Bốn nguyên nhân tử (Maraṇuppatticatukka)

Bốn nguyên nhân tử (Maraṇuppatticatukka)

    THERAVADA
    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

    Hậu Sớ Giải

    Tỳ khưu Khải Minh

    PL. 2551 – DL. 2008

     

    BỐN NGUYÊN NHÂN TỬ (MARAṆUPPATTICATUKKA)

    TRÌNH BÀY 4 CÁCH CHẾT THEO THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN & LỜI DỊCH

    1 - Āyukkhayena kammakkhayena ubhayakkhayena upacchedakakammunā ceti catudhā maraṇuppatti nāma.

    4 nguyên nhân làm hiển lộ sự chết, gọi là maraṇuppatti.

    1- Āyukkhayamaraṇa: Chết do hết tuổi thọ.

    2-Kammakkhayamaraṇa: Chết do hết hết nghiệp.

    3- Ubhayakkhayamaraṇa: Chết do hết tuổi thọ và hết nghiệp.

    4- Uppacchedakamaraṇa: Chết do nghiệp chen vào cắt đứt (bất đắc kỳ tử).

    *

    TRÌNH BÀY ẤN TƯỚNG HIỂN LỘ KHI CẬN TỬ

    2 - Tathā ca maranatānaṃ pana maraṇakāle yathārahaṃ abhimukhībhūtaṃ bhavantare paṭisandhijanakaṃ kammaṃ vā, taṃkammakaraṇakāle rūpādikamupaladdhapubbamupakaraṇabhūtañca kammanimittaṃ vā, anantaramuppajjamānabhave upalabhitabbamupabhogabhūtañca gatinimittaṃ vā kammabalena channaṃ dvārānaṃ aññatarasmiṃ paccupaṭṭhāti.

    Đối với người chết liên quan đến 1 trong 4 nguyên nhân. Lúc cận tử thì thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp đưa đi tái tục trong kiếp sau diễn tiến như hiện rõ cho mình ngay trước mặt.

    Nếu nghiệp tướng tức cảnh nghiệp như cảnh sắc, cảnh thinh… đã từng được thấy, được nghe… liên quan đến việc làm của mình làm duyên hỗ trợ cho thành tựu hành động của mình trong lúc tạo nghiệp.

    Nếu như thú tướng tức cảnh sẽ nhận được và sẽ được cảm thọ lạc khổ trong kiếp sau sẽ khởi hiện vào 1 trong 6 môn do mãnh lực của nghiệp tương ứng với chúng sanh sẽ dẫn đến cõi vui hoặc cõi khổ.

    *

    TIẾN TRÌNH CỦA DÒNG TÂM THỨC LÚC CẬN TỬ

    3 - Tato paraṃ tameva tathopaṭṭhitaṃ ārammaṇaṃ ārabbha vipaccamānakakammānurūpaṃ parisuddhaṃ upakkiliṭṭhaṃ vā upalabhittabhavānurūpaṃ tatthoṇataṃva cittāsantānaṃ abhiṇhaṃ pavattati bāhullena.

    Tiếp nối cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng đã hiện khởi chính nương vào cảnh đó mà dòng tâm thức trở nên thanh tịnh hay cấu uế. Tùy theo nghiệp sẽ cho quả và có trạng thái giống như hướng đến sanh hữu phải tái sanh rồi tùy thuận sanh hữu ấy mà tái tục.

    *

    TRÌNH BÀY THEO LÝ KHÁC NỮA VỀ VIỆC HIỂN LỘ CẢNH NGHIỆP

    4 - Tameva pana janakabhūtaṃ kammaṃ abhinavakaraṇavasena dvārappattaṃ hoti.

    Thiện nghiệp, bất thiện nghiệp làm cho tâm tái tục sanh lên hiển lộ trong tâm bằng mãnh lực làm cho mình giống như đang tái sanh.

    *

    TRÌNH BÀY LỘ CẬN TỬ

    5 - Paccāsannamaraṇassa tassa vīthicittāvasāne bhavaṇgakkhaye vā cavanavasena paccuppannabhavapariyosānabhūtaṃ cuticittaṃ uppajjitvā nirujjhati.

    Tâm tử là tâm cuối cùng của kiếp hiện tại khởi hiện với người sắp mệnh chung vào giai đoạn cuối cùng của lộ tâm. Hoặc khi tâm hộ kiếp cuối cùng diệt đi do mãnh lực làm phận sự chuyển đổi kiếp sống cũ.

    *

    TRÌNH BÀY VIỆC SANH LÊN CỦA TÂM TÁI TỤC TRONG KIẾP SỐNG MỚI

    6 - Tasmiṃ niruddhāvasāne tassānantarameva tathāgahitaṃ ārammaṇaṃ ārabbha savatthukaṃ avatthukameva vā yathārakaṃ avijjānusayaparikkhittena tañhānusayamūlekena saṅkhārena janiyamānaṃ sampayuttehi pariggayhamānaṃ sahajātānamadhiṭṭhānabhāvena pubbaṇgabhūtaṃ bhavantarapaṭisandhānavasena paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ uppajjamānameva patiṭṭhāti bhavantare.

    Sau khi tâm tử diệt đi. Tâm tuần tự nối tiếp không gián đoạn theo tâm tử gọi là tâm tái tục nối liền hai kiếp sống mới và kiếp sống cũ. Có 1 trong 3 loại hành (saṇkhāra) được vô minh tiềm tàng cai quản và tham tiềm miên làm căn gốc. Được sắp xếp tùy theo các hành thiện và bất thiện cho sanh lên bám lấy cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng mà 6 môn trong đổng lực cận tử nhận lấy tùy theo ấn tướng hiện vào 1 trong 6 môn cho dù có nương vật hay không nương vật. Thì các pháp tương ưng tâm như xúc, thọ… tháp tùng dẫn đầu cho sở hữu và sắc nghiệp câu sanh với mình hiện diện trong kiếp sống mới ngay khi tái sanh.

    *

    TRÌNH BÀY CẢNH CỦA TÂM TÁI TỤC DỤC GIỚI

    7 - Maraṇāsannavīthiyaṃ panettha mandappavattāni pañceva javanāni paṭikaṇkhitabbāni, tasmā yadi paccuppannārammaṇesu āpāthagatesu āpāthagatesu dharanteveva maraṇaṃ hoti.

    Thích giải: Trong vấn đề tử rồi tái tục này. Đối với lộ cận tử thì sức mạnh của đổng lực yếu dần nên chỉ khởi hiện lên 5 sát na mà thôi. Chính việc các tâm đổng lực này giảm sức mạnh xuống cho nên khi vừa mệnh chung thì cảnh hiện tại hiển lộ ngay trước mặt.

    8 - Tadā paṭisandhibhavaṇgānampi paccuppannārammaṇatā labbhatīti kavtā kāmāvacarapaṭisandhiyā chadvāraggahitaṃ kammanimittaṃ gatinimittañca paccupannamatītārammaṇaṃ upalabbhati.

    Vào lúc đó cảnh của tâm tái tục và tâm hữu phần sanh lên nối tiếp nhau (nhiều nhất 6 sát na) cũng là cảnh hiện tại. Bởi vì cảnh nghiệp tướng và cảnh thú tướng tái tục trong cõi dục giới mà đổng lực cận tử nhận được bằng 6 môn là cảnh hiện tại cũng được hoặc cảnh quá khứ cũng được.

    - Kammaṃ pana atītameva tañca manodvāraggahitaṃ, tāni pana sabbānipi parittadhammabhūtārammaṇāni.

    Riêng cảnh nghiệp của tâm tái tục dục giới phải thuần nhất là cảnh quá khứ và phải nhận được bởi động lực cận tử ý môn. Nếu nói theo pháp thì cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng của tâm tái tục dục giới thuộc cảnh pháp dục giới.

    *

    TRÌNH BÀY CẢNH CỦA TÂM TÁI TỤC SẮC GIỚI &VÔ SẮC GIỚI

    10 - Rūpāvacarapaṭisandhiyā pana paññattibhūtaṃ kammanimittamevārammaṇaṃ hoti.

    Cảnh của tâm tái tục sắc giới chỉ thuần nhất là nghiệp tướng chế định.

    11 - Tathā arūpapaṭisandhiyā ca mahaggatābhūtaṃ paññattibhūtañca kammanimittameva yathārahamārammaṇaṃ hoti.

    Cảnh của tâm tái tục vô sắc giới là nghiệp tướng đáo đại và chế định làm cảnh tùy theo thiền chứng.

    12 - Asaññasattānaṃ pana jīvitanavakameva paṭisandhibhāvena, patiṭṭhāti, tasmā te rūpapaṭisandhikā nāma.

    Còn việc tái tục của nhóm Phạm Thiên Vô Tưởng thì sắc mạng quyền bảo tồn lúc tái tục. Do đó, nhóm Phạm Thiên Vô Tưởng này mới gọi là bậc có sắc tái tục.

    13 - Arūpā arūpapaṭisandhikā ... Sesā rūpārūpapatisandhikā.

    Chư Phạm Thiên Vô Sắc là nhóm có danh tái tục, người dục giới và Phạm Thiên sắc giới còn lại (trừ Phạm Thiên Vô Tưởng và Phạm Thiên Vô Sắc) là nhóm có cả danh và sắc tái tục.

    *

    TRÌNH BÀY TÂM TÁI TỤC SANH LÊN SAU TÂM TỬ

    14 - Heṭṭhimāruppavajjitā

    Āruppacutiyā honti

    Paramāruppasandhī ca

    Tathā kāmatihetukā

    Rūpāvacaracutiyā

    Aheturahitā siyuṃ

    Sabbā kāmatihetuṃhā

    Kāmeveva panetarā

    Sau 4 tâm tử vô sắc giới thì 4 tâm tái tục vô sắc giới (trừ tâm tái tục vô sắc giới thấp) và 4 tâm tái tục tam nhân dục giới hiện khởi lên được.

    Sau 5 tâm tử sắc giới thì 17 tâm tái tục (trừ 2 tâm tái tục vô nhân) sanh lên được.

    Sau 4 tâm tử tam nhân dục giới thì tất cả tâm tái tục, tức 19 tâm tái tục và sắc nghiệp tái tục sanh khởi lên được.

    Và sau những tâm tử còn lại, tức 2 tâm tử vô nhân và 4 tâm tử nhị nhân dục giới thì 10 tâm tái tục dục giới sanh vào 11 cõi dục giới mà thôi.

    Ayamettha cutipatisandhikkamo…

    Lời thích giải đã trình bày trên đề cập đến việc tuần tự khởi hiện của tâm tử và tâm tái tục của lộ tâm chủ quan yếu hiệp (vithīmuttasaṇgaha).

    *

    SỰ KHỞI HIỆN TÂM HỘ KIẾP & TÂM TỬ

    15 - Iccevaṃ gahitapaṭisandhikānaṃ pana paṭisandhinirodhānantarato pabhūti tamevārammaṇamārabbhatadeva cittaṃ yāva cuticittuppādā asati vīthicittuppāde bhavassa aṇgabhāvena bhavaṇgasantatisaṇkhātaṃ mānasaṃ abbocchinnaṃ nadīsoto viya pavattati. Pariyosāne ca cavanavasena cuticittaṃ hutvā nirujjhati.

    Sau khi tâm tái tục diệt thì dòng tâm của người tái tục chấp thủ vào kiếp sống mới trôi đi không gián đoạn. Khi tâm lộ chưa hiện khởi thì chính tâm tái tục bắt lấy cảnh vừa sanh lên trong kiếp sống mới trở thành tâm hộ kiếp là chi phần của kiếp sống sanh lên vô gián cho đến khi tâm tử hiện khởi. Tương tự như dòng nước của dòng sông luôn trôi trôi không ngừng nghỉ.

    Và vào thời điểm cuối cùng của một kiếp sống hiện tại, cũng do chính tâm hộ kiếp này trở thành tâm tử bởi mãnh lực của việc chuyển đổi kiếp sống cũ rồi cũng diệt đi.

    *

    SỰ LUÂN CHUYỂN TRONG VÒNG LUÂN HỒI

    16 - Tato parañca paṭisandhādayo rathacakkamiva yathākkamaṃ eva parivattantā pavattanti.

    Sau khi tâm tử diệt thì các tâm như tâm tái tục… sanh lên nối tiếp nhau luân chuyển trong kiếp sống mới theo phận sự tuần tự tái tục, hộ kiếp, tử, tựa như bánh xe xoay vòng.

    *

    KỆ NGÔN TRÌNH BÀY TÓM LƯỢC SỰ LUÂN CHUYỂN TRONG VÒNG LUÂN HỒI

    17 -Patisandhibhavaṇgavīthiyo

    Caticeha tathā bhavantare

    Punasandhi bhavaṇgamiccayaṃ

    Parivattati cittasantati

    Trong kiếp hiện tại này, thì tâm tái tục, tâm hộ kiếp, tâm lộ và tâm tử sanh lên nối tiếp nhau như thế nào. Thì trong kiếp vị lai dòng tâm như tâm tái tục, tâm hộ kiếp… cũng sanh lên luân chuyển nối tiếp nhau cũng như thế đó.

    *

    KỆ NGÔN TRÌNH BÀY VIỆC CHỈ DẪN PHƯƠNG PHÁP CẮT ĐỨT VÒNG LUÂN HỒI

    18 -Paṭisaṇkhāya panetamaddhuvaṃ

    Adhigantvā padamaccutaṃ budhā

    Susamucchinnasinehabandhanā

    Samamessanti cirāya subbatā .

    Phương pháp thực hành thoát ly khỏi luân hồi của người có tuệ tái tục tam nhân. Thực hành đúng theo chánh pháp như trì giới, hành đầu đà, tu tiến Chỉ Tịnh, Minh Sát thời gian dài quán thấy rõ sự diễn tiến của tâm và sở hữu là vô thường, chứng đạt bất tử Níp Bàn bằng Đạo Tuệ, Quả Tuệ chặt đứt các pháp hành, nhổ bỏ ái dục trói buộc, rồi an tịnh viên tịch Níp Bàn.

    Iti abhidhammatthasaṇgahe vīthimuttasaṇgahavibhāgo nāma pañcamo paricchedo.

    Chương 5 phần tâm lộ chủ quan yếu hiệp (vithimuttasaṇgahavibhāgo) trong Thắng Pháp Tập Yếu Luận chỉ bấy nhiêu .

    Kết thúc Thắng Pháp Tập Yếu Luận và lời dịch

    *

    THÍCH GIẢI VỀ 4 NGUYÊN NHÂN CHẾT TUẦN TỰ THEO THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

    Thích giải Pāli điều thứ 1 trình bày đến 4 nguyên nhân chết (maraṇuppatticatukka).

    Từ maraṇuppatticatukka nếu phân ra được 3 từ:

    Maraṇa + Uppatti + Catukka.

    Maraṇa: Sự chết; Uppatti: Khởi hiện; Catukka: Có 4. Gom lại thành maraṇuppatticatukka: Sự chết khởi hiện có 4 cách, ám chỉ đến nhân làm cho chết có 4 cách. Như trình bày định nghĩa sau: "Maraṇassa uppatti: Maraṇuppatti" Diễn tiến khởi hiện sự chết gọi là maraṇuppatti.

    Nhân làm cho sự chết hiện bày có 4 cách:

    1 – Āyukkhaya: Do hết tuổi thọ.

    2 – Kammakkhaya: Do hết nghiệp.

    3 – Ubhayakkhay: Do hết tuổi thọ lẫn nghiệp.

    4 – Upacchedaka: Do tai họa nhưng tuổi thọ và nghiệp vẫn chưa hết.

    Ví dụ so sánh sự chết của chúng sanh giống như một ngọn đèn. Ngọn đèn tắt do 1 trong 4 nguyên nhân:

    1 . Tắt do hết tim.

    2 . Tắt do hết dầu.

    3 . Tắt do hết cả tim lẫn dầu.

    4 . Tắt do bị gió thổi hoặc do bị thổi cho tắt.

    Ngọn đèn ví như mạng sống của tất cả chúng sanh, sự tắt ngọn đèn ví như chấm dứt mạng sống trong mỗi kiếp sống. Vì vậy, người mạng tận do hết tuổi thọ cũng như ngọn đèn tắt tuy hết tim nhưng vẫn còn dầu. Người mạng tận do hết nghiệp cũng như ngọn đèn tắt tuy hết dầu nhưng vẫn còn tim. Người mạng tận do hết tuổi thọ lẫn nghiệp cũng như ngọn đèn tắt do hết tim lẫn dầu. Người mạng tận do các tai họa cũng như ngọn đèn tắt do bị gió thổi hoặc bị thổi cho tắt nhưng vẫn còn tim lẫn dầu.

    1- "Āyukkhayamaraṇa": Được trình bày định nghĩa như sau: "Āyūno khayaṃ: Āyukkhayaṃ" Chấm dứt tuổi thọ gọi là thọ tận (āyukkhaya).

    "Āyukkhayena maraṇaṃ: Āyukkhayamaraṇaṃ" Chết do hết tuổi thọ gọi là thọ tận tử (āyukkhayamaraṇa).

    Từ "Āyu" nếu nói theo cách trực tiếp là sắc mạng quyền. Nhưng trong nơi đây "Āyu" ám chỉ cho thọ tận là hạn định tồn tại của sắc mạng quyền, đây là nói theo cách gián tiếp. Như nhóm Phạm Thiên, chư thiên cũng có hạn định thọ tận của mình tùy theo cõi mà mình nương trú. Đối với nhân loại trong cõi Diêm Phù Đề hạn định thọ tận lên xuống bất định. Lúc thì tăng lên đến A Tăng Kỳ tuổi, lúc thì xuống cho đến 10 tuổi là thọ tận. Như đã có trình bày chi tiết trong paṭisandhicatukka (nhóm 4 tái tục). Riêng trong thời hiện tại này thì hạn định 75 tuổi là thọ tận. Cho nên tất cả chúng sanh trong cõi này dù phần nhiều mãnh lực nghiệp vẫn còn, nhưng khi tròn đủ thọ tận thì mệnh chung. Người trường thọ hơn hạn định thọ tận cũng có nhưng rất hiếm, các người đó phải có nghiệp quá khứ không sát sanh mới có thể hỗ trợ cho mạng quyền để bảo tồn thân thể cho được lâu dài. Hoặc không như thế thì mãnh lực của sanh nghiệp vẫn còn sức mạnh và hiện tại tạo thiện nghiệp như thọ trì ngũ giới được trong sạch và có sự chú ý gìn giữ sức khoẻ thật tốt. Chính do các nhân này giúp cho người đó được trường thọ hơn thọ mạng. Như trong thời hiện tại vẫn có người thọ hơn 90 tuổi Trong thời kỳ Đức Phật hạn định tuổi thọ là 100 tuổi, nhưng vẫn có nhiều người có tuổi thọ dài hơn. Như Ngài Ānanda, Ngài Mahākassapa, bà Visākhā các vị này thọ được 120 tuổi. Ngài trưởng lão Bākula thọ được 160 tuổi. Nhưng dù thế nào đi nữa, không sống gấp đôi thọ mạng mà hạn định trong thời kỳ đó.

    2-"Kammakkhayamaraṇa": Được trình bày định nghĩa như sau: "Kammassa khayo:Kammakkhayo". Chấm dứt nghiệp gọi là nghiệp tận (kammakkhaya).

    "Kammakkhayena maraṇaṃ: Kammakkhayamaraṇaṃ" Chết do chấm dứt nghiệp gọi là nghiệp tận tử (kammakkhayamaraṇaṃ).

    Từ "nghiệp" trong nơi đây ám chỉ đến sanh nghiệp có chức năng cho quả tái tục; và trì nghiệp có chức năng trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp được tồn tại trong cõi đó. Chấm dứt cả 2 nghiệp như đã đề cập trên gọi là nghiệp tận. Cho nên mới có người sanh lên mà mãnh lực của 2 nghiệp này được tồn tại chỉ 1 tháng, 1 năm, 5 năm, 10 năm… cũng có. Nhưng không tồn tại đến hết thọ mạng của người đó. Các sự chết này có thể nói là chết do hết nghiệp, được gọi là nghiệp tận tử . Ví như ngọn đèn hết dầu dù cho tim vẫn còn nhưng ngọn đèn cũng phải bị tắt.

    Lại nữa, việc trình bày đến nhóm chư thiên và Phạm Thiên chết do hết phước (puñnàkkhamaraṇa phước tận tử) cũng ám chỉ đến nghiệp tận tử đó.

    3- "Ubbayakkhayamaraṇa": Được trình bày định nghĩa sau: "Ubhayesaṃ khayo: Ubhayakkhayo". Chấm dứt tuổi thọ lẫn nghiệp gọi là lưỡng tận (ubhayakkhaya).

    "Ubhayakkhayena maraṇaṃ: Ubhayakkhayamaraṇaṃ". Chết do chấm dứt tuổi thọ lẫn nghiệp gọi là lưỡng tận tử (ubbayakkhayamaraṇa).

    Sự chết loại này cũng ám chỉ đến người chết có tuổi thọ dài cho đến hết thọ tận. Và mãnh lực của thiện sanh nghiệp hoặc bất thiện sanh nghiệp cũng vừa thích hợp cùng với việc chầm dứt tuổi thọ, ví như ngọn đèn tắt do tim lẫn dầu cùng hết.

    Như có người sanh vào thời thời kỳ hạn định tuổi thọ 75 năm thọ mạng và mãnh lực thiện sanh nghiệp cũng được 75 năm. Khi người đó đến 75 tuổi thì chết thì nên được gọi là lưỡng tận tử. Ngay cả nhóm chúng sanh khổ cảnh sanh lên do mãnh lực bất thiện nghiệp cũng giống như vậy. Như thọ mạng của con chó được quy định là 10 năm… 12 năm khi do mãnh lực bất thiện sanh nghiệp 10 hoặc 12 năm nếu con chó này chết trong phạm vi hạn định đó thì có thể nói rằng sự chết này là lưỡng tận tử.

    4 - Upacchedakamarana: (đoạn tận tử): Được trình bày định nghĩa như sau: "Upacchindatīti: Upacchedakaṃ". Nghiệp nào cắt đứt di thục quả và sắc nghiệp sanh lên từ sanh nghiệp, nghiệp đó gọi là đoạn tận (upacchedaka) tức 12 nghiệp bất thiện, 8 nghiệp đại thiện và 1 nghiệp Tứ Đạo.

    "Upacchedakammunā maraṇaṃ: Upacchedakamaraṇaṃ". Chết do nghiệp vào cắt đứt dị thục quả và sắc nghiệp gọi là đoạn tận tử.

    Người có tuổi thọ chưa đến hạn định thọ tận và mãnh lực của sanh nghiệp cũng chưa hết. Nhưng do mãnh lực của bất thiện nghiệp hoặc thiện nghiệp trong kiếp trước hoặc kiếp này chen vào cắt đứt làm cho chết trước. Giống như ngọn đèn tim vẫn còn, dầu chưa cạn nhưng bị tắt do các nguyên nhân khác như bị thổi tắt, nước tạt, bị vật khác ngã đè lên… gọi là đoạn tận tử.

    Cả 4 sự chết như đã trình bày trên, người chết do thọ tận tử, nghiệp tận tử, lưỡng tận tử cả 3 sự chết này gọi là thời tử (kàlamaraṇa) bởi vì sự chết này đến thời rồi. Còn người chết do đoạn tận tử gọi là phi thời tử (akàlamaraṇa) bởi vì sự chết chưa đến thời.

    Sự chết loại phi thời tử có nhiều loại như sau:

    1. Jighacchāya pipāsāya Ahidaṭṭhā visena ca

    Aggi uddhaka sattīhi Akāle tattha mīyati.

    2. Vāta pittehi semhena Sannipāta utūhi ca

    Visamopakkama kammehi Akāle tattha mīyati.

    1 . Chết vào lúc chưa đến thời như chết đói, chết khát, bị rắn cắn, bị thuốc độc, bị cháy thiêu, bị chết chìm, bị vũ khí.

    2 . Chết vào lúc chưa đến thời như trúng gió, viêm túi mật, nghẹn đàm, bệnh do liên quan đến cả 2 hoặc 3 loại trên hoành hành, bệnh do liên quan đến thời tiết, hoặc đoạn nghiệp làm cho không điều hòa sức hhỏe hay do việc nổ lực của chính mình và của người khác.

    Cho dù nương vào nhân sai biệt làm cho chết trong lúc chưa đến thời như đã đề cập trên. Nhưng khi thẩm xét lại thì các sự chết này không ngoài ra nghiệp quá khứ được. Tức phải có nghiệp quá khứ ủng hộ và có nhân hiện tại sắp đặt. Như Đức Thế Tôn Ngài thuyết trong Tương Ưng Bộ Kinh rằng:

    "Idha mahārājo yo pubbe pare jighacchāya māreti, so bahūni vassasatasahassāni jighacchāya pilito chāto… chighacchāyeva marati daharopi majjhimopi mahallakopī".

    "Này Đại vương! trên thế gian này người nào từng hành hạ làm cho người khác chết đói. Thì người đó cho dù còn trong lứa tuổi thiếu niên, thanh niên hay lão niên đi nữa thường gặp phải sự nhiễu hại bằng cách bị bỏ đói và chết bởi sự đói khát như vậy suốt 100 ngàn kiếp". Và người quen hành hạ cho người khác chết khát, cho rắn cắn, lấy lửa đốt, dìm xuống nước, giết bằng khí giới… Thì người đó cũng bị chết khát, rắn cắn, bị bỏ thuốc độc, lửa cháy thiêu, bị nhận chìm bị giết bằng vũ khí giống như vậy.

    Sự trình bày cho thấy rằng, nhóm phi thời tử đó không ngoài ra nghiệp quá khứ được. Do đó, các Ngài A xà lê đức độ đã cùng nhau nhận định rằng: "Các sự chết do phi thời tử là chết do đoạn nghiệp".

    Bệnh liên quan đến gió, mật, đàm cả 2 hoặc 3 loại này có tình trạng này thất thường nên gọi là rogasannipāta. Bệnh do thời tiết gọi là bệnh trở trời; bệnh do vật thực gọi là bệnh trúng thực; bệnh do tâm gọi là bệnh tâm thần; bệnh do nghiệp gọi là bệnh nghiệp chướng. Các bệnh này phải có triệu chứng hư hỏng nhóm gió, mật, đàm xen lẫn vāo, nhṃng không gọi lā bệnh rogasannipāta. Đối với bệnh không liên quan đến thời tiết, vật thực, tâm hoặc nghiệp thì chỉ là triệu chứng hư hỏng nhóm gió, mật, đàm có khi 1 loại hoặc 2 loại hay 3 loại . Các bệnh này cũng có thể gọi là bệnh trúng gió, viêm túi mật, nghẹt đàm.

