ngồi, đừng thọ vật chi, đừng nói đạo cho họ. Nếu họ hỏi “Ngài đến có việc chi? Nên đáp “Ngươi hãy nên biết lấy”. Nếu tỳ khưu ngồi, hoặc thọ vật chi của họ, nói pháp cho họ nghe gọi là bỏ oai nghi đứng, làm cho hư hỏng sự đi đến. Nếu tỳ khưu đứng làm thinh, đứng 6 lần là nhiều, được y thì tốt, bằng không được y, tỳ khưu ráng đến đứng quá 6 lần thì phạm tác ác, trong mỗi lần đứng, được y thì phạm ưng xả đối trị. Tỳ khưu chỉ đi đứng, không đòi, đứng được 12 lần, nếu người hộ mà thí chủ chỉ, tỳ khưu đi đòi 100 lần cũng được. Nếu làm cả 2 oai nghi, thì chỉ đi đòi được 3 lần, đứng đến 6 lần.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu đòi theo phép và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) có 4 chi: tỳ khưu chỉ người hộ (kappiyakārakāssābhikkhanoniditthabhāvo); người tay sai nói cho người hộ hay rồi cho tỳ khưu biết nữa (dātena appitatā); ráng đi đòi, đi đứng quá luật định (taduttarivāyamo); được y vì sự ráng sức ấy (tānavāyāmenapatilābho). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học xin y nơi người không phải bà con.

    NGỌA CỤ TRỘN VỚI CHỈ TƠ LẦN THỨ NHÌ (KOSIYAVAGGA)

    Có 10 điều học:

    1) Ngọa cụ trộn với chỉ tơ (kosiya).

    Tỳ khưu làm ngọa cụ bằng lông cừu trộn với chỉ tơ, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tháp Aggālava gần thành Ālavi do phe lục sư dạy người nấu tơ cho nhiều để làm ngọa cụ bằng chỉ tơ.

    Chú giải: dầu làm ngọa cụ có trộn một sợi chỉ cũng phạm ưng xả đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu làm trần thất, làm sáo che, làm nệm, gối và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì người dạy người (sānātika), có 3 chi: làm ngọa cụ trộn với chỉ tơ (kosiyamissakabhāvo); mình làm hoặc dạy người làm cho mình (attano atthāyasantha tassa karanakārāpanaṃ); làm được (patilābho). Ðiều đủ 3 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này có 6 chỗ sanh tội vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), vô ý cũng phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), có 3 tâm (ticitta), 3 thọ (tissovedanā).

    2) Ngọa cụ lông cừu toàn màu đen (suddhakālaka).

    Tỳ khưu làm ngọa cụ lông cừu bằng màu đen, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại phước xá Kūtāgāra, trong rừng Tuyết sơn gần thành Vesāli do phe lục sư làm ngọa cụ bằng lông cừu toàn màu đen.

    3) Ngọa cụ lông cừu là màu đen hơn 2 phần (dvebhāga).

    Tỳ khưu làm ngọa cụ mới phải để lông cừu đen 2 phần, lông trắng 1 phần, lông cừu đỏ 1 phần, thành 4 phần. Nếu không làm như thế rồi để lông cừu đen nhiều hơn 2 phần, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư làm ngọa cụ để lông cừu đen nhiều hơn 2 phần.

    4) Dùng ngọa cụ mới chưa đến 6 năm (chabhassa).

    Tỳ khưu làm ngọa cụ mới phải dùng cho đến 6 năm, nếu chưa đến 6 năm, rồi làm ngọa cụ mới khác, phạm ưng xả đối trị (trừ ra tỳ khưu có bịnh, có tăng cho phép).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu xin lông cừu rất nhiều để làm ngọa cụ.

    5) Làm tọa cụ (nissidanasanthata).

    Tỳ khưu làm tọa cụ phải cắt lấy chung quanh tọa cụ cũ một gang của đức Phật đem may chung với tọa cụ mới, làm cho hoại sắc tọa cụ mới, nếu không làm như thế, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu bỏ rải rác tọa cụ.

    6) Thọ lãnh lông cừu (Elakaloma).

    Khi tỳ khưu đi đường xa, nếu có lông cừu phát sanh đến mình, rồi muốn cần dùng, thì được phép lãnh, nếu không có người hộ, được phép tự mình đem đi xa lắm đến 3 do tuần. Ðem đi xa quá 3 do tuần, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu thọ lông cừu đi xa quá 3 do tuần.

    7) Khiến tỳ khưu ni giặt lông cừu (elakalomadhovāpana).

    Tỳ khưu dạy tỳ khưu ni, không phải bà con đi giặt, hoặc nhuộm, hoặc chải lông cừu, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều này đức Phật cấm chế tại Tịnh xá Nigrodhā gần thành Kāpilavatthu do phe lục sư dạy tỳ khưu ni giặt lông cừu.

    Chú giải: chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) của 6 điều học trên đây như trong điều học “ngọa cụ trộn với chỉ tơ” (kosiya).

    8) Thọ lãnh vàng bạc (rūpiya).

    Tỳ khưu lãnh hoặc dạy người khác lãnh vàng bạc hoặc vui thích ngay vàng hoặc bạc mà người cất giữ cho mình phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại thành Rājagaha do tỳ khưu Upananda thọ vàng bạc.

    Chú giải: vàng lá, vàng cục, bạc hình, bạc cục, bạc nén, bạc giấy... hoặc các vật dùng để mua, bán, đổi thế cho vàng bạc cũng đều gọi là vàng bạc là vật phải xả bỏ. Ngọc ngà, châu báu, 7 thứ lúa, tớ trai, tớ gái, ruộng vườn, trái, bông cây, đều là vật phát sanh tội tác ác. Chỉ gai, vải bông các thứ đậu, mè, thuốc, sữa, dầu mật, nước mía... đều là vật dụng thọ lãnh được, không phạm.

    Trong vật phải xả bỏ, tỳ khưu thọ, hoặc dạy người lãnh cất cho mình, hoặc người cất ngay trước mặt họ nói: “vật này là của ngài”, hoặc vật ấy để nơi kín, chủ chỉ dâng bằng thân, hoặc bằng khẩu, hoặc ra dấu nói như vầy “bạc, vàng của tôi có trong chỗ đó, bạc vàng ấy là của ngài”. Nếu họ nói như thế, tỳ khưu không ngăn cấm, bằng ra dấu hoặc bằng khẩu cũng gọi là vui thích bạc vàng mà họ cất, phạm ưng xả đối trị. Nếu đã phạm nên xả như vầy: ahaṃ bhante rūpiyaṃ paṭiggahesiṃ idaṃ me bhante nissaggiyaṃ imāhaṃ saṅghassa nissajāmi ‒ Nghĩa: Bạch đại đức Tăng, tôi thọ bạc vàng rồi, bạc vàng ấy là của tôi phải xả, tôi xin xả bạc vàng ấy đến tăng.

    Nếu có mặt người thế nơi đó, cho tăng nói với họ rằng “Người hãy biết vật này”. Nếu họ hỏi: “Với của này, tôi phải đem vật chi đến?” Tỳ khưu không nên nói: “Phải đem vật chi chi...”, chỉ nên nói “đem vật nên dùng” (sữa, dầu, mật...). Nếu họ đem các vật ấy đến, các tỳ khưu nên chia nhau dùng, trừ ra tỳ khưu đã thọ bạc vàng ấy, tỳ khưu đã thọ bạc vàng không nên dùng đến. Nếu người thế họ không muốn lấy bạc vàng ấy, tăng nên nhờ họ rằng “Ngươi nên liệng bỏ vật ấy đi”, nếu liệng trong một chỗ nào, hoặc họ lấy đi, chẳng nên ngăn cản, nếu họ không chịu liệng, tăng nên bảo một vị có đủ 5 chi để liệng bạc vàng ấy, không nên định chỗ liệng, nếu định chỗ liệng, tỳ khưu ấy phạm tác ác. Không phải bạc vàng, tưởng là bạc vàng, hoặc nghi, hoặc lãnh bạc vàng cho người khác, nhất là thọ cho tăng hoặc cho tháp, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Họ dâng vàng, hoặc cất để trong nơi khuất mắt, hoặc trước mặt họ nói rằng “Vật này là vật dụng của ngài”. Nếu tỳ khưu có tâm vui thích muốn lấy rồi ngăn cản ra, bằng cách ra dấu, hoặc bằng khẩu rằng “Vật ấy không nên”, hoặc nếu không ngăn cản bằng thân hay khẩu mà có tâm trong sạch, không vui thích, tính rằng là “Vật không nên đến ta”, cũng được, không có tội. Tỳ khưu lấy, hoặc dạy người lấy bạc vàng của người rớt trong chùa, hoặc trong chỗ mình ở, tính rằng “Của người nào, người ấy hãy lại lấy” như thế, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này, phạm tội vì dạy người (sānattika) có 3 chi: vật ấy là bạc vàng, là vật phải xả bỏ (jātarūparajatabhāvo); về phần của mình (attudesikatā); tự mình lãnh hoặc dạy người khác lãnh, hoặc người cất giữ mà mình vui thích (patiggahanādisu aññatarabhāvo). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học làm mai dong, chỉ khác nhau là điều học này phạm vì lãnh (siyā kiriyā) và phạm vì không làm là không ngăn cản (siyā akiriyā) bạc vàng mà họ cất giữ cho.

    9) Mua, bán, đổi vàng bạc (rūpiyasamvohāra).

    Tỳ khưu mua bán, đổi vàng bạc là vật mà người dùng thế cho vàng bạc, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá gần thành Sāvatthī do phe lục sư mua bán, đổi vàng bạc.

    Chú giải: chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) có 2 chi: vật đã đổi được hoặc của mình đem đi đổi (yamattanodhane parivateti tassavā dhanassavārūpiyabhāvoceva); thành tựu được trong việc mua bán, đổi (parivatanañca). Đều đủ 2 chi ấy phạm tội ưng xả đối trị.

    10) Mua, bán, đổi vật y, bát (kayavikaya).

    Tỳ khưu mua, bán, đổi các vật nhất là y, vật thực với người thế phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda đổi y.

    Chú giải: Tỳ khưu nói với người thế “ngươi hãy cho vật này”, do vật này hoặc ngươi lấy vật này cho vật kia cho tôi, lấy vật này, đổi vật này như thế, phạm tác ác, đổi được phạm ưng xả đối trị. Lấy vật của người gọi là mua, đem của mình cho người gọi là bán, cho nên tỳ khưu đưa vật của mình, lấy vật của người như thế, trừ ra hạng người xuất gia (sa di), tỳ khưu dầu là của cha mẹ, nếu nói tiếng “đổi”, thì phạm ưng xả đối trị. Tỳ khưu cho vật thực hoặc vật gì khác đến người thế rồi nói người nên dùng vật này, rồi đem vật kia đến cho tôi hoặc làm việc này cho tôi hoặc làm việc kia cho tôi rồi dạy lấy nước nhuộm hoặc vật khác hoặc dạy đào đất, làm cỏ... như thế phạm ưng xả đối trị. Nếu có vật phải xả, bằng không có vật xả thì sám hối tội ưng xả đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu hỏi giá rằng: của giá bao nhiêu hoặc muốn lấy vật gì nơi tay người ấy, nhờ kẻ khác, dầu là bà con của chủ vật ấy tiếp đổi giùm, rằng “ngươi hãy lấy của này, đổi vật kia lại cho ta”, hoặc nói không ra dấu, như người đi đường chỉ có gạo mà muốn được cơm nên nói với chủ cơm rằng: “Ta có gạo, không cần dùng, ta cần dùng cơm” như thế, chủ lấy gạo đi, cho cơm lại tỳ khưu, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: của mình đem đi đổi hoặc của người đổi lại (tesaṃkappiyavatthutā); chủ của ấy là người thế (asahadhammikatā); đổi như cách đã nói (kāyavikkayāpajjanaṃ). Đều đủ cả 3 chia ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ phạm tội như trong điều học thọ lãnh vàng bạc.

    BÌNH BÁT LẦN THỨ BA (PATTAVAGGA)

    Có 10 điều học.

    1) Bình bát dư (patta).

    Bình bát chưa gởi, chưa nguyện gọi là bình bát dư. Tỳ khưu cất giữ bình bát dư ấy lâu lắm đến 10 ngày, nếu cất giữ quá 10 ngày phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư cất giữ nhiều bình bát.

    Chú giải: Bình bát có 2 thứ: bình bát sắt và bình bát đất vừa cho Sa-môn dùng mới nên nguyện và gởi.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina).

    2) Bình bát chưa nứt bể đến 5 chỗ (onapancabhanna).

    Bình bát nứt bể 2 ngón tay gọi là nứt bể 1 chỗ, tỳ khưu có bình bát nứt bể chưa bể chưa đủ 5 chỗ, nghĩa là có nứt bể chưa đủ 10 ngón tay, rồi đi xin bình bát mới nơi người thế không phải bà con, nơi người không có yêu cầu, nếu xin được, phạm ưng xả đối trị.

    Điều học này đức Phật cấm chế tại Nigrodha tịnh xá gần thành Kapilavatthu do chư tỳ khưu xin bình bát mới nhiều.

    Chú giải: Tỳ khưu phạm ưng xả đối trị phải xả bình bát trước mặt 5 vị tỳ khưu trở lên, 5 tỳ khưu thế mặt cho tăng ấy là người đổi bình bát. Nên đem bình bát của vị cao hạ đem dâng cho vị thấp hạ, đổi theo thứ tự, lần xuống như thế, cho đến tỳ khưu ngồi sau cuối cùng chư tăng, rồi lấy bình bát của tỳ khưu này, cho tỳ khưu xả ấy và nói “bình bát của ngài, ngài hãy dùng cho đến bể không bỏ, không nên cho ai”.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu có bình bát nứt hoặc bể, xin nơi bà con, nơi người có yêu cầu của mình, nơi bà con và người có yêu cầu của tỳ khưu khác, xin cho vị khác hoặc kiếm do của mình và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika) có 4 chi: bình bát nên nguyện, nứt bể chưa đủ chỗ (onapancahaṃdanattā); xin cho mình (attuddesikatā); xin nơi người không phải bà con, không có yêu cầu (agataviññattitā); xin được (patilābho). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm tội ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học “khiến tỳ khưu ni giặt lông cừu” (ekaloma dhovāpana).

    3) Thuốc chữa bịnh (bhesajja).

    Tỳ khưu lãnh 1 trong 5 thứ thuốc là: sữa lỏng, sữa đặc, dầu, mật ong, nước mía, chỉ được phép để dành dùng lâu lắm là đến 7 ngày, nếu quá 7 ngày, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu cất giữ thuốc ấy lâu ngày.

    Chú giải: Tỳ khưu cất giữ 1 trong 5 thứ thuốc ấy đến mặt trời mọc ngày thứ 8, phạm ưng xả đối trị. Kể theo mỗi thứ thuốc, nếu đựng chung trong 1 chỗ phạm 1 tội. Thuốc xả rồi, dùng thoa, xức được, uống không được.

    Cả 5 thứ thuốc ấy, nếu đã giao cho người chưa thọ tỳ khưu giới (sa di, thiện tín) trong 7 ngày được lại dùng không phạm. Tỳ khưu đã thọ rồi, tính dùng, rồi để cho quá 7 ngày mới phạm ưng xả đối trị, nếu không tính uống để thoa xức, dầu quá 7 ngày cũng không phạm tội.

    4) Y tắm mưa (vassikasātikā).

    Còn 1 tháng hết mùa nóng, kể từ 16 đến cuối tháng 5, trong nửa tháng ấy là hạn định cho tỳ khưu phải kiếm y tắm mưa, từ ngày mùng 1, đến rằm tháng 6, trong nửa tháng này, tỳ khưu phải kiếm và làm cho xong y tắm mưa và mặc cũng được, nếu kiếm, làm, mặc sái thì giờ đã định, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư kiếm làm, mặc y tắm mưa trước thì giờ đã định.

    Chú giải: Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu có y bị trộm cướp hoặc mất và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anānattika pariyesanāpatti)(43) có 3 chi: y tắm mưa của mình; tìm kiếm ngoài hạn kỳ; xin được. Navāsanāpatti(44) có 4 chi: không có hư mất; tỳ khưu có y đều đủ; y tắm mưa của mình; mặc ngoài hạn kỳ.

    Chỗ sanh tội như trong điều học “khiến tỳ khưu ni giặt lông cừu”.

    5) Đòi y (civarācchindana).

    Tỳ khưu đã cho y đến vị khác, rồi giận đòi lại hoặc dạy kẻ khác đòi lại, đòi y được, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda cho y đến tỳ khưu rồi giận mà đòi lại.

    Chú giải: Không phải tỳ khưu tưởng là tỳ khưu, sa di tưởng là tỳ khưu hoặc nghi, hoặc biết là sa di rồi đòi lại hoặc cho các y phục tùng khác đến tỳ khưu, rồi đòi lại, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Người được y vui, hoặc giận rồi trả y lại và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 5 chi: y có thước tấc nên gởi (vikkappanupaga pacchimacivaratā); chính tay mình cho (sāmaṃdinnatā); tưởng là của mình (sakkhasaññatā); người đi theo là tỳ khưu (upasaṃpannatā); chính mình đòi hoặc dạy kẻ khác đòi y vì giận (kodhavasena acchintanaṃ vā acchindāpanaṃ vā). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna) chỉ khác nhau là điều này thuộc về thọ khổ.

    6) Xin chỉ nơi người không phải bà con (suttavinnatti).

    Tỳ khưu xin chỉ nơi người thế không phải bà con, không phải người có yêu cầu đem cho thợ dệt y, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha.

    Chú giải: khi thợ dệt sắp sửa dệt, phạm tác ác, mội lần dệt phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Xin chỉ để may vá các thứ y hoặc cho thợ dệt bà con hoặc người có yêu cầu, xin cho kẻ khác, kiếm do của mình và tỳ khưu điên đều không phạm tội

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: xin chỉ để dệt y; cho mình; cho người thợ dệt và xin chỉ nơi người không phải bà con hoặc không phải người có yêu cầu. Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học “khiến tỳ khưu ni giặt lông cừu”.

    7) Thợ dệt (mahapesakāra).

    Người thế không phải bà con, không có yêu cầu, họ cho thợ dệt y để dâng đến tỳ khưu. Nếu tỳ khưu đi nói với thợ, cho họ dệt y tốt rồi thưởng thêm, được y, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda nói với thợ dệt cho tốt rồi thưởng thêm.

    Chú giải: Tỳ khưu nói với thợ dệt: “người hãy dệt cho dài, cho lớn, cho mịn, cho tốt, khéo”, như thế, rồi đem vật chi chẳng hạn cho thợ (hoặc cho vật thực), nếu thợ dệt thêm chỉ rồi theo lời dạy, trong mỗi lần dệt phạm tác ác, dệt xong đem về phạm ưng xả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trên, nhưng đây có 4 chi: tỳ khưu dạy thợ dệt của thí chủ không phải bà con, không có yêu cầu (vikappamāpajjanatā); cho mình (attuddesikatā); thợ dệt thêm chỉ theo lời tỳ khưu (suttavaddhanaṃ); được y (civarapatilābho).

    8) Cất giữ y quá hạn kỳ (accekacivara).

    Còn 10 ngày nữa đến kỳ lễ tự tứ, là từ ngày mùng 5 tháng 9 nếu có thí chủ muốn dâng y nhập hạ gấp đến tỳ khưu, tỳ khưu nên thọ để dành đến hết hạn kỳ giữ y, nếu để cho quá hạn, phạm ưng xả đối trị.

    Hạn kỳ giữ y ấy như vầy: nếu đã nhập hạ rồi không được thọ lễ dâng y, hạn kỳ giữ y chỉ có 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 đến rằm tháng 10, nếu có thọ lễ dâng y thì hạn kỳ giữ y có 5 tháng, kể từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 2 (5 tháng ấy gọi là hạn kỳ giữ y).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu không dám lãnh y gấp vì chưa có lịnh cho.

    Chú giải: Y gấp vì người mắc đi chinh chiến, người có bịnh, hoặc phụ nữ sắp sanh sản, hoặc có người đức tin mới xin dâng y đến tăng trong ngày mùng 5 tháng 9. Y như thế tỳ khưu thọ rồi nên để dành cho sự dứt hạ sẽ đem dâng lại cho tăng, nếu không dứt hạ, cất giữ đến hết hạn kỳ giữ y, không gởi, không nguyện cũng được. Nếu cất giữ cho quá kỳ giữ y, phạm ưng xả đối trị. Y ngoài kỳ hạn ấy, kể từ ngày 16, nếu không được thọ lễ dâng y thì được phép cất giữ đến rằm tháng 10 (trong 1 tháng), được thọ lễ dâng y thì được phép cất giữ đến rằm tháng 2 (trong 5 tháng) gọi là hạn kỳ y.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathama kathina) chỉ khác nhau là điều học này có 4 chi: y dâng cúng gấp có thước tấc, dầu nhỏ hơn hết là vừa gởi vừa nguyện (accekacivarassa attanosantakatā); y phát sanh từ ngày mùng 5 tháng 9 (uppannabhāno); y không được gởi, không được nguyện (anadhiṭṭhita avikappitatā); qua khỏi hạn kỳ giữ y (civarakālātikkamo). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng xả đối trị.

