Cách thọ lãnh y casa

Cách thọ lãnh y casa

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA
    -----

    ĐẠI LỄ DÂNG Y CASA – KAṬHINA

    Bhikkhu Nāga Mahā Thera - Tỳ khưu Bửu Chơn

     

    CÁCH THỌ LÃNH Y CASA

    Theo trong Đại tạng Mahāvagga Đức Phật có dạy như vầy: Evañca pana bhikkhave kathinaṃ attharitabbaṃ – Này các thầy tỳ khưu, các thầy thọ lãnh y như thế này.

    Nếu nói về số tăng thì ít nhất phải đủ năm tỳ khưu hay hơn đó trở lên thì thọ lãnh lễ dâng y mới được, còn nói về cách nhập hạ thì vị tỳ khưu lãnh y ấy phải nhập hạ trước(8) tỳ khưu đứt hạ hoặc nhập hạ sau, hay là tỳ khưu ở chùa khác đến lãnh cũng không thành tựu được, cũng như vị không có nhập hạ.

    Chỗ nói phải đủ 5 vị tỳ khưu là 4 vị giao y casa cho 1 vị thọ lãnh rồi 4 vị ấy chỉ hoan hỷ thọ lãnh phước báu (anumodanā) của lễ dâng y thì cũng đều được phước báu in nhau hết thảy (đây là nói 4 vị kia đồng ở 1 chùa cùng nhập hạ trước một lượt với nhau), nếu thỉnh các vị chùa khác lại cho đủ tăng thì các vị ấy không có anumodanā được.

    Nếu chùa nào chỉ nhập hạ trước có 4 vị, 3 vị, 2 vị hoặc 1 vị thì có thể thỉnh chư tăng nhập hạ sau hay chư tăng chùa khác đến cho đủ 5 vị cũng được, hoặc có ông sa di nào đúng 20 tuổi trong khoảng nhập hạ sau cho đến ngày lễ pavāranā, cho ông sa di ấy lên tỳ khưu cho đủ 5 vị, và vị tỳ khưu mới lên trong thời kỳ nhập hạ ấy cũng được hưởng phước báu của lễ dâng y như mấy vị kia. Cách cho lên tỳ khưu trong hạ ấy chẳng phải chỉ có 1 vị mà thôi, dầu cho có 2, 3, 4 vị cho lên tỳ khưu rồi cũng được hưởng quả báo in nhau hết thảy.

    Nếu trong 1 chùa mà không có vị nào rành mạch trong công việc thọ lãnh y casa, như vậy có thể thỉnh vị nào ở chùa khác đến chỉ dạy cách thọ lãnh và đọc tuyên ngôn dùm cũng được thành tựu.

    Trong tạng Luật dạy tỳ khưu phải rành mạch trong tám pháp mới thọ lãnh y casa được. Tám pháp ấy là: Atthadhammovido bhikkhu kathinatthāra marahati pubbaṃ paccudhārā -dhiṭṭhānatthāro mātikāti ca palibodho ca ubhāro ānisaṃso panatthime 1) pubbakarana: phận sự phải làm trước như cắt may; 2) paccuddhāra: biết cách xả y cũ; 3) adhitthāna: biết nguyện y mới; 4) atthāra: cách thọ lãnh đúng phép hoặc không đúng phép; 5) mātikā: 8 nguyên nhân làm cho lễ dâng y tiêu hoại hết hiệu lực; 6) palibodha: sự ràng buộc hay bận rộn; 7) ubbhāra: cách hủy bỏ; 8) anisaṃsa: biết 5 quả báo. 8 Pháp này sẽ giải rộng phía sau.

    Vấn: Ai có thể làm lễ Dâng y casa được? Đáp: Chư Thiên, nhân loại, 5 hạng xuất gia là tỳ khưu, tỳ khưu ni, sa di, sa di ni, sikkhāmānā(9) đều có thể dâng y được hết thảy.

    Vấn: Khi thí chủ về dâng y đến chư tăng phải lãnh bằng cách nào? Đáp: Khi thí chủ về dâng y xong, tỳ khưu chỉ lãnh bằng tâm là làm thinh ưng chịu, chớ không được thọ bằng thân hay khẩu.

    Vấn: Y Kaṭhina ai được phép lãnh? Đáp: Tăng giao cho vị nào thì vị ấy được phép thọ lãnh.

    Vấn: Tăng phải giao y Kaṭhina cho ai? Đáp: Vị tỳ khưu nào có y cũ rách thì chư tăng giao cho vị ấy lãnh nếu có nhiều vị y bị cũ rách thì chư tăng nên giao cho vị cao hạ có y rách ấy lãnh và trong các vị cao hạ mà vị nào rành mạch về 8 pháp phía trước thì nên giao cho vị ấy thọ lãnh và phải làm phận sự cho xong trong nội ngày, chớ không được để trễ qua ngày sau thì phải hư hỏng, còn như mấy vị già cao hạ mà không rành 8 pháp thì nên giao cho vị sư trẻ cao hạ hơn mà rành rẽ 8 pháp thọ lãnh.