    Từ "Visamopakkama" trong kệ ngôn thứ 2 này là từ gom chung lại với nhau, tức "Visama upakkama". Từ "visama": Sự không vận động điều hòa bị ảnh hưởng đến sức khỏe "Upakkama": Sự nổ lực của chính mình và của người khác làm cho mình. Sự không vận động đều hòa bị ảnh hưởng đến sức khỏe gọi là "Visama". Các bậc tiền bối nói rằng: "Người có trí tuệ là người biết bảo tồn sanh mạng". Nhưng cũng có những người không có trí tuệ mà vẫn biết bảo tồn thân thể cho điều hòa sanh mạng được trường tồn cho đến suốt thọ mạng. Sự kiện mà các chúng sanh có sức khỏe tốt, trường thọ do nương vào nghiệp quá khứ. Nhưng không phải chỉ đơn thuần chỉ là nghiệp quá khứ mà phải có sự kết hợp cách nuôi dưởng bảo tồn bằng vật thực và thuốc men cùng với sự vận động các oai nghi cho đều hòa. Nhờ vào các sự kết hợp nhịp nhàng tương đối như vậy, sức khỏe mới tốt được trường thọ cho đến suốt thọ mạng. Bởi vì chúng sanh có nghiệp là căn gốc tức nghiệp tác tạo một sức mạnh kiên cố mà không có một pháp nào có thể hủy diệt sanh mạng cho chết khi chưa đến thọ tận. Mặc dù cũng có một vài trường hợp nhưng rất ít, chỉ bằng một phần trăm nghìn, hay một phần triệu mà thôi. Do đó, sự chết của mọi người nói chung cho đến lúc thọ tận cũng do việc nuôi dưỡng bảo tồn thân thể, không vận động đại oai nghi cho điều hòa mà cứ để mặc tùy theo duyên nghiệp bởi mãnh lực của phiền não. Như vừa lòng hay không vừa lòng cũng có; không hiểu biết hay do không suy nghĩ đến cũng có; sự chết hiện hữu phần nhiều hoàn toàn là như vậy.

    Sự nỗ lực của chính mình hoặc của người khác gọi là "Upakkama". Đối với sự nỗ lực của chính mình như treo cổ, tự bắn, nhịn đói, uống thuốc độc, nhảy sông tự tử. Đối với sự nổ lực của người khác như bị kẻ thù giết, bị người hành hạ cho đến chết, bị bắt ăn thịt đôi khi cũng bị chư thiên trừng phạt cho đến chết cũng có. Nghĩa là thân xác của mọi người, trú xứ nương ngụ như cội cây, rừng, núi suốt cho đến thôn xóm, tỉnh lỵ, thành phố các nơi này đều có chư thiên gìn giữ hộ trì cho an lạc trong mọi lúc. Vì vậy, khi mọi người không hồi hướng phước, rải tâm từ đến các chư thiên và cả chính mình cũng thường xuyên gây ác hạnh. Khi các chư thiên đó không hoan hỷ, thì không hộ trì bảo vệ để mặc cho loài quỷ dữ được dịp vào quấy nhiễu sanh mạng, tài sản của các người này cho tiêu tan bằng nhiều trường hợp. Hoặc chính chư thiên hộ trì người và trú xứ đó trừng phạt cho đến điêu tàn.

    Nếu mọi người có hồi hướng phước, rãi tâm từ cho các vị đó, và chính mình cũng tạo trữ thiệp pháp như thường xuyên trì giới làm cho chư thiên thương mến hoan hỷ với mình. Các chư thiên đó sẽ cùng nhau thường luôn che chở hộ trì cho các người đó được an lạc không hiểm họa kinh hãi nào vào nhiễu hại được.

    Trong 2 loại này, những hiểm họa nhiễu hại sanh lên do chư thiên không che chở hộ trì diễn tiến như sau:

    * Bất cứ người, thôn xóm, tỉnh lỵ … nào mà chư thiên bỏ mặc không che chở hộ trì thì ác chư thiên khác có cơ hội vào bắt ăn thịt được như ý mà không e sợ bất cứ điều gì. Và chư thiên có tâm oan trái từ kiếp trước cũng có cơ hội tháp tùng vào nhiễu hại thêm. Riêng về dạ xoa thuộc loại hung bạo ngụ trên sông, biển, đại dương khi nhìn thấy thuyền, bè lớn nhỏ di chuyển qua lại bị chìm thì cùng nhau hóa thành kình ngư, cá sấu, Long Vương đến bắt các người đó ăn thịt. Nhóm dạ xoa ngụ nơi hồ sen trong rừng sâu và dạ xoa ngự nơi bóng cây cổ thụ được Tứ Đại Thiên Vương cho phép bắt chúng sanh nào đi xuống hồ sen hoặc xâm phạm vào khu vực dưới bóng cây cổ thụ của mình thì được quyền bắt ăn thịt. Nhóm dạ xoa đó cũng được dịp lừa người không có chư thiên che chở bảo hộ vào bên trong khu vực của mình để bắt ăn thịt được dễ dàng.

    * Nhóm ác chư thiên thứ 2 khác là nhóm Cưu Bàn Trà (kumbhandadevatā) ngụ ở tầng thứ 3 của núi Tu Di cũng như Long Vương (nàgadevatà) ngụ dưới mặt đất và dưới biển. Ngoài ra vẫn còn nhóm dạ xoa khác nữa phần nhiều đều là nhóm chực chờ cơ hội để tìm cách bắt người không có chư thiên che chở bảo hộ để ăn thịt. Và loại Càn Thát Bà (gandhabhadevatā) ngụ trong vỏ cây cũng được dịp quấy nhiễu doạ nhát bằng nhiều cách làm cho kinh hãi, khiếp đảm cho đến khi trở thành người điên loạn. Người nào chết do bị chư thiên, dạ xoa, Càn Thát Bà, Long Vương thuộc loại chư thiên và quỷ dữ… vào nhiễu hại bắt ăn thịt như đã trình bày trên, là sự chết liên quan đến việc nỗ lực của người khác.

    Đối với người an trú trong thiện hạnh chỉ suy nghĩ về việc kiến tạo phước thiện, hồi hướng phước bằng cách rải tâm từ cho chư thiên. Thì nhóm chư thiên đó sẽ có tâm thương mến che chở hộ trì không cho ác chư thiên hay loài quỷ dữ khác vào quấy nhiễu làm tổn hại được. Khi có hiểm họa thông thường hoặc có người ác rắp tâm làm hại thì các vị che chở hộ trì cho thoát qua tai biến thật đáng kinh ngạc và kỳ diệu!

    Nếu người cai trị quốc độ hoặc người có quyền lực ép bức làm khó đối với người mà chư thiên hộ trì. Thì chắc chắn phải bị chư thiên bảo hộ trừng phạt làm cho điêu tàn tức khắc, có khi còn liên lụy đến cả nhà, cả đoàn thể, cả thành phố, cả quốc độ nữa. Người không được chư thiên thương mến, che chở, bảo hộ thì bị ác chư thiên và các loài quỷ dữ làm tổn hại. Ngược lại khi được chư thiên hộ trì, che chở, yêu mến thì thoát khỏi các hiểm họa thông thường và tránh khỏi người ác tâm làm hại. Nếu bị người cai trị quốc độ hay người có quyền hạn bức ép, ức hiếp thì lập tức chư thiên hộ trì không để yên cho người ác tâm bức hại có khi cả quốc độ, đoàn thể đó cũng bị hoại tiêu. Tất cả các điều này được trình bày trong Phật Ngôn và sớ giải Bổn Sanh…

    Do đó, khi nhận xét đến sự chết của người trong lúc hiện tại rồi thì sẽ thấy được sự chết do nỗ lực của chính mình và nỗ lực của người khác, như chư thiên… Nhưng người chết và người sống về sau không biết được nguyên nhân thật sự sanh khởi 2 sự chết bởi trường hợp nào. Cho nên khi tự sát hoặc thấy người khác tự sát thường suy nghĩ và chỉ hiểu rằng do người chồng hung bạo, do người vợ hiểm ác, buôn bán thất bại, bệnh tật hành hạ, tình hình đất nước nguy khốn. Nhưng sự thật những người tự sát này đều liên quan đến nghiệp hiện tại, như hành động của mình trong kiếp này thuần nhất do phiền não sanh lên chi phối mà không có ngũ quyền (indriya) và ngũ lực (bala) vào hỗ trợ. Nếu như tâm có tín, tấn, niệm, định, tuệ, cả 5 pháp này là hiện thân của ngũ quyền và ngũ lực đạt đến già mạnh vào chế ngự phiền não thì không hiện khởi việc tự sát mà ngược lại trở thành người thọ trì Pháp Học hoặc Pháp Hành, tu sĩ … được an lạc cao quí cho mình, cũng là nơi làm cho người khác kính trọng tôn sùng nữa. Phần nhiều người ta khi bị hiểm họa sanh khởi cho mình hoặc thấy người khác bị hoạn nạn cũng không suy xét gì đến nghiệp hiện tại xuất phát từ hành vi của mình hay hành vi của người bị hại xảy đến bởi ác hạnh nào. Mà ngược lại chỉ hiểu theo bề ngoài là bị hiểm họa như trộm cắp, chiếm đoạt, nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy, vua quan tịch biên gia sản, người không xứng đáng được thừa hưởng tài sản lại được thừa tự tài sản, hiểm họa do loài thú dữ gây ra như rắn, cọp, voi … Sở dĩ như vậy, bởi do không được thọ trì Pháp Học hoặc Pháp Hành của bậc Chánh Đẳng Giác.

    *

    LUẬN GIẢI THÊM VỀ VẤN ĐỀ ĐOẠN TẬN TỬ MÀ NGÀI A XÀ LÊ VIBHĀVANĪṬĪKĀ TRÌNH BÀY

    Idaṃ pana nerayikānaṃ uttarakuruvāsīnaṃ kesañci devānañca na hoti (trong Vibhāvanīṭīkā).

    Sự chết do đoạn tận tử thường không có với chúng sanh sanh vào địa ngục, Bắc Cưu Lưu Châu và một vài nhóm chư thiên ngoài chư thiên địa cầu ra.

    Ngài A xà lê Vibhàvanìṭìkà đề cập như vậy cũng chỉ nhắm vào Bắc Cưu Lưu Châu mà thôi. Đối với cõi địa ngục và một vài nhóm chư thiên ngoài chư thiên địa cầu ra, thì đoạn tận tử vẫn có được như dẫn chứng sau:

    - Đoạn tận tử trong cõi địa ngục: Khi các chúng sanh địa ngục bị Diêm Dương xét hỏi để trợ duyên cho nhớ lại được thiện pháp mà mình đã từng kiến tạo khi còn là nhân loại, thì chết liền tức khắc, rồi tái sanh làm nhân loại hoặc chư thiên tiếp tục. Đây là sự chết do thiện đoạn tận tử là thiện nghiệp cắt đứt danh sắc từ bất thiện nghiệp cho mệnh chung.

    - Đoạn tận tử trong cõi chư thiên: Chư thiên địa cầu còn thơ ấu ngụ nơi cội cây mà vị tỳ kheo chặt cây đã chém trúng đứa bé (chư thiên địa cầu) đó chết. Đây là câu chuyện được trình bày trong Bhūtagāmasikkhāpada của Luật Tạng. Do đó, Ngài A xà lê Vibhāvanīṭīkā ám chỉ đến vấn đề này rồi thì đề cập rằng: "Kesañci" không đề cập đến tất cả chư thiên, tức có sự ngoại trừ của Ngài A xà lê Vibhāvanīṭīkā này muốn ám chỉ riêng chư thiên địa cầu như vừa đề cập chưa hoàn chỉnh. Bởi vì còn chư thiên khác nữa chết do đoạn tận tử. Như một số chư thiên say mê vui thú đến nỗi quên thọ thực, khi cảm thấy đói mới vội vàng thọ thực nhưng không còn kịp nữa. Bởi lửa làm cho tiêu hoá thức ăn (pācākatejo) thiêu đốt bao tử cho đến ruột già, ruột non… tiêu hoại hết. Chư thiên chết do say mê vui thú như vậy gọi là "Khiddāpadosika".

    Một vị thiên tử chết do tâm sân hận thiêu đốt bởi nghịch ý với chư thiên cùng nhóm với nhau gọi là "Manopadosika". Và trong Subrahmasaṃyuttāṭṭhakathā đã trình bày 500 thiên nữ là tùy chúng của thiên tử Subrahma đang hái hoa trên cây thì mệnh chung, do mãnh lực của bất thiện đoạn nghiệp.

    Sự chết do say mê vui thú, sân hận nghịch ý, cả hai trường hợp này hiện hữu trong 6 cõi chư thiên được. Việc sanh vào thiên giới và Phạm Thiên giới không cần phải sống cho hết tuổi thọ bởi không kiến tạo pháp độ được. Nếu muốn thì chú nguyện cho mình mệnh chung giống như việc tự sát bằng nguyện lực rằng: "Xin cho sanh mạng của tôi chấm dứt ngay bây giờ". Sự chết của Bồ Tát này gọi là như ý tử (adhimuttikālaṇkiriya) thì sanh mạng chấm dứt do sự chú nguyện.

    *

    THÍCH GIẢI Ý NGHĨA TỪ "KESAÑCI DEVĀNAṂ"

    Từ "Kesañci devānaṃ" này làm cho hiểu được rằng: Tất cả chư thiên không chết do đoạn tận tử mà chỉ có một số vị chết do đoạn tận tử. Cho nên mới trình bày đến bàng sanh và nhân loại thêm vào, như: "Kesañci tiracchānañca kesañci manussañca kesañca devānañca na hoti". Bởi vì cũng có một số bàng sanh và một số nhân loại không chết do đoạn tận tử. Mà cho dù có chết do đoạn tận tử đi nữa thì từ "Kesañci" là thuộc từ của "Devānaṃ"cũng không làm cho đơn giản. Ngược lại còn làm cho ý nghĩa thêm phức tạp hơn.

    Lại nữa, khi nói đến lợi ích từ "Kesañci devānaṃ" cũng chẳng phải do khâm phục và tin tưởng trí tuệ của Ngài A xà lê Vibhāvanīṭīkā. Bởi vì việc làm cho hiểu biết đến đời sống của chư thiên, bàng sanh và nhân loại có sự khác biệt nhau. Như việc sanh lên, hiện hữu và chết của bàng sanh và nhân loại thì mọi người cũng đã hiểu với nhau rồi không cần phải đem ra trình bày nữa. Còn đối với sự sanh lên, hiện hữu và chết của chư thiên thì ngoại trừ vị đắc thiền (jhānalabhī), vị đắc thông (abhiññālabhī) và người có kiến thức đặc biệt trong thế gian thì không có người nào hiểu được. Mà ngược lại còn làm cho sự hoài nghi về sự chết của chư thiên tăng trưởng thêm lên. Chính như vậy, nên Ngài A xà lê Vibhāvanīṭīkā chỉ trình bày "Kesañci devāṇaṃ na hoti". Một số vị chư thiên không chết do đoạn tận tử.

    *

    THÍCH GIẢI ĐIỀU PĀLI THỨ 2: TRÌNH BÀY ẤN TƯỚNG XUẤT HIỆN LÚC CẬN TỬ

    Tatha ca marantānaṃ pana... aññatarasmiṃ paccupatthāti.

    Điều Pāli này trình bày ấn tướng xuất hiện lúc cận tử. Thông thường tất cả chúng sanh chưa chứng đắc A La Hán thì cho dù là chúng sanh địa ngục, ngạ quỉ, a tu la, bàng sanh, nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên đi nữa cũng mệnh chung bởi 1 trong 4 nhân như thọ tận… và 1 trong 3 loại ấn tướng luôn hiển lộ ngay trước mặt vào trong 6 môn.

    Do đó, Ngài A xà lê mới trình bày rằng: "Tathā ca marantānaṃ pana maraṇakāle kammaṃ vā, kammanimittaṃ vā, gatinimittaṃ vā, channaṃ dvārānaṃ aññatarasmim paccupatthāti".

    Tathà ca, từ "Tathā" giải rằng: "Tehi catūhi pakārehi", từ "Ca" thay đổi thành từ "Eva" nếu gom lại thành "Tathā eva" tức "Tehi catūhi pakārehi eva" (người chết) do 4 nhân như thọ tận… là trình bày cho hiểu rằng sự chết không ngoài ra 4 nhân. Maraṇakāle từ "maraṇakāle" là thời tử tức lúc gần mệnh chung kể từ 1 phút hoặc 1 giờ… chứ không phải là sát na sanh lên của tâm tử.

    Nói theo cách ẩn dụ (samīpayūpacaranaya) là nếu sát na tâm tử lên trong lúc cận tử thành thời cận tử là gọi theo cách liên tưởng (upacàranaya) mà bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giáo. Ngài A xà lê sớ giải (atthakathā) và hậu sớ giải (ṭīka) trình bày đề tài này theo cách liên tưởng có trong Pāli, sớ giải và hậu sớ giải nhiều vô số. Do đó, khi nghiên cứu để hiểu được pháp trong Phật Giáo cho uyên thâm chuẩn xác được thì phải học cho hiểu được thuần nhất về Pāli chớ không có phương pháp nào khác để hiểu được cho thấu đáo và sâu sắc. Bắt buộc phải học Tam Tạng, sớ giải, hậu sớ giải và được nghe lời giảng giải từ Ngài A xà lê có trình độ đa văn chuẩn xác mới làm cho sự hiểu biết của mình được chín chắn. Sỡ dĩ như vậy, vì Pāli chỉ trình bày căn bản trọng yếu mà chưa được giải rộng. Còn sớ giải thì trình bày giải rộng về căn bản trọng yếu của Pāli. Và Ngài A xà lê hậu sớ giải thì giải thích rộng pháp trong sớ giải mà chưa được rõ ràng để được tỏ tường quảng bác hơn nữa.

    Lại nữa, cả hai nhóm A xà lê sớ giải và hậu sớ giải này nếu nói về khía cạnh trình độ cũng như khía cạnh sở hành và bản tánh hằng ngày thì không giống như chúng ta. Nghĩa là các Ngài hiểu biết lão thông về Luật Tạng, Kinh Tạng, Thắng Pháp Tạng và văn phạm Pāli. Sở hành về thân, ngữ cũng an trú nghiêm túc trong điều học là bậc Thiện Hạnh (suppatipanna), bậc Trực Hạnh (ujupatipanna), bậc Như Lý Hạnh (ñāyapatipanna), bậc Chánh Hạnh (samīcippatipanna), là bậc đáng kính trọng, đáng tôn sùng, đáng tịnh tín, đáng tán thán cho cùng khắp hàng Phật Giáo đồ. Bản tánh cũng cao thượng không hạ liệt dưới quyền lực của ái, mạn, kiến, tật, lận. Bởi một số Ngài là bậc Thánh, một số Ngài là bậc Thánh đắc thiền lẫn Thắng Trí (abhiññā). Còn một số Ngài cho dù không phải là bậc Thánh lẫn không đắc thiền và Thắng Trí thật nhưng tâm các Ngài thuần nhất an trú trong Giới, Định, Tuệ và Pháp Học không màng đến vấn đề thế sự và ngũ dục.

    Vì vậy, các bộ sớ giải và hậu sớ giải mới có nội dung đáng tin tưởng tôn sùng. Có thể mạnh dạn hiểu đó là pháp tột đỉnh, không có điều khoản cần phải sữa đổi bởi gần như không có khuyết điểm. Và lại càng không thể đem so sánh với sách vở của thế gian tuy đang được ưa chuộng tin cậy nhưng vẫn phải sữa đổi, bổ sung thêm hoài, từ các giáo sư khác nhau nghiên cứu và phát minh ra.

    Yathārahaṃ, từ "yathārahaṃ" là tùy theo tương ứng.

    "Từ" tùy theo tương ứng này có 2 loại:

    1- " Yathārahaṃ kammaṃ vā, kammanimittaṃ vā gatinimittaṃ vā, paccupatthāti". Nghĩa là vào thời cận tử thì 3 ấn tướng này không xuất hiện cùng một lúc với nhau mà chỉ có 1 trong 3 loại này xuất hiện. Tức nếu nghiệp có cơ hội thì cảnh nghiệp sẽ hiện bày; nếu nghiệp tướng có cơ hội thì cảnh nghiệp tướng sẽ hiện bày; nếu thú tướng có cơ hội thì cảnh thú tướng sẽ hiện bày.

    2- "Yathārahanti sugatiduggati gāmīnaṃ arahānurūpaṃ paccupaṭṭhāti". Tức 1 trong 3 ấn tướng này xuất hiện theo tương ứng với người sẽ sanh vào cõi vui hay cõi khổ.

    *

    Thích giải điều thứ 1

    - Nghiệp có cơ hội: Việc sắp xếp thôi thúc điều tốt hoặc xấu là hiện thân của tư thiện, tư bất thiện là pháp thực tánh hoàn toàn không phải là màu sắc, âm thanh, mùi hơi, vị nếm, lạnh, nóng, mềm, cứng, dùn, căng. Vì vậy, mới không hiện bày trong một bộ phận nào của thân thể mà chỉ hiện bày thuần nhất bằng tâm.

    Cho nên người có sự tốt hay xấu hầu như chỉ khởi lên từ bên trong tâm mà không hiện ra bằng thân, ngữ mãi cho đến lúc cận tử hành động tốt, xấu do thân, ngữ cũng vẫn chưa hiện bày. Chính vì như thế nên cảnh nghiệp luôn có cơ hội.

    Một lý khác nữa, một số người trước khi khởi sự bố thí, trì giới, tu tiến, Học Pháp cũng như tà mạng ác hạnh trước khi làm thường suy tính đắn đo trong thời gian dài rồi mới khởi sự làm. Nhóm người này nếu không có cơ hội tạo được điều nào bằng thân hay ngữ cho đến lúc cận tử, thì cảnh nghiệp thường có cơ hội giống như trên.

    - Nghiệp tướng có cơ hội: 6 cảnh được chứng kiến liên quan đến hành động thân, ngữ, ý của mình trở thành cảnh nghiệp tướng: Cảnh nghiệp tướng này xuất hiện được cả bằng mắt, tai, mũi, lưởi, thân, tâm.

    Cho nên người hành động bằng thân, ngữ, ý về bố thí, trì giới, tu tiến hoặc sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu thường xuyên sẽ trở thành nền tảng mà không thể ngờ trước được đó sẽ là nghiệp tướng. Bởi trong lúc nói năng, hành động sẽ trở thành hậu quả về sau mà mình chứng kiến. Nhóm người này đến khi cận tử cho dù không tạo nghiệp về thân, ngữ, ý đi nữa, nhưng nghiệp tướng vẫn có cơ hội xuất hiện được.

    - Thú tướng có cơ hội: 6 cảnh sẽ được chứng kiến và cảm giác trong kiếp sau thuộc cảnh thú tướng, cảnh thú tướng này hiện bày được trong 6 môn. Vì vậy người có tư thiện hoặc tư bất thiện mãnh liệt trong lúc đang tạo thiện phước hay ác nghiệp nếu thuộc tư thiện thì các pháp tháp tùng của tư thiện. Còn như là tư bất thiện thì các pháp tháp tùng theo của tư bất thiện cũng mạnh mẽ giống như vậy. Tức lúc đang tạo phước như bố thí, trì giới, tu tiến thì tín, tấn, niệm, định, tuệ… hiện bày nổi bậc lên. Hoặc trong lúc đang tạo ác hạnh tà mạng như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, … Thì ái, mạn, kiến, sân, si, tật, lận,… cũng hiện bày rõ ràng giống như vậy. Do đó, nhóm người này vào lúc cận tử thì thú tướng có cơ hội xuất hiện được.

    Hoặc trong lúc tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp có tư tiền và tư hậu sanh lên không ngơi ngớt. Nếu tạo thiện nghiệp mà suy nghĩ về việc phước đó mường tượng ra hình ảnh, cử chỉ, hành động, lời nói của mình và của người khác, luôn cả các vật dụng… của bố thí, trì giới, tu tiến phải sắp đặt như thế này, thế kia… Khi đã làm xong thì nhớ lại các thiện sự đó làm tâm hoan hỷ, phấn chấn và cảnh tượng đó hiện lên ngay trong tâm không phai mờ.

    Nếu tạo bất thiện nghiệp thì cũng như trước khi hành sự trộm cắp, lừa đảo, gian lận… thì hạng người này cũng phải lo toan, mưu tính tìm kế chước về việc làm ấy. Suy tính điều nghiệm ra cử chỉ những cảnh phải hành động làm điệu bộ như thế này, thế kia. Và lời nói thì phải trao chuốt cho tinh vi của mình đối với người khác. Khi đã làm xong thì nhớ lại sự việc ấy luôn cả những đồ vật dùng trong việc làm ấy với sự thoả mãn, thích thú càng nghĩ đến hình ảnh càng hiện rõ in đậm trong tâm không phai lạt.

    Cho nên cả hai tiến trình của tư tiền và tư hậu như đã đề cập trên, vào lúc cận tử đều có thể xuất hiện cảnh thú tướng được như nhau.

    Trường hợp khác thuộc về thiện nghiệp, trước hoặc sau khi làm thì một số người ước muốn nghĩ đến nhân sản, thiên sản… vô số thứ. Nhóm người này khi cận tử thì thú tướng thường có cơ hội hiện bày lên.

    *

    Thích giải điều thứ 2

    Gọi rằng: 1 trong 3 loại ấn tướng xuất hiện theo tương ứng với người sanh vào cõi vui hay cõi khổ. Đối với các bậc A La Hán lúc gần viên tịch thì không có 1 loại ấn tướng nào vào hiện bày. Sỡ dĩ như vậy, vì các Ngài không còn tái sanh tiếp tục nữa.

    Đối với chúng sanh đoạ xứ, nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên thuộc phàm nhân và Thánh hữu học lúc cận tử thì 1 trong 3 loại ấn tướng này thường xuất hiện. Bởi vì nhóm người này vẫn còn phải tái sanh vào cõi vui hay cõi khổ. Còn trình bày cho hiểu tiếp nữa rằng, sự hiện bày của 3 loại ấn tướng này có trạng thái không giống nhau vì còn tùy theo người sanh vào cõi vui hay cõi khổ. Như người sanh vào cõi vui thì thường có nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng thuộc về thiện vào xuất hiện. Người sanh vào cõi khổ thì thường có nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng thuộc về bất thiện vào hiện bày. Trạng thái của loại ấn tướng thiện và bất thiện như thế nào sẽ trình bày trong phần sau.

    Sự kiện các bậc A La Hán gần viên tịch mà không có 1 loại ấn tướng nào vào xuất hiện bởi do hành động của Ngài không tác thành thiện nghiệp, bất thiện nghiệp. Các Ngài chỉ hành động theo lãnh vực thường nhiên của thân tâm đang hiện hữu trong thế gian mà không có dị thục quả nào sanh lên trong tương lai, nên gọi là duy tác (kiriya). Còn đối với vấn đề kiếp sống sẽ diễn tiến tiếp tục trong tương lai là vấn đề của thiện nghiệp và bất thiện nghiệp. Do vậy, khi Ngài không có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp thì cảnh nghiệp mới không vào hiện bày. Khi cảnh nghiệp không vào hiện bày thì cảnh… mà câu sanh với hành động thân, ngữ, ý gọi là nghiệp tướng cũng không thể xuất hiện được. Bởi vì cảnh… mà câu sanh với hành động của bậc A La Hán không phải là nghiệp tướng mà chỉ là duy tác tướng (kiriyānimitta). Còn cảnh thú tướng là cảnh phải được chứng kiến cảm thọ trong kiếp sau. Nhưng đối với các bậc A La Hán thì không có kiếp vị lai, cho nên cảnh thú tướng mới không vào hiện bày.