    9) Chỗ nguy hiểm (sālaṅka).

    Tỳ khưu nhập hạ trong rừng là nơi có điều lo sợ, khi ra hạ rồi, còn trong tháng là (1 tháng) từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10, nếu muốn để 1 trong 3 y nào trong xóm, chỉ được phép để trong 1 tháng ấy, khi có cớ đi khỏi nơi ấy được phép xa lìa y ấy chỉ trong 6 đêm, xa lìa quá 6 đêm thì phạm ưng xả đối trị, trừ ra có tăng chứng nhận cho.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu để y trong xóm quá 6 đêm, làm cho y phải hư mất.

    Chú giải: Khi có đều đủ 4 chi, đức Phật cho phép gởi 3 y trong xóm được, 4 chi là: tỳ khưu nhập hạ ngày 16 tháng 6 và được làm lễ tự tứ (pavāraṇā); từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10; chỗ ở trong rừng xa xóm, ít lắm là 500 cây cung(45); chỗ ở trong rừng có điều lo sợ, nghĩa là trong chùa hoặc nơi gần chùa là chỗ ở, chỗ ăn, chỗ ngồi của bọn cướp, thấy rõ rệt, chỗ ở có điều lo sợ là trong chùa hoặc nơi gần chùa, bọn cướp giựt đánh phá người cũng thấy rõ. Ðều đủ cả 4 chi như thế, tỳ khưu được phép gởi tam y trong xóm chỉ trong 1 tháng. Nếu hữu sự, tỳ khưu muốn đi khỏi nơi ấy, chỉ nên xa lìa tạm lâu lắm là 6 đêm, nếu xa lìa quá 6 đêm không trở lại chỗ ở trong rừng hoặc nơi xóm, gởi y ấy trong 6 đêm, qua ngày thứ 7 mặt trời mọc lên, phạm ưng xả đối trị (trừ ra tỳ khưu có bịnh, có tăng cho phép xa lìa tam y).

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhì (ditiyakathina).

    10) Đoạt lợi về cho mình (parinata).

    Tỳ khưu biết rằng: lợi mà thí chủ họ sẵn dành để dâng đến tăng rồi đoạt về cho mình, phạm ưng xả đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do phe lục sư đoạt y về cho mình, phạm ưng xả đối trị.

    Chú giải: Tỳ khưu biết rằng lợi ích của tăng là 4 vật dụng họ để dâng cho tăng, bằng lời “chúng ta sẽ dâng y đến tăng”. Tỳ khưu biết như thế rồi đoạt về cho mình, trong mỗi lời nói khuyên người dâng đến mình ấy, phạm tác ác, nếu đoạt được thì phạm ưng xả đối trị.

    Lợi mà thí chủ đã dâng cho tăng, rồi tỳ khưu nghi, tính đoạt về cho mình, lợi mà họ dâng đến 1 giáo hội, tính đoạt về 1 giáo hội khác, hoặc cho tháp, như thế phạm tác ác. Lợi mà họ tính dâng cho 1 tháp rồi đoạt về cho tháp khác, hoặc đoạt về cho tăng, cho tỳ khưu, hoặc lợi mà họ để dâng cho tỳ khưu, nói cho cùng, họ để cho chó, rồi tỳ khưu tính đoạt về cho tỳ khưu hoặc cho chó khác, hoặc lợi mà họ chưa dâng, tỳ khưu tưởng đã dâng, nghi, đoạt về cho mình, cho người khác, đều phạm tác ác (trong khi nói).

    Thể thức không phạm tội: Lợi của họ đã dâng rồi, tỳ khưu tưởng chưa dâng rồi nói họ dâng cho mình, cho người khác, hoặc thí chủ hỏi “tôi nên dâng cho ai?” Tỳ khưu đáp “Ngươi có đức tin nơi nào nên dâng đến nơi ấy” nói như thế, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: lợi mà thí chủ đã dâng đến tăng rồi (saṅgheparinatabhāvo); đã biết rồi mà còn về đoạt về cho mình (attanopariṇāmanaṃ); được lợi (patilābho). Đều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng cả đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trộm cắp (sikkhāpada adinnādānā samuṭṭhāna).

    V. ƯNG ĐỐI TRỊ (PĀCITTIYA)

    Pācittiya nghĩa là tội làm cho thiện pháp phải sa sẩy. Tàu dịch là “Ưng đối trị”, nghĩa là không phải như tội cất chứa y, bình bát trái phép, cho nên không phải xả, chỉ nên sám hối trước mặt 1, 2, 3 tỳ khưu hoặc giữa tăng thì được khỏi tội.

    Có 92 điều học chia làm 9 phần: nói dối phần thứ nhất (musāvādavagga) có 10 điều học; thảo mộc phần thứ nhì (bhūtagāmavagga) có 10 điều học; dạy pháp phần thứ ba (ovādavagga) có 10 điều học; vật thực phần thứ tư (bhojanavagga) có 10 điều học; đạo lõa thể phần thứ năm (accelokavagga) có 10 điều học; uống rượu phần thứ sáu (surā pānavagga) có 10 điều học; giết côn trùng phần thứ bảy (sappānakavagga) có 10 điều học; nói theo pháp phần thứ tám (saha dhammikavagga) có 12 điều học; trong đền vua phần thứ chín (rājavagga) có 10 điều học. Tổng cộng có 92 điều học.

    NÓI DỐI - PHẦN THỨ NHẤT (MUSĀVĀDAVAGGA)

    Có 10 điều học

    1) Nói dối (musāvādā).

    Tỳ khưu nói dối phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Hatthaka nói dối.

    Chú giải: Tỳ khưu trước khi nói, trong khi nói biết là sự không sự thiệt, rồi ra dấu giả dối, như có hỏi hỏi “thấy hay không thấy” rồi dối, lúc lắc đầu cho người biết là không thấy, hoặc nói dối phạm ưng đối trị.

    Tỳ khưu nói dối để khoe pháp bậc cao nhơn, phạm bất cộng trụ: nói dối vô cớ để cáo tỳ khưu khác phạm bất cộng trụ thì phạm tăng tàn, nói dối vô cớ để cáo gian tỳ khưu khác phạm tội tăng tàn thì phạm ưng đối trị, nói dối cáo gian tỳ khưu khác phạm tội làm quấy thì phạm tác ác, người nghe hiểu biết ý nghĩa thì phạm trọng tội, người nghe không rõ ý nghĩa thì phạm tác ác.

    Tỳ khưu nói dối: thấy, nói không thấy; nghe nói không nghe; biết rằng mũi, lưỡi, thân, mà nói không biết; hoặc không thấy, không nghe, nói có thấy, có nghe; không biết, nói biết; tâm không biết, nói rằng biết, như thế phạm ưng đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Chưa suy nghĩ rồi nói gấp hoặc tính nói như vầy rồi nói lộn lời khác, sai lời thiệt và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác nói (anāṇattika), có 2 chi: tính nói lời không thiệt (visaṃvādanapurekkhāratā); ra dấu hoặc nói cho người nghe hiểu sự lý mà mình cố ý muốn nói sai lời thiệt (viññā pana payogo). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trộm cắp (adinnādana sikkhāpada).

    2) Chửi mắng (omasavāda).

    Tỳ khưu chửi rủa hoặc mắng nhiếc vị khác, phạm ưng đối trị.

    Điều học này, Đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Xá Vệ, do phe lục sư chửi mắng tỳ khưu có giới trong sạch.

    Chú giải: Tỳ khưu chửi mắng ngay trước mặt, phạm ưng đối trị, chửi mắng sau lưng thì phạm tác ác, kể theo mỗi tiếng chửi. Tỳ khưu cố ý chửi để giễu chơi thì phạm tác ác, kể theo mỗi tiếng chửi.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu không cố ý chửi mắng, nói đạo, dạy đạo, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Điều học này không phạm tội vì dạy người khác chửi (anāpattika), có 4 chi: chửi tỳ khưu (tassa upasampannattā); chửi trước mặt (jāti ādihi akkosanaṃ); người bị chửi biết rằng mình bị chửi (mamakkosatitijānanatā); không phải nói đạo, thuyết pháp dạy người (atthadhamma purekkhāratādinābhāvo). Đều đủ cả 4 chi ấy thì mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādana sikkhāpada). Chỉ khác nhau là trong điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    3) Lời đâm thọc (pesuñña).

    Tỳ khưu nói lời đâm thọc vị khác, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do phe lục sư nói dối đâm thọc các vị tỳ khưu khác.

    Chú giải: Tỳ khưu nghe vị khác chửi tỳ khưu với nhau, rồi cố ý muốn cho người chửi ấy thương mình hoặc muốn cho cả 2 người chia rẽ nhau rồi nói lời đâm thọc, đem lời chửi của vị này, đến nói với vị kia, phạm ưng đối trị, đều đủ mỗi tiếng. Nếu đem lời của tỳ khưu chửi không nói ngay đến tỳ khưu bị chửi, hoặc đem lời của sa di chửi đến cho tỳ khưu hay, hoặc đem lời chửi của sa di đến cho sa di hay, đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu không cố ý muốn cho vị bị chửi thương mình, hoặc không muốn cho cả 2 vị chia rẽ nhau và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người đâm thọc (anāṇattika), có 3 chi: được nghe lời người chửi (không phải do người khác mà biết) rồi đem nói lại cho người bị chửi (jāti ādihi... bhikkhussa upasaṃharaṇaṃ); muốn cho người bị chửi thương yêu mình hoặc muốn cho 2 người chia rẽ nhau (piyakamyatā bhedādhippāyesu aññataratā); người bị chửi hiểu biết sự lý (tassa vijjānanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādanā sikkhāpada).

    4) Dạy kệ pháp (padasodhamma).

    Tỳ khưu dạy kệ pháp đến người chưa tu lên bực trên (upasampanna) đọc chung cùng nhau phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư dạy kệ đến người chưa tu lên bực tỳ khưu và đọc chung cùng nhau.

    Chú giải: như “rūpaṃ aniccaṃ” gọi là 1 câu đầu, câu sau như “vedanā aniccā” gọi là câu nối (anupada), tỳ khưu khi dạy pháp làm bằng kệ rằng: asevanācabālānaṃ, đọc rồi sa di đọc theo, tỳ khưu đọc chung cùng nhau với sa di, rồi đọc tiếp nối thêm asevanā cabālānaṃ, đọc chung cùng nhau như thế phạm ưng đối trị, kể theo mỗi câu. Tỳ khưu dạy pháp 1 lần 2 câu như là “asevanācabālānaṃ pandiṭānañca sevanā” rồi trở lại đọc nữa với sa di, sa di đọc câu đầu không kịp, đọc theo kịp câu thứ nhì thì rằng “panditā nañca sevanā” chung cùng với tỳ khưu như thế gọi là trước đọc khác nhau, sau đọc chung cùng nhau, phạm ưng đối trị kể theo câu sau. Tỳ khưu dạy sa di đọc “rūpaṃ aniccaṃ vedanā aniccā”, rồi tỳ khưu chỉ đọc được rūpaṃ aniccaṃ, sa di lẹ miệng đọc đến vedanā aniccā là câu nối tiếp liền theo câu aniccaṃ như thế phạm ưng đối trị, kể theo mỗi câu.

    Thể thức không phạm tội: Học Pāli chung với sa di hoặc học nơi sa di hoặc đọc chung nhau, tụng kinh đã đọc thuộc lòng rồi hoặc sa di tụng sai, tỳ khưu dạy rằng “đọc như vầy” rồi đọc chung cùng nhau, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: người chưa tu lên bậc tỳ khưu (anupassam pannatā); dạy học pháp bằng câu kệ (vuttalakkhanaṃ dhammaṃ padaso vācanatā); đọc dính chung cùng nhau (ekato osāpanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội là dạy pháp bằng kệ (padasodhamma samuṭṭhāna), phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), không cố ý cũng phạm, phạm tội vì Phật cấm (pannattika), khẩu nghiệp (vācikamma), có 3 tâm, 3 thọ.

    5) Nằm chung trong chỗ có che lợp lần thứ nhất (pathamasahaseyya).

    Tỳ khưu nằm trong chỗ có dừng, lợp chung với người chưa tu lên bực trên(46) (upasaṃpanna) quá 3 đêm phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tháp Aggālava gần thành Aggalavi, do tỳ khưu mới xuất gia ngủ quên trong phước xá chung cùng với cư sĩ.

    Chú giải: Tỳ khưu ngủ trong nơi dừng kín, hoặc lợp kín, hoặc lợp nhiều, dừng nhiều chung với người chưa tu lên bực trên (trừ ra tỳ khưu với nhau), dầu ngủ chung với súc sanh có khiếu có thể sanh tội bất cộng trụ, quá 3 đêm, phạm ưng đối trị, kể từ đêm thứ 4. Chỗ ở có dừng vách không chí với nóc, cao 1 hắc, 1 gang chung quanh gọi là “chỗ ở dừng kín” hết, cho nên chỗ ở như thế dầu là lầu 7 tầng hoặc nhà 4 mặt, có 100 phòng, nếu có 1 cửa ra vào chung cùng nhau, cũng gọi là chỗ ở chung cùng nhau. Tỳ khưu ngủ chung cùng người chưa tu lên bực trên, trong chỗ ở như thế đến 3 đêm, rồi qua ngày thứ 4, khi mặt trời đã lặn, người ấy nằm trước tỳ khưu đóng cửa phòng hoặc không đóng rồi nằm, hoặc tỳ khưu nằm trước, người ấy nằm sau mà tỳ khưu không ngồi dậy thì phạm ưng đối trị, kể theo mỗi lần nằm xuống và ngồi dậy với người ấy và kể theo số người (sa di, cư sĩ) nằm trong nơi ấy. Tỳ khưu mà tưởng là sa di hay là cư sĩ hoặc nghi rồi nằm phạm tác ác. Chỗ ở lợp phân nửa dừng phân nửa, lợp kín dừng ít, lợp nhiều dừng ít, dừng kín lợp ít, dừng nhiều lợp ít, đều là vật cho phát sanh tội tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Chỗ ở lợp kín, không dừng hoặc không lợp mà dừng kín hoặc không lợp nhiều, không dừng nhiều đều là vật không cho phát sanh tội, ngủ đến 2 hay là 3 đêm hoặc trong đêm thứ 3, ra trước mặt trời mọc rồi ở thêm nữa đến đêm thứ 4, sa di, cư sĩ nằm, tỳ khưu ngồi hoặc tỳ khưu nằm, đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người nằm (anāṇattika) có 3 chi: chỗ ở cho sanh tội ưng đối trị (pācittiyavatthu senāsanaṃ); nằm cùng người chưa tu lên bực trên, trong nơi ấy (tattha anupasampanne sahanipajjanaṃ); mặt trời đã lặn trong ngày thứ 4 (catutthadi vasesuri yatthamgamanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakaloma samuṭṭhāna).

    Phạm tội do thân, do thân ý, phạm vì làm (kiriyā) không khỏi phạm vì tưởng (nosaññā vimokkha) vô ý cũng phạm (acittaka), tội vì Phật cấm (paṇṇattivajja) thân nghiệp (kāyakamma) có 3 tâm, 3 thọ.

    6) Nằm chung trong chỗ kín lần thứ nhì (dutiyasahaseyya).

    Tỳ khưu nằm trong chỗ lợp, dừng chung cùng phụ nữ, dầu chỉ trong 1 đêm, cũng phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do đức Anuruddha vào ngụ chung trong nhà với phụ nữ.

    Chú giải: Dầu nằm chung với phụ nữ mới sanh 1 ngày cũng phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trước, chỉ khác nhau là điều học này dầu nằm chung chỉ trong 1 đêm cũng phạm.

    Tỳ khưu nằm chung với tinh nữ, ngạ quỉ nữ có thân hình rõ rệt, bộ nấp và thú cái là vật cho sanh sự hành dâm, phạm tác ác.

    7) Thuyết pháp đến phụ nữ (dhamma desanā).

    Tỳ khưu nói pháp quá 6 tiếng đến phụ nữ, không có người nam, biết nghe chung với, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu nói pháp đến phụ nữ.

    Chú giải: Tỳ khưu nói pháp quá 6 tiếng như đã giải trong điều học “dạy kệ đến người chưa tu lên bực trên” (padasodhamma), đến phụ nữ biết nghe lời quấy phải và lời thô tục, phạm ưng đối trị, kể theo số phụ nữ, theo câu kệ, trừ ra có người nam biết nghe ở chung với, như đã có nói trong điều học “bất định thứ nhì” thì không phạm tội. Không phải phụ nữ, tưởng là phụ nữ hoặc nghi rồi mới nói pháp đến tinh nữ, ngạ quỉ nữ, bộ nấp và thú cái có thân hình như người thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu chỉ nói pháp đến 6 tiếng, hoặc ít hơn 6 tiếng hoặc có người nam như đã có giải ở chung với hoặc tỳ khưu nói rồi ngồi xuống, rồi nói tiếp thêm, hoặc phụ nữ đứng dậy, rồi ngồi xuống, rồi tỳ khưu nói tiếp thêm, hoặc nói pháp đến phụ nữ khác, hoặc phụ nữ hỏi đạo, tỳ khưu đáp và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người nói pháp (anāṇattika) có 5 chi: nói pháp quá 6 tiếng (channaṃ vāpānaṃ uparidesanā); phụ nữ như đã có giải (vuttalahhkanomātugāmo); không thay đổi oai nghi (iriyā patha parivattanābhāvo); không có người nam biết nghe ở chung với (viññupurisābhāvo); không có sự luận đạo (apanhavisajjanā). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học “dạy kệ pháp đến phụ nữ” (padasodhamma samuṭṭhāna) chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm và không làm (kiriya akiriyā) làm là: thuyết quá 6 tiếng, vì không làm là “không đổi oai nghi”.

    8) Khoe sự thiệt (bhūṭṭārocana).

    Tỳ khưu khoe pháp bậc cao nhơn mà tự mình đã đắc, đến người chưa tu lên bực trên, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Phước xá Kūtāgāra gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu khoe pháp cao nhơn cùng nhau.

    Chú giải: Tỳ khưu khoe pháp bậc cao nhơn như là đắc thiền định mà chính mình đã được, đến người chưa tu lên bực trên, phạm ưng đối trị.

    9) Khai tội nặng (duṭṭhullārocana).

    Tỳ khưu nói tội nặng (là tội tăng tàn) mà vị khác đã phạm, đến người chưa tu lên bực trên, phạm ưng đối trị, trừ ra tăng cho phép nói.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nói tội tăng tàn của tỳ khưu Upananda đến người thế.

    Chú giải: không phải tội nặng tỳ khưu tưởng là tội nặng, nghi rồi nói hoặc nói phạm 5 tội khác (trọng tội, ưng đối trị,...) đến người chưa tu lên bực trên, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Nếu chỉ nói ngay điều học rằng: Tỳ khưu này cố ý cho tinh di hoặc đụng chạm phụ nữ hoặc chỉ tội rằng: Tỳ khưu này phạm tăng tàn, phạm trọng tội, hoặc tăng cho phép nói đến đâu thì nói đến đó và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác nói (anāṇattika), có 3 chi: nói tội tăng tàn của tỳ khưu cả và cách phạm tội (savatthukosaṅghādiseso); nói đến người chưa tu lên bực trên (anūpasampannassa ārocanaṃ); tăng không cho phép (bhikkhusammatiyābhāvo). Đều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học “trộm cắp”, chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ.

    10) Đào đất (pathāvīkhanana).

    Tỳ khưu đào đất, hoặc dạy người khác đào đất bằng lời không nên, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Tháp Aggālava gần thành Ālavi do phe Tỳ khưu Alavi đào đất và dạy người khác đào đất.

    Chú giải: Đất có 2 thứ: đất có đất nhiều hơn các vật khác (jātapathavi) và đất có đất ít hơn các vật khác. Đất thứ nhất toàn là đất phân, đất sét, đất có đá ít, có sỏi ít, có cát ít, có phần đất nhiều, có đất sét nhiều, hoặc đất mà họ chưa từng đốt, hoặc đống phân đất, đống đất sét mà chưa có mưa xuống nhằm trên 4 tháng gọi là đất phì (đất tốt). Đất thứ nhì: đất toàn là đá, toàn là sỏi, toàn là cát có đất phần ít, có đất sét ít có cát nhiều, đất đã có người đốt rồi gọi là đất chai (ajātapathavi); lại nữa, đống phân đất nào, đống đất sét nào mà mưa rớt nhằm ít hơn 4 tháng cũng gọi là đất chai. Đất toàn là sỏi, đá, cát thì không phạm tội. Tỳ khưu cố ý đào hoặc dạy người đào bằng lời không nên, làm cho đất nẻ, bể, lở, phạm ưng đối trị, kể theo mỗi lần làm. Tỳ khưu dạy nói “ngươi hãy đào, xô, xoi, bươi cuốc đất này” thì phạm tội, người chịu dạy, dầu đào suốt ngày, chỉ phạm 1 tội ưng đối trị thôi, người dạy nhiều lần phạm nhiều tội ưng đối trị. Đất tỳ khưu nghi, không phải đất tưởng là đất, hoặc nghi rồi làm cho cử động, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Ðất cục không dính với đất liền, đất lở không phạm, hoặc nói “ngươi hãy biết cái lỗ cột này, ngươi hãy cho tôi đất này, ngươi hãy lầy đất này cho tôi, tôi cần dùng đất”, không cố ý làm cho cử động, hoặc dùng ngón chân, tay, xủi đất, hoặc tưởng không phải là đất đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika) có 3 chi: chất đất phì (jītapathavitā); biết là đất (pathavisaññitā); tự mình đào hoặc dạy người khác đào (khananakhanāpanānaṃ aññataraṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội.

