PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA
-----
BỒ TÁT KHỔ HẠNH
(DUKKARA KIRIYĀ)
Biên Soạn
Bhikkhu Nāga Thera ‒ Tỳ khưu Bửu Chơn ---
Pl.2505 − Dl. 1961
CÁCH KHỔ HẠNH VỀ HƠI THỞ
Pháp này đức Phật thuyết cho Aggivessana tu theo tà thuyết (nigantha) đến hỏi đạo tại vườn Mahāvana gần thành Vesāli (T.Tạng 22e trg 107).
Này Aggivessana, khi Như Lai còn đang tìm các pháp lành và nơi yên lặng là Niết-bàn để diệt tắt các sự khổ não và lửa phiền, Như Lai đi lang thang theo trong xứ Ma kiệt đà (Magadha) một hôm đến xóm Senānigama trong xứ Uruvelā. Chỗ này coi rất vui vẻ và phong phú gần bên có cánh rừng tốt tươi, có con sông sâu nước chảy trong veo, có bến nước bằng thẳng, có xóm làng đi khất thực cũng gần và thuận tiện.
Như Lai mới nghĩ rằng: “Chỗ này rất phù hợp cho người muốn cố gắng tìm đạo giải thoát”. Như Lai mới nhứt định ngồi nơi ấy để cố gắng thực hành.
Thoạt nhiên có 3 sự so sánh phi thường phát sanh lên trong trí Như Lai như vầy: Này Aggivessana!
1. − Như khúc củi tươi còn mủ lại ngâm trong nước, khi ấy có người đem lửa mồi định nhúm lửa cho cháy những củi tươi còn trong nước ấy. Người nghĩ thế nào? Củi ấy có thể cháy lên được không?
− Bạch thầy Gotama không thể được, người ấy chỉ được sự mệt nhọc luống công vô ích vậy thôi.
Sự ví dụ ấy cũng như các bực sa-môn, bà-la-môn, tu sĩ thân không xa lánh, dứt bỏ, yên lặng ngũ trần. Tâm lại còn ước ao, ham muốn, mê mẫn, khát khao, nồng nhiệt trong tình dục của ngũ trần thì dầu các bực ấy có cố gắng khổ hạnh hành thân hoại thể cách nào cũng luống công vô ích chớ không thể nào giác ngộ, sáng suốt, đắc đạo quả được.
2. − Như khúc củi tươi còn mủ để trên khô, khi ấy có một người đem lửa lại định nhúm lửa cho cháy lên. Người nghĩ thế nào, củi ấy có thể cháy lên được không?
− Bạch thầy Gotama, không thể được, tuy củi ấy ở trên khô nhưng vẫn còn tươi và mủ, người ấy chỉ mệt nhọc luống công vô ích vậy thôi.
Sự ví dụ ấy cũng như các bực sa-môn, bà-la-môn, tu sĩ mặc dầu thân đã xa lánh, dứt bỏ, yên lặng, ngũ trần nhưng tâm còn ước ao, ham muốn, mê thích, khát khao, nồng nhiệt trong tình dục ngũ trần thì dầu cho các bực ấy có cố gắng khổ hạnh cách nào cũng luống công vô ích chớ không thể nào giác ngộ, sáng suốt và đắc đạo quả được.
3. − Như khúc củi khô lại ở lại trên khô, khi ấy có một người đem lửa lại định nhúm lửa cho cháy lên. Người nghĩ thế nào, củi ấy có thể cháy lên lửa được không?
− Bạch thầy Gotama được.
Sự ví dụ ấy cũng như các bực sa-môn, bà-la-môn, tu sĩ thân đã xa lánh, dứt bỏ, yên lặng, ngũ trần, luôn tâm cũng không ước ao, ham muốn, mê thích, khát khao, nồng nàn trong tình dục của ngũ trần, thì dầu cho các bực ấy có cố gắng khổ hạnh hay không cũng có thể giác ngộ, sáng suốt và đắc đạo quả Niết-bàn được.
Này Aggivessana, đây là 3 điều so sánh tỷ dụ lạ lùng mà Như Lai chưa từng biết và nghe nói trong khi trước bao giờ cả.