    Do sự kiện như vậy, nên mới có câu hỏi rằng: "Nếu 1 trong 3 loại ấn tướng không vào hiện bày, thì lúc gần nhập diệt tâm của các bậc A La Hán không có cảnh giống như vậy chăng?"

    Đáp: Có, là 6 cảnh thuộc danh sắc và chế định mà Ngài thường lưu tâm quán xét thuộc duy tác tướng (kiriyānimitta).

    Thích giải: Bậc A La Hán lạc quán cũng như bậc A La Hán đắc thiền nhưng không nhập thiền vào lúc gần nhập diệt thì có 6 cảnh thuộc danh sắc hoặc chế định mà các Ngài thường lưu tâm quán xét, chính là cảnh của đổng lực cận tử.

    Đối với một số vị A La Hán đắc thiền rồi viên tịch Níp Bàn sau khi nhập thiền thì cảnh của thiền nhập như đề mục biến xứ (kasiṇapaññatti) hay đề mục hơi thở hoặc đề mục chúng sanh chế định… Chính cảnh đó là cảnh của đổng lực cận tử và đổng lực cận tử này là tâm thiền.

    Nếu viên tịch Níp Bàn sau tâm lộ phản khán như quán xét chi thiền 5 - 4 - 3 - 2 … thì chính cảnh đó là cảnh của đổng lực cận tử. Và đổng lực cận tử này là đổng lực phản khán thuộc đổng lực đại tố (mahākiriyā).

    Nếu viên tịch Níp Bàn sau lộ tâm hiện thông mà thị hiện thần thông với thân thể có 32 thể trược hóa hiện thành thân thể lớn nhỏ. Thì chính nhóm này là cảnh của đổng lực cận tử, và đổng lực cận tử này là chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, thông, thuộc tâm đại tố và tâm tố ngũ thiền sắc giới.

    Còn lộ tột mạng của bậc A La Hán tức bậc viên tịch Níp Bàn sau khi lộ phản khán sanh lên nối tiếp sau lộ đắc Tứ Đạo vừa diệt. Thì Đạo, Quả, Níp Bàn, phiền não chính một trong các pháp này làm cảnh cho đổng lực cận tử. Và đổng lực cận tử này là đổng lực phản khán thuộc đổng lực đại tố. Do đó, nên các cảnh sai biệt gọi là nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng mới không xuất hiện vào trong đổng lực cận tử của các bậc A La Hán.

    Còn đối với tâm viên tịch Níp Bàn là hiện thân của tâm tử có cảnh cùng loại với tâm tái tục và tâm hộ kiếp bắt cảnh từ đổng lực cận tử trong kiếp trước, khi cận tử làm cảnh đã đề cập trong nhóm 4 tái tục như sau:

    Paṭisandhi bhavaṇgañca Tathā cavanamānasaṃ

    Ekameva tatheveka Visayañcekajātiyaṃ

    *

    QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ NGÀI GIÁO THỌ SƯ LUẬN GIẢI ĐẾN CẢNH CỦA TÂM VIÊN TỊCH NÍP BÀN CỦA BẬC CHÁNH ĐẲNG GIÁC

    Một số Ngài giáo thọ sư đề cập rằng: "Tâm viên tịch Níp Bàn của bậc Chánh Đẳng Giác có Níp Bàn làm cảnh". Cùng nêu lên dẫn chứng trong kinh Đại Bát Níp Bàn của Trường Bộ Kinh kết hợp dẫn chứng Pāli như sau:

    "Anejo santimārabbha yaṃ kālamakarī muni"

    Theo điều Pāli này, từ "santimārabbha" Ngài giáo thọ sư sớ giải giải rằng: "Anupādisesaṃ nibbānaṃ ārabbha paṭicca sandhāya". Do ý định Vô Dư Y Níp Bàn (Níp Bàn không còn dư sót lại ngũ uẩn). Về phần một số Ngài A xà lê không xem xét lời đề cập của Ngài giáo thọ sư sớ giải đã giải thích trong sớ giải Kinh Đại Bát Níp Bàn nên mới lầm rằng: "Santiṃ ārammanaṃ katvā" lấy Níp Bàn làm cảnh. Do đó, khi dịch thì phải dịch là bậc ái tận Tối Thượng Mâu Ni Ngài có ý muốn hướng đến Vô Dư Y Níp Bàn rồi viên tịch. Chứng tỏ cho thấy rằng, trước khi viên tịch Níp Bàn thì phải có tâm hướng đến Níp Bàn ly phiền não uẩn (kilesakhandha) rồi mới viên tịch Níp Bàn. Mà không trình bày sự viên tịch Níp Bàn của bậc Chánh Đẳng Giác có Níp Bàn làm cảnh bởi trường hợp nào.

    Còn trong sớ giải Trưởng Lão Tăng Kệ cho dù giải từ "santimārabbha" là "Santiṃ anupādisesaṃ nibbānaṃ ārammanaṃ katvā". Cho dù lấy Vô Dư Y Níp Bàn làm cảnh nhưng vẫn ám chỉ lấy thời gian trước khi Ngài nhập thiền gần lúc viên tịch Níp Bàn, Ngài có tâm hướng đến Níp Bàn. Sau đó, Ngài nhập thiền với đề mục biến xứ (kasiṇapaññatti) và pháp đáo đại… làm cảnh. Khi xuất thiền thì chính chi thiền đó làm cảnh mà thôi.

    Lại nữa, một số Ngài A xà lê so sánh sai lệch ý nghĩa Pāli bởi vì không suy xét đến tam đề cảnh hy thiểu (parittārammaṇatika) trình bày rằng:

    "Katame dhammā parittārammaṇa? Sabbo kāmāvacaravipāko kriyāmanodhātu kriyahetukamanoviññānadhātusomanassasahagatā ime dhammā parittārammaṇati" (chương sớ giải của bộ Pháp Tụ).

    Nhóm pháp nào có pháp dục giới làm cảnh?

    23 tâm dị thục quả dục giới (15 tâm quả vô nhân, 8 tâm đại quả), 1 tâm khai ngũ môn, 1 tâm Ưng Cúng Vi Tiếu, nhóm pháp này có pháp dục giới làm cảnh.

    Pháp dục giới làm cảnh cho 25 tâm này bao gồm 54 tâm dục giới, 52 sở hữu, 28 sắc pháp được xếp vào 6 cảnh, còn Níp Bàn là pháp siêu thế. Trong 25 tâm này thì tâm viên tịch Níp Bàn của bậc Chánh Đẳng Giác cũng gom chung vào. Vì tâm viên tịch Níp Bàn của bậc Chánh Đẳng Giác cũng là một tâm đại quả, mà thường nhiên tiến trình của pháp thực tánh này hoàn toàn diễn tiến theo thực tánh vô ngã. Chẳng phải khi sanh làm nhân loại, chư thiên bậc thấp hoặc phàm nhân thì mới có pháp dục giới làm cảnh và cũng chẳng phải sanh làm nhân loại, chư thiên bậc cao hoặc Thánh Nhân mới có pháp đáo đại, siêu thế, chế định làm cảnh. Mà bất luận ai được sanh làm người thì trong sát na làm phận sự tái tục, hộ kiếp, tử, na cảnh… cũng chỉ thuần nhất pháp dục giới làm cảnh mà thôi. Cho nên mới thấy được rằng sự viên tịch Níp Bàn của bậc Chánh Đẳng Giác mà có Níp Bàn làm cảnh thường không thể có được.

    "Abhimūkhībhūtaṃ bhavantare paṭisandhijanakaṃ kammaṃ vā paccupaṭṭhāti".

    "Thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp làm cho tái tục trong kiếp sau diễn tiến hiện bày nổi bật ngay trước mặt".

    Lẽ thường nhiên chúng sanh đã từng tạo tội, phước bằng thân, ngữ, ý nhiều vô số không thể diễn tả cho hết được. Cho nên trong cơ tánh của chúng sanh mới có thiện nghiệp, bất thiện nghiệp gọi là nghiệp tiềm miên không gián đoạn (bhavantare paṭisandhijanakaṃ kammaṃ). Trong các loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp này thì cả hai đều có phận sự sắp xếp cho sanh lên trong kiếp thứ hai. Có 2 loại là sanh báo nghiệp trong kiếp này và hậu báo nghiệp trong kiếp trước nữa. Trong 2 loại này thì sanh báo nghiệp cũng như hậu báo nghiệp nói theo lộ tâm, cảnh, môn, phận sự, thời gian, oai nghi thì hiện hữu trong cơ tánh của mỗi người nhiều vô số không thể ước lượng được.

    Nói theo lộ tâm thì trong mỗi lộ ý môn có 1 loại thiện, bất thiện sanh báo nghiệp; có 5 loại thiện, bất thiện hậu báo nghiệp.

    Nói theo cảnh thì cả 2 loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp này sanh lên nương vào cảnh sắc, cảnh thinh… cảnh pháp cũng có.

    Nói theo môn thì làm cho thành tựu hành động thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh lên bằng thân, bằng ngữ, bằng ý cũng có.

    Nói theo phận sự thì cả hai loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp này kiến tạo bố thí, trì giới, tu tiến cũng có hay hành động sát sanh, trộm cắp… cũng có.

    Nói theo thời gian thì cả 2 loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh lên vào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối cũng có.

    Nói theo oai nghi thì cả 2 loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh lên trong lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc ngồi cũng có.

    Do đó, mới có thể khẳng định điều hiện hữu vô số trong cơ tánh của mỗi người.

    Trong các loại thiện nghiệp, bất thiện nghiệp mà sanh lên nhiều loại như đã đề cập trên. Thì nghiệp nào có cơ hội dẫn đi tái tục trong kiếp thứ hai, nghiệp đó sẽ hiện bày nổi bật lên trong tâm của người lúc cận tử. Chính thiện nghiệp, bất thiện nghiệp đó gọi là hiện tiền nghiệp (abhimukhībhūtaṃ).

    Điều này được ví như hàng vạn vạn người mua vé số cùng xổ trong 1 ngày, khi mua số ai cũng mong rằng mình sẽ trúng độc đắc… thậm chí cho đến số đuôi. Nhưng đến khi số xổ rồi thì đâu phải vé số nào cũng được trúng thưởng mà chỉ có một số vé được trúng thưởng mà thôi. Điều này như thế nào thì thiện, bất thiện chỉ duy nhất một loại làm sanh báo nghiệp hay hậu báo nghiệp hiện bày nổi bật trong tâm mới gọi là hiện tiền nghiệp (abhimukhībhūtaṃ).

    "Taṃ kammakaraṇakāle... kammanimittaṃ". Điều Pāli này đã trình bày cho cho hiểu đến hiện thân của nghiệp tướng. Nghiệp tướng là cảnh làm nhân tái hiện của hành động, như định nghĩa sau: "Kammassa nimittaṃ: kammanimittaṃ". Cảnh làm nhân tái hiện hành động gọi là nghiệp tướng.

    Nghiệp tướng có 6 loại: Sắc, thinh. khí, vị, lạnh, nóng, mềm, cứng, căng, dùn, thực tánh danh sắc và chế định. Như Ngài giáo thọ sư Anuruddha trình bày rằng: "Rūpādikaṃ". Có cảnh sắc… 6 cảnh như đã đề cập trên không lấy bao quát, mà chỉ lấy riêng 6 cảnh liên quan đến hành động của mỗi người mà thôi.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha đã trình bày rằng: "Taṃ kammakaraṇakāle". Trong lúc mình hành động bằng thân, ngữ, ý. Và còn trình bày Pāli tiếp tục nữa "Upaladdhapubbaṃ" và " Upakaraṇabhūtaṃ".

    6 cảnh thuộc nghiệp tướng này có 2 loại:

    1 - Upaladdhakammanimitta (Nghiệp tướng phát sinh).

    2 - Upakaraṇakammanimitta (Nghiệp tướng trợ lực).

    - Nghiệp tướng phát sanh: 6 cảnh trưởng mà mình được chứng kiến trong lúc hành động.

    - Nghiệp tướng trợ lực: 6 cảnh mà mình được chứng kiến nhưng không làm trưởng mà chỉ hỗ trợ kết hợp trong lúc hành động.

    Vì vậy, mới phân tích ra 6 cảnh mà mình được chứng kiến trong lúc hành động gọi là upaladdhakammanimitta và 6 cảnh không làm trưởng gọi là upakaraṇakammanimitta như sau:

    A - Thuộc về thiện:

    Bố thí: Hộ độ Chư Tăng, đặt bát, dâng y, xây giảng đường, chùa, tịnh xá, dâng vật thực tráng miệng cho tỳ kheo, sa di thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Kim thân Phật, bông hoa, nhang, đèn, chiếu thãm, tọa cụ, bàn ghế, cùng với người phụ giúp soạn rửa thau, mâm… thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Đồ vật cúng dường đến tỳ kheo, sa di là người thọ thí thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Việc trang hoàng sắp đặt nhạc cụ, nhạc công và nhân công thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Giảng đường dạy học, nơi làm lễ phát lộ thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Vật liệu xây dựng, thợ mộc, thợ hồ cho đến người phụ giúp trong công việc xây dựng thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Giới: Tỳ kheo, sa di truyền giới, lời phát nguyện thọ trì của mình thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Sự cung kính đảnh lễ cho đến người và trú xứ thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Nếu là người xuất gia thì 8 món tư cụ (aṭṭhaparikkhāra), chư tỳ kheo Tăng trên chánh điện tuyên ngôn, ngồi tụng kinh thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Vật dụng ngoài ra 8 món tư cụ, vật thí… cho đến người phục vụ âm nhạc cho cuộc lễ, nhiểu Phật. Các việc này thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Tu tiến: Nếu tu tiến Chỉ Tịnh thì những đề mục nghiệp xứ như đề mục biến xứ (kasiṇa)… cho đến oai nghi ngồi và việc chuẩn bị tu tiến, thủ trì tướng (uggahanimitta), tương tự tướng (paṭibhāganimitta), đắc thiền (kiên cố), thầy giáo thọ (thiền sư) thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Người, trú xứ và các việc khác nữa liên quan đến việc tu tiến Chỉ Tịnh thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Nếu tu tiến Minh sát thì danh sắc, đại oai nghi, tiểu oai nghi, chánh niệm, thầy giáo thọ (thiền sư) thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Trú xứ vật dụng… cho đến hành giả liên quan đến việc tu tiến Minh Sát thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Sự học Pháp, sách vở, thầy giáo thọ, sự tụng đọc cho đến lời giảng giải thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Giảng đường nơi học viên học, dụng cụ… liên quan đến việc học tập thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    B - Thuộc về bất thiện:

    Sát sanh: Chúng sanh bị giết, bị đánh bởi hành vi của mình thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Nơi chốn, dụng cụ liên quan đến sát sanh, da, xương, thịt… thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Trộm cắp: Đồ đạc, của cãi… hành vi của mình lúc trộm cắp thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Nơi chốn, đồ nghề, dụng cụ thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Tà dâm: Người mà mình tà dâm và hành vi giao hợp của mình thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Nơi chốn, nói thành lời thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Nói dối: Lời nói không thật và đồ vật cũng không thật thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Người nghe tin theo thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Uống rượu: Chất say cùng với thái độ say sưa thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Chai rượu và đồ nhắm, bè bạn, địa diểm cho đến đồ dùng khác nữa thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    Tóm lại: Trong 2 loại nghiệp tướng này, thì tất cả đối tượng hữu thức và vô thức liên quan đến hành động thiện, bất thiện trực tiếp thì thuộc về nghiệp tướng phát sinh.

    Đồ dùng… làm điều kiện hỗ trợ kết hợp cho hành động thiện, bất thiện thì thuộc về nghiệp tướng trợ lực.

    "Anantaramuppajjamānabhave... gatinimittaṃ"

    Điều Pāli này trình bày cho hiểu đến hiện thân của thú tướng. Nghĩa là cảnh của sanh hữu phải tái sanh vào tức cảnh được gặp được cảm thọ vào kiếp sống thứ hai. Có định nghĩa như sau: "Gatiyà nimittaṃ: gatinimittaṃ". Cảnh của kiếp sống nương trú gọi là thú tướng, thú tướng này được 6 cảnh. Sáu cảnh ấy không phải là cảnh liên quan trong kiếp này mà chỉ riêng biệt 6 cảnh phải được gặp, được thấy và được cảm thọ duy nhất trong kiếp sau.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng: "Anantaramuppajjamànabhave". Trong kiếp sống phải sanh lên tiếp nối nhau không gián đoạn.

    Và Pāli đề cập rằng: "Upalabhitabbamupabhogabhūtañca". Được trình bày cho hiểu rằng:

    Thú tướng có 2 loại:

    - Upalabhitabbagatinimitta (Thú tướng chứng kiến).

    2 - Upabhogabhūtagatinimitta (Thú tướng cảm thọ).

    Từ "Bhūta" trong câu này không có giải thích nào đặc biệt vì từ Pāli này là hợp từ cho nên khi phân từ ra thì được 2 từ:

    - Upalabhitabbaṃ

    - Upabhogabhūtaṃ

    - Thú tướng chứng kiến: 6 cảnh của kiếp sống sẽ được chứng kiến.

    - Thú tướng cảm thọ: 6 cảnh của kiếp sống sẽ được cảm thọ.

    Cho nên khi gom từ của Ngài giáo thọ sư Anuruddha lại thì có Pāli như sau:

    " Anantaraṃ uppajjamānabhave upalabhitabbaṃ upabhogabhūtañca gatinimittaṃ".

    "Sáu cảnh của kiếp sống sẽ được chứng kiến và được cảm thọ duy nhất trong kiếp sau nối tiếp nhau không gián đoạn".

    Câu Pāli này có liên quan như sau: Anantaraṃ gom vào với uppajjamànabhave, uppajjamànabhave gom vào với upalabhitabbaṃ  upabhogatabhūtaṃ, upalabhitabbaṃ  upabhogatabhūtaṃ gom vào với gatinimittaṃ, còn gatinimittaṃ gom vào với paccupaṭṭāti thì trở thành câu động từ.

    Do đó, khi phân tích nhóm thú tướng này theo upalabhitabba và upabhoga thì sẽ được như sau:

    Người sẽ sanh vào cõi Phạm Thiên không có cả 2 thú tướng này, mà chỉ có nghiệp tướng chế định và nghiệp tướng đáo đại. Nếu sẽ sanh lên cõi chư thiên thì thấy thiên xa, thiên cung, thiên tử, thiên nữ, đồ trang sức, vườn hoa, hồ sen. Đây thuộc về thú tướng chứng kiến.

    Nếu có cảm giác như chính mình được ngồi trên thiên xa cũng như đang dạo chơi hoan hỷ vui thú trong các nơi, thọ dụng tịnh thực chung với thiên tử, thiên nữ, mặc thiên y. Đây thuộc về thú tướng cảm thọ.

    Nếu sanh làm nhân loại thì thấy thai bào người mẹ, nhà cửa, buồng ngủ, đồ dùng, thành phố, làng xã, thôn xóm, dân chúng. Đây thuộc về thú tướng chứng kiến.

    Nếu có cảm giác như mình đang đi trong các nơi đó hoặc đang sống trong các nơi đó, cũng như đang nói chuyện với một người nào hay đang làm việc gì hoặc giống như mình đang sanh vào thai bào. Đây gọi là thú tướng cảm thọ.

    Nếu sanh làm bàng sanh thì thấy các loài vật như heo, chim, cá, bò, trâu… Và những nơi mà loài bàng sanh ở như cây cối, rừng núi… Đây thuộc về thú tướng chứng kiến.

    Nếu có cảm giác như mình là một loại bàng sanh nào hoặc đang chơi đùa với loài thú đó. Đây thuộc về thú tướng cảm thọ.

    Nếu sanh làm ngạ quỷ và a tu la thì thấy rừng, hố sâu, vực thẫm, biển, sông, đồi núi vắng tanh lạnh lẽo là nơi đáng kinh hãi, hay nhóm ngạ quỷ, a tu la. Đây thuộc về thú tướng chứng kiến.

    Nếu có cảm giác như mình đang sợ hãi hoặc đang đói khát không có vật thực thọ dụng, đang tìm kiếm nước và vật thực do đói khát cùng cực. Đây thuộc về thú tướng cảm thọ.

    Nếu như sanh vào địa ngục thì thấy vật hành hình, chó, quạ, kên kên đáng kinh hãi, Diêm Vương, quỷ sứ, chúng sanh địa ngục và các nơi trong địa ngục. Đây thuộc về thú tướng chứng kiến.

    Nếu có cảm giác như mình đang bị lôi kéo, đánh đập, bị chó cắn xé, bị giam cầm trói buộc bằng xiềng xích, cũng như đi vào trong các nơi có người đang bị xiềng xích gông cùm đầy dẫy kinh hãi. Hoặc giống như đang bị tra tấn thân thể đau đớn cùng tột hơn là bị trọng bệnh. Đây thuộc về thú tướng cảm thọ.

    *

    TRÌNH BÀY THÚ TƯỚNG CHỨNG KIẾN & THÚ TƯỚNG CẢM THỌ TRONG PARAMATTADĪPANĪMAHAṬĪKĀ

    Trong Paramatthadīpanīmahāṭīkā trình bày cả 2 thú tướng này theo 2 cách:

    Cách thứ 1: Trình bày thú tướng chứng kiến thuộc về khổ thú tướng, thú tướng cảm thọ thuộc về lạc thú tướng.

    Trong hai loại này, cảnh… liên quan đến 4 cõi khổ là khổ thú tướng, cảnh… liên quan đến cõi nhân loại, cõi chư thiên là lạc thú tướng.

    Cách thứ 2: Trình bày cảnh liên quan đến thân thuộc về thú tướng chứng kiến, cảnh không liên quan đến thân mà chỉ cảm giác lạc, khổ thuộc về thú tướng cảm thọ.

    Cảnh liên quan đến thân ám chỉ chổ ở… đồ trang sức, y phục và vật dụng thường dùng liên quan đến thân thuộc về thiện lẫn bất thiện.

    Cảnh không liên quan đến thân chỉ là cảm thọ lạc, khổ ám chỉ vật chất chung quanh như thọ thực, tùy chúng, bông hoa, mùi thơm, âm nhạc, bến nước, nơi cúng dường, tụng kinh, đảnh lễ Chư Tăng, học Pháp, thính Pháp. Hoặc kẻ thù, vật tra tấn hành hình, chúa ngục, chó, quạ, chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, bàng sanh, tiếng la hét dọa dẫm, cãi vã, đâm chém, rên rĩ, mùi thối, ngọn lửa, vật thực thiu hôi, lửa cháy, đánh đập, chết chìm, rơi từ trên cao xuống.

    *

    NGƯỜI BỆNH NẶNG CÓ TRẠNG THÁI GIỐNG NHƯ NGẤT XỈU TRONG KHI ĐÓ CÓ THÚ TƯỚNG XUẤT HIỆN

    Một số người bệnh nặng có trạng thái giống như ngất xỉu trong giây lát, đôi khi có thú tướng vào hiện bày. Trong lúc đó cảm giác như chiêm bao thấy mình đang đi trong cảnh giới sinh hoạt đọa xứ như địa ngục, ngạ quỷ… hoặc cảnh giới sinh hoạt của nhân loại, chư thiên. Như thấy được chúng sanh địa ngục đang bị hành hình, nơi hành hình cùng với quỷ xứ, Diêm Vương; thấy được nơi cô tịch vắng lạnh rất khiếp đảm; thấy dảy nhà lớn có lò lửa đang nấu chảo nước sôi có một người to lớn hung bạo đang quăng đứa bé vào trong chảo; thấy đám người đặc nghẹt chen lấn trong các hố sâu to kềnh. Hoặc không như thế thì thấy rừng rậm âm u đồi núi trập trùng thành hai dãy dài; thấy thung lũng sâu hoắm có cổ thụ cành lá xoè rộng che phủ tối đen mịt mù; thấy nhiều loại chúng sanh đáng kinh hồn mất vía, như một số nhóm có thân hình cao khều, một số nhóm có thân hình to béo, một số nhóm có thân hình đen đúa đầu lớn, một số nhóm chỉ có thịt mà không có xương hoặc chỉ có xương không có thịt và tự mình men theo sườn núi ẩn núp rình rập các loài thú dữ sống trong núi đang mệt lả đi tìm nước uống. Nếu có được cơ hội liền vồ ngay bất kỳ loại thú nào làm cho thiệt mạng, rồi tiếp tục ẩn núp lên cây. Hoặc không như thế thì được thấy thành phố, xóm làng, tỉnh lỵ hay đang đi tìm quyến thuộc, bạn bè ở khắp mọi nơi được nhà nhà ân cần tiếp đón chuyện vãn với nhau. Hoặc thấy được vương xa, thiên cung, thiên nữ và chính mình đang dạo chơi trong các nơi đó; thấy vườn hoa, ao sen, giảng đường, nơi lễ bái, thiên cung… như một số thiên cung có thiên tử, thiên nữ đang ngụ, một số thiên cung trống không hỏi ra thì được trả lời đó là thiên cung của người còn sống nơi cõi nhân loại chờ đợi khi người đó mệnh chung sanh lên thụ hưởng thiên sản trên thiên giới này.

    Tiến trình của thú tướng hiện bày giống như giấc chiêm bao. Người bệnh mà có trạng thái như ngất xỉu như đã đề cập đây, có một số người thấy giống như đang sống trong trú xứ của mình; một số người thì thấy có người đến lôi kéo quyến rủ; một số người thấy chính mình đang đơn độc dạo chơi. Sự kiện diễn tiến… này tồn tại khoảng thời gian 2 - 3 phút, 2 - 3 tiếng, 1 - 2 ngày cũng có. Như dân gian thường nói với nhau rằng: "Mình chết đi rồi sống lại".

    "Kammabalena". Bởi mãnh lực của nghiệp, mà Thắng Pháp Tập Yếu Luận đề cập rằng: "Kammabalena". Sự hiện bày một loại ấn tướng là qui luật tất nhiên mà không cần phải tìm hiểu suy nghĩ sanh lên do nhân nào. Nhưng nếu diễn tiến bởi mãnh lực nghiệp được cơ hội cho quả tái tục trong kiếp thứ hai thường là thường nghiệp, cận tử nghiệp, hay khinh tác nghiệp. Hoặc tự mình nhớ lại được hay có người đến nhắc nhở cho nhớ lại.

    Do đó, nghiệp sai biệt mà mình đã từng làm từ lâu mới vào hiện bày cho thấy rằng mình đang làm, cho đến việc nói nhảm thành những câu chuyện hoặc biểu lộ cử chỉ thuộc cảnh nghiệp cũng có. Đôi khi cũng hiện bày thành hình ảnh có trạng thái như mình đã hành động thuộc cảnh nghiệp tướng. Nhưng đôi khi việc nói nhảm hay biểu lộ cử chỉ, cả việc hiện bày thành hình ảnh cho thấy cũng không có.