    Chỗ sanh tội như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna), chỉ khác nhau là trong điều học này phạm tội vì Phật cấm (pannattivajja) có 3 tâm, 3 thọ.

    THẢO MỘC - PHẦN THỨ NHÌ (BHŪTAGĀMAVAGGA)

    Có 10 điều học:

    1) Phá hoại thảo mộc (bhūtagāma).

    Tỳ khưu phá hoại cây cỏ sanh, mọc trên đất hoặc trong 1 nơi nào, cho đứt lìa, gãy, tét, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Tháp Aggalava gần thành Aggāvi, do tỳ khưu đốn cây làm các công việc.

    Chú giải: Các thứ cây cỏ, dầu nhỏ nhen đến đâu (rong rêu), mọc trong một nơi nào chẳng hạn, tỳ khưu đã biết mà tự mình hoặc dạy kẻ khác nhổ, chặt, bẻ làm cho lìa khỏi chỗ nó mọc, phạm ưng đối trị. Các thảo mộc mà người đã đào đã nhổ khỏi chỗ nó mọc dầu không có rể, mụt, củ, hột... mà còn giống (bījagāma), họ đem để trong đồ đựng hoặc cất trong một nơi nào (có thể còn gieo trồng nữa được) mà tỳ khưu làm hại thì phạm tác ác. Nghi trong thảo mộc, hoặc các thứ giống thảo mộc, không phải thảo mộc tưởng là thảo mộc hoặc giống của thảo mộc, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Thảo mộc hoặc giống của thảo mộc tưởng là không phải rồi làm hại, tỳ khưu điên vô ý hoặc kéo cây, lăn đá mà thảo mộc chết đều không phạm tội. Không cố ý giết hại, không cố ý nhớ như tỳ khưu nói chuyện cùng nhau mà lấy ngón chân hoặc tay làm hại thảo mộc cũng không phạm tội, hoặc nói: người nên biết bông cây này, người nên biết trái cây này, người nên lấy bông cây này, trái cây này đem cho tôi, tôi cần dùng bông cây này, trái cây này, người nên làm bông cây này, trái cây này cho tôi dùng được; nói như thế không phạm tội. Khi ăn rau, cần phải nhờ sa di hoặc thiện tín làm cho có thể ăn được khỏi phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: thảo mộc (bhūtagāmo); biết là thảo mộc (bhūtagamasaññitā); tự mình hoặc dạy kẻ khác phá hoại (vikopanaṃ vāvikapāpanamvā). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học đào đất (paṭhavīkhaṇanaṃ).

    2) Lời nói tráo trở (aññavādaka).

    Tỳ khưu làm quấy, tăng đã gọi đến hỏi tra mà cố ý nói tráo trở, hoặc nín thinh không nói. Nếu tăng đã tụng lời khuyên răn, mà còn giữ thái độ như thế phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Ghosita gần thành Kosambi do tỳ khưu Channa làm quấy, đến tăng hỏi mà nói lời tráo trở.

    Chú giải: Tỳ khưu cố ý muốn giấu lỗi, nói tráo trở như nói “ai phạm, phạm tội gì, phạm chỗ nào”, nói như thế hoặc nín thinh làm khó cho tăng, phạm tác ác. Đến khi tăng đã tra hỏi mà còn tráo trở nữa, hoặc nín thinh phạm ưng đối trị. Tỳ khưu không làm khó cho tăng, không nói tráo trở như thế phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu không biết tội hoặc không biết mình phạm tội hoặc hỏi “ngài hỏi thế nào”, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này có 3 chi: tụng để cáo tội (dhammakamme āropitā); tăng tra hỏi tội hoặc điều phạm tội (ānuyujjiyamānatā); nói tráo trở, hoặc nín thinh, vì muốn giấu lỗi (patticaranaṃvā tuṇhībhāvovā). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna) chỉ khác nhau là điều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika).

    3) Tỳ khưu nói xấu vị khác (ujjhāpanaka).

    Tỳ khưu nói xấu vị khác mà tăng đã chỉ định để làm việc cho tăng như lót chỗ ngồi, hoặc chia tài vật, nếu vị ấy làm việc cho tăng được đúng đắn, tỳ khưu nói xấu phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvāna gần thành Rājagaha do phe lục sư nói xấu đức A-la-hán Dabbamallaputta.

    Chú giải: Nếu tỳ khưu mà tăng đã chỉ định hành đúng theo phép, thì vị nói xấu phạm ưng đối trị, hành không đúng theo phép vị nói xấu thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu nói xấu vị khác hành theo 4 pháp tây vị (āgati) (như thương riêng) nghĩa là: không làm đúng phép và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác nói xấu (anāṇattika), có 6 chi: người mà tăng đã chỉ định hành đúng theo phép (dhamma kammena sammatāta); người mà tăng chỉ định ấy là tỳ khưu (upasampannatā); làm không tây vị (agatigamanābhāvo); cố ý cáo tội đến người ấy (tassa avaṇṇakāmatā); cáo tội hoặc nói xấu đến người nào, người ấy là tỳ khưu (tassa upasampannatā); cáo tội hoặc nói xấu (ujjhāpanaṃ vākhi yanaṃvā). Ðều đủ cả 6 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna). Chỉ khác nhau là: điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    4) Chỗ ngồi nằm thứ nhất (pathamasenāsana).

    Tỳ khưu lấy ngọa cụ của tăng đem trải nằm trong thất của tăng, khi đi khỏi nơi ấy, mà không dọn, hoặc không nhờ người khác dẹp cất, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do chư sư đem vật lót ngồi, nằm nơi trống mà không dọn cất.

    Chú giải: Ngoài 4 tháng mưa, trong nơi mát, dưới cội cây mà thú không đại, tiểu tiện nhằm, tỳ khưu để ngọa cụ nơi ấy, đi ra khỏi không phạm tội. Tỳ khưu lót cho các vị khác mà các vị này không ngồi trong nơi ấy, hoặc không nói “Ông đi đi” thì còn về phận sự người lót trải. Tỳ khưu ngồi trên bàn ghế, giường mà tự mình dọn ra, hoặc nhờ người dọn ra cho mình, các vật ấy đều về phận sự mình. Tỳ khưu đứng trong nhà ăn, dạy rằng: người đem để trong giữa chùa rồi đi đi, tỳ khưu ấy ra khỏi nhà ăn, đi đến nơi khác như thế, nên cho luật sư phạt tội. Nếu chỗ ngồi nằm của tăng thì phạm ưng đối trị, vật riêng của tỳ khưu thì phạm tác ác. Vật để trải lót (chiếu, đệm) cho đến vật để chùi lau tay chân mà tỳ khưu bỏ ngoài mưa nắng... rồi đi thì phạm tác ác. Tỳ khưu ngụ trong rừng, nếu không có chỗ che mưa, đem các vật ấy để trên nhánh cây cho khỏi thú phá hại (như mối ăn) rồi đi khỏi nơi ấy cũng được.

    Thể thức không phạm tội: Chỗ ngồi nằm của mình hoặc của tỳ khưu thân thiết nhau, không phạm tội. Tự mình cất hoặc nhờ người khác cất, hoặc gởi đem phơi rồi đi, tính sẽ trở lại dọn cất, hoặc có người lại ở hoặc có tỳ khưu trưởng lão(47) lại đuổi, hoặc cho sa di, người thế đến lấy, có thú dữ đến đứng nơi ấy, không được dọn dẹp rồi đi khỏi vì sợ có điều hại hoặc khó tu hành, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sānattika) có 6 chi: nhất là giường, bàn thấp dài của tăng (mañcādinaṃ saṃghikatā); tự mình hoặc dạy người đem ra ngồi nằm trong chỗ đã nói (santhāranaṃ vā santhārāpanaṃ vā); không có người lại tranh giành (abalibuddhatā); không có điều hại (āpadāyābhāvo); không cố ý trở lại dẹp cất (nirapekkhatā); đi khỏi nơi ấy (lenducātātikkamo). Đều đủ 6 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathinasamuṭṭhāna). Chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm là dọn ra, và không làm là không dọn cất, hoặc không gởi cho người khác (kiriyakiriyā).

    5) Chỗ ngồi, nằm thứ nhì (dutiya senasana).

    Tỳ khưu đem ngọa cụ của tăng lót nằm trong thất của tăng, khi đi khỏi nơi ấy, không dọc cất, hoặc không nhờ người khác dọn, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe thập thất sư đến trải lót ngọa cụ rồi bỏ ra đi không dẹp nên bị mối ăn hư hết.

    Chú giải: các thứ ngọa cụ của tăng, nệm, y lót lưng, y lót giường, y đắp, chiếu, đệm, da, tọa cụ có bìa... tỳ khưu lấy 1 thứ ngọa cụ nào đem lót nằm trong chùa, thất của tăng, rồi không đem cất, hoặc không nhờ kẻ khác cất, đi ra khỏi nơi ấy, 1 bước đầu phạm tác ác, khỏi bước thứ 2 phạm ưng đối trị. Trong nơi nào không có điều hại, dầu không gởi rồi cũng phạm, gởi là phận sự của tỳ khưu. Trong chỗ của tăng thì phạm ưng đối trị, trong chỗ của tỳ khưu thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Chỗ ở của mình hoặc của tỳ khưu thân thiết tự mình dọn cất hoặc nhờ người dọn cất, hoặc có người tranh dành (như đã có giải) rồi bỏ đi, hoặc tính sẽ lại dọn cất trong ngày ấy, hoặc đi rồi tính trở lại nhưng có tai hại không thể trở lại được và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người (sānattika), có 7 chi: chỗ nằm như đã nói (vuttalakkhanāseyā); chỗ nằm ấy của tăng (tassāsamghikatā); mình lót trải hoặc dạy người khác lót trải trong nơi như đã nói (santharanaṃ vā saṇtharāpanaṃ vā); không có người tranh dành (apalibhudhatā); không có điều hại (āpadāyābhāvo); đi đến nơi khác, không cố ý trở về (anapekkhassadisā pakkamanaṃ); đi khỏi ranh chùa (upacāra simātikkamo). Ðều đủ cả 7 chi ấy mới phạm tội.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trên.

    6) Chen lấn (anūpakhajja).

    Tỳ khưu biết là thất của tăng đã có vị khác vào ngụ trước rồi, cố ý lấy đồ trải lót ngồi, hoặc nằm chen lấn trong nơi ấy, làm cho vị đã vào ngụ trước phải chịu chật hẹp, khó khăn, rồi bỏ đi ra khỏi, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư dành chỗ ở tốt đẹp làm cho chư trưởng lão phải khó khăn.

    Chú giải: tự mình hoặc dạy kẻ khác lót trải ngọa cụ trong chỗ ở của tăng, phạm tác ác; ngồi hoặc nằm phạm ưng đối trị. Trong chỗ ở của tỳ khưu phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Lót trải trong chỗ ở của mình hoặc trong chỗ ở của tỳ khưu thân thiết, trong chỗ tỳ khưu bịnh, hoặc vì có điều hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 4 chi: chỗ ở của tăng (saṅghikahāratā); biết rằng đã có người vào ở trước không nên chen lấn (anumaṭṭhāpaniyabhāvajānanaṃ); cố ý làm cho tỳ khưu ấy chật hẹp (sambādhetukāmatā); đã ngồi hoặc nằm trong nơi ấy (upacārenisīdanaṃ vā nippajūnaṃ vā). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (paṭhama pārājika), chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    7) Lôi tỳ khưu ra khỏi thất (nikaḍḍhana).

    Tỳ khưu giận hờn vị khác rồi kéo lôi hoặc đuổi vị ấy ra khỏi thất của tăng, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư giành chỗ ở nên kéo lôi phe thập thất sư.

    Chú giải: Tỳ khưu giận đuổi, dạy người khác kéo lôi, trong khi dạy phạm tác ác; đuổi hoặc lôi ra khỏi cửa thất, phạm ưng đối trị; đuổi, kéo hoặc lôi ra khỏi chỗ ở tỳ khưu phạm tác ác; đuổi sa di, liệng vật dụng ra khỏi chỗ ở của tăng, phạm tác ác, kể theo mỗi vật dụng.

    Thể thức không phạm tội: Kéo lôi ra khỏi chỗ ở của mình, hoặc chỗ ở của tỳ khưu thân thiết, hoặc can gián người cãi cọ rồi liệng vật dụng của cải ra khỏi chỗ ở của tăng, hoặc kéo tỳ khưu phá giới, đệ tử của mình làm quấy, hoặc liệng vật dụng của người quấy và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sāṇattika), có 3 chi: chỗ ở của tăng (saṅghikavihāratā); kéo lôi tỳ khưu vô tội không cãi cọ (bhaṇḍanakārakabhāvādivimuttatā); tự mình kéo hoặc dạy người khác kéo lôi tỳ khưu ấy vì giận hờn (kopenanikaḍḍhanaṃ vā nikaḍḍhāpanaṃ vā). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    8) Gác trong thất (vehāsakutī).

    Tỳ khưu ngồi hoặc nằm trên giường, ghế mà họ chỉ kê đỡ, chưa làm thiệt chắc, để trên gác trong thất, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do vị tỳ khưu ở trên gác, ngồi trên giường mà họ kê đỡ, rớt xuống nhằm đầu tỳ khưu ở tầng dưới.

    9) Tịnh thất lớn (mahallaka).

    Tỳ khưu dùng đất và vôi tô tịnh thất chỉ được phép tô nhiều lắm là 3 lớp, nếu tô quá 3 lớp phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Ghosita gần thành Kosambī do tỳ khưu Channa tô thất lớp nhiều lớp làm cho thất phải ngã sập.

    Chú giải: Phải đứng tránh chỗ cây xanh (cây, cỏ) là đứng xa cho khỏi ruộng, vườn, mà người có trồng cây, gieo mạ, trồng đậu... Nếu đứng trong các nơi ấy mà tô, sơn, phết, phạm tác ác.

    10) Nước có côn trùng (sappānaka).

    Tỳ khưu biết nước có côn trùng sống rồi đem tưới cây, cỏ, hoặc tưới đất phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tháp Aggālava, gần thành Aggalavi, do các tỳ khưu xứ Aggalavi dùng nước tưới côn trùng đem tưới cỏ, đất.

    Chú giải: Liệng cây, cỏ xuống chỗ nước ít làm cho côn trùng chết, liệng 1 lần phạm 1 tội. Trong nước không có côn trùng tưởng là có, hoặc nghi, rồi đem tưới cây cỏ, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tưới vì tưởng là nước không có côn trùng, không cố ý, quên không biết, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm vì dạy người (anāṇattika), có 4 chi: nước có côn trùng sống (udakassasasappānakatā); biết rằng côn trùng sẽ chết vì sự tưới nước (marissantitijānanaṃ); nước sẽ rút hết (tabbāndakaṃtādisameva); như đem nước tưới cỏ vì 1 lẽ gì (tinādinaṃsibbānaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì Phật cấm (paṇṇattivajja), có 3 tâm, 3 thọ.

    DẠY PHÁP - PHẦN THỨ BA (OVĀDAVAGGA)

    Có 10 điều học:

    1) Dạy pháp cho tỳ khưu ni (bhikkhunovāda).

    Tỳ khưu mà tăng không chỉ định, rồi đi

    dạy 8 điều trọng pháp cho tỳ khưu ni, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư thấy các đại đức dạy đạo cho tỳ khưu ni được nhiều vật dụng, bèn rủ nhau đi dạy tỳ khưu ni.

    Chú giải: Tỳ khưu có đủ 8 chi: thu thúc theo giới bổn; học rộng; thông cả 2 giới bổn (tỳ khưu, tỳ khưu ni); tiếng thanh tao dễ nghe; đáng cho tỳ khưu ni kính mến; có sức vừa dạy bảo tỳ khưu ni được; tỳ khưu không quen phạm điều trọng pháp với tỳ khưu ni; xuất gia được 20 hạ hoặc nhiều hơn 20 hạ. Ðều đủ cả 8 chi ấy tăng mới nên chỉ định cho đi dạy tỳ khưu ni.

    8 trọng pháp là: 1) tỳ khưu ni dầu tu được 100 hạ cũng phải làm lễ tỳ khưu mới xuất gia trong một ngày; 2) không nên nhập hạ trong chỗ không có tỳ khưu; 3) nên cố ý hỏi ngày lễ phát lộ, sám hối và đến thọ giáo nơi tỳ khưu tăng trong nửa tháng; 4) nhập hạ rồi nên hành phép tự tứ trong hai phái tăng; 5) phạm trọng pháp (là tăng tàn) rồi nên cho 2 phái tăng giao hiệp lại; 6) phải tu bậc thất xoa ma na (sikkhamānā) thọ trì 6 giới trong 2 năm nơi 2 phái tăng rồi mới được phép xuất gia lên tỳ khưu ni; 7) không được phép mắng nhiếc tỳ khưu; 8) cấm hẳn tỳ khưu ni không cho dạy tỳ khưu; cho phép tỳ khưu dạy tỳ khưu ni kể từ ngày đầu tiên mới xuất gia. Tỳ khưu ni phải nên tôn kính thọ trì 8 trọng pháp ấy cho đến trọn đời không được bỏ qua.

    2) Mặt trời lặn (atthaṅgata).

    Dầu là tỳ khưu mà tăng chỉ định khi mặt trời đã lặn mà còn dạy đạo đến tỳ khưu ni, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do đại đức A-la- hán Culapanthaka dạy đạo cho tỳ khưu ni đến tối; tỳ khưu ni mến tài đức ngài, đưa ngài ra khỏi thành, bị thành đóng cửa vào không được, làm cho thiên hạ nói xấu.

    3) Tại chỗ ở của tỳ khưu ni (upassaya).

    Tỳ khưu đi dạy tỳ khưu ni nơi chỗ ở của cô, phạm ưng đối trị, trừ ra dạy tỳ khưu ni có bịnh.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Nigrodha gần thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), do phe lục sư đi dạy đạo cho phe 6 tỳ khưu ni tại chỗ ở của các cô.

    4) Mong được tài vật (āmisa).

    Tỳ khưu nói xấu vị khác rằng đi dạy tỳ khưu ni vì mong được tài vật, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nói các đại đức đi dạy tỳ khưu ni vì muốn được lợi.

    5) Cho y đến tỳ khưu ni (civaradāna).

    Tỳ khưu cho y đến tỳ khưu ni không phải bà con, phạm ưng đối trị, trừ ra đổi y với nhau.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do 1 tỳ khưu cho cà sa đến tỳ khưu ni không phải bà con.

    6) May y cho tỳ khưu ni (civarasibbana).

    Tỳ khưu tự mình may hoặc dạy kẻ khác may y cho tỳ khưu ni không phải bà con, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi may y cho tỳ khưu ni.

    7) Rủ tỳ khưu ni đi chung đường (samvidhāna).

    Tỳ khưu rủ tỳ khưu ni đi chung đường, dầu chỉ đi xa 1 khoảng trong xóm cũng phạm ưng đối trị, trừ ra đường có sự nguy hiểm.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư rủ tỳ khưu ni đi chung đường.

    8) Rủ tỳ khưu ni đi chung thuyền (nāvābhirūhana).

    Tỳ khưu rủ tỳ khưu ni đi chung thuyền, đi ngược hoặc đi xuôi nước cũng phạm ưng đối trị, trừ ra đi qua sông rạch.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư rủ tỳ khưu ni đi chung thuyền.

    9) Dọn nấu ăn (paripācana).

    Tỳ khưu đã biết thọ thực (vật ngọt, hoặc mặn) mà tỳ khưu ni dọn, dạy thiện tín dâng cúng, phạm ưng đối trị, trừ ra thiện tín đã tính trước.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Davadatta đã biết nhờ tỳ khưu ni nên được mời ăn mà còn đi dự.

    10) Chỗ khuất mắt (rahonisajja).

    Tỳ khưu ngồi hoặc nằm trong chỗ khuất mắt với tỳ khưu ni phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi vào ngồi nơi kín với tỳ khưu ni (vợ trước).

    VẬT THỰC - PHẦN THỨ TƯ (BHOJANAVAGGA)

    Có 10 điều học:

    1) Nhà thí thực (āvasathapiṇḍa).

    Vật thực trong phước xá mà họ bố thí không phân hạng người, tỳ khưu không bịnh chỉ được phép thọ thực 1 ngày rồi phải nghỉ, bỏ qua 1 ngày nữa thọ mới được, nếu thọ thực liên tiếp đến ngày thứ nhì, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đến thọ thực nhà thí thực ấy luôn khi, làm cho người chê trách.