Này Aggivessana, Như Lai bèn nghĩ rằng: Thôi bây giờ ta phải cố ráng hành đạo, khi ấy Như Lai mới cắn hai hàm răng lại, lưỡi đụng sát ổ gà, dùng tâm mà đè nén ép buộc cái tâm lại, khi Như Lai hành gắt gao như thế ấy thì mồ hôi từ hai bên nách chảy ra như xối. Sự tinh tấn rất thẳng thắn, không giải đãi, có sự ghi nhớ rõ rệt, không lầm lộn, nhưng xác thân Như Lai vì bị sự tinh tấn quá sức mà phải nóng nảy bực bội không được yên tịnh, tuy đau khổ như thế ấy nhưng Như Lai cũng không thối chí ngã lòng.
Như Lai lại đổi phương pháp “tham thiền bằng cách nín hơi thở” (appānakajjhāna). Như Lai bèn bịt hơi gió nơi miệng và mũi không cho ra vô, lúc ấy hơi gió lại ra theo hai lỗ tai nghe vù vù như ống hơi của người thợ bạc đang thổi. Bây giờ Như Lai lại bịt luôn hơi gió không cho ra vô nơi lỗ tai nữa, lúc ấy hơi gió bị nghẹt bí dữ dội đâm xoáy trong đầu Như Lai ví cũng như người lấy dùi nhọn hoặc chĩa đâm xoáy trong đầu. Tuy sự đau khổ phát lên dữ dội như thế ấy nhưng Như Lai cũng không thối chí ngã lòng vẫn đầy đủ sự ghi nhớ không lầm lộn.
Như Lai cũng vẫn tiếp tục nín hơi thở bịt cả miệng, mũi và tai không cho hơi thở ra vô, lúc ấy đầu Như Lai nhức nhối như muốn nứt bể ra từng mảnh.
Như Lai cũng vẫn tiếp tục hành như vậy nữa, bây giờ hơi gió lại cào cắt trong bụng Như Lai vô cùng đau đớn, cũng như người lấy dao thật bén xẻ cắt nát trong ruột vậy.
Như Lai cũng vẫn tiếp tục hành như vậy nữa, lúc ấy hơi gió càng bị nhốt bịt lại càng làm cho đau đớn dữ dội hơn nữa là làm cho khắp cả châu thân nóng nảy đến cực độ ví như hai người dõng mãnh bắt người yếu đuối hơn nắm hai tay hay hai chơn căng ra đem đi hơ trên hầm lửa to vậy.
Này Aggivessana, tuy Như Lai bị đau khổ vì sự hành gắt gao như thế ấy nhưng không có thối chí ngã lòng, vẫn có đầy đủ sự ghi nhớ không lầm lộn. Khi ấy có Chư Thiên nói thầy Sa-môn Gotama đã chết rồi, Chư Thiên khác lại nói: Thầy Sa-môn Gotama chưa chết đâu nhưng rồi thế nào cũng chết, có Chư Thiên khác lại nói: Thầy Sa-môn Gotama không chết đâu, thầy còn sống, đó là cách sống của bực A-la-hán như thế ấy.
Này Aggivessana, Như Lai nghĩ rằng hành như vầy mà còn chưa được đạo quả, vậy bây giờ ta nên nhịn đói cho được ngộ đạo, khi ấy có nhóm Chư Thiên đến nói nhỏ với Như Lai rằng: Nếu Ngài nhịn đói thì chúng tôi dùng vật thực của Chư Thiên đem vào lỗ chân lông của Ngài. Như Lai mới nghĩ rằng: Mình tính nhịn đói mà Chư Thiên lại đem vật thực theo lỗ chân lông vào cho mình như vậy thì thành ra mình tự dối mình. Như Lai bèn ngăn cản Chư Thiên biểu đừng làm như vậy không nên.
Như Lai bèn tính thôi ta thọ thực thật ít là mỗi ngày chỉ một lòng bàn tay đậu xanh, hoặc đậu xương rồng, đậu trắng hoặc đậu đũa thôi. Khi ta thọ thực ít như vậy thì thân thể ta ốm o gầy mòn rồi lần lần giảm bớt như cách khổ hạnh vật thực ở trang phía trước.