    Tất cả sự việc trên đều tùy thuộc theo 1 trong 3 loại nghiệp này. Còn mãnh lực nghiệp lúc ấy, thì làm cho tiến trình dòng tâm của người lúc cận tử mê muội, nóng nảy, vẫn đục không tươi tỉnh sáng suốt cho nên được liệt vào cảnh nghiệp.

    "Channam dvārānaṃ aññatarasmiṃ". Trong 1 môn nào của 6 môn do việc hiện bày của 3 ấn tướng (nimitta) này thường hiện bày một loại nào đó bằng đường mắt, tai, mủi, lưởi, thân, tâm. Như ấn tướng của cảnh nghiệp thì hiện bày bằng đường tâm. Ấn tướng thuộc nghiệp tướng và thú tướng đều phải tùy theo thực tánh của ấn tướng đó. Nghĩa là nếu là cảnh sắc hiện tại thì sẽ hiển lộ qua đường mắt và tâm, nếu là cảnh sắc quá khứ thì sẽ hiện bày qua đường tâm. Còn cảnh thinh… cảnh xúc cũng giống như vậy. Riêng ấn tướng cảnh pháp chỉ hiện bày duy nhất qua đường tâm.

    Lại nữa, cho dù thực tánh của thú tướng được 6 cảnh nhưng phần nhiều là cảnh sắc và cảnh pháp chế định liên quan đến cảnh sắc đó. Cho nên trong cả 6 môn này thì thú tướng hầu như thường hiển lộ bằng mắt và bằng tâm.

    Câu Pāli: "Kammabalena channaṃ dvārānaṃ aññatarasmiṃ paccupaṭṭhāti" này có nội dung liên quan nhau như sau:

    Kammabalena là tác nhân (hetu) của paccupaṭṭhāti, paccupaṭṭhāti là hệ quả (phala). Channaṃ là chỉ thị tính từ (vissana) của dvārānaṃdvārānaṃ là định tính (visesana). Channaṃ dvārānaṃ là sở thuộc túc từ (niddhārana) của aññatarasmiṃ, aññatarasmiṃ là chủ ngữ (niddhāraniya). Aññatarasmim lā ḍối tác (ādhāra) của paccupaṭṭhāti, paccupaṭṭhāti là động từ (kiriya) của câu.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 3: TRÌNH BÀY ĐẾN TIẾN TRÌNH CỦA DÒNG TÂM LÚC CẬN TỬ

    "Tato paraṃ tameva tathopaṭṭhitaṃ... abhiñhaṃ pavattati bāhullena". Điều Pāli này trình bày đến tiến trình của dòng tâm lúc cận tử được giải thích riêng biệt thêm như sau:

    "Tato paraṃ tameva tathopaṭṭhitaṃ ārammanaṃ ārabbha cittasantānaṃ abhiñhaṃ pavattati".

    Theo sau cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng vào hiện bày thì dòng tâm thức sanh lên vô gián nương vào cảnh hiện bày bám theo hiện tượng đó.

    Sự kiện này nếu ví dụ thì giống như dòng tâm của người đang xem ti vi chăm chú nhìn vào màn ảnh trước mặt mà không nghĩ đến vấn đề khác. Cho dù có người đến hỏi, nói hoặc sai biểu cũng không quan tâm, chỉ trả lời gọn lõn: "Nói đi! Làm sao cũng được!" Nhưng tâm thì không để ý theo chỉ chăm chú theo dõi màn hình mà mình đang xem mà thôi. Cũng vậy, dòng tâm của người lúc cận tử cho dù thân thể có bị đau nhức do bệnh tật hành hạ. Nếu có người đến vấn an, chăm nom, hầu hạ bằng mọi cách đi nữa, thì thỉnh thoảng chỉ nói chút ít. Riêng về dòng tâm thì bám lấy ấn tướng vào hiển lộ trong giai đoạn đó.

    "Vipaccamānakakammanurūpaṃ parisuddhaṃ upakkiliṭṭhaṃ vā cittasantānaṃ abhiñhaṃ pavattati".

    "Dòng tâm thanh tịnh hoặc cấu uế tùy theo quả của nghiệp sanh lên vô gián".

    Thích giải: Quả của nghiệp làm cho tái tục nếu là thiện thì dòng tâm sẽ thanh tịnh, trong sáng và tươi tỉnh nếu là bất thiện thì dòng tâm sẽ vẫn đục, cấu uế hay nóng nảy, tiến trình của dòng tâm như vậy luôn trôi chảy không ngừng. Do đó, từ "vô gián" ám chỉ khi dòng tâm của người cận tử mà thanh tịnh thì cho dù thân thể có bệnh hoạn, đau nhức dày vò đi nữa hoặc cho dù có những điều nghe thấy trái tai gai mắt thì tâm của người đó chỉ thoáng thấy bất an sau đó trở lại trong sáng, an tịnh như lúc ban đầu. Nhưng nếu dòng tâm cấu uế rồi thì cho dù không có bệnh hoạn hành hạ, con cháu quyến thuộc phụng dưỡng chu đáo, cảnh quanh mình cũng yên ắng thích nghi. Tất cả những việc đó chỉ làm cho tâm tỉnh táo an lạc được trong chốc lát sau đó thì tâm cũng trở lại vẩn đục, ủ dột như lúc ban đầu.

    Lại nữa, cả 2 đoạn Pāli như: "Tato paraṃ tameva"... vā "Vipaccamānakakammānurūpaṃ" có nguyên nhân theo trình tự như sau: Khi nghiệp sẽ cho quả tái tục trong kiếp thứ 2 thuộc về thiện thì cả 3 ấn tướng sẽ là ấn tướng tốt, nếu ấn tướng tốt thì dòng tâm bắt lấy ấn tướng đó thanh tịnh tươi tỉnh.

    Khi nghiệp sẽ cho quả tái tục trong kiếp thứ 2 thuộc về bất thiện nghiệp thì dòng tâm bắt lấy ấn tướng đó vẩn đục cấu uế.

    Dòng tâm thanh tịnh hay cấu uế nương vào ấn tướng tốt hay xấu vào hiện bày, có câu chuyện như sau:

    Cận sự nam Dhammika và đức vua Duṭṭhagāminī lúc cận tử có thú tướng vào xuất hiện. Như được thấy sáu chiếc vương xa đến từ sáu tầng trời dục giới đang hiện ra trước mặt giữa hư không, được nghe tiếng thỉnh mời giành nhau lên thiên xa của mình và được ngửi mùi thơm của vật trang hoàng trên thiên xa.

    Sự việc diễn tiến như vậy bởi do thiện nghiệp dắt dẫn tái tục vào thiên giới. Cho nên dòng tâm đang bắt lấy thú tướng tốt mới có sự thanh tịnh trong sáng. Khi mệnh chung rồi thì cận sự nam Dhammika cũng như đức vua Duṭṭhagāminī được tái sanh làm thiên tử ngồi trong thiên xa đến từ cõi Đẩu Suất. Còn các thiên xa đến từ cõi khác cũng từ từ biến mất.

    Đức vua Dhammāsoka là vị vua ủng hộ Phật Giáo đã hỗ trợ cho cuộc kết tập Tam tạng lần thứ 3, Phật lịch 305 là vị đại hộ Pháp trong Phật Giáo. Kể từ khi bắt đầu lâm bệnh cho đến khi băng hà đức vua luôn có tâm trong sáng thanh tịnh do bắt lấy ấn tướng tốt. Nhưng đến khi thật sự gần băng hà thì trở lại khởi lên tâm bất mãn buồn phiền rằng: "Cho đến vị đại đế như ta thống lãnh cõi Diêm Phù Đề nhưng đến bây giờ chỉ còn quyền hạn bằng trái cà na mà thôi !!!". Dòng tâm bị cấu uế do sân thuộc cảnh nghiệp được hiển lộ trong lúc bằng hà liền bị sanh làm ngạ quỷ trăn. Cho đến khi hoàng nhi Mahinda là bậc trưởng lão A La Hán phải trợ duyên bằng phương pháp làm cho nhớ lại khi còn là nhân loại ông đã từng ủng hộ cho việc kết tập Tam Tạng. Khi nhớ lại được thì mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ trăn được sanh lên thiên giới. Sau cùng được chứng đắc A La Hán như đã trình bày trong bộ Mahāvaṃsa.

    Lại nữa, người sắp mệnh chung mà tâm cấu uế nhiệt não do ấn tướng xấu vào hiện bày. Nếu người kế cận thấy được kịp thời và biết được phương pháp hoán chuyển thì có thể sẽ thay đổi ấn tướng xấu trở thành trở thành tốt được. Như bậc A La Hán trưởng lão Soịa ngụ trên núi Soṭagiri có người cha lúc sanh tiền sức khoẻ còn tráng kiện thích sinh kế bằng nghề săn thú. Cho dù trưởng lão khuyên nhủ ngăn cản như thế nào cũng không chịu từ bỏ. Về sau khi đã già mới đến xuất gia với con trai mình . Đến lúc lâm trọng bệnh chắc chắn phải chết thì thú tướng xấu liền hiện bày. Như thấy con chó to lớn đến từ chân núi vào cắn xé mới kêu la vang dậy cầu cứu con trai mình tế độ cho. Về phần trưởng lão hiểu được rằng:

    "Đây là thú tướng liên quan đến cõi địa ngục vào hiện bày với thân phụ ta". Mới cho sa di đi hái hoa đến trang hoàng đặt trước Kim Thân Phật rồi khiêng thân phụ vào tại nơi đó chỉ dạy rằng:

    - Hương hoa này để cúng dường Đức Phật, xin cha hãy hướng tâm đến cúng dường ân Đức Phật.

    Thân phụ ưng thuận làm theo. Trong lúc đó thú tướng liên quan đến cõi địa ngục cũng biến mất, thú tướng liên quan đến thiên giới như thiên nữ hiển lộ thay thế.

    Thân phụ hoan hỷ kêu lên với trưởng lão rằng:

    - Thiên nữ đến hãy tránh đường cho họ vào.

    Khi tâm phấn chấn do hoan hỷ khởi lên như vậy rồi mệnh chung thì được sanh lên thiên giới.

    *

    Điều hoài nghi và lời thích giải trong vấn đề này

    Vào lúc nhìn thấy nàng thiên nữ đó thì sự hoan hỷ là hiện thân của tham được sanh lên. Như dẫn chứng cho thấy được từ lời nói rằng: "Thiên nữ đến hãy tránh đường cho họ vào". Khi mệnh chung thì được sanh lên thiên giới, cho nên điều đề cập rằng: "Vipaccamānakakammānurūpaṃ parisuddhaṃ upakkiliṭṭhaṃ vā" Thiện nghiệp có cơ hội cho quả thì dòng tâm của người cận tử sẽ thanh tịnh, nếu bất thiện có cơ hội cho quả thì dòng tâm của cận tử sẽ cấu uế. Nếu sự việc như vậy thì dòng tâm của thân phụ trưởng lão có sự hoan hỷ đối với thiên nữ cũng là cấu uế, nhưng tại sao lại sanh lên thiên giới được ?

    Thích giải: Nếu bất thiện nghiệp có cơ hội cho quả thì dòng tâm của người cận tử sẽ cấu uế, ám chỉ đến cấu uế nhiệt não bởi phiền não… thuộc thời gian dài nhiều phút nhiều giờ như vậy mới được gọi là "upakkiliṭṭhaṃ". Nhưng dòng tâm của thân phụ trưởng lão có tâm trong sáng thanh tịnh nương vào hành động thiện sanh lên trước lúc cận tử thời gian nhiều phút. Còn dòng tâm có sự hoan hỷ đối với thiên nữ đó chỉ khởi lên trong chốc lát thì mệnh chung. Cho nên sự hoan hỷ là hiện thân của tham không hiện bày được để chấp thủ mà chỉ là ái dục thoáng sanh lên. Do đó, mới trở lại tạo cơ hội cho thiện giới nương sanh từ việc xuất gia, thiện thí nương sanh từ việc cúng dường hương hoa, thiện tu tiến nương sanh từ việc hướng tâm đến ân đức Phật cùng với việc khai mở thiên giới là cõi cho quả của nhóm thiện nghiệp đó được vững chắc hơn nữa. Như trình bày trong Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhidāmagga) rằng: "Gatisampattiyā ñānasampayutteaṭṭhannaṃ hetūnaṃ paccayā uppatti hoti". Tái tục tương ưng trí thường sanh vào sanh hữu cụ túc (gatisampatti), như nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên vì nhận được sự trợ giúp từ 8 nhân.

    Thích giải: Người sanh làm nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên bằng tâm tái tục tam nhân vì nương từ 8 nhân làm duyên hỗ trợ cho sanh lên trong lúc bố thí, trì giới, tu tiến câu hành với nghiệp sở thuộc trí (kammassakatāñāṇa) hoặc tuệ quán được 3 nhân tịnh hảo. Còn sự hân hoan vui thích trong việc bố thí, trì giới, tu tiến của mình thì được 2 nhân vô tham, vô si. Khi tái tục bằng tâm tam nhân là quả của các việc thiện này được cả 3 nhân tịnh hảo. Tất cả gom lại thành 8 nhân.

    Lại nữa, sự việc mà thân phụ của trưởng lão hoan hỷ với thiên nữ nhưng cũng được sanh lên thiên giới, điều này trái nghịch đối với Phật Ngôn. Bởi vì Đức Thế Tôn Ngài thuyết trong kinh Ādittapariyāya rằng: "Nimittassādagathitaṃ vā bhikkhave viññāṇaṃ tiṭṭhamānaṃ tiṭṭheyya anubyañjanassādagathitaṃ vā, tasmiṃ ce samaye kālaṃ kareyya, thānametaṃ vijjati, yaṃ dvinnaṃ gatinaṃ aññattaraṃ gatiṃ gaccheyya nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā"

    "Này các tỳ kheo! Dòng tâm mà hài lòng thích thú về thân thể của mình và của người khác khởi lên rồi dính mắc về thân tướng. Hoặc dòng tâm mà hài lòng thích thú các chi thể lớn nhỏ trong thân thể của mình và của người khác khởi lên rồi dính mắc về tướng riêng (anubyañjana). Này các tỳ kheo! Nếu người đó mệnh chung trong lúc có ái dục thì phải rơi vào 1 trong 2 sanh thú là địa ngục, bàng sanh sự kiện này thường xảy ra".

    Phật Ngôn này không đối nghịch lại với trường hợp đó. Bởi vì lúc thật sự gần mệnh chung thì đổng lực thiện có sự tịnh tín về ân đức Tam Bảo và việc cúng dường các hương hoa sanh khởi riêng biệt. Còn việc hoan hỷ đối với thiên nữ thì sanh lên trước khi sẽ mệnh chung. Vả lại, việc hoan hỷ đối với cảnh đáng ưa thích hay ưu buồn đối với cảnh đáng ghét đáng ghê sợ là thường nhiên hiện hữu với mọi người. Chỉ ngoại trừ bậc đặc thù như hành giả đang tu tiến Minh Sát có quyền già mạnh và bậc A Na Hàm với bậc A La Hán mà thôi. Do đó, cảnh đáng ưa thích đáng hài lòng hoặc đáng ghét, đáng ghê sợ vào hiện bày trước mặt mà sự hoan hỷ hay ưu buồn không khởi lên, luôn cả mình không phải là bậc đặc thù thì đối tượng đó được gọi là hình nộm rồi.

    Lại nữa, nếu như mọi người còn hoan hỷ, ưu buồn thì mọi người sẽ cùng nhau rơi vào đoạ xứ hết, khi mệnh chung rồi cũng không còn ai sanh làm nhân loại và chư thiên được. Nếu thế thì trong cõi nhân loại và cõi chư thiên dần dần chẳng còn bao nhiêu nữa. Nhưng sự kiện như vậy không thể diễn tiến được.

    Vì thế mới trình bày cho thấy được rằng sự hoan hỷ, ưu buồn hiện diện có 2 loại. Tức hoan hỷ, ưu buồn có mãnh lực cho quả đưa đến cõi khổ cảnh cũng có, không có mãnh lực cho quả đưa đến khổ cảnh cũng có. Có mãnh lực cho quả đưa đến khổ cảnh thì phải làm cho thân, ngữ, ý thành tựu ác hạnh, tà mạng. Còn đối với Phật Ngôn ám chỉ lấy sự chết thông thường hoặc chết do gặp tai nạn. Nếu dòng tâm của người trước khi chết có sự hoan hỷ, ưu buồn khởi lên cho đến khi hành động làm cho thân, ngữ, ý trở thành ác hạnh, tà mạng. Thì cho dù có khởi lên thiện tâm do có người đến nhắc nhở cho nhớ lại phước thiện mà mình đã từng kiến tạo hoặc cho nhớ đến ân đức Tam Bảo đi nữa thì dòng tâm có sự hoan hỷ, ưu buồn như đã trình bày vẫn sanh lên nữa. Bởi vì thiện tâm chỉ sanh lên được chốc lát thì không thể hủy diệt được sự cấu uế của dòng tâm cho giảm bớt xuống được, cho nên khi mệnh chung phải rơi vào một cõi khổ nào.

    "Upalabhitabbabhavānurūpaṃ tatthoṇataṃva cittasantānam abhiṇhaṃ pavattati".

    "Dòng tâm thường sanh lên vô gián có trạng thái diễn tiến, tùy theo sanh hữu sẽ sanh lên mà hướng đến".

    Thích giải: Tâm của người lúc cận tử cho dù sẽ bắt lấy một loại ấn tướng nào vào hiện bày đi nữa, thì dòng tâm đó cũng không gián đoạn mà vẫn hướng đến sanh hữu sẽ sanh lên. Như nếu sẽ sanh vào thiên giới thì hướng đến thiên giới; nếu sẽ sanh vào làm người thì hướng đến nhân loại; nếu sẽ sanh vào một cõi đọa xứ nào thì hướng đến cõi đó. Ví như người đi trên con đường đến các quốc gia hoặc tỉnh lỵ khác nhau cho dù thân, ngữ đang bận rộn bởi các công việc. Nhưng dòng tâm cũng vẫn luôn hướng đến quốc gia, tỉnh lỵ nơi mà mình sẽ đến. Còn đối với bậc A La Hán khi gần viên tịch Níp Bàn cho dù tâm có cảnh hiệp thế, siêu thế hoặc chế định đi nữa nhưng dòng tâm của Ngài luôn thuần nhất hướng đến Níp Bàn. Sự kiện như vậy, vì Ngài không còn sanh hữu phải tái sanh tiếp tục nữa. Trong kinh Đại Bát Níp Bàn (Mahāparinibbāna) có trình bày đến tiến trình dòng tâm của bậc Chánh Đẳng Giác khi gần viên tịch Níp Bàn rằng: "Anejo santimārabbha, yam kālamakarī muni". " Bậc ái tận tối thượng Muni Ngài dự định hướng đến Vô Dư Y Níp Bàn rồi đến thời Ngài viên tịch Níp Bàn".

    "Cittasantānaṃ abhiṇhaṃ pavattati bāhullena"

    " Phần nhiều dòng tâm sanh lên vô gián"

    Từ "Bāhullena": "Phần nhiều" nghĩa là dòng tâm diễn tiến… do sự thanh tịnh hoặc cấu uế và hướng đến sanh hữu sẽ sanh lên chỉ là phần nhiều mà không phải là bao quát. Tức muốn nói đến dòng tâm của người khi mệnh chung trong tình trạng bệnh thời gian nhiều phút, nhiều giờ, nhiều ngày mà thôi. Còn đối với người mệnh chung bởi trường hợp bất ngờ trong nháy mắt (bất đắc kỳ tử) như xe lửa cán, mìn nổ, nhà sập đè, bị bắn trong lúc ngủ, bị chặt đứt cổ lúc lơ đểnh thì dòng tâm không diễn tiến như đã đề cập trong phần đầu. Cho nên từ "Bāhullena" là loại trừ ra dòng tâm của người mệnh chung trong tình trạng như đã đề cập trên. Dòng tâm của loại người này diễn tiến như sau: Lộ ý môn sanh lên bắt lấy 1 trong 3 loại ấn tướng rồi diệt đi. Nối tiếp là lộ ngũ môn sanh lên bắt lấy cảnh xúc đau đớn rồi diệt đi. Theo sau đó lộ ý tiền trần (atītaggahanamanodvāravithī) cũng sanh lên bắt lấy cảnh xúc rồi diệt đi. Kế tiếp là lộ ý môn cận tử có 1 trong 3 loại ấn tướng sanh lên lần cuối cùng.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 4 TRÌNH BÀY VIỆC HIỆN BÀY CẢNH NGHIỆP THEO LÝ KHÁC NỮA

    "Tameva vā pana janakabhūtaṃ kammaṃ abhinavakaranavasena dvārapattaṃ hoti". Điều Pāli này trình bày việc hiện bày cảnh nghiệp theo lý khác nữa.

    Việc hiện bày cảnh nghiệp có 2 lý chánh yếu khác nhau như:

    - Lý thứ 1 trình bày rằng: "Abhimukhībhūtaṃ bhavantare patisandhijanakaṃ kammaṃ manodvāre paccupaṭṭhāti".

    "Thiện và bất thiện nghiệp cho quả tái tục sanh lên trong kiếp sau diễn tiến hiện bày rõ ràng trước mặt trong lộ ý môn".

    - Lý thứ 2 trình bày rằng: "Tameva vā pana janakabhūtaṃ kammaṃ abhinavakaraṇavasena dvārappattaṃ hoti".

    "Thiện và bất thiện nghiệp làm cho việc tái tục sanh lên luôn hiện bày trong tâm bằng mãnh lực làm cho mình như vừa tái sanh".

    Do đó, điểm đặc biệt khác nhau giữa 2 lý này cũng hiện diện trực tiếp như: "Abhimukhībhūtaṃ" "Hiện bày rõ ràng trước mặt" và "Abhinavakaraṇavasena" "Làm cho mình giống nhưvừa tái sanh".

    * Việc hiện bày cảnh nghiệp theo lý thứ 1: "Abhimukhībhūtaṃ" là hiện bày do mãnh lực của "pubbekatasaññā". Tức tưởng nhớ lại trong nội tâm việc đã qua trong quá khứ. Như từng hoan hỷ trong lúc bố thí, trì giới, tu tiến đã qua 10 - 15 năm mà từ đó đến nay vẫn còn luôn nhớ đến. Hoặc đã từng đau khồ uất ức trong lúc bị lửa đốt cháy, bị lừa gạt đã qua 10 - 20 năm, hoặc từng hận thù với một người nào trước. Những sự việc như trên đến lúc cận tử thì nhớ lại rồi phiền muộn đau khổ hoặc uất ức. Điều này ví như một người đứng tuổi suy xét rồi đem so sánh tâm của mình trong hiện tại với tâm khi còn lứa tuổi thanh xuân thì có sự hớn hở thích thú một hành động nào đó mà vẫn còn nhớ lại được sự vui mừng thích thú như trong lúc đó. Sự hiện bày cảnh nghiệp do nhớ lại hành động lúc trước là hồi tưởng nghiệp.

    Do đó, người vào lúc cận tử mà nhớ lại sinh hoạt bên ngoài như cử chỉ, đồ dùng của mình và cảnh vật chung quanh… được. Các việc này gọi là cảnh nghiệp tướng.

    * Việc hiện bày cảnh nghiệp theo lý thứ 2: "Abhinavakaraṇavasena" là việc hiện bày do mãnh lực "sampatikasaññā". Tức tưởng nhớ lại trong nội tâm diễn tiến giống như đang làm trong lúc đó. Như mình từng hoan hỷ trong lúc bố thí, trì giới, tu tiến hoặc từng đau khổ khi bị lửa đốt cháy bị lừa gạt, hoặc từng căm giận một người nào đã trôi qua hằng nhiều tháng nhiều năm. Cho đến lúc cận tử thì nội tâm khởi lên sự hoan hỷ, bức xúc, căm giận… cũng diễn tiến y như sự việc trên đang xảy ra. Điều này ví như sự vui thú nơi tâm của người đang ngủ trong đêm khuya chiêm bao thấy mình đang vui chơi, đi xem phim, xem ca kịch, thể thao từ xế chiều .

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 5 TRÌNH BÀY LỘ CẬN TỬ

    "Paccāsannamaraṇassa tassa vīthicittāvasāne ... cuticittaṃ uppajjitvā nirujjhati"

    Điều Pāli này trình bày đến sự hiện khởi của lộ đổng lực cận tử. Tức sự sanh lên tiếp nối của tâm thành từng thời điểm lúc cận tử.

    Từ: "Paccāsannamaraṇassa" (cận tử thời điểm tận cùng) này ám chỉ đến người sẽ mệnh chung vào giai đoạn cận tử thời điểm tận cùng. Còn người sẽ chết trong giai đoạn 1 - 2 phút hoặc 1 - 2 giờ… thì không phải là người sẽ mệnh chung vào giai đoạn cận tử thời điểm tận cùng (paccāsannamaranapuggala) mà chỉ là người cận tử thông thường.

    Từ: "Paccāsannaṃ" trong câu này là hợp từ, nếu phân ra được 2 từ, tức từ "Pati": Tận cùng, "Āsanna": Gần. Gom lại thành "Paccāsanna" gần tận cùng. Cho nên người sẽ mệnh chung trong giai đoạn 1 - 2 phút hoặc 1 - 2 giờ… không gọi là người sẽ mệnh chung vào giai đoạn cận tử thời điểm tận cùng, chỉ được gọi là người cận tử mà thôi. Do đó, việc trình bày lộ cận tử trong điều Pāli này ám chỉ lấy tâm lộ cận tử thời điểm tận cùng (paccāsannamaraṇavithi).

    *

    SỰ SANH TỒN & CHẤM DỨT CỦA KIẾP HIỆN TẠI

    Sự sanh lên tiếp nối không gián đoạn của tâm hộ kiếp và sắc nghiệp trong một kiếp sống gọi là kiếp hiện tại. Khi tâm hộ kiếp thay đổi chức năng thành tâm tử và sắc nghiệp cũng sanh lên lần cuối cùng thì gọi là sự sanh tồn của kiếp hiện tại được chấm dứt.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày tâm tử rằng: "Paccuppannabhavapariyosānabhūtaṃ". Tâm tử là tâm cuối cùng của kiếp hiện tại. Và sự sanh lên của tâm tử cũng có 2 trường hợp như: Sanh lên cuối lộ tâm và sanh lên có tâm hộ kiếp rồi tử.

    Vì vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Vīthicittāvasāne bhavangakkhaye và". Trong cuối lộ tâm hoặc có tâm hộ kiếp rồi tử.

    - Trong 2 trường hợp này tâm tử sanh lên cuối lộ tâm có 2:

    1) - 5 sát na đổng lực, 2 sát na na cảnh rồi tâm tử sanh lên.