    Chú giải: Có bịnh tưởng là không bịnh hoặc nghi rồi thọ thực, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Có bịnh biết là có bịnh, chỉ thọ thực 1 lần thọ thực cách 1, 2 ngày hoặc thọ rồi qua ngày sau đi khuất thực nơi khác mà có sự rủi ro, trở lại thọ nữa được, hoặc thí chủ thỉnh thọ luôn, hoặc họ để dành riêng cho tỳ khưu hoặc thọ ngoài 5 món ăn (cơm, bánh sốt, bánh nguội, thịt, cá) và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: cơm trong phước xá (āvasathapiṇḍatā); không có bịnh (agilānātā); ở chờ ăn (anuvasitvābhojanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội như trong điều học thọ lông cừu (elakalomasikkhāpada).

    2) Thọ thực chung nhiều vị (gānabhojana).

    Nếu thí chủ họ thỉnh, cho biết tên vật thực 5 món là (cơm, bánh, sốt, bánh nguội, cá, thịt) một món nào, nếu tỳ khưu thọ vật thực ấy chung nhau từ 4 vị trở lên, rồi ăn chung hoặc ăn riêng, phạm ưng đối trị, trừ ra có 7 duyên cớ này: tỳ khưu bịnh (gilānasamayo); lễ dâng y (cīvaradānasamayo); kỳ làm y (cīvarakārasamayo); đi đường xa (addhānagamanasamayo); đi chung thuyền (nāvātirūhanasamayo); tỳ khưu hội hợp quá số, vật thực không đủ dùng (mahāsamayo); vật thực ấy của các hạng xuất gia thỉnh thọ thực (samanabhattasamayo). Có 1 trong 7 duyên cớ ấy thọ thực không phạm tội (trong điều học này chỉ lấy cớ đi thọ thực chung cùng nhau làm bằng).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veruvana gần thành Rājagaha do phe tỳ khưu Devadatta dẫn đi thọ thực chung cùng nhau thường thường tìm xin vật ngon.

    Chú giải: Dầu tỳ khưu lên tiếng xin ngay tên của vật thực rằng: người cho tôi xin cơm... cá... thịt ... xin chung chỗ, hoặc khác chỗ, nhưng thọ trong 1 chỗ cùng nhau cũng phạm tội. Thọ thực chung cùng nhau nhiều vị, trong khi thọ phạm tác ác, ăn vào phạm ưng đối trị, mỗi khi đã ăn vào khỏi cổ. Không phải thọ thực chung nhiều vị mà tưởng là thọ chung, hoặc nghi rồi ăn, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Không phải thọ thực chung nhiều vị biết là không phải, hoặc 2, 3 tỳ khưu thọ thực chung cùng nhau, hoặc nhiều tỳ khưu đi khuất thực rồi về ăn chung, hoặc thọ thực chung ngoài 5 món ăn, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: thọ thực chung nhiều vị (ganabhojanatā); không có duyên cớ (samayābhāvo); đã ăn vào khỏi cổ (ajjhoharanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (ekalakalomasikkhāpada).

    3) Thọ thực nơi khác (paramparabhojana).

    Tỳ khưu đã chịu thỉnh đi thọ 1 trong 5 món ăn, trong 1 nơi nào, rồi không đi trong nơi ấy, trở lại đi thọ trong nơi khác phạm ưng đối trị, trừ ra đã có cho tỳ khưu đi thế cho mình hoặc có 1 trong 3 duyên cớ này: tỳ khưu bịnh, lễ dâng y, kỳ làm y.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha do chư tỳ khưu đã chịu thỉnh rồi mà còn đi thọ thực nơi khác làm cho thí chủ bất bình.

    Chú giải: Khi thọ vật thực nơi thí chủ thỉnh sau phạm tác ác, khi ăn vào phạm ưng đối trị (mỗi miếng ăn mỗi tội) trừ ra có 1 trong 3 duyên cớ đã nói. Không phải thọ thực nơi khác mà tưởng là phải, hoặc nghi, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết không phải thọ thực nơi khác, đã cho người đi thọ thế cho mình, hoặc ăn chung 1 lượt, hoặc ăn theo vật thực đã thọ (thọ trước, ăn trước, thọ sau ăn sau), (ngoài 5 vật thực đã nói thì không kể) và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: vật thực của người khác (paramparabhojanatā); không có duyên cớ (samayābhāvo); đã ăn vào (ajjhoharanaṃ).

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm và không làm (kiriya akiriyā).

    4) Thọ bánh (kānamātā).

    Tỳ khưu vào xóm khuất thực, nếu có thí chủ họ đem bánh nhiều đến dâng, được phép thọ nhiều lắm đến 3 bát, nếu thọ quá hạn định, phạm ưng đối trị. Bánh mà tỳ khưu đã thọ được 2 hay 3 bát ấy, phải chia sớt cho tỳ khưu khác, mới nên.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu thọ bánh của mẹ nàng Kānā.

    Chú giải: Tỳ khưu đã thọ 2 bát, khi ra khỏi gặp, tỳ khưu nơi phía ngoài nên nói “trong chỗ ấy tôi đã thọ 2 bát rồi, ngài chỉ nên thọ thêm 1 bát nữa”. Tỳ khưu này thấy vị khác nên cho hay “Tỳ khưu đến trước đã thọ 2 bát rồi, tôi cũng đã thọ 1 bát rồi, ngài không nên thọ nữa”. Tỳ khưu đã thọ trước 1 bát rồi, cũng phải nói lại với tỳ khưu khác như thế. Tỳ khưu đã thọ 3 bát rồi, thấy vị khác nên ngăn cản không cho đến thọ nữa, nếu không ngăn cản, phạm tác ác. Tỳ khưu đã nghe vị khác ngăn cản mà còn đi đến thọ nữa, phạm tác ác. Tỳ khưu ấy về đến nhà ăn, hoặc đến nơi thường thọ thực, để cho mình 1 bát còn dư lại phải dâng đến tăng, cho theo ý muốn mình không được (không nên cho đến người thân thiết). Tỳ khưu thọ được 1 bát, không muốn cho ai cũng được tùy sở thích.

    5) Ngăn vật thực lần thứ nhất (pathamapavāraṇā).

    Tỳ khưu đương ăn, nếu có thí chủ đem trong 5 vật thực đến dâng, ở trong khoảng 2 hắc 1 gang mà không thọ gọi là “ngăn vật thực”. Tỳ khưu đã ngăn vật thực không phải của tỳ khưu bịnh hoặc vật chưa làm theo luật (vinaya kamma) phạm ưng đối trị.

    Chú giải: ngăn vật thực(48) có 5 chi: đương khi ăn (āsanaṃpaññāyati); vật ăn và vật ăn (5 thứ vật thực) (bhojanampaññāyati); người dâng ở trong khoảng 2 hắc 1 gang (hatthapāsethito); họ dâng vật thực vào (abhiharati); ngăn ra (patikkhepopaññāyati). Đều đủ cả 5 chi ấy mới gọi là ngăn. 7 thứ mễ hoặc bánh làm bằng 7 thứ mễ là vật sanh “ngăn vật thực”. Thịt và cá mà tỳ khưu đương ăn mà họ dâng thịt cá, dầu nhỏ bằng hột cải để trong đồ đựng, nếu tỳ khưu chưa ăn mà ngăn các vật thực khác, có thể làm cho sanh “ngăn vật thực” cũng không gọi là ngăn. Nhưng thịt và cá mà tỳ khưu đương ăn, 1 miếng còn trong tay, và trong bát, nếu tỳ khưu ngăn thịt, cá khác, gọi là ngăn cả 2 miếng. Cơm dầu 1 hột, vật thực trong bát, trong miệng và trong tay mà tỳ khưu còn tiếc rồi ngăn vật thực khác, gọi là ngăn. Nếu tỳ khưu không tiếc vật thực còn dư lại, vật thực ấy tỳ khưu không cố ý để ăn, hoặc muốn cho đến người khác, hoặc muốn đi ăn trong nơi khác, tỳ khưu ấy dầu ngăn cũng không gọi là ngăn.

    Giải về hắc (hatthapāsa): Nếu tỳ khưu ngồi thì kể từ chỗ cuối cùng phía sau, nếu đứng kể từ gót chân, nằm nghiên bên nào, kể từ lưng bên ấy đến chỗ cuối cùng tay, chân của người dâng, ngồi hoặc đứng, hoặc nằm (trừ ra tay đưa ra dâng, được 2 hắc, 1 gang gọi là hắc). Họ đứng ở trong hắc rồi cúi dâng đến mà tỳ khưu ngăn ra mới gọi là “ngăn”. Nếu quá hắc mà ngăn thì không gọi là “ngăn”.

    Giải về vật thực đến: Nếu tỳ khưu ngồi theo hàng ngũ, không đưa bát trong tay hoặc trên chân ra, chỉ nói “ngươi hãy lấy cơm” như thế, nếu tỳ khưu ngăn cũng không gọi là “ngăn”, dầu vật trong thúng đem để trước mặt rồi bạch như thế cũng vậy. Chỉ đến khi xúc cơm lên rồi tỳ khưu ngăn mới gọi là ngăn, dầu 2 người đồng nhau đở lên cũng gọi là ngăn. Khi họ dâng đến tỳ khưu ngồi theo hàng ngũ rồi tỳ khưu ở ngoài tiếp đập bát, gọi là ngăn vật mà họ dâng đến người khác, vì lẽ ấy, không gọi là ngăn.

    Giải về cách ngăn: Trong vật mà họ dâng đến bằng lời, thì ngăn không được. Vật mà họ dâng bằng thân, cũng phải ngăn bằng thân, như đưa tay ra chận ngăn hoặc nói “vừa rồi, đừng dâng nữa, như thế mới gọi là ngăn”.

    Một người dâng canh thịt rằng “Bạch ngài, xin ngài thọ canh”. Tỳ khưu nghe, ngăn người ấy ra, như thế không gọi là ngăn. Khi nào họ nói: “Bạch ngài, xin ngài thọ canh thịt” mà tỳ khưu ngăn mới gọi là ngăn. Nếu họ nói “xin ngài thọ vật này” mà tỳ khưu ngăn cũng gọi là ngăn. Dầu họ làm thịt cho ra món khác rồi họ nói “xin thọ thịt”, nếu còn chút ít thịt bằng hột cải mà ngăn thì cũng gọi là ngăn. Họ nấu canh cá, thịt chung với mít và canh măng, rồi đem đến dâng rằng: “Bạch ngài, xin ngài thọ canh mít, canh măng”, nếu ngăn cũng không gọi là ngăn, vì họ nói tên của vật nên dùng, không sanh sự ngăn. Nếu họ nói “xin ngài thọ canh cá, canh thịt” hoặc nói “hãy thọ vật này” mới gọi là ngăn.

    Ngăn vật thực có 5 chi: tỳ khưu đương ăn, họ đem vật thức đến dâng nữa, họ ở trong hắc, họ dâng vật thực vào, tỳ khưu ngăn vật thực. Như thế mới gọi là ngăn.

    Trong 4 oai nghi (nằm, đi, đứng, ngồi), tỳ khưu ngăn trong oai nghi nào, đừng thay đổi oai nghi ấy, ăn không có tội.

    Vật dùng mà không làm theo luật (vinaya kamma) và không phải là vật dư của tỳ khưu bịnh gọi là “không phải vật dư” (anatiritta) dùng không được, vật thực đã làm theo luật và vật dư của tỳ khưu bịnh gọi là “vật dư” (atiritta) nên dùng được.

    Bảy cách làm theo luật (vinaya kamma): 1) các vật thực như trái cây hoặc củ mà người không được làm thành vật cho tỳ khưu dùng được (samanakappa)(49) và thịt không nên dùng, tỳ khưu người làm theo luật (vinaya kamma) lấy các vật không nên dùng ấy đem làm theo luật rằng “tất cả vật này nên rồi” (alametaṃ sabbaṃ); 2) vật mà tỳ khưu, người làm theo luật chưa thọ, rồi làm theo luật rằng “tất cả vật này nên rồi”; 3) vật mà tỳ khưu đem đến cho tỳ khưu, người làm theo luật, làm cho thành vật nên dùng, nhưng chưa dở lên hoặc chưa dâng vào, rồi làm theo luật rằng “tất cả vật này nên rồi”; 4) tỳ khưu đem vật đến cho tỳ khưu trong bọn làm theo luật ấy ở ngoài hắc, rồi làm theo luật rằng “tất cả vật này nên rồi”; 5) một tỳ khưu nào làm theo luật rằng “tất cả vật này nên rồi” nhưng tỳ khưu, người làm theo luật ấy, chưa ăn rồi làm theo luật rằng “tất cả vật nên rồi”; 6) tỳ khưu, người làm theo luật được ăn rồi, đã ngăn vật thực rồi, đứng dậy khỏi chỗ ngồi rồi, đi làm theo luật cho vị khác rằng “tất cả vật này nên rồi”; 7) tỳ khưu người làm theo luật nói rằng “tất cả vật này nên rồi” (alamataṃ sabbaṃ). Một trong 5 thứ vật thực nào, mà không phải là vật dư của tỳ khưu bịnh, vật không nên làm theo luật (7 cách trên) hoặc vật thực không phải là của dư của tỳ khưu bịnh, cả 2 phần vật thực ấy gọi là không phải của dư (anatiribhojana).

    Không phải vật dư (anatiritta) là nói về vật không được làm theo luật là: 1) vật mà không được làm cho thành vật nên; 2) vật mà tỳ khưu không được thọ, rồi làm cho ra vật nên; 3) vật mà tỳ khưu không được dở lên hoặc không được dâng vào gần cho tỳ khưu làm ra vật nên; 4) tỳ khưu ở trong hắc rồi làm; 5) tỳ khưu chưa được ăn rồi làm; 6) tỳ khưu đã ăn rồi, được ngăn vật thực rồi đứng dậy, khỏi làm; 7) vật mà tỳ khưu không nói “tất cả vật này nên rồi”, và vật không phải của dư của tỳ khưu bịnh. Cả 2 vật thực ấy gọi là “không phải vật dư” (anatiritta).

    Vật dư (atiritta) là nói về vật đã được làm theo luật (vinaya kamma) là: 1) vật mà họ làm cho ra vật nên; 2) vật mà tỳ khưu được thọ lãnh rồi làm cho ra vật nên; 3) vật mà tỳ khưu dở lên hoặc dâng vào gần cho làm ra vật nên; 4) tỳ khưu ở trong hắc rồi làm; 5) tỳ khưu đã ăn rồi mới làm; 6) vật mà tỳ khưu đã ăn, ngăn vật thực rồi chưa đứng dậy khỏi chỗ ngồi, rồi làm; 7) vật mà tỳ khưu nói “tất cả vật này nên rồi” và vật dư của tỳ khưu bịnh. Cả 2 thứ vật thực ấy gọi là vật dư (atiritta).

    Tỳ khưu ngăn cơm như có giải trên, nếu đã thay đổi oai nghi rồi thọ vật không phải của tỳ khưu bịnh, để dùng phạm tác ác, vì thọ; ăn vào phạm ưng đối trị, mỗi miếng ăn. Nhất là thọ yāmakālika để làm vật thực, ăn ngoài bữa ăn, thế cho vật thực. Vật dư của tỳ khưu bịnh mà tưởng là không phải của tỳ khưu bịnh, hoặc nghi, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Thọ vật thực không phải của tỳ khưu bịnh vì nghĩ sẽ đem cho tỳ khưu khác làm kappiya cho, rồi mới dùng, thọ cho người khác, thọ yāmakālika(50), sattāhakālika(51), yāvajīvika(52) ngoài vật thực, dùng theo luật là đức Phật đã cho phép, và tỳ khưu bịnh không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: người ngăn cơm và đã ra khỏi chỗ ngồi (pavāritabhāvo); vật thực chưa làm kappiya không phải vật dư của tỳ khưu bịnh (amisassa anarittatā); ăn trong giờ (kāle ajjhoharaṇaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất. Chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm là ngăn cản, phạm vì không làm là không được làm theo (kiriyakiriyā) trước rồi mới nên ăn.

    6) Ngăn vật thực - lần thứ nhì (dutiya pavāraṇā).

    Tỳ khưu biết rằng vị khác đã ngăn vật thực như thế, tính cáo tội vị ấy, rồi cố ý lấy vật thực không phải của tỳ khưu bịnh, hoặc không được làm theo luật (vinayakamma), đem nài nỉ hoặc ép, nếu vị ấy ăn, tỳ khưu nài nỉ hoặc ép ấy phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu đem vật không phải của dư đến nài ép tỳ khưu mà mình cố oán đó ăn.

    Chú giải: Khi tỳ khưu nài nỉ hoặc ép dâng vật thực đến tỳ khưu khác phạm tác ác, ăn vào phạm ưng đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Cho vật thực dư của tỳ khưu bịnh, hoặc cho vì có lời rằng “ngài dạy họ làm thành vật thực dư của tỳ khưu bịnh rồi sẽ dùng” hoặc đem cho người khác, hoặc như cho yāmakālika rồi nói “khi có duyên cớ sẽ dùng”, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 5 chi: tỳ khưu đã ngăn cơm (pavārittatā); đã biết tỳ khưu ấy ngăn cơm (pavārittasaññittā); cố ý để cáo tội (asādanāpekkhatā); lấy vật không phải của dư của tỳ khưu bịnh đem cho (abhihatthumpavāranatā); tỳ khưu ấy đã ăn rồi (bhojanapariyosānaṃ). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    7) Ăn vật thực sái giờ (vikālabhojana).

    Tỳ khưu ăn vật thực trong khi sái giờ là từ chinh xế đến mặt trời mọc, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha do phe thập thất sư thọ thực sái giờ.

    Chú giải: Thọ nhất là yāmakālika để dùng làm vật thực trong khi sai giờ hoặc trong giờ, là từ sớm mai đến đúng ngọ, hoặc tưởng là sai giờ, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: trong giờ biết là trong giờ, ăn không phạm, có duyên cớ ăn yāmakālika trong khi sai giờ cũng được, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: trong lúc sái giờ (vikālatā); vật thực là yāvakalika(53) (yāvakālikatā); đã ăn vào (ajjhoharaṇaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakalomāsikkhāpada).

    8) Vật thực để dành (sannidhikāraka).

    Tỳ khưu dùng vật thực đã thọ, rồi để dành cách đêm, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Velatthasīsa ẩn tu trong rừng (thầy của đại đức Ananda) phơi cơm khô để ăn nhiều ngày.

    Chú giải: Nếu rửa bát không sạch, lấy tay chùi thấy rõ dấu tay, đem phơi trong chỗ có nắng, hoặc thọ cháo nóng, mồ hôi bát chảy ra, tỳ khưu dầu ăn trong bát như thế, trong buổi mai ngày sau, phạm ưng đối trị.

    Vật nào mà tỳ khưu đã cho dứt đến sa di không còn tiếc rồi sa di cất giữ, tỳ khưu được vật ấy dùng cũng nên. Trong vật để cách đêm phạm ưng đối trị. Thọ yāmakalika, sattāhakalika và yāvajivika để cách đêm làm vật thực, hoặc như vật thực, hoặc trong vật thực không phải để cách đêm, tưởng là vật để cách đêm, hoặc nghi đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là không phải vật để cách đêm, cất yāvajivika, yāmakalika và sattāhakalika, không quá hạn định, rồi dùng theo hạn định, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người (anāṇattika), có 3 chi: vật thực dùng buổi sáng (anisaṃ); đã thọ vật thực ấy rồi để cách đêm (sannidhibhāvo); đã ăn vật ấy vào (tassa ajjhoharaṇaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (ekalomāsikkhāpada).

    9) Vật thực quí (panībhojana).

    Tỳ khưu không bịnh xin cơm chung với 9 vật thực quí là: mỡ lỏng, sữa lỏng, sữa đặc, dầu, mật ong, nước mía (đường), cá, thịt, sữa tươi, sữa chua, 1 vật quí nào nơi thiện tín không phải bà con, không phải người có yêu cầu đem ăn, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī, do nhóm Lục sư xin 9 vật thực quí để ăn.

    Chú giải: xin vật quí không chung với cơm phạm tác ác. Xin cơm với cá, họ cho cơm với thịt không phạm tội. Có bịnh tưởng là không bịnh, nghi, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết mình có bịnh xin trong khi có bịnh, hết bịnh rồi ăn, hoặc ăn vật dư của tỳ khưu bịnh, xin nơi bà con, nơi người có yêu cầu, xin cho người khác hoặc đổi, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người xin (anāṇattika), có 4 chi: cơm với vật thực quí (panītabhojanatā); không có bịnh (agilānatā); xin được (kataviññattiyāpatilābho); đã ăn vào (ajjhoharaṇaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này tội sanh do thân, thân khẩu, thân ý, thân khẩu ý, phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññavimokkha), không cố ý cũng phạm (acitaka), phạm vì Phật cấm (pannattikavajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp, có 3 tâm, 3 thọ.

    10) Trừ ra tăm và nước trắng (dantapona).

