Bố thí cầu nguyện

Bố thí cầu nguyện

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN III

    PHÁP-HÀNH GIỚI (SĪLĀCĀRA)

    Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)

     

    BỐ-THÍ CẦU NGUYỆN

    Thí-chủ sau khi làm phước-thiện bố-thí xong rồi, thường có lời cầu nguyện rằng:

    “Do nhờ phước-thiện bố-thí này, xin cho tôi được giàu sang phú quý, được chức trọng quyền cao, được sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục- giới, v.v... cho được thành-tựu như ý nguyện.”

    Lời cầu nguyện của thí-chủ được thành tựu như ý nguyện thật sự thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn. Còn nếu thí-chủ là người phạm giới, không có giới thì lời cầu nguyện khó có thể thành-tựu được như ý, bởi vì thí-chủ là người phạm giới, không có giới, nên phước-thiện bố-thí không có cơ hội cho quả được như ý nguyện.

    BÀI KINH DĀNŪPAPATTISUTTA

    Thật vậy, trong bài kinh Dānūpapattisutta (1) Đức- Phật thuyết dạy với ý nghĩa rằng:

    - Này chư tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp. 8 pháp ấy như thế nào?

    1- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn thắp sáng,... đến sa-môn, bà-la-môn.

    Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.

    Thí-chủ nhìn thấy hoàng tộc cao thượng, dòng bà-la- môn cao quý, những phú hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời, nên thí- chủ cầu mong rằng:

    “Quý báu biết dường nào! sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trong hoàng tộc cao thượng, hoặc trong dòng bà-la-môn cao quý, hoặc trong gia đình phú hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời.”

    Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền...

    Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai trong hoàng tộc, hoặc trong dòng bà-la-môn, hoặc trong gia đình phú hộ.

    Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.”

    - Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, sự cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.

    2- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước,... đèn thắp sáng,... đến sa-môn, bà-la-môn.

    Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.

    Thí-chủ nghe nói rằng:

    Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại- thiên-vương có tuổi thọ sống lâu (500 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tứ-đại-thiên-vương bằng 50 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời, an-lạc vi-tế, nên thí- chủ cầu mong rằng:

    “Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.”

    Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền...

    Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.

    Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.

    - Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành tựu như ý, nhờ có đại- thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.

    3 đến 7- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, ... đèn thắp sáng, ... đến sa-môn, bà-la-môn.

    Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.

    Thí-chủ nghe nói rằng:

    - Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tam- thập-tam-thiên có tuổi thọ sống lâu (1.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: ...

    - Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Dạ-ma- thiên có tuổi thọ sống lâu (2.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Dạ-ma-thiên bằng 200 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: ...

    - Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Đâu- xuất-đà-thiên có tuổi thọ sống lâu (4.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên bằng 400 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: ...

    - Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Hóa-lạc- thiên có tuổi thọ sống lâu (8.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Hóa-lạc-thiên bằng 800 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: ...

    - Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tha-hóa- tự-tại-thiên có tuổi thọ sống lâu (16.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên bằng 1.600 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng:

    “Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.”

    Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền...

    Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.

    Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.

    - Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành tựu như ý, nhờ có đại- thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.

    8- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, ... đèn thắp sáng, ... đến sa-môn, bà-la-môn.

    Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.

    Thí-chủ nghe nói rằng:

    Chư phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên có tuổi thọ sống lâu hơn chư-thiên cõi dục-giới, có sắc thân hào quang sáng ngời, an-lạc vô cùng vi-tế, nên thí-chủ cầu mong rằng:

    “Quý báu biết dường nào! Trước khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này làm duyên phát sinh sắc-giới thiện-tâm có sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy.”

    Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng đến bậc thấp trong bậc thiền sắc-giới, không hướng lên bậc cao Thánh-đạo, Thánh-quả, và Niết-bàn.

    Thí-chủ sau khi chết, sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên ấy, (tùy theo sắc-giới quả-tâm).

    Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, có sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới,

    - Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có sắc-giới thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.

    - Này chư tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp như vậy.

    NHẬN XÉT BÀI KINH DĀNŪPAPATTISUTTA

    Trong bài kinh Dānūpapattisutta này, thí-chủ làm phước-thiện bố-thí xong, tâm của thí-chủ cầu mong hưởng quả của phước-thiện bố-thí trong cõi dục-giới, thậm chí trong cõi trời sắc-giới, đó là sự cầu mong bậc thấp trong vòng luẩn quẩn tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, cho nên Đức-Phật dạy rằng:

    “Tâm của thí-chủ cầu mong hưởng quả bậc thấp trong 7 cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, cho đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên, không tiến triển lên bậc cao là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

    Sau khi thí-chủ chết, tâm cầu mong cõi nào thì thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ấy (Tassa taṃ cittaṃ hīne vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ. Tatrūpapattiyā saṃvattati).

    Như-lai dạy rằng: Kiếp-sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới (Tañca kho sīlavato vadāmi, no dussīlassa).

    - Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ thiện- tâm trong sạch thanh-tịnh (Ijjhati bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā.(1)).”

    Như vậy, người thí-chủ nào có giới trong sạch và trọn vẹn, làm phước-thiện bố-thí thuộc về đại-thiện-nghiệp bố-thí. Sau khi người thí-chủ ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới theo ý nguyện của thí-chủ.

    Nếu thí-chủ nào đã phạm giới, không có giới, dù có làm phước-thiện bố-thí thuộc về đại-thiện-nghiệp bố-thí thì sau khi thí-chủ ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí cũng không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới, mà ác-nghiệp phạm giới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su- ra, ngạ-quỷ, súc-sinh). Còn dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí chờ cơ hội khác cho quả.

    * Trong Phật-giáo này, các hàng thanh-văn đệ-tử sau khi đã làm phước-thiện bố-thí dù lớn dù nhỏ, cũng nên nguyện cầu bậc cao cứu cánh Niết-bàn đó là A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    Trong Chú-giải Chi-bộ-kinh dạy đọc lời cầu nguyện như sau:

    “Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”(1)

    Phước-thiện bố-thí này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Nếu làm các phước-thiện khác giữ-giới, hành-thiền, v.v... thì đọc lời nguyện cầu như sau:

    “Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”

    Phước-thiện này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Đó là lời cầu nguyện bậc cao cứu cánh Niết-bàn của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, nên phước- thiện bố-thí ấy trở thành pháp-hạnh ba-la-mật, làm nền tảng hỗ trợ cho các pháp-hạnh ba-la-mật còn lại được thuận lợi thành tựu đầy đủ.

    Trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử có pháp-hạnh bố-thí ba-la- mật hỗ trợ được thành tựu quả báu ở cõi người (manussasampatti) dù giàu sang phú quý như thế nào cũng không đắm say trong cõi người, hoặc được thành- tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) dù hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời như thế nào cũng không đắm say trong cõi trời ấy, bởi vì mục đích cứu cánh của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử là nguyện cầu sớm được thành tựu đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, để hỗ trợ hành-giả thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đạt đến mục đích cứu cánh thành-tựu quả báu Niết-bàn (Nibbāna- sampatti) giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    (Xong Pháp-Hành Giới)

    -oo0oo-

    (1) Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.

    ---

    (1) Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.

    ---

    (1) Aṅg. Ekakanipātaṭṭhakathā, Paṇihita acchavaggavaṇṇanā.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.