    2) - 5 sát na đổng lực rồi tâm tử sanh lên.

    - Tâm tử sanh lên khi có tâm hộ kiếp kế cận rồi diệt đi.

    3) - 5 sát na đổng lực, 2 sát na na cảnh, 1 - 2 - 3 sát na hộ kiếp rồi tâm tử sanh lên.

    4) - 5 sát na đổng lực, 1 - 2 - 3 sát na hộ kiếp rồi tâm tử sanh lên.

    Do đó, lộ tâm cận tử cao điểm tận cùng (paccāsannamaraṇavīthi) mới có 4 loại:

    C – C – C – C – C – N – N -- M

    C – C – C – C – C – M

    C – C – C – C – C – N – N -- H --…-- M

    C – C – C – C – C – H – …-- M

    Trình bày: 1 - 2 - 3 sát na tâm hộ kiếp sanh lên tức có 1 sát na tâm hộ kiếp rồi tử sanh lên, hoặc 2 sát na tâm hộ kiếp rồi tâm tử sanh lên, hay 3 sát na tâm hộ kiếp rồi tâm tử sanh lên cũng có. Sự kiện diễn tiến này bởi nương vào sắc nghiệp sanh lên lần cuối, do sắc nghiệp phải đồng diệt với tâm quả. Tâm quả sẽ diệt do sắc nghiệp không còn hiện hữu, hoặc nói cách khác là sắc nghiệp diệt hết do tâm quả không còn hiện hữu. Bởi vì trong lần đầu tiên thiện nghiệp, bất thiện nghiệp tác tạo sanh hữu sanh lên thì tâm quả và sắc nghiệp đồng sanh với nhau. Cho nên khi chấm dứt sanh hữu thì tâm quả và sắc nghiệp cũng phải đồng diệt với nhau. Đây là tiến trình theo luật cố nhiên của pháp (dhammaniyāma) giống như ngọn đèn và ánh sáng có tánh chất đồng sanh diệt với nhau.

    Cả 4 loại tâm lộ này người mệnh chung trong cõi dục giới rồi sanh vào cõi dục giới nữa thì được cả 4 tâm lộ. Còn nếu người mệnh chung trong cõi dục giới rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, hoặc mệnh chung trong cõi Phạm Thiên rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, hoặc mệnh chung trong cõi Phạm Thiên rồi sanh vào cõi dục giới đi nữa, thì cả 3 nhóm này chỉ có 2 lộ tâm chót đổng lực mà thôi. Còn 2 tâm lộ chót na cảnh thì không sanh lên được. Sự kiện mà 2 tâm lộ chót na cảnh không sanh lên với 3 nhóm người đó vì quy luật khi na cảnh sanh lên phải hội đủ 3 yếu tố: Đổng lực dục giới, người dục giới, cảnh dục giới. Khi hội đủ 3 yếu tố này thì na cảnh mới hiện khởi được.

    Như trong Pāli Thắng Pháp Tập Yếu Luận đã trình bày:

    Kāme javanasattālam Banānaṃ niyama sati

    Vibhūtetimahante ca Tadārammaṇamīritaṃ.

    Nếu hội đủ 3 chi phần là đổng lực dục giới, người dục giới, cảnh dục giới mà các bậc A xà lê đã đề cập trong cảnh rất lớn và cảnh rất rõ thì cả 2 tâm lộ này mới có na cảnh. Vì vậy, ba nhóm người như đã đề cập trên không hội đủ 3 chi phần nên cả 2 tâm lộ mới không có na cảnh khởi hiện.

    Như người chết trong cõi dục giới rồi sanh vào cõi Phạm Thiên chỉ được 2 chi phần: Đổng lực dục giới, người dục giới. Còn cảnh thì thuộc cảnh chế định hoặc đáo đại liên quan đến nghiệp xứ.

    Người mệnh chung trong cõi Phạm Thiên rồi sanh vào cõi Phạm Thiên chỉ được một chi phần là đổng lực dục giới.

    Người mệnh chung trong cõi Phạm Thiên rồi sẽ sanh vào cõi dục giới được 2 chi phần: Cảnh dục giới, người dục giới.

    Còn người chết trong cõi dục giới rồi sanh vào cõi dục giới thì hội đủ 3 chi phần.

    Cho nên cả 2 tâm lộ na cảnh mới khởi hiện lên được.

    *

    THÍCH GIẢI ĐIỀU PĀLI THỨ 6 TRÌNH BÀY VIỆC SANH LÊN CỦA TÂM TÁI TỤC TRONG KIẾP SỐNG MỚI

    Trong điều Pāli này có đoạn trọng yếu: "Tasmiṃ niruddhāvasāne tassānantarameva... paṭisandhisaṇkhataṃ mānasaṃ uppajjamānameva patiṭṭhāti bhavantare". Còn Pāli đoạn giữa kể từ: "Tathāgahitaṃ ārammaṇaṃ... cho đến bhavantarapaṭisandhānavasena" thì trình bày tiến trình… của tâm tái tục, như bắt cảnh nương vào nghiệp làm cho sanh lên tùy thuộc theo phận sự.

    Đoạn Pāli trọng yếu này được dịch: Khi tâm tử diệt rồi, thì chính sự tuần tự của tâm tử diệt đi vô gián đó làm duyên cho tâm tái tục sanh lên hiện hữu trong kiếp sống mới liền tức khắc.

    Từ: "Tassānantarameva" "Chính sự tuần tự của tâm tử diệt đi vô gián đó". Từ này là từ bác bỏ Trung Hữu Kiến (antarabhavadiỉỉhi) của người có luận thuyết trung hữu "Antarabhavadiṭṭhi" (antara + bhava + diṭṭhi) thuyết trung hữu có quan kiến cho rằng giữa tử và tái tục hoặc giữa kiếp sống cũ với kiếp sống mới có 1 cõi trung gian "Antarabhavavādī" (luận thuyết trung hữu) (antara + bhava + vādī". Người có luận thuyết trung hữu cho rằng có sự gián đoạn giữa tử và tái tục hoặc kiếp sống cũ với kiếp sống mới có 1 cõi trung gian. Vì luận thuyết trung hữu quan niệm rằng khi chúng sanh chết rồi thì không sanh lên trong kiếp sống mới liền mà phải dừng nghỉ tạm thời trong cõi trung gian (antarabhava), chờ đợi người mẹ có kinh nguyệt và sự giao hợp của cha với mẹ khoảng thời gian thích hợp cho việc thụ thai (7 ngày, hơn 7 ngày, ít hơn 7 ngày tính từ ngày người mẹ vừa dứt kinh kỳ). Trong lúc dừng nghỉ tạm thời trong cõi này thì có thể thấy, nghe và đi trong khắp mọi nơi hiện hình rõ ràng hay không hiện hình cũng được, giống như người có thần thông. Quan niệm và luận điểm của người có luận thuyết trung hữu này sai lệch sự thật cả. Thật ra khi tâm tử diệt đi rồi thì khởi sanh tâm tái tục tức khắc, vì chúng sanh chết rồi tái tục vào cõi mới ngay lập tức không gián đoạn.

    Do đó, Ngài Giáo Thọ Sư Anuruddha mới dùng từ "Eva"kết hợp với từ "Antara" rằng "Tassānantarameva" "Chính sự tuần tự của tâm tử diệt đi vô gián đó".

    "Tathāgahitaṃ ārammaṇaṃ ārabbha paṭisandhisankhātaṃ mānasaṃ" lā câu liên hệ ḍến ḍoạn văn Pāli nhṃ: "Tathātena channaṃ dvāranaṃ aññatarasmiṃ paccupaṭṭhitākārena chadvārikajavanenagahitaṃ kamma kammanimitta gatinimittta sammattaṃ ārammaṇaṃ ārabbha patisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ".

    "Tâm tái tục bắt lấy cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng mà đổng lực cận tử 6 môn bắt lấy tùy theo trường hợp hiện bày vào trong 1 môn nào của 6 môn".

    Thích giải: Tâm tái tục là tâm sanh lên trong kiếp sống mới luôn có cùng một loại cảnh với cảnh của đổng lực cận tử trong kiếp sống trước. Vì vậy, nếu cảnh của đổng lực cận tử là cảnh nghiệp thì cảnh của tâm tái tục cũng là cảnh nghiệp. Nếu là cảnh nghiệp tướng hoặc thú tướng thì cảnh của tâm tái tục cũng là cảnh nghiệp tướng hoặc thú tướng. Còn đối với tâm tử của kiếp sống cũ mà sanh lên theo đổng lực cận tử của kiếp sống cũ cũng có cùng một loại cảnh với cảnh của tâm tái tục trong kiếp sống cũ. Do đó, việc thay đổi cảnh của 3 ấn tướng trong giữa kiếp sống cũ với kiếp sống mới chỉ thay đổi nhau ngay tâm tái tục.

    "Savatthukaṃ avathukameva vā paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ". "Cho dù tâm tái tục có nương vật hay không nương vật đi nữa".

    Từ: "Savatthukaṃ" Tâm tái tục sanh vào cõi ngũ uẩn vì trong cõi ngũ uẩn có sắc ý vật nương sanh.

    Từ: "Avatthukaṃ" Tâm tái tục sanh vào cõi tứ uẩn vì trong cõi tứ uẩn không có sắc ý vật nương sanh.

    "Avijjānusayaparikkhittena taṇhānusayamūlakena saṇkhārena janiyamānaṃ paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ".

    "Khi tái tục thì 1 trong 3 loại hành có vô minh tiềm miên cai quản và ái dục tiềm miên làm căn cội sắp đặt cho sanh lên. Như "Avijjànusayaparikkhitena saṇkhàrena" "1 trong 3 loại hành có vô minh tiềm miên cai quản". Hành động bằng thân, ngữ, ý của chúng sanh mà thành tựu việc phước, tội làm hành trang cho tái tục sanh lên trong kiếp sống mới được phải dính líu đến vô minh hiện hữu. Nếu người hành động tạo tác… mà không có vô minh hiện hữu thì hành động đó cũng không thành tựu tội, phước mà chỉ là hành động duy tác (kiriya), vì làm cho hoàn thành ngay hiện tại mà thôi. Ví như nữ nhân trong thời kỳ còn kinh nguyệt khi giao hợp với chồng thì sự giao hợp này thường có con được, nhưng khi tắt kinh nguyệt thì việc giao hợp này không làm cho có con được. Cũng vậy hành động thân, ngữ, ý của người còn vô minh tiềm miên làm cho thành tựu phước, tội. Còn hành động của người không còn vô minh tiềm miên thì không thể thành tựu phước, tội được.

    Việc cai quản pháp hành của vô minh tiềm miên có 2 trường hợp là bằng thường cận y duyên và câu sanh duyên. Nghĩa là nếu hành thiện thì vô minh tiềm miên cai quản theo thường cận y duyên. Nếu hành bất thiện thì vô minh cai quản theo câu sanh duyên. Cho nên mới nói rằng vô minh làm duyên trợ giúp ủng hộ cho hành thiện bằng mãnh lực thường cận y duyên; và làm duyên trợ giúp ủng hộ cho hành bất thiện bằng mãnh lực câu sanh duyên. Việc trợ giúp ủng hộ cho hành thiện vẫn còn là tiềm miên, còn sự trợ giúp ủng hộ cho hành bất thiện không phải là tiềm miên mà chỉ là hiện thân của vô minh sanh lên.

    Do đó, sự việc mà Ngài giáo thọ sư Anuruddha trình bày rằng: "Avijjānusayaparikkhittenaṃ". Nếu ở khía cạnh thiện hành là trình bày theo gián tiếp nếu ở khía cạnh bất thiện hành là trình bày theo cách trực tiếp. Nói theo cách tương tự (sadisūpacāra) tức vô minh hiện khởi cũng có thực tánh giống như vô minh tiềm miên vậy.

    "Tañhānusayamūlakena saṇkhārena" "1 trong 3 loại hành có ái dục làm căn cội" tức hành động bằng thân, ngữ, ý của tất cả chúng sanh trên thế gian này. Bất cứ dù là việc thiện như bố thí, trì giới, tu tiến hoặc bất thiện như sát sanh trộm cắp… đi nữa, hầu như luôn mong mỏi được quả bù đắp bởi mãnh lực của ái dục. Cho nên nếu nói bộc bạch thì tất cả mọi người trên thế gian này nếu không mong mỏi được quả bù đắp (hiện thân của ái dục) thì việc làm… thuộc cá nhân hay tập thể và việc làm về Đạo Pháp còn liên quan đến đời mà con người đang tiến hành phát triển sẽ phải dừng lại. Bởi vì không có ái dục nuôi dưỡng mà chỉ còn lại công việc theo Đạo Pháp không liên quan đến thế gian. Như việc tu tiến Minh Sát của một số phàm nhân, tu tiến Minh Sát của bậc Thánh, việc phản khán Đạo, Quả, Níp Bàn, phiền não, việc nhập thiền quả, nhập thiền diệt. Khi đã như vậy, thì thế gian sẽ vắng lặng khô khan, buồn tênh không nhộn nhịp.

    Như thông thường thiên nhiên có gió khắp mười phương, đột nhiên ngừng lại như mất hẳn. Chỉ còn lại khoảng không gian trống rổng chừng 1 giờ đồng hồ. Bấy nhiêu đó thôi chúng sanh cũng sẽ chết hết, chỉ có chúng sanh sống dưới đất và dưới nước là còn sống sót. Điều này trình bày cho thấy rằng mãnh lực của ái dục trải rộng bao la biết chừng nào. Do đó, nếu mãnh lực ái dục của mỗi người có đủ khả năng ước lượng trong khuôn phép ấn định thì ái dục sẽ đem lại lợi ích lớn lao trọng đại. Ngược lại, nếu như ái dục của mỗi người cuồng nhiệt không biết độ lượng, hành động vượt quá khuôn phép ấn định thì chỉ tạo rối ren điêu tàn đem đến nhiệt não thiệt hại cho cá nhân lẫn đoàn thể, dòng giống, quốc gia, tôn giáo... Chính do nhân này, vua trời Đế Thích mới bạch hỏi sự rối ren của ái dục với bậc Chánh Đẳng Giác rằng:

    Antojatā bahiyaṭā Jāṭāya jaṭitā pajā

    Taṃ taṃ gotama pucchāmi Ko inaṃ vijaṭaye jaṭaṃ

    "Bạch sa môn Gotama, ái dục giống như lưới cá có tánh chất làm rối ren tất cả chúng sanh cả nội tâm lẫn ngoại cảnh. Chúng sanh đang bị rối ren cũng do ái dục. Vì vậy, bạch Ngài ai sẽ tháo gở được rối ren (ái dục) này?"

    Do đó, hành động tốt và hành động xấu của mọi người đều nương vào vô minh làm nhân mà không thể loại trừ ái dục ra được.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha đã đề cập rằng: "Tañhānusayamūlakena saṇkhārena". "Ba hành có ái dục làm căn cội".

    Ái dục làm căn cội của hành có 2 trường hợp: Bằng thường cận y duyên và câu sanh duyên. Nếu hành là sân căn, si căn, thiện hiệp thế làm căn cội thì bằng thường cận y duyên. Nếu hành là tham căn làm cội rễ thì bằng câu sanh duyên. Do đó, có thể nói được rằng ái dục làm duyên trợ giúp ủng hộ cho căn sân, căn si, thiện hiệp thế bằng mãnh lực thường cận y duyên, và làm duyên trợ giúp ủng hộ cho căn tham bằng mãnh lực câu sanh duyên. Việc làm duyên trợ giúp ủng hộ cho căn sân, căn si, thiện hiệp thế vẫn còn là tiềm miên. Còn làm duyên trợ giúp ủng hộ cho căn tham không phải là tiềm miên mà chỉ là hiện thân của tham sanh lên.

    Do đó, sự việc mà Ngài giáo thọ sư Anuruddha trình bày rằng: Tañhānusayamūlena". Nếu nói theo khía cạnh căn sân, căn si, thiện hiệp thế là trình bày theo gián tiếp. Nếu nói theo khía cạnh căn tham là trình bày theo trực tiếp. Nói theo cách tương tự tức ái dục sanh khởi cũng có thực tánh giống như ái dục tiềm miên vậy.

    "Yathārahaṃ" "Tùy theo tương ướng với thiện hành và bất thiện hành".

    Thích giải: Ba hành sắp xếp làm cho tái tục có 2 giai đoạn:

    1 -Thiện hành, bất thiện hành sanh khởi lúc hành động tốt, hành động xấu trong thường ngày.

    2 -Thiện hành, bất thiện hành sanh lên trong đổng lực cận tử dục giới có 5 sát na (cả 2 trường hợp này vào lúc cận tử có 5 sát na đổng lực cận tử sanh lên không phải chỉ duy nhất một lộ tâm sanh lên lần cuối cùng mà sanh lên hàng nhiều chục lộ tâm trước cho đến lộ tâm cuối cùng). Trong cả 2 giai đoạn này thiện hành, bất thiện hành trong giai đoạn đầu sắp xếp cho tái tục trong kiếp sống mới bằng mãnh lực trợ sanh (janakasatti) hiện hữu trong vai trò thường cận y duyên đặc biệt. Trong giai đoạn sau sắp xếp bằng cách đơn thuần (khìpanaka) bằng mãnh lực ủng hộ (upatthambhakasatti) hiện hữu trong vai trò thường cận y duyên thông thường.

    Việc trình bày vô minh tiềm miên cai quản và ái dục làm căn cội tùy theo tương ứng thiện hành, bất thiện hành. Việc cai quản và làm căn cội của vô minh cùng ái dục trong thiện hành và bất thiện hành cả 2 giai đoạn này không giống nhau. Như sẽ trình bày việc cai quản và làm căn cội của vô minh và ái dục trong thiện hành, bất thiện hành vào giai đoạn tiếp theo sau. Còn đối với việc cai quản và làm căn cội của vô minh và ái dục trong thiện hành, bất thiện hành giai đoạn đầu đã được trình bày diễn giải ý nghĩa trong điều Pāli như: "Avijjānusayaparikkhittena taṇhānusayamūlakena saṇkhārena janiyamānaṃ paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ".

    Avijjā taṇhā saṇkhāra Sahajehi apāyinaṃ

    Visayādīnavacchādaṃ Nāmanaṃ khipanaṃ pica

    Appahīnehi sesanaṃ Chādanaṃ nāmanaṃ pica

    Khipakapana saṇkhārā Kusalāva bhavantiha

    Thích giải: Vô minh, ái dục, hành, câu sanh với đổng lực cận tử của người sẽ sanh vào đọa xứ thường diễn tiến được 3 trường hợp:

    1- Che đậy tội lổi của tướng cảnh (nimittārammaṇa) như nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.

    2- Làm cho thức tái tục hướng đến tướng cảnh, như nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.

    3- Lưu lại thức tái tục trong tướng cảnh, như nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.

    Người sẽ sanh vào cõi vui mà vô minh và ái dục tiềm miên chưa đoạn trừ thường diễn được 2 trường hợp:

    1- Che dậy tội lổi của tướng cảnh, như nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.

    2 - Làm cho thức tái tục hướng đến tướng cảnh, như nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.

    Đối với người sẽ sanh vào cõi vui thì hành (saṇkhāra) lưu lại thức tái tục trong tướng cảnh, như nghiệp… chỉ thuần nhất có thiện hành mà thôi.

    Trong cả 2 kệ ngôn này, thì kệ ngôn thứ 1 như: "Avijjā taṇhā... cho đến nāmanaṃ khipanaṃ pica". Trình bày đến vô minh ái dục tiềm miên và bất thiện hành câu sanh với đổng lực cận tử làm duyên trợ giúp ủng hộ cho thức tái tục của người sanh vào đọa xứ.

    Thích giải: Vô minh tiềm miên che đậy tội lổi của tướng cảnh, như nghiệp… Nói theo nhân quả thì vô minh là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên. Còn đối với ái dục tiềm miên có thực tánh thường nhiên là hướng đến cảnh cho nên mới làm cho thức tái tục liên quan với mình tháp tùng theo hướng đến một loại tướng cảnh nào vào hiện bày. Nói theo nhân quả thì ái dục là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên. Bất thiện hành lưu lại thức tái tục trong cảnh tức làm cho bắt lấy một loại tướng cảnh nào vào hiện bày. Nói theo nhân quả thì bất thiện hành là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên.

    Ví như một người đang bị ba kẻ thù vây hãm làm hại. Người thứ nhất thì bịt mắt, người thứ hai cưỡng bức đưa tay lên rồi bảo rằng nắm lấy vật hiện có trước mặt, người thứ ba xô đẩy đi. Điều này như thế nào thì sự trợ giúp ủng hộ giữa vô minh, ái dục, bất thiện hành với thức tái tục cũng như thế đó.

    Đối với việc cai quản của vô minh và việc làm căn cội của ái dục luôn cả bất thiện hành trong đổng lực cận tử này. Nếu đổng lực cận tử thuộc tham căn thì vô minh và ái dục làm duyên trợ giúp ủng hộ cho bất thiện hành bằng mãnh lực câu sanh năng duyên. Nếu đổng lực thuộc sân căn, si căn thì vô minh làm duyên trợ giúp ủng hộ cho bất thiện hành bằng mãnh lực câu sanh năng duyên. Còn ái dục làm duyên trợ giúp ủng hộ cho bất thiện hành bằng mãnh lực thường cận y năng duyên.

    Kệ ngôn thứ 2 như: "Appahīnehi... cho đến kusalāva bhavantiha" được trình bày đến vô minh, ái dục tiềm miên và thiện hành làm duyên trợ giúp ủng hộ cho thức tái tục sẽ sanh về cõi vui.

    Thích giải: Vô minh tiềm miên che đậy tội lổi của tướng cảnh, như nghiệp… nói theo nhân quả thì vô minh là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên. Còn ái dục tiềm miên có thực tánh thường nhiên là hướng đến cảnh cho nên mới làm cho thức tái tục liên quan với mình tháp tùng theo hướng đến một loại tướng cảnh nào vào hiện bày. Nói theo nhân quả thì ái dục là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên. Thiện hành lưu lại thức tái tục trong cảnh tức làm cho bắt lấy một loại cảnh nào vào hiện bày. Nói theo nhân quả thì thiện hành là thường cận y năng duyên, thức tái tục là sở duyên. Điều này cũng giống như ví dụ đã đề cập rồi.

    Đối với việc cai quản của vô minh và việc làm căn cội của ái dục luôn cả thiện hành trong đổng lực cận tử này, thì vô minh và ái dục làm duyên trợ giúp ủng hộ cho thiện hành bằng mãnh lực thường cận y năng duyên. Chính việc cai quản và làm căn cội của vô minh và ái dục trong thiện hành, bất thiện hành này vào giai đoạn sau.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng: "Yathārahaṃ" "Tùy theo tương ứng với thiện hành và bất thiện hành".

    "Sampayuttehi pariggayhamānaṃ" "Tâm tương ưng với các pháp như xúc, thọ… tháp tùng theo".

    Thích giải: Tâm tái tục sanh lên chẳng phải chỉ có một tâm duy nhất mà phải có sở hữu tháp tùng theo đồng sanh bằng mãnh lực câu sanh duyên, hỗ tương duyên diễn tiến tùy theo tương ứng với tâm tái tục đó.

    "Sahajātānamadhiṭṭhānabhāvena pubbaṇgamabhūtaṃ"

    "Dẫn đầu bởi vì là cứ điểm cho sở hữu và sắc nghiệp đồng sanh với mình".

    Thích giải: Việc sanh lên trong kiếp sống mới của tâm tái tục, sở hữu, sắc nghiệp cho dù cả 3 đồng sanh với nhau không pháp nào sanh lên trước hoặc sanh lên sau. Nhưng tâm tái tục được định vị trong vai trò câu sanh y duyên, là nơi nương cho pháp câu sanh như sở hữu, sắc nghiệp. Vì vậy, Ngài mới thuyết là pháp dẫn đầu .

    Cả 2 đoạn Pāli như: "Sampayuttehi pariggayhamānam" vā "sahajātānamadiṭṭhāna bhāvena pubbaṇgamabhūtaṃ" này được trình bày cho hiểu đến tầm quan trọng của đặc tánh thức tri (vijānanalakkhaṇā) tức biết cảnh đặc biệt. Vì tâm tái tục cũng có đặc tánh thức tri giống như tâm khác. Còn đặc tánh của 52 sở hữu như xúc… có đặc tánh không bằng với đặc tánh thức tri. Bởi vì nếu loại bỏ thức tri ra thì xúc… cũng không sanh lên được. Ví như bậc đại nhân, như Chuyển Luân Vương sanh lên trong thế gian này thì phải có vật hữu thức đặc thù như tướng quân báu, nữ báu, voi báu, ngựa báu, gia chủ báu và vật vô thức như trú xứ, chổ ngụ, vật trang sức, cây cối là vật phụ thuộc kỳ diệu đồng sanh lên như thế nào. Thì việc sanh lên của tâm tái tục cũng phải có sở hữu… câu sanh và sắc nghiệp như sắc ý vật… làm nơi nương phụ thuộc đồng sanh với mình cũng như thế đó.

    "Bhavantarapaṭisandhānavasena paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ" "Gọi là tâm tái tục vì là mối nối giữa hai kiếp sống mới và kiếp sống cũ lại với nhau".

    Pāli đoạn này trình bày đến nhân được gọi là tâm tái tục (nāmalābha) hoặc trình bày nhân diễn tiến của tâm tái tục (pavattinimitta).

    Thích giải: Khi chấm dứt kiếp sống cũ rồi mà không có thức hoặc bọn sắc mạng quyền sanh lên tiếp tục thì không thể có kiếp sống mới. Chỉ có bậc A La Hán mới không còn thức tái tục hoặc bọn sắc mạng quyền. Ngoài ra cho dù người đó thuộc nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên, phàm nhân, thánh hữu học đi nữa cũng không thể không có thức tái tục được. Do đó, khi mệnh chung thì tâm quả luôn sanh lên làm phận sự ráp nối kiếp sống cũ với kiếp sống mới lại với nhau, cho nên mới gọi là tâm tái tục.

    Như định nghĩa được trình bày sau: "Bhavantaraṃ paṭisandahatīti: Paṭisandhi" "Tâm quả nào làm phận sự nối tiếp kiếp sống mới, tâm quả đó gọi là tâm tái tục". "Uppajjamānameva patiṭṭhāti bhavantare" "Hiện diện tức khắc trong sát na sanh của kiếp sống mới".

    Từ: "eva" trong "uppajjamānaeva" này trình bày cho hiểu đến sát na sanh của tâm tái tục trong kiếp sống mới. Chính sát na sanh của tâm tái tục hiện khởi kiếp sống mới chứ chẳng phải sát na sanh của tâm tái tục kiếp sống cũ làm việc đó. Kế đó là sát na trụ của tâm tái tục trong kiếp sống mới. Nhưng trái lại người đời lại hiểu rằng khi chúng sanh mệnh chung rồi vẫn chưa sanh vào kiếp sống mới liền tức khắc mà vẫn còn tìm kiếm cõi để tái tục là hiểu sai lệch sự thật. Sự kiện diễn tiến như vậy, bởi vì nhóm người này không được học hỏi đến vấn đề tiến trình sanh, trụ, diệt của danh sắc (ngũ uẩn) cho chín chắn. Nên khi họ chứng kiến sự việc bên ngoài làm cho tâm hiểu lệch lạc. Từ đó đưa đến khẳng quyết sai lầm rằng chúng sanh mệnh chung rồi không tái sanh liền.