    Tỳ khưu dùng vật thực mà người không dâng phạm ưng đối trị, trừ ra nước trắng và tăm xỉa răng.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại phước xá trong rừng Tuyết sơn gần thành Tỳ-sa-ly (Vesālī), do tỳ khưu ẩn tu nơi mồ mả ăn vật thực của họ đem cúng mồ rồi bỏ nơi ấy, làm cho người chê trách.

    Chú giải: Tỳ khưu dầu thọ vật nhỏ nhem bằng cát bụi mà họ không dâng, thì phạm tác ác, đã ăn vào khỏi cổ, phạm ưng đối trị, trừ ra nước trắng và tăm. Nước không cần dâng, được phép dùng tuỳ thích; tăm không cần dâng vì không phải là vật ăn vào khỏi cổ, nếu ăn vật qua khỏi cổ mà không hay biết cũng phạm ưng đối trị; trong vật thọ mà người không dâng, phạm ưng đối trị; trong vật thọ mà người đã dâng, tưởng là chưa dâng hoặc nghi, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là vật mà họ đã dâng, ăn vào khỏi cổ không phạm tội: 4 thứ thuốc: nước tiểu, phẩn, tro, đất, khi hữu sự là bị rắn mổ mà không có người hộ thì mình lấy dùng, và tỳ khưu điên đều không phạm tội hoặc có người hộ mà khó dạy hoặc không thể làm được. Khi không có tro, tỳ khưu được phép đốt củi khô, củi khô không có, bẻ cây tươi đốt làm tro cũng nên.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người thọ (anāṇattika), có 4 chi: vật không có người dâng (apatiggahitakatā); vật ấy đức Phật không cho phép (ananuññātāta); vật ấy không phải là abbohārika như khói, lửa (dhumādi abboharikabhāvo); đã ăn vào khỏi cổ (ajjhoharanaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakalomāsikkhāpada).

    ĐẠO LÕA THỂ - PHẦN THỨ NĂM (ACCELAKAVAGGA)

    Có 10 điều học

    1) Kẻ tu đạo Lõa thể (Accelaka).

    Tỳ khưu tự tay mình cho hoặc dạy kẻ khác cho vật thực đến kẻ tu đạo lõa thể, tu ngoại đạo, phạm ưng đối trị (mỗi lần cho mỗi tội).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại phước xá Kutāgāra trong rừng Tuyết sơn, gần thành Vesālī, do đại đức Ānanda cho bánh đến phụ nữ tu đạo lõa thể.

    2) Rủ đi khất thực (uyyojana).

    Tỳ khưu rủ vị khác đi khất thực cùng nhau tính làm quấy, rồi đuổi vị ấy trở về, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda rủ đệ tử người bạn đi khuất thực rồi đuổi về.

    Chú giải: đuổi sa di, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Ðuổi có duyên cớ như 2 vị ở chung chỗ cùng nhau, vật thực không vừa đủ nuôi mạng sống, hoặc thấy vật tốt cao giá, hoặc thấy phụ nữ rồi sanh lòng tham, khó chịu hoặc dạy đem vật chi đến tỳ khưu bịnh hoặc không tính làm quấy rồi đưa đi về, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người đuổi (anāṇattika), có 3 chi: tính làm việc quấy (anācāramācaritukamatā); đuổi tỳ khưu vì sự lợi ích ấy (tadatthameva upasaṃ pannassanyojanata); người bị đuổi đi khỏi chỗ (evaṃ uyyojetassa upacārātikkamo). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada).

    3) Chỉ có 2 vợ chồng (sabhojana).

    Tỳ khưu vào ngồi trong nhà không có người khác ngồi với, chỉ có 2 vợ chồng chủ nhà, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda vào ngồi trong buồng của vợ người bạn.

    4) Chỗ khuất mắt (rahopaticchanna).

    Tỳ khưu ngồi hoặc nằm trong chỗ khuất mắt với một người nữ không có người nam ngồi chung với, phạm ưng đối trị. Ðiều học này gọi là (pathama rahonisajja) cũng được.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī, do tỳ khưu Upanada vào ngồi nơi khuất mắt với vợ người bạn.

    Chú giải: dầu ngồi chung với phụ nữ mới đẻ trong ngày cũng phạm ưng đối trị.

    5) Chỗ khuất tai (rahonisajja).

    Tỳ khưu ngồi hoặc nằm chỗ khuất tai với một người nữ, phạm ưng đối trị. Ðiều học này gọi là “dutiya rahonisajja” cũng được.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī, do tỳ khưu Upananda vào ngồi trong nhà với vợ của người bạn.

    Chỗ sanh tội (samutthāna vidhī) của 2 điều học này như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (pathama parajikasikkhāpada); ngoài ra, nên xem thêm điều học “bất định”.

    6) Đi nơi khác (cāritta).

    Tỳ khưu được thỉnh đi thọ 1 trong 5 món ăn, rồi đi nơi khác, trước giờ ăn hoặc ăn rồi đi từ sớm mai đến đứng bóng phải cho tỳ khưu trong nơi ấy hay với, mới nên đi, nếu không cho hay mà đi, phạm ưng đối trị, trừ ra có 1 trong 2 duyên cớ, là: kỳ lễ dâng y, làm y.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha, do tỳ khưu Upananda đã chịu thỉnh ăn mà còn đi đến các nhà thiện tín khác, làm cho chư sư phải chờ gần đến giờ, nên thọ thực không được vừa lòng.

    Chú giải: Dầu tỳ khưu đã chịu thỉnh để ăn của thí chủ rồi, hoặc chưa ăn, không từ giã tỳ khưu trong bọn rồi đi đến nơi khác từ sớm mai đến đứng bóng, khi đi bước thứ nhất phạm tác ác, đi đến bước thứ nhì phạm ưng đối trị.

    Thể thức không phạm tội: Biết là họ không mời, hoặc có một trong hai duyên cớ, từ giã tỳ khưu trong bọn, không từ giã đi về chùa, đi đến chỗ ở tỳ khưu ni, đi đến nơi ngoại đạo, đi đến nhà ăn, đi vì có tai hại, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 5 chi: vui thích trong sự thỉnh đi ăn 1 trong 5 thứ vật thực (aññatarenanimantana sādiyanaṃ); không cho tỳ khưu trong bọn hay (santaṃbhikkhumanānucchatā); đi đến nơi khác, khỏi nhà họ mời (aññassagharassapavesanaṃ); chưa quá đứng bóng (majjhantikānatikkamo); không có duyên cớ hoặc tai hại (samayassavā āpadānaṃ vā abhāvo). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học “lễ dâng y lần thứ nhất” (pathamakathina sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này, phạm vì làm là chịu thỉnh đi thọ thực, vì không làm là không từ giã tỳ khưu trong bọn (kiriyā kiriyā).

    7) Chỉ được phép xin vật dụng theo hạn định (mahānāma)(54). 

    Nếu thí chủ họ yêu cầu dâng 4 vật dụng có hạn 4 tháng hoặc định vật dụng, tỳ khưu không bịnh, nên xin trong hạn kỳ hoặc trong vật đã định thôi, xin quá hạn định ấy, phạm ưng đối trị, trừ ra họ đã yêu cầu thêm hoặc họ yêu cầu luôn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Nigrodha gần thành Kapilavatthu xứ Sakya do phe lục sư xin thuốc quá hạn.

    Chú giải: Xin không quá hạn định tưởng là quá, hoặc nghi rồi xin, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là không quá hạn định, xin không phạm tội, khi cần dùng cho họ biết thiệt, rồi xin trong hạn định hoặc xin nơi trong bà con và người đã yêu cầu vô hạn, hoặc xin cho kẻ khác, hoặc đổi, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người xin (sāṇattika), có 4 chi: họ yêu cầu đến tăng (saṅghapavāraṇatā); xin thuốc cho quá số định (tato uttaribhesajjaviññātti); không có bịnh (agilānatā); xin quá hạn kỳ (pariyantātikkamo). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học làm mai dong (sañcarittasikkhāpada).

    8) Xem động binh (uyyutta).

    Tỳ khưu đi xem động binh ra trận, phạm ưng đối trị, trừ ra khi có duyên cớ nên đi, là có bà con mang bịnh trong nơi ấy.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư xem động binh.

    Chú giải: Voi vừa cho 12 người cưỡi, ngựa vừa cho 3 người cưỡi, xe vừa cho 4 người có cầm khí giới ngồi, gọi là động binh. Tỳ khưu đứng trong nơi nào rồi thấy trong nơi ấy, ngó xem thường thường, phạm ưng đối trị. Động binh tưởng là đội binh thường, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là không phải động binh rồi đi xem không phạm, ở nơi chùa rồi xem, hoặc gặp giữa đường rồi xem, hoặc có tai hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 4 chi: động binh ra đi (uyyuttasenaṃ); đi để xem (dassanatthāyagamanaṃ); và xem trong các chỗ khác, ngoài khoảng trống mà đức Phật đã cho phép (aññatradassanaṃ); không có duyên cớ hoặc tai hại (āpadāyavā abhāvo). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakalomāsikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì đời (lokavajja), phạm vì ác tâm, có 3 thọ.

    9) Ngụ trong cơ binh (senavāsa).

    Nếu có duyên cớ, có thể đi được, tỳ khưu ngụ trong binh cơ ấy lâu lắm là trong 3 ngày, nếu ở quá hạn, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đi xem cơ binh.

    10) Đi đến chiến trường (uyyodhika).

    Trong khi ngụ trong cơ binh theo hạn định ấy, tỳ khưu đi đến chiến trường, hoặc nơi động binh hoặc xem cơ binh, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đi đến chiến trường.

    6. Uống rượu - phần thứ sáu (surāpānavagga).

    Có 10 điều học:

    1) Uống rượu (surāpāna).

    Tỳ khưu uống nước có chất say, phạm ưng đối trị. Ðiều học này đức Phật cấm chế tại xứ Bhaddavatikā, do tỳ khưu Sāgata uống rượu.

    Chú giải: nước say làm bằng chất say nhất là làm bằng bột gọi là rượu (sura), nước mà người ngâm nhất là ngâm bông cây gọi là “meraya”. Cả 2 thứ nước ấy, dầu tỳ khưu uống 1 nhỏ, cũng phạm ưng đối trị. Không phải nước say tưởng là nước say, hoặc nghi rồi uống, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là không phải nước say, uống không phạm tội, uống thuốc không có chất say, mà có màu, mùi và vị như nước say, hoặc canh, thịt, dầu, tầm ruột rừng và đường mà người để chút ít nước say vào cho bán mùi hôi, và tỳ khưu bịnh đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: nước có chất say (majjabhāvoca); uống nước có chất say ấy (tassapānaṃ). Đều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakalomāsikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì đời (lokavajja), phạm vì ác tâm (akusalacitta), có 3 thọ.

    2) Dùng tay chọc léc (aṅgulipatodaka).

    Tỳ khưu dùng tay chọc léc vị khác, phạm ưng đối trị.

    Điều học này do đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá, gần thành Xá Vệ, do phe lục sư chọc léc vị khác.

    Chú giải: Chọc léc sa di, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Không cố ý chọc léc chơi rồi đụng nhằm, có việc rồi đụng nhằm, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội .

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: cố ý chọc léc chơi (hassādhippāyatā); tay mình đụng nhằm tỳ khưu khác (upasampannassakāye nakāyamasanaṃ). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika sikkhāpada).

    3) Giỡn nước (hassadhamma).

    Tỳ khưu giỡn nước phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe tỳ khưu Vagga giỡn nước.

    Chú giải: Giỡn trong nước sâu từ cườm chân trở xuống phạm tác ác. Mỗi lần lặn xuống ngước lên phạm ưng đối trị, lội phạm ưng đối trị, mỗi lần tay bơi chân quậy. Nếu lội nổi trên nước, phạm ưng đối trị, mỗi lần tay chân bơi quậy; xuống chơi trong nước cạn dưới cườm chân, hoặc chơi ghe, hoặc lấy tay, chân, cây... chận nước hoặc giỡn nước trong đồ đựng, giỡn bùn, hoặc khoát nước chơi, đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Viết chữ giải nghĩa không cố ý chơi, xuống tắm như thường, lội ngang rạch, sông hoặc có tai hại, và tỳ khưu điên, đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: nước sâu ngập cườm chân (uparigoppahatā); xuống cố ý giỡn chơi cho vui (hassādhippāyenakilanaṃ). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājikasikkhāpada).

    4) Không kiên luật (anādariya).

    Tỳ khưu tỏ dạng không kiên luật hoặc không kiên người giảng luật, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Ghosita, gần thành Kosambi, do tỳ khưu Channa không kiên pháp luật.

    Chú giải: Tỳ khưu nhờ vị khác thức tỉnh, khuyên dạy dìu dắt, cấm răn theo điều học của đức Phật đã cấm chế mà không kiên vị ấy, hoặc không kiên luật pháp, phạm ưng đối trị. Nghĩ rằng “Vị này kiếm điều bắt tội chê trách, nói xấu, lời vị này, ta không hành theo” rồi không kiên nể, như thế gọi là không kiên; với tỳ khưu, phạm ưng đối trị, với sa di, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu có học Phạn, đáp: “sự học đọc Pāli và chú giải của thầy giáo thọ của tôi như vầy”, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: tỳ khưu thức tỉnh theo luật mà Phật cấm chế (upasampannassa paññattena vacanaṃ); dể duôi không kiêng nể (anādariya karanaṃ). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    5) Nhát tỳ khưu khác (bhiṃsāpana).

    Tỳ khưu nhát hoặc làm cho vị khác kinh sợ, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nhát phe thập thất sư.

    Chú giải: Làm cho tỳ khưu khác sợ là nói: chỗ nầy có kẻ cướp độc ác, hoặc đem vật gì làm cho sợ, nói lời chi cho tỳ khưu khác sợ, tỳ khưu này dầu sợ hay không, tỳ khưu nhát cũng phạm ưng đối trị; tỳ khưu nhát người tu lên bậc trên phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Không tính làm cho người sợ, nói lời thiệt, như nói “đường này xa, có bọn cướp”, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: người ấy là tỳ khưu (upasampannatā); cố ý ráng làm cho tỳ khưu kinh sợ, trong khi vị này nghe và thấy (bhiṃsāpetukāmatāya vāyamanaṃ). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như điều học trên.

    6) Nhúm lửa lên ngọn (jotisamā dahana).

    Tỳ khưu vô bịnh tự mình hoặc dạy người khác nhúm lửa cho lên ngọn đặng hơ, phạm ưng đối trị. Nếu đốt vì hữu sự như đốt bát, không phạm tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại rừng Bhesaka do các tỳ khưu nhúm lửa để hơ trong tháng lạnh.

    Chú giải: Nhúm lửa chưa cháy phạm tác ác, cháy lên ngọn phạm ưng đối trị. Tỳ khưu có bịnh, không có lửa chịu không được gọi là: “có bịnh”. Tỳ khưu có bịnh tưởng là không bịnh, nghi rồi nhúm lửa để hơ, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là có bịnh rồi nhúm lửa hơ không phạm tội, hơ lửa của người khác nhúm, nhúm lửa vì hữu sự hoặc có tai nạn, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 4 chi: vô bịnh (agilānatā); không có duyên cớ mà đức Phật cho phép (anuññātakaranābhāvo); cố ý để hơ (visibbhetukāmata); tự mình hoặc dạy kẻ khác nhúm lửa cháy lên ngọn (samādahanaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học làm mai dong (sancaritta sikkhāpada).

    7) Tắm (nhāna).

    Tỳ khưu ở xứ Trung Ấn Độ, 15 ngày tắm một kỳ được, nếu chưa đủ 15 ngày rồi tắm, phạm ưng đối trị, trừ ra có dịp mới tắm được. (Điều học này chỉ cấm ở xứ Trung Ấn Độ, xứ ngoài như xứ ta nên tắm thường thường, không phạm tội).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha. Do chư tỳ khưu tắm lâu, làm cho đức vua Tần Bà Sa chờ đợi.

    8) Làm dấu (dubhaṇṇakarana).

    Tỳ khưu được y mới, nếu muốn mặc, cần phải dùng 1 trong 3 màu là: màu xanh chàm, đen xậm, xám tro (bùn), để làm dấu tròn (bandukappa) mới nên mặc, nếu chưa làm dấu tròn mà dùng, phạm phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do chư tỳ khưu không biết nhìn y đã bị bọn cướp đoạt.

    Chú giải: Tỳ khưu đã mặc y làm dấu mà tưởng là chưa làm, hoặc nghi mà mặc, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Ðã làm dấu tròn, biết đã làm rồi mặc, hoặc đã làm mà dấu tròn đã bay tan, hoặc chỗ làm dấu tròn ấy đứt rách mất, hoặc y làm không được, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: y chưa làm dấu tròn (civarassa akatakappatā); không phải tỳ khưu có y mất (nanaṭṭhācivaraditā); đã mặc hoặc đắp y ấy (nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vā). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học thọ lông cừu (elakaloma sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm, là mặc, đắp, vì không làm là không làm dấu (kiriyā kiriyā).

    9) Gởi y (vikappana).

    Tỳ khưu gởi y cho 1 trong 5 hạng người xuất gia, tỳ khưu, tỳ khưu ni, thất xoa ma na (sikkhamānā), sa di, sa di ni, mà không cho người lãnh gởi xả phép gởi cho, rồi đem y về mặc, đắp, phạm ưng đối trị. Ðiều học này gọi là “paccudhāra” như thế cũng được.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda gởi y khi lấy y đem vể mặc không nhờ người lãnh gởi xả phép gởi.

    Chú giải: Tỳ khưu đã gởi y rồi đem về mặc mà chưa xả phép gởi ấy phạm ưng đối trị. Nguyện đặt tên hoặc lìa xa y chưa xả phép gởi, phạm tác ác; đã xả phép gởi tưởng là chưa xả hoặc nghi rồi mặc, đắp, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết đã xả phép gởi rồi mặc, đắp, người chịu gởi đã xả phép gởi cho, hoặc dùng y vì thân thiết với người chịu gởi, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: không xả y mà mình đã gởi (sāmaṃvikappi tassa apaccudhāro); y ấy đủ thước tấc (bề ngang, bề dài) nên gởi (vikappanūpaga civaratā); đã mặc, đắp (paribhogo). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina sikkhāpada).

    10) Giấu vật dụng (ananidhāna).

    Tỳ khưu giấu 1 trong 5 món, bát, ca sa, tọa cụ, ống kim, dây thịt lưng của vị khác, để giễu chơi, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư giấu các vật dụng (bát, cà sa...) của phe thập thất sư.

    Chú giải: Người lãnh đem giấu phạm tác ác; tỳ khưu giấu hoặc dạy người đem giấu, phạm ưng đối trị; giấu của người chưa tu lên bực trên phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Vật dụng của người khác cất không kỹ lượm giùm cất cho, hoặc lượm cố ý để thức tỉnh, rồi mới cho lại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sānattika), có 2 chi: nhất là giấu bát của tỳ khưu (pattādinaṃ apanidhānaṃ); cố ý làm cho chủ khó lòng, hoặc giễu chơi (hassadhippāyatā). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada).

    GIẾT CÔN TRÙNG - PHẦN THỨ BẢY (SAPPĀNAKAVAGGA)

    Có 10 điều học

    1) Giết súc sanh (sañcicapāna).

    Tỳ khưu cố ý giết súc sanh phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi bắn thác điểu thú (quạ).

    Chú giải: Tỳ khưu cố ý giết súc sanh dầu nhỏ bằng trứng chí, trứng rệp cũng phạm ưng đối trị. Thú lớn thì nghiệp ác lớn, nghi con thú còn sống, hoặc không phải thú còn sống mà tưởng là còn sống, rồi giết phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết rằng không phải thú, không cố ý, quên, không biết, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    2) Giết côn trùng (sappānaka).

    Tỳ khưu biết trong nước có côn trùng sống rồi dùng nước ấy để: uống, tắm hoặc rửa tay, chơn, hoặc rửa đồ đựng, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư dùng nước có côn trùng sống.

    3) Nhắc vụ cũ lại (ukkotana).

    Tỳ khưu biết tăng đã giải sự tranh biện theo 1 trong 7 pháp diệt tránh nào đúng theo pháp rồi mà còn nhắc việc ấy lại nữa, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nhắc lại việc cũ mà tăng đã xử xong đúng theo phép.

    Chú giải: Tỳ khưu nào biết tăng đã diệt tránh rồi mà còn đến nói với tỳ khưu ấy rằng “Tăng xử việc ấy không đúng đâu, phải xử lại nữa” nói như thế thì phạm ưng đối trị. Tăng sự đúng theo pháp nghi, tưởng là không dùng theo pháp, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tưởng là tăng sự không đúng theo pháp, biết tăng sự không đúng, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: tranh biện mà tăng đã diệt theo pháp (yathādhammaṃ nihatabhāvo); đã biết (jānanatā); nhắc lại (ukkotanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkha vedanā).

    4) Giấu tội nặng (duṭṭhullapaticchādana).