Lúc ấy Như Lai mới suy nghĩ rằng: “Con đường khác thực hành cho giác ngộ có hay không?” Liền khi ấy Như Lai mới nhớ lại “Trước kia trong lúc ta còn bé, một hôm nhằm lễ cày ruộng của dòng Thích Ca các cung phi ham đi coi lễ bỏ ta một mình dưới bóng cây trâm, khi ấy tâm ta lần lần yên lặng ngũ trần và các pháp cái, mới nhập vào sơ thiền có đầy đủ sự phỉ lạc, yên vui”. Này Aggivessana, trí tuệ ta tự nhận thức rằng: Con đường này thực hành mới có thể giác ngộ được. Vì sự an lạc nào mà không lẫn lộn với ngũ trần với pháp ác thì sự an lạc đó ta không nên nhờm gớm, ghê sợ đâu. Nhưng thân thể ta gầy ốm như thế này thì không thể nào đắc được sự an lạc ấy, như vậy thì ta nên thọ vật thực lại cho có sức lực. Khi ấy năm thầy Kiều Trần Như theo hầu ta thấy ta thọ thực lại liền bỏ đi hết vì cho ta giải đãi, bỏ sự tinh tấn, trở lại ham muốn nhiều theo ngũ trần, thì dễ gì mà giác ngộ hầu chỉ dạy cho chúng ta được.
Này Aggivessana, khi Như Lai thọ thực cơm bánh cho có sức lực lại rồi, một hôm nhằm ngày rằm tháng tư Vesakha, dưới cội bồ đề, Như Lai lần lần yên lặng ngũ trần và các pháp phiền não rồi nhập vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hưởng an vui, khoái lạc trong tứ oai nghi. Tuy sự an vui phát sanh lên như thế ấy nhưng không làm cho Như Lai mê thích quên mình theo pháp ấy, vẫn cố gắng mãi.
Khi tâm được an trụ, trong sạch, không phiền não, mềm mại định an, không xao động theo cảnh liền dùng tâm ấy cho thấy rõ “túc mạng minh”. Như Lai thấy rõ những tiền kiếp từ một kiếp đến kiếp vô lượng vô biên kiếp, biết rõ cả chi tiết hình dáng, tên tuổi, vui khổ v.v... Đây là cái “Minh” thứ nhất mà Như Lai đắc trong canh đầu tiên vậy.
Này Aggivessana, Như Lai dùng tâm trong sạch, yên trụ ấy cho đắc “Nhãn minh hay là Sinh tử minh” là tuệ nhãn thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do nơi duyên nghiệp lành, dữ đưa đi đầu thai vô cùng vô tận. Đây là cái “Minh” thứ nhì mà Như Lai đắc được trong canh giữa vậy(4).
Như Lai vẫn cố gắng dùng tâm trong sạch, yên trụ ấy để chú tâm cho đắc “Lậu tận minh” (Āsakakkhaya) là trí tuệ diệt tận các pháp trầm luân. Như Lai thấy rõ đây là khổ, đây là nguyên nhân phát sanh cái khổ, đây là nơi diệt khổ, đây là con đường thực hành cho đến nơi diệt khổ và thấy rõ các pháp trầm luân theo lý tứ đế. Khi ấy tâm Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ, giải thoát tất cả phiền não và các pháp trầm luân không còn dư xót, 16 phận sự Như Lai đã hành tròn đủ. Đây là cái “Minh” thứ ba mà Như Lai đắc trong canh chót (vừa hừng sáng). Vô minh diệt tắt mất đi, Minh triết lại phát sanh lên.
Bây giờ Như Lai đã thành một bậc “Chánh Biến Tri”, diệt tắt hẳn vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi đắc đạo “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, Ngài hưởng lương vị của đạo quả Niết-bàn trong 49 ngày. Rồi đến ngày rằm tháng sáu (Asadha), Ngài chuyển Pháp luân đầu tiên cho 5 thầy Kiều Trần Như nơi vườn Lộc Giả tại xứ Balanại (Pāranasi- Berares).
Khởi đầu bài pháp của Ngài nhấn mạnh trong 2 điểm:
1) Không nên hành theo cách khổ hạnh vì nó làm cho đau khổ, không phải con đường của bực thánh nhân, không có lợi ích;
2) Không nên hành theo cách lợi dưỡng là tu hành một cách quá dễ dãi là pháp thấp hèn của người trong xóm, của kẻ thường nhân, không có sự lợi ích.
Rồi Ngài dạy nên hành theo “Trung đạo” (Majjhima patipadā) là con đàng bực trung không thẳng lắm cũng không dùn lắm là Bát thánh đạo có tám ngã: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Con đường trung này thực hành theo mới có thể giác ngộ sáng suốt, diệt tận phiền não và đắc đạo quả Niết-bàn được.
---
– Dứt tác phẩm. Bồ tát khổ hạnh ‒
-oo0oo-
(4) Theo Ấn Độ, một đêm có 3 canh: từ 6 giờ tối đến 10 giờ là canh một, từ 11 giờ đến 2 giờ sáng là canh hai, từ 3 giờ tới 6 giờ sáng là canh ba.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.