    Nguyên nhân hiện khởi bên ngoài làm cho hiểu sai lệch có 2 trường hợp:

    1 - Một vài người khi chết rồi có thể hiện hình cho người khác thấy được hình dáng, cử chỉ cho đến đồ trang sức hiện hữu giống như lúc còn sanh tiền.

    2 - Từ "sambhavesī" trong quyển kinh tụng thứ 7 dịch rằng: "Chúng sanh đang đi lang thang tìm kiếm nơi tái sanh". Lời dịch này cho dù người biết Pāli hay không biết Pāli đi nữa, khi đã đọc rồi cũng vẫn hiểu lầm cho rằng: Chúng sanh khi mệnh chung rồi vẫn còn tìm kiếm sanh hữu mới nên chưa tái sanh được. Chúng sanh đó gọi là người đang đi tìm nơi thọ sanh (sambhavesī).

    Hai trường hợp này sự thật hiện hữu như sau:

    1 - Người chết rồi hiện hình cho người khác thấy được không phải là chưa tái sanh mà hoàn toàn đã tái sanh vào kiếp sống mới. Nhưng việc tái sanh của họ không sanh ra bình thường như chúng ta mà sanh ra thì lớn lên liền tức khắc gọi là hóa sanh. Lẽ thường nhiên loài hóa sanh vẫn còn nhận thức nhớ được rõ sinh hoạt trong kiếp sống cũ. Do đó, khi sanh làm ngạ quỷ trong xóm làng hoặc chư thiên đọa lạc (vinipātikadevatā), bởi là chư thiên bậc thấp nên có ba thủ như dục thủ, kiến thủ, ngã chấp thủ. Sự chấp thủ đời sống của kiếp sống cũ hiện rõ liền tức khắc mới đến hiện hình cho người khác thấy. Nếu là ngạ quỷ thì hiện hình cho thấy khiếp đảm. Nếu là chư thiên đọa lạc thì khi còn là nhân loại có đời sống như thế nào thì hiện hình cho thấy như thế đó. Nhưng nếu người đó sanh làm chúng sanh địa ngục, a tu la giống như ngạ quỷ (asurapeta) mà ở cách xa nhân loại. Thì cho dù họ có chấp thủ đời sống liên quan đến kiếp sống cũ đi nữa cũng không có cơ hội đến hiện hình cho người khác thấy được. Nếu là chư thiên bậc thấp mà đầy đủ sự an lạc thì không chấp thủ đời sống liên quan đến kiếp sống cũ mà họ chỉ tiếp tục chấp thủ đời sống mới.

    2 - Chúng sanh gọi là "sambhavesi" (người đang còn tìm nơi thọ sanh) tức 4 người phàm và 3 bậc Thánh hữu học. Vì nhóm người này chưa chấm dứt sự tái sanh còn phải luân chuyển vào sanh hữu tiếp tục nữa.

    Từ "sambhavesī" là từ song hành với từ "bhùta" có trình bày trong Kinh Từ Tâm (Mettāsutta) mà Đức Phật Ngài thuyết:

    Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā Yeva dūre vasanti avidīre Bhūtā va sambhavesī va Sabbasattā bhavantu sukhitattā

    Nghĩa là: Dù cho chúng sanh nào mà ta đã từng gặp (diṭṭhā vā) hay không từng gặp (adiṭṭhā vā) và chúng sanh nào ngụ trong nơi xa (dūre vā) hoặc gần ta (avidūre và) đi nữa. Hay chúng sanh xa lìa phiền não mà ta đã từng gặp trong các sanh hữu hoặc phàm nhân và 3 bậc Thánh hữu học vẫn còn phải tái sanh trong sanh hữu tiếp tục nữa. Xin cho tất cả chúng sanh này được sự an lạc hạnh phúc.

    *

    QUAN NIỆM THƯỜNG KIẾN - ĐOẠN KIẾN - CHÁNH KIẾN VỀ VIỆC TÁI SANH TRONG KIẾP SỐNG MỚI CỦA TẤT CẢ CHÚNG SANH

    Cho dù học viên hay người không được học đi nữa, khi đọc hoặc được nghe về sự tái sanh trong kiếp sống mới của chúng sanh, như trình bày rằng:

    "Tassā nantarameva paṭisandhisaṇkhātaṃ mānasaṃ uppajjamānameva patiṭṭhā bhavantare".

    "Chính sự tuần tự không gián đoạn của tâm tử làm duyên cho tâm tái tục hiện hữu trong kiếp sống mới liền tức khắc ngay sát na sanh".

    Sự kiện như vậy, nên thường kiến hoặc đoạn kiến thường sanh lên trong tâm mà mình không biết. Sở dĩ như vậy, bởi vì nhóm người này vẫn còn thân kiến chấp thủ kiên cố trong danh sắc là thân ta.

    Thường kiến khởi lên do được đọc hoặc nghe về vấn đề tái sanh trong kiếp sống mới của chúng sanh. Bèn có quan niệm thân, tâm trong kiếp sống mới cũng chỉ là thân, tâm của đời sống trong kiếp sống cũ. Quan niệm này được gọi là thường kiến. Tức quan kiến cho rằng chúng sanh chết rồi nhưng danh sắc của chúng sanh đó vẫn sanh lên trong kiếp sống mới nối tiếp nhau vô gián.

    Còn đối với đoạn kiến được khởi lên do quan niệm rằng thân, tâm sanh lên trong kiếp sống mới không dính dấp với thân, tâm trong kiếp sống cũ mà chỉ nhờ vào cha mẹ sanh ra. Quan niệm này được gọi đoạn kiến, tức quan kiến cho rằng danh sắc trong kiếp sống mới không liên quan đến danh sắc trong kiếp sống cũ.

    Riêng đối với người không còn thân kiến như các bậc Thánh và người vẫn còn thân kiến nhưng hiểu biết được tiến trình diễn hoạt của danh sắc. Khi được đọc hoặc nghe vấn đề tái sanh trong kiếp sống mới của chúng sanh thì có quan niệm thuộc về chánh kiến là hiện thân của trí tuệ hiện khởi. Vì các vị ấy hiểu rằng danh sắc bên trong chúng sanh được tồn tại bởi mạng quyền. Nếu sanh lên trong nơi nào, sát na nào thì cũng diệt đi trong nơi đó, sát na đó. Không có trường hợp xê dịch chuyển đổi sanh lên trong nơi này mà diệt đi trong nơi khác được. Do đó, khi chúng sanh mệnh chung rồi thì danh sắc trong kiếp sống cũ diệt đi trong kiếp sống cũ không sanh lên nối tiếp liên quan đến kiếp sống mới được nữa. Cho dù danh sắc sanh lên trong kiếp sống mới không phải là danh sắc trong kiếp sống cũ sanh lên nối tiếp nhau. Nhưng sự sanh lên của danh sắc trong kiếp sống mới này cũng liên quan mật thiết từ kiếp sống cũ. Như trong đoạn Pāli trình bày rằng: "Avijānusayaparikkhittena taṇhānusayamūlakena saṇkhārena" "Thức tái tục sanh lên trong kiếp sống mới liên quan đến nhân trong kiếp sống cũ là vô minh, ái dục, hành". Do đó, khi so sánh thì sẽ thấy giống như tiếng dội, ngọn lửa đèn cầy mồi với nhau hoặc khuôn dấu mộc.

    Thích giải: Tiếng dội không phải là tiếng của người kêu gọi trực tiếp mà chỉ liên quan từ tiếng kêu gọi vang dội lại. Ngọn đèn cầy mồi với nhau thì ngọn lửa cũ không di chuyển qua ngọn lửa mới chỉ là sự chuyển tiếp liên quan từ ngọn lửa cũ. Khuôn dấu mộc cũng giống như vậy, tức chẳng phải khi đóng dấu xuống giấy mà khuôn dấu ấn dính vào nơi đóng dấu, mà dấu mộc ấy chỉ là sự chuyển tiếp liên quan từ khuôn dấu mà thôi.

    *

    Lời phản bác & điểm luận giải

    Như đã đề cập danh pháp sanh lên trong sát na nào thì diệt trong sát na đó. Vấn đề này nếu chỉ có danh pháp thì không có điều gì đáng thắc mắc vì danh pháp có thực tánh chỉ sanh lên riêng biệt trong đối tượng hữu thức. Mà đối tượng hữu thức thì chẳng phải là sắc pháp. Nhưng đối với sắc pháp thì vẫn còn hoài nghi chưa thể chấp nhận được. Bởi vì vẫn còn thấy được sắc pháp và cả hình ảnh lẫn âm thanh của mọi người lẫn đồ vật… vào xuất hiện trong tivi được.

    Thích giải: Cả 5 cảnh như cảnh sắc… của đối tượng hữu thức và vô thức mà xuất hiện trong tivi thường là cảnh thừa kế hiện bày lên tiếp nối từ cảnh gốc. Nhưng trong 5 cảnh này thì loại cảnh sắc có ánh sáng, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh xúc. Cả 4 cảnh này khi đã hiện bày thường có cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh xúc thừa kế hiện khởi tiếp nối từ cảnh đó chắc chắn. Riêng về cảnh sắc không có ánh sáng và cảnh vị thì khi có, khi không có cảnh thừa kế hiện khởi nối tiếp theo. Nhưng có điều cảnh thừa kế hiện khởi tiếp nối theo cảnh ban đầu có trạng thái rất vi tế hơn cảnh ban đầu hàng trăm lần. Vì vậy, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của người bình thường mới không có thể tiếp nhận được (cảnh thừa kế). Chỉ có mắt, tai, mũi, lưởi, thân của chư thiên bậc cao mới nhận được. Sau này việc lưu trử cảnh thừa kế bằng cách chụp hình, phóng đại ra cùng kết hợp một số kỹ thuật khoa học hiện đại vào cảnh đó nữa. Như ánh sáng của bầu trời… thì con người mới có thể tiếp nhận được cảnh thừa kế. Ngoài ra còn có thể truyền nó đi xa hơn cho nên ta mới thấy được hình… xuất hiện trên tivi. Nhưng đó không phải là cảnh gốc mà chỉ là cảnh thừa kế, còn cảnh gốc đó sanh lên nơi nào thì đã diệt đi nơi ấy rồi.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 7 - 8 - 9 TRÌNH BÀY CẢNH CỦA TÂM TÁI TỤC DỤC GIỚI

    Điều Pāli này trình bày đến cảnh của tâm tái tục dục giới đồng sanh với đổng lực cận tử. Riêng về nội dung của câu khác nữa trong điều Pāli này như sau:

    "Maraṇāsannavīthiyaṃ trong maraṇasannavīthi". Nói về lộ cận tử chẳng phải duy nhất một lộ sanh lên lúc cuối cùng (mệnh chung), bởi vì câu "Maraṇāsannavīthi" là lộ cận tử. Do đó, nếu nói về số lượng thì có hàng chục hàng trăm lộ, và các lộ tâm này cũng được gọi là lộ cận tử. Khi đã trình bày định nghĩa thì phải trình bày rằng: "Maraṇassa āsannaṃ: Maraṇāsannaṃ" "Gần mệnh chung gọi là cận tử".

    "Maraṇāsanne pavattāvīthi: Maraṇāsannavīthi, tissaṃ maranāsannavīthiyaṃ" "Tâm lộ sanh lên lúc cận tử gọi là lộ cận tử". Trong lộ cận tử đó thì từ "Tissaṃ maraṇāsannavīthiyaṃ" là chủ đề muốn nói trong lộ cận tử.

    "Mandappavattāni". Bởi vì đổng lực tâm sanh lên giảm sức mạnh xuống (trong lúc cận tử), có định nghĩa như sau:

    "Mandaṃ hutvā pavatti: Mandappavattaṃ". Sự sanh lên đã yếu sức mạnh gọi là mandappavatti (diễn tiến muội lược) tức tâm đổng lực (tāni mandappavattāni) sanh lên khi đã giảm sức mạnh xuống. Bởi vì lúc đó dòng tâm yếu đuối lẫn sắc ý vật là nơi nương sanh của tâm, sở hữu cũng yếu xuống theo. Sự việc mà dòng tâm yếu đuối cũng như sắc ý vật là nơi nương sanh của tâm, sở hữu cũng yếu đi. Nếu truy tìm nguồn gốc thì không cần phải tìm đâu cho xa mà tìm ngay nhân gần nhất, chính là lúc cận tử.

    Việc đề cập về dòng tâm yếu xuống không liên quan đến tuổi thọ (sanh, trụ, diệt) vì vấn đề này có thể hiểu rằng: Sanh, trụ, diệt của tâm, sở hữu trong lúc cận tử sanh diệt nhanh hơn khác với sanh, trụ, diệt trong lúc bình thường nên mới làm cho dòng tâm yếu xuống. Nếu hiểu như vậy thì sai, bởi vì thường nhiên tuổi thọ của tâm, sở hữu (sanh, trụ, diệt) cho dù cả 3 sát na này ở trong thời tái tục, thời bình nhật, thời tử cũng luôn giống nhau không nhanh, không chậm hơn nhau. Vì vậy, mà dòng tâm có tình trạng yếu xuống mới không liên quan đến tuổi thọ mà chỉ liên quan đến thời gian và sắc ý vật.

    - Liên quan đến thời gian: Lúc bình thường ngoài ra lúc cận tử, lúc sơ thời (atitaruṇakāla), lúc bất tỉnh (visaññibhūtakāla), lúc hôn mê (mucchākāla) thì sự sanh lên của dòng tâm lúc đó mạnh mẽ. Còn lúc cận tử… thì giống như sức nóng của mặt trời mọc lên vào lúc bình minh và lặn xuống vào lúc chiều tà.

    - Liên quan đến sắc ý vật: Như đứa bé nằm trong thai bào lúc chi thể chưa đầy đủ gọi là lúc sơ thời. Cũng như lúc cận tử hoặc có một nguyên nhân nào hoành hành tim như bệnh tim nặng hay tiêm thuốc mà ngất đi thì sắc ý vật lúc đó thường yếu xuống. Khi sắc ý vật yếu xuống như vậy thì tâm, sở hữu mà nương vào sắc ý vật cũng tháp tùng theo yếu xuống, giống như đoàn xe lửa đang chạy trên con đường rầy bị hỏng.

    Nguyên nhân sắc ý vật yếu xuống

    Trong lúc sơ thời (atitaruṇakāla) sắc ý vật yếu sức mạnh bởi vì lúc đó còn là ấu thơ. Ám chỉ đứa bé còn nằm trong thai bào mà các chi thể chưa được đầy đủ. Lúc đó cơ thể có trạng thái yếu đuối cho nên sắc ý vật mới yếu sức mạnh. Sắc ý vật yếu đi trong lúc bệnh tim nặng hoành hành hay bị bỏ thuốc mê bởi chính do sự hoành hành và thuốc mê làm nguyên nhân. Sắc ý vật yếu đi trong lúc cận tử bởi do chính lúc cận tử làm nguyên nhân. Ám chỉ thường nhiên sắc nghiệp hằng sanh lên trong mỗi sát na tâm. Nhưng lúc cận tử sẽ không đồng sanh trong mỗi sát na tâm cho đến lúc mệnh chung, vì phải đồng diệt cùng với tâm tử mà không phân biệt bất cứ người nào. Vì vậy, việc sanh lên của sắc nghiệp lúc cận tử còn lại thì ít nhưng diệt đi thì nhiều nên sắc ý vật mới yếu xuống.

    Khi sắc ý vật yếu xuống liên quan đến các nhân sai biệt như đã đề cập, thì tâm, sở hữu nương sanh vào sắc ý vật cũng tháp tùng theo mà yếu đi. Giống như người sau khi đã mổ mắt mà nhìn thì không thể thấy rõ. Bởi vì lúc đó các phân tử nhãn quan không sanh khởi đầy đủ (bọn nhãn thập sắc sanh lên không đầy đủ), khác với sự thấy của người có mắt bình thường.

    Mandappavattāni lā Hetumantavisesanapada.

    Từ "mandappavattāni" có 2 nghĩa, là định tính (visesana) và nhân tố (hetu).

    Mandappavattāni (hiện trạng muội lược) yếu sức mạnh. Câu dịch này là trình bày theo ý nghĩa hình dung (visesattha).

    Mandappavattāni vì có sức mạnh giảm xuống. Câu dịch này là trình bày theo ý nghĩa yếu tố (hetavattha).

    Khi nói đến sự liên hệ thì mandappavattāni dịch là hình dung từ (visesattha), gom vào với đổng lực (javanāni) thì trở thành chỉ thị tính từ và định tính (visesana-visesaya) dịch theo nghĩa yếu tố (hetavattha), gom vào với paṭikaṇkhitabbāni theo nhân quả.

    Sự việc dịch như vậy bởi vì từ "hiện trạng muội lược" (mandappavattāni) này là câu chỉ định có nhân tố (hetumantavisesanapada) là câu đặc biệt có nhân bên trong nên mới dịch thành 2 lý.

    Lại nữa, "hetumantavisesanapada" này cũng hiện hữu dù trong câu nói của mọi người. Như thầy giáo nói với cậu bé Vīra: "Hãy đem cái ghế to kia lại đây". Cậu bé đáp: "Em bê không nổi". Nếu thầy giáo hỏi rằng: "Tại sao bê không nổi?". Cậu bé đáp rằng: "Cái ghế to quá, còn em thì nhỏ".

    Trong câu nói của thầy giáo thì "cậu bé" là định tính (visesana) của Vīra, "to" là định tính (visesana) của cái ghế. Còn trong câu nói của cậu bé thì từ "to" cũng như "nhỏ" dẫn đến đáp án "không nổi" là nhân quả.

    "Pañceva javanāni paṭikankhitabbāni" "Đổng lực chỉ sanh lên 5 sát na mà thôi". Đổng lực chỉ sanh lên 5 sát na vì là lúc cận tử, ám chỉ thuần nhất đổng lực dục giới, còn đổng lực kiên cố thì không liên quan.

    Thông thường đổng lực mà hoàn thành việc cho quả từ hành động, lời nói, tư duy được thường phải sanh khởi 7 sát na. Đôi khi ngoại trừ bậc có trí tuệ ba la mật chỉ sanh khởi 6 sát na đổng lực thì việc làm cũng hoàn thành được. Riêng đối với bậc Chánh Đẳng Giác và bậc Thượng Thủ Thinh Văn thì chỉ sanh lên 4 hay 5 sát na đổng lực thì việc làm cũng hoàn thành được. Đề cập như vậy, không phải nói bao quát mọi việc mà chỉ nói riêng biệt đến việc làm đặc thù phải có niệm tuệ làm trọng yếu mà thôi. Điều này ám chỉ việc làm được thành tựu từ 6 sát na đổng lực bất thiện, có niệm tuệ làm duyên hỗ trợ cho 6 sát na đổng lực thiện, 4 - 5 sát na đổng lực đại tố có niệm tuệ làm trọng yếu. Do đó, đối với người lúc cận tử mà đổng lực chỉ sanh lên 5 sát na thì đừng nói chi đến sự chuyển động bằng thân, ngữ mà ngay cả ý suy nghĩ cũng không có, tức hoàn toàn mất cảm giác.

    "Tasmā yadi paccuppannārammaṇesu āpātamāgatesu dharantesveva maraṇaṃ hoti".

    "Do vậy, nếu mệnh chung trong khi cảnh hiện tại xuất hiện trước mặt vẫn còn tồn tại".

    Nội dung phần này có sự ước đoán về vấn đề sự chết để cho hiểu đến cảnh của tâm tái tục và tâm hộ kiếp sanh khởi nối tiếp nhau. Đề cập rằng cảnh hiện tại xuất hiện trước mặt vẫn còn tồn tại. Lời đề cập này ám chỉ cảnh sắc pháp gồm có sắc, thinh, khí, vị, xúc mà không ám chỉ đến cảnh danh pháp như sự hân hoan, ưu buồn, đức tin, hiểu biết… Vì cảnh danh pháp hiện tại thuộc bên ngoài. Tức sự hân hoan, ưu buồn, đức tin, hiểu biết… sanh khởi bên trong của người khác. Cho dù sẽ làm cảnh cho đổng lực cận tử được nhưng cũng không thể tồn tại cho đến khi tâm tử diệt mất. Còn đối với cảnh pháp hiện tại sanh lên trong cơ tánh của mình cũng không thể là cảnh của đổng lực cận tử được mà chỉ là danh pháp quá khứ mà thôi.

    Lại nữa, chỉ được riêng biệt cảnh sắc pháp hiện tại bởi vì liên quan từ tuổi thọ của cảnh sắc pháp dài hơn cảnh danh pháp. Tức trong khoảng thời gian tâm, sở hữu sanh, trụ, diệt theo tuần tự cho đến đủ 17 sát na thì trong khoảng thời gian đó bằng với sanh, trụ, diệt của mỗi sắc pháp. Vì vậy:

    * Nếu là cảnh rất lớn (atimahantārammaṇa) thì lộ tâm có na cảnh và tâm tái tục có cảnh hiện tại bằng chừng đó. Nếu không có na cảnh thì tâm tái tục cùng với 2 tâm hộ kiếp nữa có cảnh hiện tại.

    - Nếu là cảnh lớn (mahantārammaṇa) thì tâm tái tục với tâm hộ kiếp thứ 1 chỉ chừng ấy có cảnh hiện tại.

    - Còn lộ ý môn cận tử cảnh rất rõ (ativibhūtārammaṇa) thì tâm lộ có na cảnh và tâm tái tục nhiều lắm là 4 tâm hộ kiếp có cảnh hiện tại. Nếu không có na cảnh thì tâm tái tục và nhiều lắm là 6 tâm hộ kiếp có cảnh hiện tại.

    - Nếu là cảnh rõ (vibhūtārammaṇa) thì tâm tái tục và nhiều lắm là 6 tâm hộ kiếp có cảnh hiện tại giống như vậy.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày tiếp theo rằng: "Tadā paṭisandhibhavaṇgānampi paccuppannārammaṇatā labhāti" " Vào thời điểm đó ngay cả cảnh của tâm tái tục và tâm hộ kiếp sanh lên nối tiếp nhau (nhiều lắm là 6 sát na) cũng bắt cảnh hiện tại giống nhau".

    Còn đối với tâm hộ kiếp sanh lên suốt trong kiếp sống mới ngoài 6 tâm hộ kiếp cùng với tâm tử sanh lên lần cuối cùng trong kiếp sống mới đều có cảnh quá khứ mà không có cảnh hiện tại được.

    "Iti katvā kāmāvacarapaṭisandhiyā"... cho ḍến "Tāni pana sabbānipi parittadhammabhūtānevārammaṇāni".

    Cả 2 đoạn Pāli này trình bày tóm tắc ý nghĩa trong nội dung chính của Pāli rằng: "Maraṇāsannavīthiyaṃ panettha"... cho đến "Paccuppannārammaṇatā labbhati" Đối với câu Pāli trong đoạn này dịch như sau: "Vì vậy, nên cảnh nghiệp tướng và cảnh thú tướng của tâm tái tục dục giới mà đổng lực cận tử bắt lấy qua 6 môn là cảnh hiện tại hay là cảnh vị lai cũng được. Riêng đối với cảnh nghiệp của tâm tái tục dục giới thì phải thuần nhất là cảnh quá khứ và phải bắt lấy từ đổng lực cận tử ý môn. Nếu nói theo Pháp thì cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng của các tâm dục giới này đều là cảnh pháp dục giới cả".

    Việc trình bày tóm tắt nội dung trong 2 đoạn Pāli này rằng:

    Trong cả 3 ấn tướng (nimitta) là cảnh của tâm tái tục dục giới thì cả 2 nghiệp tướng và thú tướng. Nếu nói theo cảnh, môn, thời thì được cả 6 cảnh, 6 môn, 2 thời là thời hiện tại và quá khứ mà không có thời vị lai và ngoại thời. Nghĩa là nếu nghiệp tướng hoặc thú tướng là một loại nào trong 5 cảnh của đổng lực thì bắt lấy một loại nào trong 5 môn và ý môn. Còn đối với thời nếu còn tồn tại cho đến khi tâm tử diệt đi thì thuộc cảnh hiện tại. Nếu diệt trước tâm tử hoặc đồng diệt với tâm tử thì thuộc cảnh quá khứ. Nếu là cảnh pháp thì chỉ thuần nhất bắt lấy bằng ý môn, còn thời thì thuộc thời hiện tại hay thời quá khứ .

    Cảnh sắc pháp nghiệp tướng, thú tướng ám chỉ lấy nước, sắc thanh triệt, sắc tánh, sắc ý vật, sắc mạng quyền, sắc vật thực một loại nào thuộc nội phần, ngoại phần. Như người tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ hoặc Minh Quán nghiệp xứ hay Phạm Thiên sẽ sanh xuống cõi dục giới (lúc cận tử) quán xét chi thể lớn nhỏ hay cả tứ đại, thì cảnh pháp nghiệp tướng sanh lên. Còn đối với người sẽ sanh vào khổ cảnh thì suy nghĩ đến các chi thể lớn nhỏ của mình và của người khác do tham, sân thì cảnh pháp nghiệp tướng sanh lên.

    Còn cảnh sắc pháp thú tướng của người cận tử mà suy nghĩ đến chi thể lớn nhỏ hoặc cả tứ đại của đối tượng hữu thức là thú tướng đang xuất hiện trước mặt. Thì nếu các cảnh sắc pháp này còn tồn tại cho đến khi tâm tử diệt đi thì tâm tái tục dục giới cũng có cảnh pháp hiện tại làm cảnh. Nếu diệt trước tâm tử hoặc đồng diệt với tâm tử thì tâm tái tục dục giới có cảnh pháp quá khứ làm cảnh.

    Danh pháp nghiệp tướng và thú tướng là một loại nào về khổ, lạc, hỷ, ưu, khờ khạo, thông minh, tin tưởng, hoài nghi. Như người lúc cận tử mà có danh pháp nghiệp tướng xuất hiện thì trong lúc đó cũng có sự bận tâm lo âu một loại nào về vấn đề khổ lạc… thì mệnh chung. Còn danh pháp thú tướng thì người lúc cận tử suy nghĩ đến sự khổ, lạc… liên quan đến mình và người khác mà có hiện trạng trở thành thú tướng vào xuất hiện trước mặt rồi mệnh chung thì tâm tái tục dục giới của hạng người này có danh pháp nghiệp tướng thuần nhất quá khứ làm cảnh.

    Trường hợp khác nữa, trong lúc cận tử mà 6 cảnh liên quan đến đời sống trong kiếp trước vẫn xuất hiện được nữa giống như vậy. Nếu các cảnh này vào hiện bày thì tâm tái tục dục giới có nghiệp tướng làm cảnh.