    Tỳ khưu biết tỳ khưu khác phạm tội nặng là tội tăng tàn, mà lại giùm giấu tội ấy, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Upananda nhờ tỳ khưu khác giấu tội tăng tàn làm mai dong mà ngài đã phạm.

    Chú giải: Trong tội nặng, nghi, tưởng là không phạm tội nặng, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tính sợ có sự cãi lẻ đến tăng hoặc nghi rằng: người ấy hung ác sẽ có tai hại đến sinh mạng hoặc đến phạm hạnh, rồi nín thinh, chưa gặp tỳ khưu đáng nói nên chưa nói hoặc không muốn giấu rồi nín thinh, không nói vì nghi, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: biết là tỳ khưu phạm tội nặng (upasam pannassa dutthullāpattijānanaṃ); định không nói với người khác vì muốn giấu tội nặng ấy (dhūranikkhapo). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) tội sanh vì thân khẩu ý, phạm vì làm (kiriyā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha), vô ý cũng phạm (acittaka), phạm tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp, ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (dukkhavedanā).

    5) Người chưa đủ 20 tuổi (onavisativassa).

    Tỳ khưu biết là người chưa đủ 20 tuổi rồi làm thầy tế độ cho tu lên bực trên (upasaṃpadā), phạm ưng đối trị. Người ấy vẫn còn là sa di, chưa được lên bậc tỳ khưu đâu.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Vihāra Veluvana gần thành Rājagaha do chư tỳ khưu truyền tỳ khưu giới cho những người trẻ tuổi.

    Chú giải: Tỳ khưu làm hoà thượng tế độ, phạm ưng đối trị. Ngoài ra, các tỳ khưu khác chứng minh đều phạm tác ác. Về phần người tu lên bậc trên ấy, dầu hoà thượng biết, hay không làm phép cho lên bậc trên cũng không được lên. Người ấy khi đã tu được 10 hạ rồi, được làm hoà thượng cho kẻ khác tu lên bậc trên, trừ hoà thượng ấy ra, nếu các tỳ khưu chứng minh đủ số, người mới tu ấy được gọi là lên bực trên đúng đắn. Dầu người chưa được lên bực trên kia, chưa biết mình đến đâu thì đường trời và Niết-bàn cũng không hư hại đến đó. Nếu biết thì nên làm lễ tu lên bực trên lại.

    6) Trốn quan thuế (theyyasattha).

    Tỳ khưu biết bọn buôn tính trốn thuế nhà nước, trốn quan thuế, rồi còn rủ đi chung đường cùng nhau, dầu đi khỏi một khoảng xóm cũng phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do 1 vị tỳ khưu đi chung với bọn buôn lậu bị bắt rồi được thả ra.

    Chú giải: đi đường rừng không có xóm, qua khỏi nửa do tuần cũng phạm ưng đối trị.

    Người không rủ, tỳ khưu không rủ, hoặc bọn buôn mà tỳ khưu nghi, hoặc không phải bọn buôn, tỳ khưu nghi là bọn buôn, đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu tưởng là không phải là bọn buôn lậu, không rủ mà đi chung đường cùng nhau hoặc người rủ mà tỳ khưu không rủ, hoặc rủ nhau đi vì có tai hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 4 chi: bọn buôn lậu (theyyasatthabhāro); đã biết (jānanaṃ); cả 2 bên đồng rủ nhau đi (saṃvidhānaṃ); đi khỏi xóm hoặc đã quá nửa do tuần (avisanketenagamanaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Tội phát sanh do thân ý, thân khẩu ý, phạm vì làm (kiriyā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp, 3 tâm, 3 thọ.

    7) Rủ phụ nữ đi chung (saṃvidhāra).

    Tỳ khưu rủ phụ nữ đi chung đường cùng nhau, dầu chỉ đi qua khỏi xóm cũng phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do 1 vị tỳ khưu rủ 1 người phụ nữ đi chung đường.

    Chú giải: Trong tinh nữ, ngạ quỉ nữ, bộ nấp và thú cái có thân hình như người, tỳ khưu phạm tác ác. Tỳ khưu rủ, phụ nữ không rủ, hoặc không phải phụ nữ tưởng là phụ nữ, hoặc nghi đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là không phải phụ nữ, không phạm tội, ngoài ra như điều học trên, trừ ra có sự nguy hiểm.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: cả hai bên đồng rủ nhau đi chung đường (dvinaṃpisaṃ vidahitvā maggapati pannatā); không sai ý muốn (avisanketatā); đã đi qua khỏi xóm hoặc đi khỏi nữa do tuần (gāmantārogamanaṃ vā adhayojanātikkamovā). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Tội phát sanh do thân khẩu, thân ý, thân khẩu ý, phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokha), vô ý cũng phạm tội (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp, có 3 tâm, có 3 thọ.

    8) Tỳ khưu tà kiến (ariṭṭha).

    Tỳ khưu chấp tà kiến, hiểu thấy sai lầm pháp luật mà đức Phật đã giảng giải, các tỳ khưu khác ngăn cản cũng chẳng nghe, nếu tăng đã tụng lời khuyên răn đến 3 lần (samanubhāsanakamma) mà còn chưa dứt bỏ tà kiến, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Ariṭṭha tà kiến.

    Chú giải: Tỳ khưu tà kiến là nói “tiếp xúc phụ nữ không có tội, ví như đụng nhằm vật lót, trải, mềm dịu, không thấy tội, trong sự dâm dục như thế, vị khác nghe biết nên giảng tội ngũ trần, răn cấm tỳ khưu ấy đến 2, 3 lần mà không nghe, tỳ khưu tà kiến ấy phạm tác ác. Vị khác thấy mà không khuyên răn cũng phạm tác ác. Nếu tỳ khưu tà kiến không chịu bỏ kiến thức xấu xa nên dẫn đến cho tăng khuyên răn. Nếu đã khuyên mà không nghe, tăng tụng samanubhāsana đến 2 lần mà tỳ khưu ấy cũng chưa bỏ tánh cũ thì phạm tác ác, khi tụng dứt lần thứ 3 rồi, phạm ưng đối trị.

    9) Thân cận cùng tỳ khưu si mê (ukkhitasambhoga).

    Tỳ khưu biết rõ vị ấy chưa bỏ kiến thức lầm lạc như thế rồi thân cận cùng vị ấy, là ăn chung hoặc hành tăng sự chung (saṅghakamma), ngủ trong nơi dừng che cùng nhau, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư hành tăng sự chung với tỳ khưu Ariṭṭha.

    Chú giải: Tỳ khưu nào đã phạm tội, tăng không cho ở chung cùng tăng, vì không thấy tội hoặc không chịu sám hối, hoặc không bỏ tà kiến mà vị nào được biết như thế rồi cho vật thực, hoặc ăn chung cùng nhau, hoặc học hay dạy pháp, hoặc cho tỳ khưu ấy làm tăng sự chung cùng nhau ... phạm ưng đối trị. Nghi trong tỳ khưu mà tăng đã cáo tội ấy thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tưởng là tỳ khưu mà tăng không cáo tội, biết là tỳ khưu đã bỏ tà kiến, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: tăng không hành theo pháp (akatānudhammatā); biết rõ (jānanaṃ); có làm việc nhất là thân cận cùng tỳ khưu ấy (sambhogādikaranaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada), chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì đời (lokavajja) có 4 tâm, 3 thọ.

    10) Dỗ dành sa di (kanthaka).

    Tỳ khưu biết sa di mà tỳ khưu đã hủy bỏ rồi vì tội thấy quấy ngoài pháp luật mà đức Phật đã giải, dỗ dành sa di ấy về cho hầu hạ mình, hoặc ăn chung ngủ chung trong chỗ che lợp, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī, do phe lục sư dỗ dành sa di Kanthaka tà kiến cho hầu hạ mình.

    Chú giải: Tỳ khưu nghe thấy biết sa di tà kiến như thế rồi khuyên răn đến 2, 3 lần mà không nghe nên tụng lời hủy thương(55) (nāsana) đến sa di ấy rằng: “Ajjatagge te āvuso samanuddesa nacevaso bhagavā satthā apadisitabboyampicaññe samanudde sālabhanti bhikhūhisaddhim dirattatirattaṃ sahaseyyaṃ sāpite natthi caraparevinassāti”.

    Nghĩa là: Này sa di! Kể từ ngày nay ngươi chẳng nên ỷ lại nơi đức Thế Tôn là tôn sư của ngươi nữa. Các sa di khác được phép ngủ chung với tỳ khưu đến 2, 3 đêm là hạn định, dầu như thế ngươi cũng không được phép ngủ chung, ngươi lánh xa ra đi, ngươi là người xấu xa, hãy hư hại đi”, như thế nếu tỳ khưu nào đã biết sa di mà tăng đã phá hoại như vậy rồi lại dỗ dành cho vật dụng hay dạy đạo, cho hầu hạ mình, vui thích thân cận hoặc ở chung cùng sa di ấy, phạm ưng đối trị.

    NÓI THEO PHÁP - PHẦN THỨ TÁM (DHAMMIKA VAGGA)

    Có 12 điều học

    1) Nói theo pháp (sahadhammika).

    Tỳ khưu làm quấy, khi vị khác thức tỉnh mà còn cãi lẽ rằng “Tôi chưa học hỏi điều học ấy, chờ tôi học hỏi các ngài bác học, luật sư đã”, nói lời như thế, phạm ưng đối trị.

    Lẽ thường, tỳ khưu học hỏi, nếu chưa được biết rõ điều nào cần phải học tập cho thấu đáo điều ấy nơi bậc minh sư, cầu ngài giảng giải cho thấy rõ rệt.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Ghositārāma gần thành Kosambī, do tỳ khưu Channa làm quấy.

    Chú giải: cãi lẽ với người chưa tu lên bậc trên, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu nói “Tôi biết tôi sẽ học hỏi”, và tỳ khưu điên, điều này không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: tỳ khưu đã có vị khác khuyên răn theo điều luật cấm chế (upasampannassapaññattena vacaṇaṃ); cãi lẽ như thế (asikkhitukāmatāya evamvacanaṃ). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    2) Nói cho người giải đãi (vilekhana).

    Tỳ khưu đương học luật, vị khác cố ý nói xấu điều học làm cho tỳ khưu ấy giải đãi, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nói cho tỳ khưu giải đãi.

    Chú giải: Nói xấu rằng “học tập điều học có ích chi, người nào học như thế chỉ làm khó khăn, nóng nảy bực bội trong tâm thôi”, nói như thế phạm ưng đối trị. Nói cho sa di phạm tác ác, nói xấu kinh và luận trong tỳ khưu và sa di phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Không cố ý nói xấu, nói rằng “hãy đọc kinh hoặc luận, hoặc kệ ngôn đi, sau sẽ học luật”, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 2 chi: cố ý nói xấu (garahitukāmatāca); nói xấu điều học trong tỳ khưu (upasampannassa santi kesikkhāpadavivaṇṇa naṃca). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    3) Làm như không biết (mohana).

    Tỳ khưu phạm tội, cố ý nói “tôi chỉ mới biết đây rằng: điều ấy có trong giới bổn (pātimokkha). Nếu vị khác nói: tỳ khưu ấy đã từng biết trước rồi mà nói như thế ấy là cố ý làm như không biết. Tăng nên tuyên bố bài moharo panakamma(56) đến tỳ khưu ấy khi tăng đã tụng rồi mà vẫn còn “làm như không biết” nữa, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư làm như tuồng không biết.

    4) Đánh tỳ khưu khác (pahāradāna).

    Tỳ khưu giận vị khác rồi đánh vị ấy như bợp tai, đá, cú ..., phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đánh phe thập thất sư.

    Chú giải: Dầu vị ấy bị đánh như thế mà rủi có chết cũng phạm ưng đối trị, vì chỉ cố ý đánh cho đau khổ thôi. Đánh sa di thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Nếu có người muốn làm hại đánh mình, mình có thể cự lại cho khỏi bị hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: giận hờn (kupikatā); không cố ý, muốn cho mình khỏi bị hại (namokkhādhippāyatā); đánh người tu lên bậc trên (upasaṃ pannassapahāradānaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (pathamapārājika sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā).

    5) Dá tay muốn đánh (talasattika).

    Tỳ khưu giận hờn vị khác rồi dưa tay lên muốn đánh, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư dá tay muốn đánh phe thập thất sư.

    Chú giải: Nếu tỳ khưu dá tay muốn đánh rồi quên đánh nhằm phạm tác ác, vì không cố ý đánh. Nếu trúng nhằm mình bị bịnh thế nào, cũng phạm tác ác. Ngoài ra cũng như trong điều học trên.

    6) Cáo vô cớ (amūlaka).

    Tỳ khưu vô cớ, là không được thấy, không được nghe, không nghi mà cáo vị khác vì tội tăng tàn, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư vô cớ cáo các tỳ khưu trong phe.

    Chú giải: Tỳ khưu tự mình cáo vô cớ hoặc dạy kẻ khác cáo phạm 1 trong 13 tội tăng tàn, nếu vị bị cáo được biết rằng mình bị cáo thì tỳ khưu tiên cáo phạm ưng đối trị; cáo sa di phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tưởng là tỳ khưu phạm rồi cáo theo ý tưởng, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sāṇattika), có 4 chi: bị cáo là người tu lên bậc trên (upasampannatā); cáo tội tăng tàn không có cớ (saṅghādisesassa amūlakata); tự mình cáo hoặc dạy kẻ khác cáo (anuddhasanatā); trong khi bị cáo biết rằng mình bị cáo (tamdhaṇaṃvijānanaṃ). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanā.

    7) Cố ý làm cho tỳ khưu nghi ngờ (sañcicca).

    Tỳ khưu cố ý làm cho sự nghi ngờ lo buồn phát sanh đến các vị khác, dầu là trong một chốc lát cũng phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư cố ý làm cho phe thập thất sư nghi ngờ.

    Chú giải: Làm cho phát sanh sự nghi ngờ là nói “có lẽ ngài chưa đúng 20 tuổi chăng? Tu không lên bậc trên được, có lẽ ngài ăn vật thực sái giờ, có lẽ ngài uống nước có chất say, có lẽ ngài ngồi trong chỗ kín với phụ nữ”, làm cho người lo buồn, như thế phạm ưng đối trị; làm cho sa di nghi, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Không cố ý làm cho tỳ khưu buồn lo, là nói vì muốn cho sự lợi ích đến tỳ khưu ấy, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: người đã tu lên bậc trên (upasaṃpannatā); cố ý làm cho tỳ khưu ấy lo buồn (adhāsukāmatā); làm cho sự lo buồn phát sanh như đã giải (kukucca upādanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trên.

    8) Rình nghe lén (upassuti).

    Khi các tỳ khưu đương tranh biện nhau, tỳ khưu đi rình nghe lén, tính rằng các tỳ khưu này nói lời chi, ta nghe lời ấy rồi cố ý để cáo, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư cãi lẽ với tỳ khưu khác trong sạch, rồi đi rình nghe lén.

    Chú giải: Tỳ khưu khi đến nơi nghe các tỳ khưu khác đương tranh biện rồi ra dấu “tằng hắn” hoặc nói “tôi ở đây”, nếu không làm như thế, nín thinh để nghe cũng phạm ưng đối trị; rình nghe sa di thì phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Ði rình nghe, tính rằng được nghe các ngài nói, ta trở về, ta lánh đi, ta chịu nhịn, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: người đã tu lên bậc trên (upasampannatā); cố ý cáo (codanā dhippāyo); rình nghe lén được (savanaṃ).

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trốn qua thuế (theyyasattha sikkhāpada), phạm vì làm là mình nghe lén (siya kiriyā), phạm vì không làm là không “tằng hắn” cho người biết (siyā akiriyā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp (kāyakamma vacīkamma), phạm ác tâm (akusalacitta), thuộc về thọ khổ (dukkha vedanā).

    9) Phỉ báng tăng làm việc phải (kammapaṭibāhana).

    Tỳ khưu nhận chịu cho tăng, làm việc phải, đến sau trở lại nói xấu tăng làm việc ấy, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư nói xấu tăng làm việc phải.

    Chú giải: Tỳ khưu nghi trong tăng sự đúng theo pháp, hoặc trong tăng sự đúng theo pháp mà nói là không đúng, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu tưởng trong tăng sự không đúng theo pháp, rồi nói xấu, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: tăng sự đúng theo phép (dhammakammatā); tưởng là tăng sự đúng theo phép (dhammakammamtisaññā); đã nhận chịu rồi nói xấu (chandaṃ datvākhiyanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học trộm cắp (adinnādānā sikkhāpada), chỉ khác là điều học này thuộc về thọ khổ (dukkha vadanā).

    10) Chưa ưng chịu mà bỏ ra đi (pakkamana).

    Khi tăng đương hội họp để diệt tránh hoặc làm tăng sự. Tăng chưa làm xong việc ấy, tỳ khưu ở trong hội chưa ưng chịu mà bỏ ra đi, phạm ưng đối trị. Điều học này gọi là “chandamadatvā gamana” như thế cũng được.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tăng hội họp làm tăng sự có tỳ khưu chưa ưng chịu rồi bỏ ra đi.

    Chú giải: Tỳ khưu bỏ ra đi, bước chưa khỏi hắc “tăng” (haṭṭhapāsa saṅghaṃ) phạm tác ác, ra khỏi hắc tăng phạm ưng đối trị, nghi trong tăng sự đúng theo phép hoặc trong tăng sự không đúng theo phép, tưởng là không đúng đều phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là tăng sự không đúng theo phép, bỏ ra đi không phạm tội, biết rằng sẽ có tiếng chẳng lành đến tăng, hoặc tăng làm không đúng theo phép rồi bỏ ra đi, hoặc có bịnh, hoặc đi tiểu, đại tiện, hoặc đi ra tính sẽ trở lại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 6 chi: trong khi phân xử (vinicchayaka thāyavaggamānatā); tăng sự đúng theo pháp (dhamma kammatā); biết rằng tăng sự đúng theo pháp (dhammakammasannitā); ở trong giới hạn tăng (samānasīmāyathitatā); mình có sự đồng đẳng với tăng (samānasaṃvāsakatā); cố ý làm cho hư tăng sự, rồi bỏ ra đi khỏi tăng hội (kotitukāma tāyahatthapāsavijahanaṃ). Ðều đủ cả 6 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội samanubhāsana, tội sanh do thân, khẩu, ý, phạm vì làm là bỏ ra đi và không làm là không hữu sự (kiriyā kiriyā), khỏi phạm vì tưởng (saññāvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm vì tội đời (lokavajja), thân nghiệp, khẩu nghiệp, ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (dukkha vedanā).

    11) Phỉ báng các tỳ khưu (khiyyadhamma).

    Tỳ khưu đồng ý với tăng đã thưởng y đến 1 tỳ khưu nào, đến sau trở lại nói xấu rằng “các tỳ khưu ấy đem lợi của tăng đến tỳ khưu vì ý riêng”, như thế phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha, do phe lục sư nói xấu vị A-la-hán Dabbamalla.

    12) Đoạt về cho người khác (parināmana). Tỳ khưu biết rằng lợi mà thí chủ đã sẵn lòng dâng đến tăng rồi thành lợi đến tăng ấy về cho người khác, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đoạt của tăng về cho tỳ khưu khác.

    Chú giải: như trong điều học đoạt về cho mình (parihatta sikkhāpada) trong ưng xả đối trị. Chỉ khác là trong điều học đoạt về cho mình phạm tội ưng xả đối trị vì đoạt về cho mình, trong điều học này chỉ phạm ưng đối trị, vì đoạt về cho người khác.

    TRONG ĐỀN VUA - PHẦN THỨ CHÍN (RĀJAVAGGA)

    Có 10 điều học:

    1) Trong cung cấm (antepura).

    Đức vua được thọ lễ tôn vương làm chúa trong nước, ngài còn ngự trong cung cấm với hoàng hậu, tỳ khưu chưa được lịnh đòi vào cung cấm ấy, phạm ưng đối trị.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do đức Ānanda vào trong cung cấm trong khi đức vua Pasenadikosala cùng hoàng hậu còn ngự trên long sàn.

    2) Lượm vật báu (ratana).

    Tỳ khưu thấy vật dụng của người thế rơi hoặc bỏ quên trong nơi nào, cho là vật làm rớt rồi tự mình hoặc bảo kẻ khác lượm lấy, phạm ưng đối trị, trừ ra vật ấy rơi hoặc bỏ quên trong chùa hoặc chỗ ở của mình, phải lượm cất cho chủ, nếu không lượm cất, phạm tác ác.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do một tỳ khưu đi tắm lượm được túi bạc đựng 500 lượng của người bà-la-môn. Bà-la-môn đã nhờ tỳ khưu cho túi bạc lại, rồi tính cáo gian rằng của tôi có đến 1000 lượng không phải chỉ 500 lượng đâu, bèn bắt tỳ khưu ấy rồi thả ra.

    Chú giải: Tự mình lượm lấy hoặc bảo kẻ khác lượm lấy bạc vàng cho mình, phạm ưng đối trị. Cho tăng, cho tháp và cho vị khác, phạm tác ác. Dầu của cha mẹ rồi lượm cất như người giữ kho, phạm ưng đối trị. Nếu người thế nói: “xin ngài cất giùm vật này”, thì nên ngăn “không nên”. Nếu họ bất bình liệng vật ấy rồi bỏ đi, gọi là việc bận của tỳ khưu, tỳ khưu nên lượm cất.

    Thợ mộc, hoặc người của nhà nước làm việc trong chùa, họ gởi vật chi hoặc gởi chỗ ở, xin cất giữ giùm cho, cũng chẳng nên vị mặt, sợ sệt, nên chỉ chỗ cất để cũng được. Dầu phía trong chùa hoặc phía trong chỗ ở hoặc trong nơi mà họ nghi, có lẽ tỳ khưu hay sa di lượm lấy vật rơi rớt trong chỗ như thế, nên tự mình hoặc bảo kẻ khác lượm lấy rồi làm dấu cất và nên nói: “Vật của người nào người ấy hãy vào lấy đi”. Nếu người vào đến, nên hỏi người ấy rằng “vật của ngươi làm mất ấy như thế nào”, nếu họ nói trúng thì nên cho họ, nói không trúng nên đáp “Ngươi hãy vào kiếm đi”. Nếu tỳ khưu đi khỏi nơi ấy, nên gởi cho vị khác đáng gởi, nếu không có vị như thế, nên gởi cho người cư sĩ đáng tin cậy, rồi ra đi được.

    Tỳ khưu không đi khỏi chùa và không thấy chủ lại kiếm, nên lấy vật ấy dùng làm chỗ ở hoặc tháp, hoặc ao sen, là vật bền chắc. Nếu đã quá lâu ngày mà chủ lại đến, nên chỉ rõ vật bền chắc ấy, rồi nói “Ngươi nên hoan hỉ đi”. Nếu chủ không vui lòng, muốn đòi lại nên cho người khác lấy vật bền chắc ấy làm của họ, rồi huờn vật mà họ làm rơi trong chùa hoặc trong chỗ ở của mình ấy lại cho họ. Nếu không lượm cất, phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Vật rơi trong chỗ mà đức Phật cho phép lượm, tỳ khưu lượm cất vật có thể cất được, lượm vật ấy vì sự cần thiết, hoặc là vật mượn, hoặc lượm lấy cho là vật đã bỏ, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sānattika), có 4 chi: không có cớ mà đức Phật cho phép (anuññātakāranaṃ); vật của người khác (parasantakatā); không phải lượm lấy vì cho là vật bỏ và mượn (vissāsagānakapālukulasaññānaṃ abhāvo); tự mình lượm hoặc bảo kẻ khác lượm (uggahanaṃ vā uggahāpanaṃ vā). Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học làm mai dong (sañcaritta sikkhāpada).

    3) Đi vào xóm sái giờ(vikālegāmappavesana).

    Tỳ khưu không cho vị khác trong bọn hay mà đi vào xóm sái giờ phạm ưng đối trị, trừ

    ra có việc gấp, nhất là có rắn mổ tỳ khưu trong bọn.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư đi vào xóm sái giờ để nói chuyện vô ích làm cho thiên hạ chê trách.

    Chú giải: Ra đi vào xóm bước đầu, phạm tác ác. Qua bước thứ nhì phạm ưng đối trị. Ăn trong nhà thiện tín hoặc trong nhà ăn rồi muốn đi vào xóm, nếu có tỳ khưu ngồi bên trái hoặc bên mặt cũng phải từ giã, bằng không có nên nghĩ rằng “không có” rồi đi. Khi đi ra đến đường dầu thấy tỳ khưu khác cũng phải từ giã bằng lời này “Tôi xin từ giã đi vào xóm trong lúc sái giờ” (vikalegāmappavesanam āpucchāmi), trong lúc sái giờ phạm ưng đối trị; trong giờ tưởng là sái giờ phạm tác ác.

    Thể thức không phạm tội: Biết là buổi sớm có việc gấp, hoặc có từ giã vị khác rồi đi, không có vị nào khác rồi đi, hoặc đi đến chùa mà phải qua xóm, hoặc đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni, đi đến chỗ người tu ngoại đạo hoặc có tai hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika), có 3 chi: không từ giã tỳ khưu trong bọn (santambhikkhunī anāpucchā); không có cớ mà đức phật cho phép (anuññātakaraṇabhāvo); đi vào xóm sái giờ (vikālegāmappanesanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna vidhī) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina), chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì làm và không làm (kiriyā kiriyā).

    4) Làm ống đựng kim (sūcighana).

    Tỳ khưu làm ống đựng kim bằng xương, hoặc bằng ngà, bằng sừng, phạm ưng đối trị. Phải phá bỏ ống đựng kim ấy rồi sám hối rồi mới hết tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá Nigrodha gần thành Kapilavatthu, xứ “Thích Ca”, do chư sư xin rất nhiều ống đựng kim bằng ngà, thí chủ không rảnh làm việc để nuôi sanh mạng và vợ con, làm cho thiên hạ chê trách.

    Thể thức không phạm tội: Làm ống đựng thuốc nhỏ mắt, cán dao, ống lược nước và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sānattika) có 3 chi: ống đựng kim (sūcigharatā); làm, nhứt là bằng xương (atthima yāditā); tự mình làm hoặc bảo kẻ khác làm cho mình làm được (attano atthāya karanaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābho). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tội ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học làm mai dong (sancaritta sikkhāpada).

    5) Làm giường (mañca).

    Tỳ khưu làm giường hoặc bàn nhỏ thấp dài, nên làm chân cao hơn hết là chừng 8 ngón tay(57) của đức Phật (kể từ dạ dưới giường trở xuống), nếu làm quá mực thước, phạm ưng đối trị. Phải cắt bỏ cho bằng hạn định rồi sám hối, mới hết tội (điều học này gọi là “chedanaka” như thế cũng được).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī, do tỳ khưu Upananda làm giường cao quá hạn định.

    Thể thức không phạm tội: Bảo họ làm cho vừa hạn định hoặc cao quá giới hạn rồi dạy họ cắt bỏ cho vừa và tỳ khưu điên đều không phạm tội. Có hai chi: giường hoặc bàn nhỏ dài cao quá giới hạn (pamānātikkantani añcapithatā); tự mình làm hoặc bảo kẻ khác làm cho mình, làm được (attano attāyakaranaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābho). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) ngoài ra, như trong điều học làm ống đựng kim (sūcighara sikkhāpada).

    6) Làm giường có dồn gòn (tulonaddha).

    Tỳ khưu làm giường hoặc bàn nhỏ thấp dài có dồn gòn hoặc dồn bông, phạm ưng đối trị. Phải phá bỏ rồi sám hối mới hết tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī, do phe lục sư làm giường có dồn bông làm cho thiên hạ chê trách.

    Thể thức không phạm tội: Trong các đồ trang sức, dây nịch lưng, áo bát, vải lược nước, gối có dồn bông không tội.

    Ðiều học này phạm tội vì dạy người khác (sānattika), có 2 chi: giường hoặc bàn nhỏ thấp dài có dồn gòn (tulonaddhamañcapithatā); tự mình làm hoặc bảo kẻ khác làm cho mình, làm được (attano atthāyakaranaṃ vā kārādetvā vā paṭilābho). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    7) Làm tọa cụ(nisīdana).

    Tỳ khưu làm tọa cụ để ngồi, nên làm theo hạn định là bề dài 2 gang, bề ngang một gang rưỡi, bìa 1 gang của đức Phật, nếu làm quá hạn định phạm ưng đối trị. Phải cắt bỏ cho bằng mực thước rồi sám hối mới hết tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư làm toạ cụ quá hạn định.

    Thể thức không phạm tội: Làm cho vừa theo hạn định hoặc nhỏ hơn người khác làm cho, quá hạn định rồi cắt bỏ ra cho bằng và tỳ khưu điên đều không phạm tội. Có 2 chi: toạ cụ quá hạn định (nisīdanassapamānātikknatatā); tự mình làm hoặc bảo kẻ khác làm, làm được (attano atthāya karanaṃ vā karāpetvā patilābho). Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm ưng đối trị.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trên.

    8) Vải rịt ghẻ (gandappaticchādi).

    Tỳ khưu làm vải rịt ghẻ, nên làm cho đúng theo hạn định là bề dài 4 gang, bề ngang 2 gang của đức Phật. Nếu làm quá hạn định phạm ưng đối trị. Phải cắt bỏ cho bằng hạn định rồi sám hối mới hết tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī, do phe lục sư làm vải rịt ghẻ quá giới.

    9) Làm y tắm mưa (vassikasātikā).

    Tỳ khưu làm y để tắm mưa, nên làm theo hạn định là: bề dài 6 gang, bề ngang 2 gang của đức Phật, nếu làm quá giới phạm ưng đối trị. Phải cắt bỏ cho đúng theo luật định, rồi sám hối mới hết tội.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư làm y tắm mưa quá giới.

    10) Làm cà sa lớn (nanda).

    Tỳ khưu làm ca sa dài, lớn bằng cà sa của Phật phạm ưng đối trị. Ca sa của Phật có bề dài 9 gang, bề ngang 6 gang của đức Thế Tôn. Phải làm theo luật định là cắt cho vắn, cho nhỏ hơn ca sa của Phật, rồi sám hối mới hết tội. Ðiều học này gọi là Nandatthera cũng được.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Nanda (em của Phật) có tướng mạo rất đẹp (bề cao thấp hơn đức Phật 4 ngón), mặc ca sa lớn bằng ca sa của Phật, ở xa đi lại, chư tỳ khưu tưởng là đức Thiên Nhơn Sư, bèn sửa soạn đứng dậy tiếp nghinh, rõ lại không phải là đức Vô Thượng Sĩ, nên chê trách.

    VI. BỐN ĐIỀU HỌC ƯNG PHÁT LỘ (PATIDESANĪYA)

    Patidesanīya nghĩa là tội mà tỳ khưu phải sám hối bằng cách khác (có giải nơi chương sau).

    1. Tự tay mình thọ lãnh (hatthatopaṭiggahana)

    Tỳ khưu tự tay mình thọ lãnh vật thực nơi tay tỳ khưu ni không phải bà con, phạm ưng phát lộ.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do 1 tỳ khưu thọ vật thực nơi tay tỳ khưu ni đi bát dâng cho đến 4 ngày, làm cho tỳ khưu ni ấy phải nhịn đói, mình gầy sức yếu.

    2. Ðương ăn trong chỗ họ thỉnh mời (kulesunimantitā)

    Tỳ khưu đang ăn trong chỗ họ thỉnh mời, nếu có tỳ khưu ni đến dạy thí chủ đem vật này, vật kia đem đến dâng đến tỳ khưu ấy, vì lòng thương yêu trọng đãi tỳ khưu, nên đuổi tỳ khưu ni ra khỏi, nếu không đuổi thì phạm ưng phát lộ.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư được mời thỉnh ăn, có phe sau tỳ khưu ni đến dạy thí chủ dâng vật này, vật nọ đến phe lục sư, lục sư nhờ đó mà ăn no. Các vị khác phải chịu nhịn.

    3. Bậc thánh mà tăng đã chỉ định (sekkhasammata)

    Bậc thánh nhơn nào mà tăng đã ra lịnh định là bậc có đức tin nhiều mà nghèo, nếu tỳ khưu không bịnh, không được thỉnh mà thọ vật thực nơi ấy đem về dùng, phạm ưng phát lộ.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do chư sư thọ lãnh vật thực nơi bậc thánh nhơn mà nghèo, làm cho nhà ấy phải chịu đói khát.

    4. Chỗ ở trong rừng nguy hiểm (araññikasenāsana)

    Chỗ ở trong rừng là nơi xa xóm ít nhất là 1000 thước. Tỳ khưu ngụ trong rừng là nơi nguy hiểm có điều lo sợ, nếu không bịnh mà thọ lãnh vật thực của thí chủ đã cho tin trước rằng “họ sẽ đến dâng vật thực trong nơi ấy” và tỳ khưu không cho họ hay có sự nguy hiểm trong nơi ấy, tự tay mình thọ lãnh đem dùng, phạm ưng phát lộ.

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Nigrodha tịnh xá, gần thành Kapilavatthu (dòng Thích Ca), do chư sư ngụ nơi rừng nguy hiểm, có phe tín nữ vào trai tăng bị bọn trai hung ác đón đường cướp của và hãm dâm.

    Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu cho hay sự nguy hiểm ấy mà tưởng là chưa cho hay, hoặc nghi, hoặc tưởng đã có cho hay rồi, có bịnh, thọ lãnh vật thực của thì chủ dâng đến mà mình đã cho hay trước, hoặc dùng vật thực dư của tỳ khưu bịnh, hoặc dùng củ, trái cây mà mình được thọ lãnh ngoài chùa, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Ðiều học này có 7 chi: chỗ ngụ trong rừng như đã nói (yacāvutta āraññika senāsakatā); vật thực không phải phát sanh trong nơi ấy (yāvakālikassa attatthajātakatā); không có bịnh (agilānatā); vật thực không phải của dư của tỳ khưu bịnh (agilānāvasesakatā); không cho hay (appatisaṃ viditatā); thọ lãnh trong chùa (ajjhārame paṭiggahanaṃ); đã ăn vào (ajjhoharanaṃ). Ðều đủ cả 7 chi ấy mới phạm ưng phát lộ.

    Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathama kathina sikkhāpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm tội vì làm (kyriyā) là thọ lãnh và vì không làm là không cho hay trước (akiriyā).

    Nếu phạm 1 trong 4 tội ưng phát lộ ấy nên sám hối như vầy: Tôi đã phạm phép đáng cho đức Phật chê trách là phép ưng phát lộ mà người phạm cần phải bày tỏ ngay, tôi xin bày tỏ pháp ấy. Còn lời xin sám hối và lời thọ tiếp theo như lời sám hối trong các tội khác ‒ Gārayhaṃ bhante [āvuso] dhammaṃ āpajjiṃ asappāyam patidesaniyaṃ taṃ patidesemi. Nếu nhiều vị, đọc āpajjimhā thế cho āpajjiṃ, paṭidesama thế cho paṭidesemi.

    VII. BẢY MƯƠI LĂM ĐIỀU HỌC ƯNG HỌC PHÁP (SEKKHIYAVATTA)

    Ưng học pháp là điều học mà chư tỳ khưu, sa di phải học và hành. Chia làm 4 phần: mặc y cho nghiêm trang, phần thứ nhất, có 26 điều (sārūpa); thọ thực cho tề chỉnh, phần thứ nhì, có 30 điều học (bhojanapatisaṃyutta); thuyết pháp cho đúng phép, phần thứ ba, có 16 điều học (dhammadesanāpatisamyutta); lượm lặt, phần thứ tư, có 3 điều (pakiṇṇaka).

    MẶC Y CHO NGHIÊM TRANG - PHẦN THỨ NHẤT (SĀRŪPA)

    Có 26 điều học:

    1) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta phải mặc, đắp y cho kín mình (parimaṇdalanivāsana).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do phe lục sư mặc y nội phía trước và phía sau không đồng, làm cho thiên hạ chê trách.

    Chú giải: Phải mặc y nội phía trên cho kín rún, phía dưới từ đầu gối xuống 8 ngón tay như thế gọi là mặc kín mình. Nếu dể duôi, mặc phía trước hoặc phía sau xệ xuống, phạm tác ác.

    Nếu phạm 1 trong 75 điều “ưng học pháp” gọi là phạm tác ác cả, không cố ý, quên không biết có bịnh, có điều rủi ro, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Không cố ý là: Tính mặc cho kín mình thiệt mà quên, rồi mặc không kín như thế gọi là không cố ý; không phạm tội: tâm tưởng nơi khác, rồi mặc không kín như thế gọi là quên, quên nên không phạm tội. Không biết mặc cho kín như thế, gọi là không biết, không phạm tội, nhưng lệ thường, tỳ khưu phải học hỏi trước, nếu không học hỏi trước, như thế gọi là dể duôi, cũng không khỏi phạm tác ác.

    Tỳ khưu nào, đầu gối lớn, ống chân dài, mặc y phục xuống khỏi 8 ngón tay cho kín cũng nên. Tỳ khưu có ghẻ nơi đầu gối hoặc trong chân như thế gọi là có bịnh, mặc y cao lên hoặc thấp xuống cũng nên. Thú dữ rượt hoặc bọn cướp đánh đuổi gọi là: có điều rủi ro, trong khi rủi ro như thế không phạm.

    Các nguyên nhân không sanh tội nhất là: không cố ý như đã nói trên, cũng kể vào trong tất cả điều học ưng học pháp sẽ giải ra phía sau, nơi nào có điều chi khác nhau sẽ giải thêm trong điều ấy.

    Trong tất cả điều học ấy, đều không phạm tội vì bảo kẻ khác làm (anāṇattika). Ðiều học này có 3 chi: không dè dặt cẩn thận (anādasiyaṃ); không có nguyên nhân không phạm tội (anāpatti karaṇābhāvo); mặc không kín mình (aparimandalaṃ nivāsanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tác ác.

    Trong mỗi điều học ưng học pháp đều có 3 chi giống nhau như trong điều học này. Cho nên trong mấy điều học sau, không cần phải nói đến phần chi phạm tội nữa.

    Chỗ sanh tội sẽ giải ra phía sau cuối cùng. Trong mỗi câu đầu của ưng học pháp không nói tên tội, chỉ có câu: tỳ khưu nên làm như vầy; “đều đủ cả điều học” (sikkhākaranīyā). Biết rằng phạm tội tác ác, vì tiếng “không cẩn thận” mà làm thì phạm tác ác. Cho nên phía sau không cần phải nói tên tội nữa, cũng nên biết là phạm tội vì không cẩn thận.

    2) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta nên đắp y cho kín mình, mặc y vai trái phía dưới từ đầu gối xuống khoảng 4 ngón tay, phía trên trùm cho kín cánh chỏ tay trái (parimandala pārāpana).

    3) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên trùm y cho kín mình khi đi vào khoảng nhà (supaṭicchanno antaragharegamana).

    4) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên trùm y cho kín mình khi ngồi trong khoảng nhà (supaṭicchanno antaragharenisīdana);

    Vào ngụ trong khoảng nhà dầu ngồi rồi ra y, mặc cho kín mình (như trong khi ở trong chùa) trong lúc ban ngày hoặc ban đêm cũng không phạm tội.

    Tiếng “vāsupagatassa” trong kinh chú giải rằng: “đi vào để ngụ”, nhưng không định ngụ đêm hay là ngụ đỡ. Có chỗ lại nói “vāsupagato” nghĩa là đi vào ngụ đêm.

    5) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên thu thúc cho chánh đáng là không nên múa tay quơ chơn khi đi vào khoảng nhà (susamvuto antaragharegamana).

    6) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta nên thu thúc cho chánh đáng là không múa tay quơ chơn khi ngồi trong khoảng nhà (susaṃvuto antaragharenisīdana).

    7) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta nên ngó xuống là xem phía trước, xa 4 hắc khi đi vào khoảng nhà (nghỉ đứng trong nơi nào rồi liếc xem để ngừa sự rủi ro tai hại: như voi, ngựa, xe cũng nên) (okkhittacakkhuantaraghare gamana).

    8) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên ngó xuống xa 4 hắc khi ngồi trong khoảng nhà (okkhittacakkhu antaragharenisīdana).

    9) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên dở y lên khi đi vào trong khoảng nhà, dầu trong khi thọ thực cũng không nên dở y lên (na ukkhittakāya antaragharegamana).

    10) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên dỡ y lên, khi ngồi trong khoảng nhà (na ukkhittakāya antaraghare nisīdana).

    11) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta không cười lớn tiếng khi đi vào khoảng nhà, dầu có bịnh cũng không khỏi phạm tội (na ujjhaggikāya antaragharegamana).

    12) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta không cười lớn tiếng khi ngồi trong khoảng nhà. Nếu có cớ nên cười, thì mỉm cười, không phạm tội (na ujjhaggikāya antaragharenisīdana).

    13) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta nên nói nhỏ nhẹ khi đi vào khoảng nhà (appasaddho antaragharegamana).

    14) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta nên nói nhỏ nhẹ khi ngồi trong khoảng nhà (appasaddho antaragharenisīdana). Nói nhỏ nhẹ là như nhà bề dài 12 hắc, đại đức (sư cả) ngồi đầu, vị thứ nhì ngồi giữa, vị thứ ba ngồi sau chót.

    Nếu vị cả nói với vị thứ nhì, vị này vừa đủ nghe rõ, còn vị thứ ba chỉ nghe tiếng mà không phân biệt được lời lẽ chi của 2 vị ngồi trước, như thế gọi là nói nhỏ nhẹ. Còn nói lớn tiếng là tiếng nói nghe đến vị thứ ba phân biện được sự lý, như thế gọi là lời nói lớn.

    Trong kinh chú giải nói: phân biện tiếng nhỏ, tiếng lớn là tiếng nói thường không nhỏ không lớn nhưng có người có tiếng lớn, có người có tiếng nhỏ. Vậy nên nói tiếng thường làm mẫu.

    15) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không uốn mình khi đi vào khoảng nhà (nakāyappacālakaṃ antaragharegamana).