    Còn đối với cảnh nghiệp thuộc tư thiện, bất thiện đã từng sanh trong cơ tánh của người sắp mệnh chung trong kiếp này hoặc kiếp trước. Nếu các tư thiện, bất thiện này xuất hiện trong lúc cận tử thì thuộc cảnh pháp hiện khởi trong tâm và chỉ thuần nhất là quá khứ mà không có loại nào khác, giống như nghiệp tướng và thú tướng.

    Lại nữa, trong Thắng Pháp Tập Yếu Luận đề cập rằng:

    "Tāni pana sabbānipī parittādhammabhūtānevarammaṇāni". Ám chỉ cảnh của tâm tái tục dục giới như đã trình bày trên, bất cứ là loại ấn tướng (nimitta) nào cũng phải là pháp dục giới cả. Tức sắc, thinh, khí, vị, xúc và thực tánh pháp thuộc pháp dục giới. Còn lộ tâm sanh lên trước lúc cận tử có 7 sát na đổng lực thì được cả pháp dục giới lẫn pháp chế định (paññattidhamma). Nhưng dù thế nào đi nữa, chỉ riêng biệt cảnh nghiệp tướng và cảnh thú tướng mà thôi. Còn đối với pháp dục giới của cảnh nghiệp thì hiện bày rõ ràng nên không có điều chi đáng ngờ vực là thuộc pháp chế định hay pháp đáo đại.

    Theo nội dung đã trình bày trên chỉ dẫn cho hiểu được rằng: Lộ cận tử và chỉ số ít lộ tâm sanh lên trước lộ cận tử có 5 sát na đổng lực thuộc danh, sắc dục giới mà người sẽ sanh vào các cõi dục giới này thuần nhất có pháp dục giới làm cảnh mà không là pháp chế định.

    Lại nữa, nội dung chính liên quan đến cảnh của tâm tái tục dục giới cũng như cảnh của lộ cận tử và số ít tâm lộ sanh lên trước lộ cận tử thuần nhất thuộc dục giới cũng chứng minh hoàn tất điều Pāli: "Tāni pana sabbānipi..."

    Chính điều giống nhau đó giải thích cho hiểu được cảnh trực tiếp và gián tiếp. Nghĩa là:

    - Cảnh của tâm tái tục dục giới thuần nhất là pháp dục giới cho hiểu được là trực tiếp.

    - Cảnh của lộ cận tử và số ít lộ tâm sanh lên trước lộ cận tử cho hiểu được là gián tiếp.

    Bởi vì, thông thường tâm tái tục dục giới bắt lấy cảnh từ đổng lực cận tử trong kiếp trước lúc cận tử.

    *

    LUẬN GIẢI NGHIỆP TƯỚNG HIỆN TẠI LÀ THẬT HOẶC GIẢ

    Về ý nghĩa đã được hiểu với nhau rằng: Đổng lực cận tử và tâm tái tục dục giới đôi khi có nghiệp tướng quá khứ, đôi khi có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh. Trong 2 trường hợp này, nếu đổng lực cận tử và tâm tái tục dục giới có nghiệp tướng quá khứ làm cảnh thì không cần phải xem xét lại vì chỉ thuần nhất là thật. Nhưng nếu có cảnh nghiệp tướng hiện tại làm cảnh thì phải xem xét lại. Gọi nghiệp tuớng hiện tại là thật hay giả bởi vì từ "kammanimitta" nghĩa là cảnh nghiệp mà người làm cho tâm tái tục sanh lên tức thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh lên trước lúc cận tử hoặc nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Còn đối với thiện nghiệp, bất thiện nghiệp trong đổng lực cận tử thì không thể làm cho tâm tái tục sanh lên được. Cho nên việc đề cập rằng tâm tái dục giới và nhiều nhất 6 sát na tâm hộ kiếp có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh mới thuần nhất là giả. Tức cảnh nghiệp tướng thật đã diệt rồi, mà chỉ còn lại cảnh cùng loại với cảnh nghiệp tướng thật còn tồn tại mà thôi. Vì vậy, đổng lực cận tử, tâm tái tục và tâm hộ kiếp mới có cảnh hiện tại. Và chính cảnh này được gọi là nghiệp tướng hiện tại diễn tiến ở khía cạnh thừa kế hiện tại tồn tại bằng sự tiếp nối (santatipaccupanna) mà không diễn tiến ở khía cạnh sát na hiện tại (khaṇapaccupanna). Như sẽ trình bày cho hiểu được sau đây:

    Người có đức tin về sự chết rồi tái sanh cùng hiểu được phương pháp giúp cho người sắp mệnh chung không rơi vào khổ cảnh. Khi biết được bệnh nhân không còn hy vọng sống sót nên mới sắp đặt lễ vật cúng dường đặt ngay trước mặt và chỉ bảo cho người bệnh hướng tâm đến, rồi hướng dẫn tác bạch cúng dường Tam Bảo. Người bệnh cũng hướng tâm cúng dường đến Tam Bảo do họ chỉ dẫn, rồi chấp tay lên hướng đến đảnh lễ Tam Bảo cùng với các lễ vật cúng dường đó bằng cách cung kỉnh tịnh tín vài phút. Lúc hướng tâm chấp tay lên đảnh lễ cúng dường với các lễ vật bằng thiện tâm, gọi là thiện làm cho khởi sanh lần đầu rồi sanh lên nối tiếp nhau (kataupacitakusala). Xong rồi thì hoan hỷ đối với việc làm đó tthì dòng tâm của mình diễn tiến như người có niềm tin về tội phước. Thiện sanh khởi do sự đảnh lễ cúng dường Tam Bảo bằng chính bông hoa, nhang, đèn là thiện có năng lực sắp đặt cho tâm tái tục của người mệnh chung sanh lên trong kiếp sống mới. Vì thiện pháp này hiện diện trong vai trò nghiệp cận tử. Còn bông hoa, nhang, đèn mà lộ nhãn môn, lộ tỷ môn, lộ ý môn của người mệnh chung bắt lấy trong lúc cúng dường là nghiệp tướng hiện tại thật. Sau đó, tình trạng bệnh càng trầm trọng thêm thì sự cảm giác… trong thân theo tuần tự cũng yếu dần. Nhưng mắt, mũi, tâm vẫn còn bắt cảnh bông hoa, nhang, đèn vẫn như hiện hữu trước mặt. Tuần tự tâm lộ cận tử cũng sanh lên bắt cảnh bông hoa, nhang, đèn rồi mệnh chung. Thì tâm tái tục trong kiếp sống mới cũng bắt lấy tiếp nối cảnh sắc hiện tại hoặc cảnh khí hiện tại mà đổng lực cận tử bắt lấy. Chính cảnh sắc hoặc cảnh khí này là nghiệp tướng hiện tại giả tức hiện tại của cảnh thật nhưng gọi nghiệp tướng đó là giả. Đây là gọi theo cách tương tự (sadisùpàcàranaya) là gọi nương theo sự diễn tiến giống nhau với nghiệp tướng thật.

    Nếu người cận tử được thính Pháp, đọc Kinh hoặc quán sự căng thẳng, nóng bức đang hoành hành trong thân của mình hay quán chi thể lớn nhỏ trong thân thể cử động… suy yếu rã rời bằng vô thường, khổ, vô ngã. Từ đó đổng lực cận tử, tâm tái tục và tâm hộ kiếp cũng bắt lấy cảnh thinh hiện tại là tiếng thuyết Pháp, tiếng đọc Kinh; cảnh xúc hiện tại là sự căng thẳng, nóng bức; cảnh pháp hiện tại là chi thể lớn nhỏ cử động… mà diễn tiến tùy theo cảnh… Các cảnh này chỉ diễn tiến tương tự giống nhau.

    Còn sự diễn tiến của bất thiện cận tử nghiệp và nghiệp tướng hiện tại như sau:

    Người đang vui thú thỏa thích bởi sự nhìn, sự nghe, sự chơi bời thụ hưởng, trong lúc đó một tai nạn nào xảy đến thì mệnh chung. Hoặc người đang ấu đả, đâm chém, bắn nhau cho đến chết.

    Sự vui thú thỏa thích cũng như phẩn nộ, các việc này đều là nghiệp cận tử tạo cho người đó sanh vào kiếp thứ 2. Còn đối với 6 cảnh, như màu da của người, trú xứ, đồ trang sức, vật dụng, ca hát, tiếng nhạc, mùi sai biệt, vị ngon ngọt, sự lạnh nóng và cử chỉ thái độ trong lúc đang vui thú thỏa thích đó cũng như người đang ấu đả nhau bằng cây, dao, súng, tiếng cãi vã, chửi thề thách thức… và hành vi đấm đá. Các việc này là cảnh nghiệp tướng thật mà đổng lực cận tử sanh lên bắt lấy một loại nào trong 6 cảnh thì tâm tái tục, hộ kiếp trong kiếp sống mới cũng bắt lấy một loại nào trong 6 cảnh tiếp nối từ đổng lực cận tử. Vì vậy, mới nói rằng tâm tái tục, hộ kiếp có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh, cảnh hiện tại đó là thật nhưng gọi là nghiệp tướng giả.

    *

    TÂM TÁI TỤC - HỘ KIẾP CÓ NGHIỆP TƯỚNG HIỆN TẠI LÀM CẢNH THUẦN NHẤT NƯƠNG TỪ NGHIỆP CẬN TỬ

    Như đã đề cập, sự kiện mà 6 môn của đổng lực cận tử có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh cũng như tâm tái tục trong kiếp sống mới và nhiều nhất 6 tâm hộ kiếp có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh. Các pháp này thuần nhất nương từ thiện, bất thiện cận tử nghiệp nào mà không liên quan đến trọng nghiệp, thường nghiệp, khinh tác nghiệp. Nghĩa là tâm tái tục sanh lên trong kiếp sống mới nếu là quả của thiện, bất thiện cận tử nghiệp thì có cảnh nghiệp tướng hiện tại làm cảnh. Nhưng nếu là một loại nào quả của trọng nghiệp, thường nghiệp, khinh tác nghiệp thì tâm tái tục sẽ không có nghiệp tướng hiện tại làm cảnh. Còn đối với tâm tái tục trong kiếp sống mới có nghiệp tướng quá khứ làm cảnh thì tâm tái tục là quả của cả 4 nghiệp được.

    Như Ngài trưởng lão giáo thọ sư Ānanda trình bày trong bộ Phân Tích về thập nhị duyên khởi (paṭiccasamupādavibhaṇga) của mūlaṭīkā rằng:

    "Pañcadvāre ca āpātama āgacchantaṃ paccupannakammanimittaṃ āsannakammārammaṇasantatiyaṃ uppannaṃ taṃsadisaṃ ca diṭṭhabbaṃ".

    "Nên hiểu nghiệp tướng hiện tại xuất hiện ngay trước mặt trong 5 môn mà diễn tiến tiếp nối của cảnh nghiệp đã hành động gần kề trong lộ cận tử thì sự tiếp nối cảnh của nghiệp cận tử diễn tiến giống với nghiệp tướng thật".

    Ghi chú: Trong nơi đây mặc dù Ngài giáo thọ sư Mùlaṭìkà chỉ trình bày đến sự diễn tiến trong 5 môn. Nhưng các vị giáo thọ sư khác đã đồng nhất với nhau và cho rằng cũng diễn tiến trong lộ ý môn được nữa. Ngài giáo thọ sư Mùlatikà chỉ đề cập đến ngũ môn vì sự diễn tiến của nghiệp tướng ngũ môn hiện tại thường nhận thức được rõ ràng hơn ý môn.

    *

    TƯ TRONG ĐỔNG LỰC CẬN TỬ 6 MÔN KHÔNG TRỞ THÀNH SANH NGHIỆP ĐƯỢC

    Thiện, bất thiện làm cho thành tựu sanh nghiệp tức làm cho tái sanh thành chúng sanh khổ cảnh, nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên cho đến chi thể lớn nhỏ, sự thấy, sự nghe được rõ hay không rõ… Đức Phật Ngài thuyết đến nhân của nhóm thiện nghiệp, bất thiện nghiệp này rằng: "Katattā upacittā" thường dịch là: "Bởi vì hành động thiện, bất thiện làm cho sanh khởi và tăng trưởng. Tức thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh khởi nối tiếp nhau". Ám chỉ thiện, bất thiện sanh lên lần đầu gọi là thiện, bất thiện tiền nghiệp (katakamma). Thiện, bất thiện sanh lên nối tiếp nhau gọi là thiện, bất thiện hậu nghiệp (upacitakamma). Thông thường thiện, bất thiện thuộc tiền nghiệp (ngoại trừ nghiệp đáo đại) không đủ sức mạnh cho quả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật được. Mà chỉ có thiện, bất thiện trở thành hậu nghiệp mới đủ sức mạnh cho quả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Nếu có sự hoan hỷ thỏa thích nhiều hình thành bởi ái dục sanh lên trước thiện, bất thiện tiền nghiệp. Thì chắc chắn thiện, bất thiện hậu nghiệp sẽ có mãnh lực hơn và nhất định sẽ cho quả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật.

    Còn đối với tư thiện, bất thiện trong đổng lực cận tử 6 môn tuy là tiền nghiệp sanh lên thật, nhưng không trở thành hậu nghiệp được vì thiếu cảnh của ái dục. Tức không khởi lên sự hoan hỷ thỏa thích trước thiện, bất thiện nghiệp. Sự kiện như vậy, bởi vì khi lộ cận tử chấm dứt thì tâm tử cũng sanh lên. Cho nên tư thiện, bất thiện trong đổng lực cận tử 6 môn không thể là sanh nghiệp được.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 10 NHƯ "RŪPAVACARAPAṬISANDHIYĀ PANA"… MÀ TRÌNH BÀY ĐẾN CẢNH CỦA TÂM TÁI TỤC SẮC GIỚI

    Tâm tái tục sắc giới hiện hữu có 6 loại là 5 danh tái tục tức 5 tâm quả sắc giới, sở hữu hợp và 1 sắc tái tục (bọn mạng quyền cửu sắc). Tâm tái tục sắc giới trong nơi đây ám chỉ riêng biệt 5 danh tái tục mà thôi. Năm tâm tái tục sắc giới thường sanh vào 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng) trong thời tái tục, và là quả của 5 tâm thiện sắc giới (trừ thông thiện). Vì vậy, 5 tâm tái tục sắc giới nếu có một loại ấn tướng (nimitta) nào làm cảnh thì cũng phải tùy thuộc theo 5 tâm thiện sắc giới (trừ thông thiện).

    Việc cho quả của 5 tâm thiện thiền sắc giới khác với việc cho quả của bất thiện nghiệp và đại thiện nghiệp. Nói về sự tái tục thì bất thiện nghiệp cho quả sanh vào khổ cảnh, đại thiện nghiệp cho quả sanh vào cõi vui dục giới. Nhưng lại không cho quả chắc chắn và ấn định cảnh theo thứ bậc giống như 5 tâm thiện thiền sắc giới. Cho nên tâm tái tục dục giới mới có thú tướng làm cảnh.

    Lại nữa, sự kiện mà 5 tâm thiện thiền sắc giới cho quả tái tục nhất định trong cõi sắc giới theo trình tự thứ bậc. Bởi vì 5 tâm thiện thiền sắc giới này là trọng nghiệp có kiên cố định làm trưởng luôn cả cảnh trợ sanh cũng phải là cảnh đặc biệt tức nghiệp xứ chế định (paññattikammaṭṭhāna). Trái ngược với sự sanh lên của bất thiện nghiệp và đại thiện nghiệp có cảnh không giới hạn tùy theo không khéo tác ý (ayoniso) hoặc khéo tác ý (yoniso).

    Cho nên người không đắc thiền vào lúc cận tử thì bất thiện nghiệp và đại thiện nghiệp đã từng tạo khi trước luôn hiện rõ ràng trong tâm làm cho dòng tâm nhiệt não, sầu muộn, mê muội hoặc trong sáng tươi tỉnh.

    Đối với người đắc thiền vào lúc cận tử thì bất thiện nghiệp và đại thiện nghiệp đã từng tạo khi trước không thể hiện khởi trong tâm được. Chỉ có nghiệp xứ chế định mà mình đã tu tiến xuất hiện mà thôi. Và nghiệp xứ chế định này cũng không phải là cảnh nghiệp mà chỉ thuần nhất là cảnh pháp nghiệp tướng (kammanimittadhammārammaṇa). Cho nên 5 tâm tái tục sắc giới mới không có nghiệp làm cảnh mà chỉ có nghiệp tướng thuần nhất là cảnh pháp chế định.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Paññattibhūtaṃ kammanimittamevārammaṇaṃ hoti" "Thuần nhất có nghiệp tướng chế định". Nghiệp tướng chế định này gồm có 10 đề mục biến xứ (kasiṇapaññatti), 10 đề mục bất tịnh (asubhapaññatti), 1 đề mục thể trược (koṭṭhāsapaññatti), 4 đề mục vô lượng tâm (sattavapaññatti), tổng cộng 26 đề mục. Đề mục chế định này làm cảnh cho 5 tâm tái tục sắc giới được phải tùy thuộc theo 5 tâm thiện thiền sắc giới.

    Như đã trình bày trên cũng có thể hiểu được rằng lộ cận tử của nhân loại, chư thiên sẽ sanh vào cõi sắc giới và lộ cận tử của Phạm Thiên sẽ tái sanh vào cõi sắc giới nữa. Các lộ này không có nhiều loại tướng cảnh được chỉ thuần nhất có một loại nghiệp tướng thuộc cảnh pháp chế định nhất định, còn thời cũng hiển lộ rõ ràng thuộc ngoại thời. Ngược lại lộ cận tử của người dục giới sẽ tái sanh lại vào cõi dục giới và lộ cận tử của Phạm Thiên sắc giới sẽ tái sanh vào cõi dục giới thì tướng cảnh không không giới hạn.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 11 NHƯ "TATHĀ ARŪPAPAṬISANDHIYĀ CA"… TRÌNH BÀY ĐẾN CẢNH CỦA TÂM TÁI TỤC VÔ SẮC GIỚI

    Tâm tái tục vô sắc giới hiện hữu có 4 loại, tức 4 tâm quả vô sắc giới. Từ "tathā" trong nơi đây dịch là "giống nhau" là bất biến từ thuộc loại so sánh làm cho sáng tỏ, tức từ trình bày đến sự giống nhau. Ám chỉ rằng không phải riêng biệt tâm tái tục sắc giới có nghiệp tướng làm cảnh mà ngay cả tâm tái tục vô sắc giới cũng có nghiệp tướng làm cảnh được. Và tâm tái tục sắc giới cùng với tâm tái tục vô sắc giới đều không có nghiệp làm cảnh hay thú tướng làm cảnh được. Việc phân định đến nhân diễn tiến như vậy, cũng giống như việc phân định về cảnh của tâm tái tục sắc giới.

    Nghiệp tướng của tâm tái tục vô sắc giới có 2 loại:

    - Nghiệp tướng đáo đại gồm có tâm thiện thiền thức vô biên xứ và tâm thiện thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ đã từng sanh trong cơ tánh của mình trong kiếp trước.

    - Nghiệp tướng chế định gồm có hư không chế định do nương từ 9 đề mục biến xứ (kasiṇa) ngoài đề mục hư không ra, và vô hữu chế định (natthibhavapaññatti). Tức không có thiền không vô biên xứ làm cảnh cho thiền thức vô biên xứ.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Mahaggatabhūtaṃ paññattibhūtañca".

    Từ "Yathàrahaṃ" nghĩa là theo tương ứng với thiền. Như đã trình bày 4 tâm tái tục vô sắc có nghiệp tướng đáo đại và chế định làm cảnh. Nhưng chẳng phải 4 tâm tái tục vô sắc này đôi khi có pháp đáo đại làm cảnh trợ sanh lên. Đôi khi có pháp chế định làm cảnh trợ sanh lên mà chỉ nhắm đến sự diễn tiến khác nhau theo lãnh vực riêng biệt của mình. Tức tâm quả không vô biên xứ có hư không chế định làm cảnh trợ sanh lên, tâm quả thức vô biên xứ có tâm thiện thiền không vô biên xứ làm cảnh trợ sanh lên, tâm quả vô sở hữu xứ có đề mục vô hữu chế định (natthibhavapaññatti) làm cảnh trợ sanh lên, tâm quả phi tưởng phi phi tưởng xứ có tâm thiện thiền vô sở hữu xứ làm cảnh trợ sanh lên.

    Vì vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Yathārahaṃ" "Theo tương ứng với thiền".

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 13 NHƯ "ASAÑÑATĀNAṂ PANA"… TRÌNH BÀY ĐẾN TÂM TÁI TỤC CỦA NHÓM PHẠM THIÊN VÔ TƯỞNG

    Người đắc ngũ thiền bằng sự tu tiến 10 đề mục biến xứ, hay đề mục nhập xuất tức niệm hoặc đề mục xã vô lượng tâm (upekkhābrahmavihāra). Nếu nội tâm của người tu tiến đó không hoan hỷ hài lòng về tư duy nhận thức (danh pháp) thì gọi thiền này là ngũ thiền thành tựu do năng lực tu tiến ly ái tưởng (saññāvirāgabhāvanā). Vì vậy, khi thiền giả mệnh chung thì sanh lên cõi Vô Tưởng chỉ duy nhất có sắc tái tục là bọn mạng quyền cửu sắc mà không có danh tái tục.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Jūvitanavakameva paṭisandhibhāvena patiṭṭhāti".

    Lại nữa, trong lộ cận tử của người sẽ sanh vào cõi Vô Tưởng thì cảnh pháp nghiệp tướng chế định cũng xuất hiện. Nhưng đến khi sanh vào cõi Vô Tưởng rồi thì cảnh này cũng không còn xuất hiện vì không có danh tái tục.

    Câu: "Tasmā te rūpapaṭisandhikā nāma" cũng như "Āruppā arūpapaṭisandhikā"  "Sesā rūpārupapaṭisandhikā". Trong điều Pāli thứ 13 là trình bày phân tích tâm tái tục theo danh sắc. Tức Phạm Thiên Vô Tưởng có sắc pháp làm việc tái tục và nếu xếp theo uẩn thì duy nhất có sắc uẩn cho nên cõi Vô Tưởng mới gọi là cõi nhất uẩn. Còn Phạm Thiên Vô Sắc có danh pháp làm việc tái tục, nếu xếp theo uẩn thì được 4 danh uẩn cho nên cõi Vô Sắc mới gọi là cõi tứ uẩn. Người sanh trong 26 cõi ngoài ra có danh sắc làm việc tái tục, nếu xếp theo uẩn thì được 5 uẩn cho nên 4 cõi khổ, 7 cõi vui dục giới, 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng) mới gọi là cõi ngũ uẩn.

    *

    THÍCH GIẢI ĐIỀU PĀLI THỨ 14 NHƯ "ĀRUPPACUTIYĀ HONTI"… TRÌNH BÀY ĐẾN TÂM TÁI TỤC SANH LÊN KẾ TIẾP SAU TÂM TỬ

    Kệ ngôn thứ 1 như: "Āruppacutiyā honti"... cho đến "Tathā kāmatihetukā". Chư Phạm Thiên vô sắc khi mệnh chung thì tái sanh làm Phạm Thiên vô sắc nữa cũng được. Nếu không như vậy, thì sanh làm nhân loại hoặc chư thiên tái tục bằng tâm tam nhân. Đây là đề cập theo quan điểm nhân sinh (puggalādhiṭṭhāna), còn theo lời dịch là đề cập theo quan điểm pháp nghĩa (dhammādhiṭṭhāna) như đã trình bày trên.

    Câu "Heṭṭhimāruppa vajjitā" trừ tâm tái tục vô sắc bậc thấp ra. Vì thông thường người sẽ sanh làm Phạm Thiên vô sắc phải nương vào ngũ thiền sắc giới làm nền tảng ban đầu. Nhưng khi đã sanh làm Phạm Thiên không vô biên xứ thì tất cả thiền sắc giới cùng với cảnh của thiền đó cũng hoại đi. Nếu muốn sanh làm Phạm Thiên thức vô biên xứ thì phải nương vào thiền không vô biên xứ làm nền tảng ban đầu. Khi đã sanh làm Phạm Thiên thức vô biên xứ thì thiền không vô biên xứ cùng cảnh của thiền đó cũng hoại đi. Diễn tiến như vậy hoài cho đến khi thành Phạm Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vì vậy, khi thiền bậc thấp đã không còn hiện hữu trong tâm thì không thể sanh vào cõi thấp hơn được.

    Như Phạm Thiên không vô biên xứ khi đã mệnh chung thì sanh làm Phạm Thiên không vô biên xứ nữa cũng được hoặc sanh làm Phạm Thiên ở 3 cõi cao hơn cũng được tùy theo thiền đang có. Nếu không có một loại thiền vô sắc nào thì phải sanh làm nhân loại hoặc chư thiên mà không sanh làm Phạm Thiên sắc giới được vì không có thiền sắc giới và cảnh của thiền sắc giới.

    Phạm Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ khi mệnh chung rồi thì sanh trở lại làm Phạm Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ nữa cũng được nếu thiền đó vẫn còn hiện hữu. Còn nếu như thiền đó không còn thì phải sanh xuống làm nhân loại hoặc chư thiên chớ không sanh làm phạm Thiên vô sắc bậc thấp được vì không có thiền vô sắc và cảnh của thiền vô sắc bậc thấp.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Heṭṭhimāruppa vajjitā".

    Lại nữa, đề cập rằng: "Kāmatihetukā honti" "Thường 4 tâm tái tục dục giới tam nhân sanh lên". Nghĩa là nếu sanh vào cõi vui dục giới thì sẽ không sanh làm người vô nhân hoặc nhị nhân được chỉ duy nhất sanh làm người tam nhân mà thôi. Bởi vì đại thiện cận định (upacārabhāvanāmahākusala) sanh lên trước tâm thiền vô sắc là đại thiện tam nhân bậc thượng (tihetukaukkaṭṭhamahākusala). Trong cơ tánh của người đó không có đại thiện nào khác sanh lên trước thiền vô sắc như tâm đại thiện tam nhân bậc thượng và cũng không có đại thiện nào khác thù thắng cao quí bằng đại thiện cận định.

    Do đó, Ngài A xà lê Ṭīka mới đề cập rằng:

    Uparūpariāruppā Na āyuhanti heṭṭhimaṃ

    Balittācupacārassa Tihetukāva yoniyo.

    Chư Phạm Thiên vô sắc sanh vào cõi cao thì không nổ lực tu tiến thiền bậc thấp (vì vậy mới không sanh vào cõi thấp), và tâm tái tục dục giới tam nhân thường sanh lên (không có tâm tái tục vô nhân và nhị nhân sanh lên) bởi vì đại thiện cận định có nhiều sức mạnh.

    Kệ ngôn thứ 2 như "Rūpāvacaracutiyā"...Trong phần ý chính có 3 đoạn:

    * Đoạn thứ 1 đề cập rằng: "Rūpāvacaracutiyā aheturahitā siyuṃ" Khi chư Phạm Thiên sắc giới mệnh chung rồi tái sanh trở lại cõi đó cũng được hoặc sẽ sanh vào cõi thấp hay cao hơn hoặc trong cõi vô sắc cũng được tùy theo thiền đang có. Nếu như không có thiền sắc giới hoặc thiền vô sắc giới thì sẽ sanh làm nhân loại hoặc chư thiên nhị nhân hay tam nhân. Nhưng không sanh vào địa ngục, bàng sanh hoặc người hay chư thiên tái tục bằng tâm vô nhân. Đây là đề cập theo quan điểm nhân sinh của lời dịch, còn theo quan điểm pháp nghĩa thì đã trình bày rồi.

    Sự kiện trừ tâm tái tục vô nhân ra vì thông thường chư Phạm Thiên sắc giới cho dù không đắc thiền sắc giới, thiền vô sắc giới đi nữa, thì cũng không có triền cái sanh lên mà chỉ có thiện thân nghiệp, ngữ nghiệp. Vì vậy, bất thiện nghiệp và thiện nghiệp trước kia sẽ không có cơ hội dẫn dắt tâm tái tục vô nhân cho quả được mà chỉ có thiện nghiệp tam nhân và nhị nhân bậc thượng trước kia và hiện tại có cơ hội cho quả tái tục tam nhân và nhị nhân.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Aheturahitā siyuṃ".

    Lại nữa, việc trình bày tâm tái tục sanh lên kế tiếp sau tâm tử sắc giới của Thắng Pháp Tập Yếu Luận này, không trình bày tâm tái tục sanh lên kế tiếp sau sự tử của Phạm Thiên Vô Tưởng. Vì Pháp Thiên Vô Tưởng chỉ có sắc pháp nên không thể có thiền chứng. Do đó, khi mệnh chung chắc chắn phải sanh xuống cõi dục giới. Như vậy, sự sanh lên của tâm tái tục trong cõi dục giới của Phạm Thiên Vô Tưởng chẳng khác gì Phạm Thiên hữu tưởng khác sanh vào cõi dục giới. Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới không dẫn chứng trình bày đến tâm tái tục sanh lên kế tiếp sau sự tử của Phạm Thiên Vô Tưởng. Vì sự tử của Phạm Thiên Vô Tưởng tức sự diệt lần cuối cùng của bọn sắc mạng quyền cũng chính là 8 tâm đại quả.

    Như đã trình bày chư Phạm Thiên sắc giới và Phạm Thiên vô sắc giới nếu không đắc thiền khi mệnh chung sẽ sanh vào cõi dục giới, ám chỉ riêng biệt Phạm Thiên phàm mà thôi. Còn đối với chư Thánh Phạm Thiên cho dù bậc Tu Đà Hườn cũng không sanh trở lại cõi dục giới vì chắc chắn phải đắc thiền được gọi là thiền chứng A Na Hàm. Và chư Thánh Phạm Thiên trong cõi sắc giới này khi đã sanh lên cõi cao thì không sanh xuống cõi sắc giới thấp hơn nữa. Bởi vì chư Thánh Phạm Thiên không bao giờ hoại thiền cao chỉ duy nhất đắc thiền cao tiếp tục. Đời sống của bậc Thánh trong cõi Phạm Thiên như đã đề cập trên, nên hiểu theo 2 kệ ngôn được trình bày như sau:

    1.Vehapphale akaniṭṭhe Bhavagge ca patiṭṭhitā

    Na punāññattha jāyanti Sabbe ariyapuggalā

    2. Na puna tattha jāyanti Sabbepi saddhavāsikā

    Brahmalokagatā heṭṭhā Ariyā nopapajjareti

    1 - Các bậc Thánh sanh vào 3 cõi tột đỉnh như: Cõi Quảng Quả, cõi Sắc Cứu Cánh, cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ thường không sanh vào cõi khác nữa.

    2 - Chư Phạm Thiên Ngũ Tịnh Cư cũng không sanh trở lại cõi của mình nương trú. Chư Thánh sanh vào cõi Phạm Thiên thì không sanh vào cõi thấp hơn.

    - Đoạn thứ 2 đề cập rằng: "Sabbākāmatihetumhā siyuṃ" này không trình bày theo quan điểm nhân sinh. Nghĩa là khi nhân loại, chư thiên tái tục bằng tâm tam nhân mệnh chung. Nếu đắc thiền thì sanh vào 20 cõi Phạm Thiên có danh tái tục, sắc tái tục từ thiền chứng và tùy thuộc vào phàm nhân hoặc Thánh nhân. Nếu không đắc thiền thì sẽ sanh vào 11 cõi dục giới trở thành chư thiên, nhân loại hoặc trở thành chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, bàng sanh bằng tâm tái tục tam nhân, nhị nhân hoặc vô nhân tùy theo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp mà mình đã tạo có cơ hội cho quả.

    Nói tóm lại là nhân loại, chư thiên có tâm tái tục tam nhân khi mệnh chung có thể sanh trong khắp các cõi không loại trừ cõi nào bằng tâm tái tục tương ứng theo cõi đó (được cả 20 cõi Phạm Thiên).

    Sự kiện như vậy, bởi vì hạng người này nếu tu tiến Minh Sát thì sẽ trở thành Thánh Nhân. Nếu tu tiến Chỉ Tịnh thì sẽ trở thành bậc đắc thiền, đắc thông. Nếu như chỉ tạo phước bố thí, trì giới, tu tiến bình thường thì sẽ trở thành nhân loại bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Còn tạo ác nghiệp thì sẽ trở thành chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, bàng sanh tùy theo khuynh hướng tâm dắt dẫn theo sở nguyện, dòng giống, chủng loại hoặc bị sự răn đe.

    - Đoạn thứ 3 đề cập rằng: "Kāmesveva panetarā siyuṃ" này trình bày theo quan điểm nhân sinh. Tức nhân loại chư thiên tái tục bằng tâm nhị nhân hoặc vô nhân hay chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, bàng sanh mà tái tục bằng tâm vô nhân, khi mệnh chung chỉ sanh lên riêng biệt trong 11 cõi dục giới. Và trở thành nhân loại, chư thiên bậc thượng, bậc trung, bậc hạ hoặc trở thành chúng sanh đọa xứ bằng tâm tái tục tam nhân, nhị nhân hoặc vô nhân tùy theo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp mà mình đã tạo có cơ hội cho quả.

    Sự kiện mà hạng người này chỉ sanh trong 11 cõi dục giới vì nhóm người này dù cho có là nhân loại, chư thiên có cơ hội được thực hành tu tiến Chỉ Tịnh, Minh Sát thật. Nhưng nhóm người này không thể tác chứng thành Thánh Nhân, bậc đắc thiền, đắc thông được mà chỉ là phàm nhân như ban đầu cho đến khi mệnh chung. Còn đối với chúng sanh khổ cảnh thì không đủ niệm tuệ để thực hành tu tiến Minh Sát, Chỉ Tịnh được. Do đó, khi mệnh chung chỉ sanh vào 11 cõi dục giới mà thôi.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới dùng từ "evaṃ" kết hợp vào từ "kāmesu" rồi trình bày rằng: "kāmesveva".

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 14 NHƯ "ICCEVAṂ GAHITAPAṬISANDHIKĀNAṂ PANA"… TRÌNH BÀY ĐẾN SỰ SANH LÊN CỦA TÂM HỘ KIẾP & TÂM TỬ TRONG GIỮA MỖI KIẾP SỐNG SAU TÂM TÁI TỤC

    Trong điều Pāli này điểm trọng yếu của nội dung được trình bày như sau: "Tamevārammaṇamārabbha tadevacittaṃ bhavaṇgasantatisaṇkhataṃ mānasaṃ (hutvā) pavattati cuticittam hutvā nirujjhati" " Chính tâm tái tục đó bắt lấy cảnh của tâm tái tục tái sanh trong kiếp sống mới, rồi trở lại thành tâm hộ kiếp và tâm tử rồi diệt đi".

    Từ "Tadevacittaṃ" tức Tam + Eva + Cittaṃ "Chính tâm tái tục đó" là từ mà Ngài giáo thọ sư Anuruddha đề cập theo cách tương tự (sadisūpacāranaya) nương vào sự diễn tiến giống nhau. Bởi vì tâm sanh lên kế tiếp sau khi tâm tái tục đã diệt thì tâm hộ kiếp luôn sanh lên tiếp nối nhau, 15 hoặc 16 sát na. Nhưng tâm hộ kiếp sanh lên nếu nói theo cõi, giống, tương ưng, thọ, trợ thì trong mọi trường hợp đều giống như tâm tái tục. Tức nếu tâm tái tục là dục giới thì tâm hộ kiếp cũng thuộc dục giới. Là dị thục quả hữu nhân hoặc vô nhân thì tâm hộ kiếp cũng thuộc dị thục quả hữu nhân hoặc vô nhân. Là tương ưng trí thì tâm hộ kiếp cũng thuộc tương ưng trí. Nếu câu sanh hỷ thọ hoặc xã thọ thì tâm hộ kiếp cũng câu sanh hỷ thọ hoặc xã thọ. Nếu là vô trợ thì tâm hộ kiếp cũng thuộc vô trợ.

    Do đó, trong sát na tâm hộ kiếp sanh lên thì cho dù tâm tâm tái tục đã diệt đi nhưng tâm hộ kiếp cũng diễn tiến giống như tâm tái tục trong mọi trường hợp.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Tadevacittaṃ" "Chính tâm (tái tục) đó". Nên hiểu theo điều so sánh như sau:

    " Hãy lấy thuốc bổ đã dùng ngày hôm qua đem lại đây".

    Điều này so sánh tương tự thuốc bổ đã dùng ngày hôm qua và thuốc bổ lấy đem lại thì cũng cùng một loại thuốc giống như nhau.

    Từ "Tamevārammaṇamārabbha" tức Taṃ + Eva + Ārammaṇaṃ + Ārabbha". Nếu tâm tái tục có thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp là cảnh thì tâm hộ kiếp đang hiện khởi suốt kiếp sống và tâm tử cũng có thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp làm cảnh. Nếu cảnh sắc hoặc cảnh thinh nghiệp tướng làm cảnh thì tâm hộ kiếp đang hiện khởi suốt kiếp sống và tâm tử cũng có cảnh sắc hoặc cảnh thinh nghiệp tướng làm cảnh. Nếu có cảnh sắc hoặc cảnh thinh thú tướng làm cảnh thì tâm hộ kiếp đang hiện khởi suốt kiếp sống và tâm tử cũng có cảnh sắc hoặc cảnh thinh thú tướng làm cảnh.

    Việc diễn tiến của tâm hộ kiếp cũng bắt cảnh giống như tâm tái tục kể từ tâm tái tục của người sanh vào kiếp sống mới diệt đi cho đến khi tâm tử sanh lên.

    Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Gahitapaṭisandhikānaṃ paṭisandhinirodhānantarato pabhuti yāva cuticittuppàdà" "Kể từ khi tâm tái tục trong kiếp sống mới diệt đi thì tâm bắt lấy cảnh của tâm tái tục đó sanh khởi vô gián suốt cho đến khi tâm tử sanh lên".

    Từ "Bhavaṇgasantatisaṇkhātaṃ mānasaṃ hutvā pavattati" "Sanh lên trở thành dòng tâm hộ kiếp". Tức sự sanh lên tiếp nối nhau của tâm quả dị thục và sắc nghiệp trong suốt mỗi kiếp sống. Đó chính là đầu mối hình thành trong mỗi kiếp tái sanh của tất cả chúng sanh.

    Do đó, khi tâm quả dị thục sanh lên hoàn chỉnh trở thành tâm tái tục trong mỗi kiếp sống rồi thì không dừng lại. Chỉ chừng ấy mà vẫn phải sanh lên biến đổi tiếp tục thành tâm hộ kiếp. Khi biến đổi thành tâm hộ kiếp rồi thì sự sanh lên của tâm tái tục chỉ diễn tiến được vào lúc lộ tâm chưa sanh lên mà thôi. Khi lộ tâm đã sanh lên rồi thì tâm hộ kiếp đình chỉ ngay.

    Vì vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Asati vīthicittuppāde bhavassa aṇgabhāvena" "Lúc lộ tâm chưa hiện khởi thì dòng hộ kiếp sanh lên".

    Lại nữa, sự sanh lên của tâm hộ kiếp trong lúc lộ tâm chưa sanh lên không phải chỉ sanh lên 1 hay 2 sát na mà sanh lên liên tiếp vô số sát na tựa như dòng nước.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới đề cập rằng: "Abbocchinnaṃ nadīsato viyapavattati" "Sanh lên không dứt giống như nước của dòng sông chảy liên tục ".

    *

    TIẾN TRÌNH TRONG LÚC LỘ TÂM & TÂM HỘ KIẾP SANH KHỞI

    Thường nhiên khi tất cả mọi người cảm giác được sự thấy, sự nghe… cho đến sự suy nghĩ thì trong lúc đó hoàn toàn do lộ tâm sanh lên. Tức chính lộ tâm là người thấy, người nghe cho đến người suy nghĩ, chứ chẳng phải là tâm hộ kiếp là người thấy, người nghe… người suy nghĩ. Mặc dù trong lúc đang thấy, đang nghe, đang đọc, đang suy nghĩ là do lộ tâm sanh lên. Nhưng trong lúc đó, tâm hộ kiếp cũng vẫn sanh lên xen kẽ trong giữa mỗi lộ tâm với nhau mà không chỉ thuần nhất có một lộ tâm sanh lên. Bởi vì lộ tâm liên quan đến sự thấy, sự nghe, sự suy nghĩ có đổng lực hạn chế sanh lên chỉ được chốc lát rồi cũng phải có hộ kiếp là hiện thân của ý môn sanh lên xen kẽ nhau. Chớ không thể chỉ có lộ tâm sanh lên nối tiếp nhau không dứt dòng giống như lộ tâm nhập định (samāpattivithī) được. Do đó, mới suy đoán được rằng lộ tâm có đổng lực hạn chế và tâm hộ kiếp xen kẽ vào tạo cho sự cảm giác khởi lên theo sự diễn hoạt nhân sinh. Còn lộ nhập định là lộ tâm không có số lượng đổng lực hạn chế và không có hộ kiếp xen kẽ vào không tạo cho sự cảm giác sanh khởi theo diễn hoạt nhân sinh được. Sự việc suy đoán này nêu nguyên nhân để trình bày cho hiểu được lộ tâm đổng lực dục giới có sự cảm giác theo diễn hoạt nhân sinh. Nhưng lộ nhập định thì không có sự cảm giác theo diễn hoạt nhân sinh được.

    Lại nữa, lúc tâm hộ kiếp sanh lên thì không có sự cảm giác… liên quan đến sự thấy, sự nghe cho đến sự suy nghĩ. Vì thông thường khi con người đang ngủ mê thì lộ tâm không sanh lên mà chỉ duy nhất có tâm hộ kiếp sanh khởi. Và tâm hộ kiếp này bắt lấy cảnh cũ của kiếp trước chớ không bắt cảnh mới trong kiếp hiện tại. Cho nên khi đã ngủ mê nếu như không để ý theo dõi lúc trước ngũ và sau khi thức dậy thì cho dù chỉ thiếp đi chừng 5 phút cũng ngỡ rằng đã ngủ hàng giờ hoặc chỉ chộp mắt trong chốc lát. Bởi chính tâm hộ kiếp đã biểu hiện rõ ràng rằng mình không biết được việc gì liên quan đến kiếp hiện tại cả.

    Từ "Cuticittaṃ hutvā nirujjhati" "Khi tâm tử đã diệt". Tức chính tâm có thực tánh giống như tâm tái tục vào giai đoạn cuối cùng của kiếp hiện tại thì trở thành tâm tử, vì lìa bỏ kiếp sống mình đang sống.

    Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng: "Pariyosāne ca cavanavasena" "Vào giai đoạn cuối cùng của kiếp sống hiện tại do mãnh lực chuyển đổi khỏi kiếp sống cũ" (đã mệnh chung). Đây là trình bày cho biết rằng trong mỗi kiếp sống của tất cả chúng sanh thì tâm tái tục sanh vào giai đoạn đầu của kiếp sống, tâm hộ kiếp sanh vào giai đoạn giữa của kiếp sống và tâm tử sanh lên vào giai đoạn cuối của kiếp sống. Cả 3 giai đoạn này có đặc tánh giống nhau hay nói cách khác là cùng một tâm với nhau cũng được.

    Nội dung trùng hợp với việc trình bày trong nhóm 4 tái tục (paṭisandhicatukka) rằng:

    Paṭisandhi bhavaṇgañca Tathā cavanamānasaṃ

    Ekameva tatheveka Visayañcekajātiyaṃ

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 16 NHƯ "TATO PARAÑCA"… TRÌNH BÀY ĐẾN SỰ LUÂN CHUYỂN TRONG VÒNG LUÂN HỒI

    Điều Pāli này nói đến tiến trình danh pháp của phàm nhân và chư Thánh hữu học sau khi tâm tử đã diệt (còn luân chuyển trong vòng luân hồi). Còn các bậc A La Hán sau khi tâm tử diệt thì tiến trình danh pháp không còn trở thành tâm tái tục, hộ kiếp, tử nữa mà diệt đi giống như ngọn lửa bị tắt lịm.

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 17 NHƯ "PAṬISANDHIBHAVAṆGAVĪTHIYO"… LÀ KỆ NGÔN TRÌNH BÀY TÓM LƯỢC SỰ LUÂN CHUYỂN TRONG VÒNG LUÂN HỒI

    Trong điều Pāli thứ 17 là kệ ngôn trình bày tóm lược ý nghĩa cả 2 chương là chương 4 và chương 5. Gọi là kệ tóm lược do trình bày kết luận chương 4 và 5 vì ý nghĩa sau cùng trong chương 4 trình bày rằng: "Iccevaṃ chadvārikacittappavatti yathāsambhavaṃbhavaṇgantaritā yāvatāyukamabbocchinnā pavattati" "Theo nội dung chính đã trình bày thì tiến trình của tâm sanh lên trong 6 môn thường sanh lên không đứt đoạn bởi tâm hộ kiếp xen vào cho đến suốt đời sống tùy theo tương ứng mà sanh lên theo môn đó". Ý nghĩa sau cùng trong chương 5 trình bày rằng: "Tato parañca paṭisandhādayo rathacakkamiva yathākkamaṃ eva parivattantā pavattanti" "Sau khi tâm tử diệt đi thì tất cả tâm như tâm tái tục… vẫn sanh lên nối tiếp nhau luân chuyển khởi đầu mọi kiếp sống trong mỗi cõi theo tuần tự phận sự tái tục, hộ kiếp, tử của vòng luân hồi. Việc tóm lược nội dung thông thường gọi là "Cuṇṇiya" "Ý nghĩa có từng phần chưa gom lại cho nối tiếp nhau". Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha đem cả 2 nội dung này gom lại với nhau sáng tác thành kệ ngôn sau cùng của chương 5 này lại một lần nữa.

    Còn nội dung trong kệ tóm lược thì ám chỉ đến phàm nhân và chư Thánh hữu học vẫn còn phải luân chuyển trong 31 cõi giống như điều Pāli thứ 16. Bởi vì bậc đã viên tịch Níp Bàn thì danh pháp không còn diễn tiến thành lộ tâm chủ quan (vīthimuttacitta) và lộ tâm (vīthicitta).

    *

    THÍCH GIẢI TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ 18 NHƯ "PATISAṆKHĀYA PANETAMADDHUVAṂ"… LÀ KỆ NGÔN TRÌNH BÀY ĐẠO LỘ ĐOẠN TẬN LUÂN HỒI

    Kệ ngôn này gọi là "aparantikāgāthā" tức kệ ngôn có nội dung khác ngoài nội dung của chương 5 ra. Khi đã nhận xét nội dung trong kệ ngôn này thì có thể biết rõ được trí tuệ đặc thù cùng với từ tâm, bi tâm, hỷ tâm của Ngài giáo thọ sư Anuruddha đối với mọi người. Thật đáng tôn kính khâm phục Ngài vô cùng cả về từ ngữ kết hợp với ý nghĩa đầy đủ lẫn văn cú tuyệt vời, làm cho độc giả cảm giác giống như Ngài giáo thọ sư Anuruddha đang thuyết cho chính mình. Ngoài ra còn là lời khuyến nhủ sách tấn làm cho mọi người tịnh tín hành theo Tam Học chẳng phải chỉ thuần nhất để ghi nhớ mà thôi. Trong kệ ngôn sau cùng này có 3 từ quan trọng là Budhā, Samaṃ, Essanti.

    Người có tuệ là người tái tục bằng tâm tam nhân sẽ chứng đạt tịch tịnh Níp Bàn xa lìa hữu vi pháp, Budhā là năng động thể (vuttakattupada), Samaṃ là thụ động thể (avuttakammapada), Essanti là động từ năng động thể (ākhayātakiriyā kattuvacaka). Trong nơi đây người có tuệ tái tục gọi là "budhā". Còn người có tuệ bình nhật cho dù cũng được gọi là "budhā" nhưng trong nơi đây không được ám chỉ đến.

    Lại nữa, người có tuệ tái tục sẽ chứng đạt tịch tịnh Níp Bàn xa lìa hữu vi pháp chẳng phải đề cập bao quát hết tất cả, mà chỉ riêng biệt người thực hành đúng Chánh Pháp mới có thể triệt tiêu ái dục chứng đạt Níp Bàn được mà thôi. Do đó, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng: "Subbatā susamucchinna sinehabandhanā" Người có tuệ tái tục thực hành đúng Chánh Pháp như trì giới, thọ trì đầu đà, tu thiền mà nhổ bỏ ái dục trói buộc rồi sẽ chứng đạt Níp Bàn xa lìa hữu vi pháp.

    Vấn: Tất cả người có tuệ tái tục thực hành đúng pháp như trì giới … chỉ thực hành bình thường chút ít thời gian trì giới, tu thiền thì có đủ sức làm cho tuệ quán sanh lên được hay không?

    Đáp: Không được.

    Chính vì vậy mà Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày đến động từ đặc biệt ở phía trước là "Ciràya" "Phải thực hành thời gian lâu dài". Đối với người có tuệ tái tục chứng đạt Níp Bàn cũng phải liên quan từ việc nhổ bỏ ái dục trói buộc làm nhân. Sự việc người có tuệ tái tục thực hành trì giới, tu thiền thời gian lâu dài cho đến khi nhổ bỏ được ái dục. Do nương vào nhân nào mới đạt được như vậy? Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng: "Adhigantvā padamaccutaṃ (adhigantvā padaṃ accutaṃ) "Vì chứng đạt bất tử pháp Níp Bàn bằng Đạo tuệ, Quả tuệ". Nghĩa là việc nhổ bỏ ái dục được bởi liên quan từ sự chứng đạt Níp Bàn bằng Đạo tuệ, Quả tuệ làm nhân.

    Nếu sự kiện như vậy, thì có câu hỏi tiếp tục nữa rằng: "Tất cả người có tuệ tái tục an trú trong giới, thiền định thời gian lâu dài mà chứng đạt Níp Bàn bằng Đạo tuệ, Quả tuệ nhổ bỏ đi ái dục liên quan bởi nhân nào?". Cho nên, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày đến nguyên nhân của câu này rằng: "Paṭisankhāya panetamaddhuvaṃ (paṭisaṇkhāya pana etaṃ addhuvaṃ)" "Quán thấy rõ tiến trình của tâm và sở hữu là vô thường". Tức sự chứng đạt Níp Bàn bằng Đạo tuệ, Quả tuệ là thành quả, do nương vào tuệ quán thấy rõ tiến trình của tâm và sở hữu là pháp vô thường làm nhân.

    Tóm lược: Kệ ngôn sau cùng này ám chỉ tất cả người có tuệ tái tục thực hành đúng Chánh Pháp an trú trong giới, thiền định thời gian lâu dài, phát triển tuệ quán cho đến trạch sát tuệ (paṭisaṇkhāñāṇa). Để thấy được tâm và sở hữu là pháp vô thường chứng đắc Níp Bàn bằng Đạo tuệ, Quả tuệ theo tuần tự nhổ bỏ được ái dục tận cùng trong kiếp hiện tại hằng thể nhập tịch tịnh Níp Bàn xa lìa các pháp hữu vi.

    Việc Diễn Giảng Nội Dung Trong Nhóm 4 Sanh Tử (Maranuppatticatukka) Chấm Dứt Chỉ Bấy Nhiêu.

    Ngày 29 tháng 12 Phật Lịch 2506.

    Paramatthajotikanāmabhāsāṭīkāyaṃ

    Vīthimuttasaṇgahassātthavaṇṇanā Niṭṭhitā

    Việc diễn giảng nội dung của lộ tâm chủ quan yếu hiệp chương 5 trong thuật ngữ hậu sớ giải paramatthajotika kết thúc hoàn tất chỉ bấy nhiêu

    -ooOoo-

    KỆ TÓM LƯỢC

    Ettāvatāca dhammācariyotiladdhalañchakena saddhammajotikanāmena mayā raghanghositārāma kārāpite abhidhammamahāvidyālaye padhānācariyagaṇapāmokkha bhāvena sattavidhāni vācana racana muddana pañhābyākāpayana pakāsaniyapaṇṇadāna desantarābhidhammika abhidhammakathikapesana vidyālayapapañcanādisāsanakiccāni vinā rājūpatthambhanā katāni ceva vahitāni ca imasmiṃ soḷasamavassike sampati chādhikapañcasatadvāsahasse samvacchare pana māgasiramāsajuṇhapakkhacuddasamadivase suriyavāre imaṃ vīthimuttasangahassa atthavaṇṇanaṃ ṭīkākaraṃ sabbhākārena niṭṭhāpitaṃ.

    Theo nội dung đã trình bày tuần tự trên, tôi giáo thọ sư Saddhammajotika cương vị giáo sư trưởng đoàn tại trường đại học Thắng Pháp toạ lạc tại chùa Raghanghositārāma tỉnh Dhonburi để điều hành 7 công tác của giáo hội như giảng dạy, soạn thảo Kinh sách, ấn loát, thi cử, phát văn bằng, đề cử giáo viên đi dạy khắp nơi, mở mang trường lớp mà không nhờ vào chính phủ trợ cấp khoảng nào.

    Vào Phật Lịch 2506 là năm thứ 16, tôi đã soạn thảo nội dung cuốn " Tâm Lộ Chủ Quan Yếu Hiệp" (vithīmuttasaṇgaha) là thuật ngữ hậu sớ giải (cuốn thứ 21) đã hoàn tất viên mãn vào ngày chủ nhật 14 tháng 12 năm Mão .

    -ooOoo-

    LỜI PHÁT NGUYỆN

    IDAṂ ME PUÑÑAṂ SABBAÑÑUTAÑÑĀṆASSA PACCAYO HOTU .

    "Xin cho các thiện phước mà tôi đã kiến tạo hoàn chỉnh này, hãy làm duyên tác thành tuệ Toàn Giác".

    Tịnh Thất Mít Nài, ngày 13-08-2000
    (Mồng 12 Tháng 07, Canh Thìn)

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.