    16) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không uốn mình khi khi ngồi trong khoảng nhà (nakāyappacālakaṃ antaragharenisīdana).

    17) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên đánh đồng xa khi đi vào khoảng nhà (nabāhuppacālakaṃ antaragharegamana).

    18) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên uốn vai khi ngồi trong khoảng nhà (nabāhuppacālakaṃ antaragharenisīdana).

    19) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên lắc đầu khi đi trong khoảng nhà (nasisappacālakaṃ antaragharegamana).

    20) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không lắc đầu khi ngồi trong khoảng nhà (nasīsappacā lakaṃ aṃantaragarenisīdana). Nên ngồi cho thân thể, tay chân ngay thẳng, trong khi ngồi trong khoảng nhà.

    Trong 3 điều học nói về khi ngồi ấy, nếu vào ngụ đêm trong xóm, dầu uốn mình, lắc đầu cũng không phạm tội.

    21) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên chống nạnh khi đi vào trong khoảng nhà (nakhambhakato antaragharegamana).

    22) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên chống nạnh khi ngồi trong khoảng nhà, vào ngụ đêm chống nạnh không phạm tội (nakhambhakato antaragharenisīdana).

    23) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên trùm đầu khi đi vào trong khoảng nhà (na ogunthito antaragharegamana).

    24) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên trùm đầu khi ngồi trong khoảng nhà (na ogunthito antaragharenisīdana). Vào ngụ đêm trùm đầu không phạm tội.

    25) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên nhón gót khi đi vào trong khoảng nhà (na ukkutikāya antaragharegamana).

    26) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên ngồi khoanh tay choàng đầu gối khi ngồi trong khoảng nhà (napallathikāya antaragharenisīdana), vào ngụ đêm không phạm tội.

    Trong cả 26 điều này, tỳ khưu vì dể duôi, cố ý làm sai luật cấm phạm tác ác.

    Không cố ý, quên, không biết, có sự hại và tỳ khưu bịnh, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    THỌ THỰC CHO CHỈNH TỀ - PHẦN THỨ NHÌ (BHOJANAPATISAMYUTTA)

    Có 30 điều học:

    1) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên chú ý thọ lãnh vật thực cho đúng phép, là không làm như thế lấy đem đi đổ bỏ vì giận (sakkaccaṃ piṇḍapāta patiggahaṇa).

    2) Tỳ khưu nên làm như vầy: khi thọ thực ta chỉ nên ngó trong bát (pattasaññi piṇḍapāta paṭiggahana).

    3) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta chỉ nên thọ lãnh canh vừa với cơm (samasūpaka piṇḍapāta paṭiggahana).

    4) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta chỉ nên thọ lãnh vật thực vừa miệng bát (samatittika piṇḍapāta paṭiggahana), dầu thọ lãnh vật ajāmakālika, sattāhakālika hoặc yāvajivika đầy tràn bát cũng nên.

    Nếu thọ lãnh 2 bát nên thọ trước 1 bát rồi để vào nơi khác gởi về chùa, rồi thọ thêm nữa, hoặc mía đã róc, chặt ra từng đoạn, hoặc trái cây mà họ gói lại để lên bát, như thế nói là vun bát cũng không đặng, cho nên thọ lãnh cũng nên.

    Trong điều này, dầu tỳ khưu đau thọ lãnh vật thực, vung tràn bát cũng không khỏi tội.

    5) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta nên ăn cho chỉnh tề (sakkaccaṃ piṇḍapāta bhuñjana).

    6) Tỳ khưu nên làm như vầy: khi ăn ta chỉ nên ngó trong bát (pattasaññi piṇḍapāta bhuñjana).

    7) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta phải ăn vật thực cho đều, là không ăn sâu giữa bát, hoặc đùn vun lên (sapadāna piṇḍapāta bhuñjana).

    8) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta chỉ dùng canh cho vừa với cơm (samasūpaka piṇḍapāta bhuñjana).

    9) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên đùa cơm vun lên giữa bát mà ăn (nathūpikato omadditā piṇḍapāta bhuñjana).

    10) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên đùa cơm khuất lấp đồ ăn, cố ý muốn được nhiều thêm nữa, dầu tỳ khưu bịnh cũng không khỏi phạm tội.

    Nếu không cố ý muốn được thêm mà đùa khuất vật thực không phạm tội (nasūpaṃ vā byañjanaṃ vā odane napaṭicchādana).

    11) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không bịnh không xin vật thực để ăn; xin nơi bà con hoặc nơi người có yêu cầu, hoặc xin cho người khác không phạm tội (nasūpaṃ vā byañjanaṃ vā odanaṃ vā agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjana).

    12) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên liếc xem bát vị khác, cố ý tìm lỗi người, tỳ khưu bịnh cũng không khỏi phạm tội.

    Liếc xem cố ý cho thêm, hoặc không cố ý tìm lỗi không phạm tội (na ujjhāna saññiparesaṃ pattaolokana).

    13) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không làm vắt cơm cho lớn quá bằng trứng ngỗng, gọi là lớn quá, nhỏ bằng trứng gà gọi là nhỏ quá, nhỏ hơn trứng ngỗng, lớn hơn trứng gà thì vừa (nātimahan takavalakarana).

    14) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta làm vắt cơm cho tròn không dài (parimandala ālopakarana).

    15) Tỳ khưu nên làm như vầy: khi vắt cơm chưa đến miệng, ta không hả miệng chờ (na anāhataka valemuhkadvā ravivarana).

    16) Tỳ khưu nên làm như vầy: trong khi ăn, ta không nhét trọn bàn tay vào miệng (nabhuñjamanosabbamhatthammukhepakkhipana).

    17) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói chuyện khi vật thực còn trong miệng (nasakavalena mukhenabyāharaṇa).

    18) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không thảy vật thực vào miệng mà ăn (napindukkhepakabhuñjana).

    19) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không cắn vắt cơm mà ăn (nakavalāvaccedakabhuñjana).

    20) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không ăn độn cơm bên má như khỉ ăn (na avagaṇḍakārakabhuñjana).

    21) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không búng rảy tay trong khi ăn (rảy rác được) (nahatthaniddhūnakabhuñjana).

    22) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không làm cho cơm đổ, liệng, bỏ rác, có đổ cơm không phạm tội (nasiṭṭhāvakārakabhuñjana).

    23) Tỳ khưu nên làm như vầy: trong khi ăn ta không le lưỡi ra khỏi miệng (na jivchānicchārakabhuñjana).

    24) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên ăn và chắp (nacapucapukārakabhuñjana).

    25) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không dùng vật thực nghe tiếng rột rột (nasurusurukārakabhuñjana).

    Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Ghosita tịnh xá, gần thành Kosambī, do 1 vị tỳ khưu nghe tăng thọ sữa húp rột rột rồi giễu rằng: có lẽ tăng húp sữa cho nguội chăng?

    26) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không ăn, liếm tay (nahatthanilehakabhuñjana).

    27) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nên ăn liếm bát và vét bát (napattanillehakabhuñjana).

    28) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không liếm môi trong khi ăn (na otthanille napattanillehakabhuñjana).

    29) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không dùng tay còn dính vật thực, cầm đồ đựng nước, tính đem rửa tay hoặc cho người khác rửa, cầm không phạm tội (nasāmi senahatthenapā nīyathālakapaṭiggahana).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại rừng Bhesakalā gần thành Sumsumāratira, do chư tỳ khưu tay còn dính cơm mà cầm đồ đựng nước bị thí chủ chê trách.

    30) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không đổ nước rửa bát còn hột cơm trong khoảng nhà. Nên lượm cơm cho nát rồi đổ, hoặc đổ trong ống nhổ, rồi đem đi đổ hoặc đem đổ nơi khác, đều không phạm tội (nasasitthakaṃpattadhovanaṃantaragharechaddana).

    Ðiều học này đức Phật cấm chế tại rừng Bhesakalā gần thành Sumsumāratira, do chư tỳ khưu đổ nước rửa bát có lộn cơm là cho thí chủ chê trách.

    Trong cả 30 điều học này, tỳ khưu nào dể duôi, cố ý, phạm tác ác. Không cố ý, không trí nhớ, không biết mình, có sự hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Tỳ khưu bịnh không phạm tội, trừ ra trong 4 điều học thọ vật thực đầy tràn miệng bát, móc ăn giữa bát, đùa cơm lấp vật thực và liếc xem bát tỳ khưu khác để tìm lỗi người, dầu tỳ khưu bịnh cũng không khỏi phạm tội.

    THUYẾT PHÁP CHO ĐÚNG PHÉP - PHẦN THỨ BA (DHAMMADESANĀPAṬISAṂYUTTA)

    Có 16 điều học:

    1) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có dù trong tay.

    Chú giải: Nếu người khác họ che cho, hoặc dù để trong mình cho vừa rảnh tay cũng gọi là người không có dù trong tay, nói pháp đến người ấy cũng nên (nachattapānissa agilānassadhammadesana).

    2) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có gậy trong tay (như trong điều học trên) (nadaṇḍapānissa agilānassadhammadesana).

    3) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có vật bén (dao, gươm) trong tay (như trong điều học trên) (nasatthapānissagilānassadhammadesana).

    4) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh có cung tên, súng trong tay (naāvudhapānissagilānassadhammadesana).

    5) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có mang dép guốc (napādukārudhassa agilānassadhammadesana).

    6) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có mang giày da (naupāhanārullhassa agilānassadhammadesana).

    7) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi trên xe, võng... ngồi trên xe với nhau, nói pháp cũng được.

    Tỳ khưu ngồi trên xe cao, người nghe ngồi xe thấp hoặc ngồi trên xe bằng nhau, tỳ khưu ngồi xe trước, người nghe ngồi xe sau, đều nói pháp được hết, nhưng người ngồi xe sau, dầu cao hơn mà nói pháp đến người ngồi xe trước không nên (nayānagatassa agilānassadhammadesana).

    8) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi hoặc nằm trên giường (nasayanaga tassa agilānassadhammadesana).

    Tỳ khưu nằm nơi cao nói pháp đến người nằm nơi thấp cũng nên, người nằm nói pháp đến người đứng, hoặc ngồi nói đến người đứng, hoặc ngồi với nhau, hoặc đứng nói với người đứng đều được cả.

    9) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi khoanh tay choàng qua đầu gối (napallatthikāyanisinnassa agilānassadhammadesana).

    10) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có bịt khăn (navetthitasīsassa agilānassadhammadesana).

    11) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, đội khăn hoặc nón (na ogunthitasīsassa agilānassadhammadesana).

    12) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không ngồi sà đất nói pháp đến người vô bịnh, ngồi trên chiếu, đệm (nachamāyamnisīditvā āsanenisinnassa agilānassadhammadesana).

    13) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không ngồi trên chỗ thấp nói pháp đến người vô bịnh ngồi nơi cao (nanīce āsanenisīditvā uce āsanenisinnassa agilānassadhammadesana).

    14) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không đứng nói pháp đến người vô bịnh ngồi (nathitonisinnassa agilānassadhammadesana).

    Trong kinh chú giải có nói, dầu tỳ khưu trẻ đến chỗ tỳ khưu cao hạ, rồi tỳ khưu trẻ ấy đứng, vị trưởng ngồi hỏi đạo, tỳ khưu trẻ không nên đáp. Nếu tỳ khưu trẻ không có thể bảo vị trưởng lão đứng dậy mới nên hỏi, không dám nói, vì tôn kính vị trưởng lão, nên nghĩ rằng: ta nói pháp đến tỳ khưu trẻ đứng gần bên, rồi nói cũng nên.

    15) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không đi phía sau nói pháp đến người vô bịnh đi phía trước (napacchato gacchanto pūrato gacchantassa agilānassadhammadesana).

    Kinh chú giải có nói, nếu người đi trước nói đạo không nên đáp, nên nghĩ rằng: ta nói pháp đến người đi phía sau, như thế rồi nói.

    16) Tỳ khưu nên làm như vầy: Ta không đi ngoài đường, nói pháp đến người vô bịnh đi trong đường (na upathena gacchanto pathena gacchantassa agilānassadhammadesana).

    Nếu mỗi người đi 1 bên đường, nói pháp cũng nên.

    Trong cả 16 điều học, tỳ khưu dể duôi cố ý phạm tác ác, quên, không biết mình, có bịnh, có điều hại, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    LƯỢM LẶT - PHẦN THỨ TƯ (PANKINNAKA)

    Có 3 điều học:

    1) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không bịnh, không đứng tiểu hoặc đại tiện.

    Trong khi mắc đại tiểu tiện gấp rút không phạm tội (nathito agilāno uccāraṃ vā passāvaṃ vā karaṇa).

    2) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không bịnh, không đại hoặc tiểu tiện, khạc nhổ, hỉ mũi trên chỗ xanh nhứt là cây cỏ tươi, dầu rễ cây còn sống thấy rõ trên mặt đất hoặc nhánh cây còn sống cũng đều gọi là xanh cả (naharite agilāno uccāram vā passāvaṃ vā karana).

    Lên ngồi trên nhánh cây để đại tiểu tiện rớt xuống chỗ không có vật xanh cũng nên. Ði tiểu chỗ không có vật xanh, dầu đại tiểu tiện đến gấp rút cũng gọi như người có bịnh, không tội. Nếu tìm không kịp nơi không có vật xanh, nên kiếm vật chi lót đại tiểu tiện có chảy nhằm vật xanh cũng vô tội.

    3) Tỳ khưu nên làm như vầy: ta không bịnh không đại hoặc tiểu tiện, nhổ, hỉ mũi trong nước (na udake agilāno uccāraṃ vā passāvaṃ vā karaṇa).

    Nước để dùng được, nước không dùng được không phạm tội. Nước ngập không có gò đất, đại tiểu tiện trong nước ấy không tội. Đại tiểu tiện trên khô chảy xuống nước không phạm tội.

    Trong cả 3 điều học ấy, tỳ khưu dể duôi cố ý phạm tác ác. Không cố ý, không có trí nhớ, không biết mình có bịnh, có sự rủi ro, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

    Trong cả 75 điều ưng học pháp (trừ ra điều 25, 29, 30 trong phần thọ thực tề chỉnh), đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Vihāra Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do phe lục sư làm quấy.

    2 điều học cười lớn, 2 điều học nói lớn tiếng, 1 điều học nói chuyện còn vật thực trong miệng thành 5 điều học: ngồi sát đất nói pháp đến người trên chiếu đệm; ngồi nơi thấp nói pháp đến người ngồi nơi cao; đứng nói pháp đến người ngồi; đi ngoài đường nói pháp đến người đi trong đường; đi sau nói pháp đến người đi trước ‒ 5 điều học này với 5 điều trên thành 10 điều học. 10 điều học này thuộc về samanubhāsanasamuṭṭhāna là tội sanh do thân khẩu ý, phạm tội vì làm (kiriyā), khỏi phạm tội vì tưởng (saññāvimokkha), phạm tội vì cố ý (sacittaka), phạm tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacīkamma), ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (dukkhavedanā).

    Xin đồ ăn, xin cơm thuộc về theyyasatthasamutthāna, tội sanh do thân-ý, thân-khẩu-ý (kiriyā, saññāvimokkha, sacittaka, lokavajja, kāyakamma, vacīkamma, akusalacitta, dukkhavedanā.

    Nói pháp đến người vô bịnh, có dù trong tay, có gậy trong tay, có vật bén (dao, gươm) trong tay, có cung tên trong tay, mang guốc, dép, mang giày da đến người đi trên xe, người nằm, đến người ngồi khoanh tay choàng qua đầu gối, người bịt khăn, người đội khăn. 11 điều học ấy thuộc về dhamma desanasamuṭṭhāna là tội sanh do khẩu-ý (kiriyā, kiriyā, saññāvimokkhā, sacittaka, lokavajja, vacikamma, akusalacetta, dukkhavedanā). Còn lại 53 điều học chỗ sanh tội (sanutthāna) như trong điều học bất cộng trụ thứ nhất (pathamapārājika sikkhāpada).

    Lại nữa, ưng học pháp không có nhất định là chỉ bấy nhiêu, mà không nhất định ấy là cách thức tỳ khưu nên học và hành chẳng phải có bấy nhiêu đâu, dầu là pháp hành đức Phật đã chế định trong phần hành (vattakhanidha) cũng gọi là ưng học pháp, vì là pháp hành mà tỳ khưu nên học và hành theo.

    -oo0oo-

    (21) Từ đời nọ đến đời kia.
    (22) Mười một hạng người không thể tu lên bậc tỳ khưu được là: người bán nam bán nữ (bộ nấp), người có cả 2 bộ sanh trược khí, người giả tu hành, người còn theo ngoại đạo, không phải người (loài thú), người giết cha, người giết mẹ, người giết A-la-hán, người chích máu Phật, người chia rẽ tăng, người hành dâm với tỳ khưu ni.
    (23) Do vị A-xà-lê hoặc giới tử đọc trật tên giới tử, tên vị Hoà thượng tế độ, tên tăng...
    (24) Do vị A-xà-lê không bạch hỏi cho đủ các món cần dùng theo bổn phận của tỳ khưu (như y, bát...).
    (25) Do tăng không đủ số (từ 5 vị trở lên) để chứng nhận.
    (26) Là tỳ khưu không phải người điên, không có tâm tán loạn, không hôn mê.
    (27) Māsaka là giá bạc thông dụng ngày xưa bên xứ Trung Ấn Độ bằng 6 cắc bạc của ta (năm 1966).
    (28) Của người gởi, tỳ khưu làm mất, không chịu bồi thường cũng phạm Bất cộng trụ.
    (29) Bát bên xứ Trung Ấn Độ thuở ấy giá bằng 6 cắc ở nước ta, lưu hành đến ngày nay.
    (30) Phước xá này cất trong rừng lớn gần biển và núi Tuyết sơn (Bénarès).
    (31) Lục thông là: nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.
    (32) Kinh Chú giải có nói: Tỳ khưu biết dạy học Phạn ngữ và lời chú giải có tài thuyết pháp hay, khi đã thuyết xong, có người hỏi: Ngài học với thầy nào? Tỳ khưu ấy dấu pháp danh của thầy, đáp: Chẳng có thầy nào có thể dạy được ta cả, ta chỉ biết ở nơi ta.
    (33) Cáo vì không được thấy tận mắt, không được nghe, không được nghĩ trong tâm.
    (34) Cáo rằng phạm tội hành dâm.
    (35) Tài sản của tăng từ số 9 đến 17 đều làm bằng kim loại.
    (36) Là sau khi nhập hạ rồi, nhằm ngày rằm tháng 9, chư tăng nhóm lại mà tỏ tội cùng nhau.
    (37) Nghĩa là 1 nhóm tỳ khưu từ 4 vị sắp lên ở hoà thuận nhau để hành đạo.
    (38) Là lời khuyên răn.
    (39) Xem trong Kathina khandhaka.
    (40) Tam y phát sanh trong 11 tháng, từ 16/10 đến rằm tháng 9, gọi là y ngoài lễ dâng y.
    (41) Duyên cớ là lúc y bị cướp mất, lửa cháy, nước lôi, mối ăn, cũ rách.
    (42) Thường gọi là thiện nam.
    (43) Phạm tội vì cách xin.
    (44) Phạm tội vì cách mặc ngoài hạn định.
    (45) Lối ngàn thước tây.
    (46) Chưa tu lên bậc trên là chưa thọ cụ túc giới làm tỳ khưu.
    (47) Nếu có vị trưởng lão bảo dậy, hoặc có tinh, ngạ quỉ đến ngồi nơi ấy hoặc có quan lớn đến ngồi nơi ấy, bỏ đi khỏi phạm tội.
    (48) 5 thứ vật thực, nhất là cơm và bánh làm bằng 7 thứ mễ.
    (49) Cách thọ lãnh vật mà thí chủ dâng có 5: Vật mà người có sức lực bậc trung vừa dở lên nổi; người dâng ở trong hắc; người dâng nghiêng mình dâng vào; chư Thiên, người hoặc thú dâng; tỳ khưu thọ lãnh vật ấy bằng thân hoặc bằng vật dính thân.
    (50) 8 thứ nước: nhất là nước xoài gọi là yāmakālika là vật được phép dùng trong 1 ngày 1 đêm
    (51) 5 thứ thuốc: sữa lỏng, sữa đặc, đường, mật ong, dầu gọi là sattāhakālika là vật được phép để dùng trong 7 ngày
    (52) Ngoài vật thực và 2 thứ thuốc trên gọi là : yāvajīvika, vật được phép dùng cho đến hết.
    (53) Vật ăn trong buổi sáng từ mặt trời mọc tới đứng bóng.
    (54) Mahānāma là đức vua dòng Thích Ca, con nhà chú của đức Phật, tuổi lớn hơn đức Phật 1 tháng, đã đắc quả Tư-đà- hàm.
    (55) Không cho ở chung, ăn chung.
    (56) Moharo panakamma là lời tăng khuyên rằng: Này ông, việc không phải là lợi của ông đâu, ông chỉ được điều quấy vì khi tỳ khưu tụng giới bổn, ông không ghi nhớ cho đúng đắn.
    (57) Ngón tay của Phật bằng 3 ngón tay của người bậc trung.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.