    Theo trong chú giải Vinayā lankā có dạy cách giao y như vầy. Chọn 2 vị tỳ khưu, 1 vị vấn 1 vị đáp.

    Vấn: Y Kaṭhina này đã phát sanh đến tăng rồi tăng nên giao cho vị nào thọ lãnh? Đáp: Bạch đại đức tăng vị nào có y cũ rách thì tăng nên giao cho vị ấy thọ lãnh.

    Vấn: Tỳ khưu có y cũ rách nhiều vị, hay là ở đây không có vị nào y cũ rách hết thì tăng phải làm sao? Đáp: Như vậy tăng nên giao cho vị cao hạ.

    Vấn: Ở đây vị vào cao hạ hơn hết? Đáp: Vị tỳ khưu tên ... (như Nāgathera)

    Vấn: Vậy chớ vị ấy có đủ tư cách sắp xếp làm xong và thọ trong ngày nay không? Đáp: Vị ấy có thể sắp đặt xong.

    Vấn: Vậy chớ vị ấy có đủ 8 pháp không? Đáp: Vị ấy đầy đủ rồi.

    Vị tỳ khưu vấn nên nói: ‘sādhu lành thay’ như vậy tăng nên giao y Kaṭhina cho vị tỳ khưu ấy lãnh.

    Kế tiếp một vị luật sư rành rẽ đọc tuyên ngôn như vầy: “Sunātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa kathinadussaṃ uppannaṃ, yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ Kaṭhina dussaṃ (itthannāmassa) bhikkhuno dadeyya kathinaṃ attharituṃ, ess ñatti. Sunātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhina dussaṃ uppannaṃ saṅgho imaṃ kathinadussaṃ, (itthannāmassa) bhikkhuno deti kathinaṃ attharituṃ, yassāyasmato khamati imassa Kaṭhina dussassa (itthannāmassa) bhikkhuno dānaṃ kathinaṃ attharittuṃ, so tunhassa yassa nakkhamati, so bhāreyya. Dinnaṃ idaṃ saṅghena Kaṭhina dussaṃ (itthannāmassa) bhikkhuno kathinaṃ attharituṃ khamati saṃghassa tasmā tumhī evametaṃ dhārayāmi”.

    Nghĩa: Bạch đại đức tăng, xin chư tăng nghe tôi trình, y Kaṭhina này đã phát sanh đến chư tăng, nếu hợp thời đến chư tăng thì tăng nên giao y này cho vị tỳ khưu tên... thọ lãnh, đây là lời tuyên ngôn.

    Bạch đại đức tăng, xin tăng nghe tôi trình, y Kaṭhina này đã phát sanh đến chư tăng, bây giờ chư tăng giao y này cho thầy tỳ khưu tên... thọ lãnh, sự giao y Kaṭhina này đến thầy tỳ khưu tên... thọ lãnh, vị nào ưng thuận xin vị ấy làm thinh, còn vị nào không ưng thuận xin vị ấy nói lên cho biết, y Kaṭhina này tăng đã giao cho vị tỳ khưu tên... thọ lãnh. Sự giao y này hợp lý đến chư tăng nên các ngài mới làm thinh. Tôi xin ghi nhận sự giao y này hợp pháp do sự làm thinh ấy.

    Nếu như y may nhuộm xong thì thọ lãnh liền cũng được. Còn như họ đem đến vải nguyên cây thì tỳ khưu thọ ấy phải giặt cho sạch nếu dơ, rồi đo, cắt, may, nhuộm cho đúng màu Casa, làm dấu cho xong nội trong ngày. Công việc bận rộn như vậy mà các vị ấy phải tiếp tay nếu vị nào không cần mẫn tiếp giúp thì phạm tội hành ác. Khi xong tất cả phận sự mới được thọ lãnh.

    Nếu vị tỳ khưu ấy muốn thọ y tăng-già-lê, phải đọc xả tăng-già-lê cũ rồi lấy y mới nguyện lên tăng-già-lê, xong nói ra tiếng như vầy: Imāya saṅghātiyā kathinaṃ attharāmi – Tôi thọ y Kaṭhina bằng tăng-già-lê này. Nếu thọ y huất-đà-la- tăng (y vai trái) thì cũng xả y cũ nguyện y mới rồi nói ra tiếng cho rõ như vầy: Iminā uttarāsangena kahitnaṃ attharāmi – Tôi xin thọ y Kaṭhina bằng y huất-đà-la-tăng này. Nếu muốn thọ y an-đà-hội (y nội) thì cũng xả y cũ, nguyện y mới rồi nói ra tiếng như vầy: Iminā antaravāsakena kathinaṃ attharāmi – Tôi xin thọ y Kaṭhina bằng y an-đà-hội này.

    Xong chấp tay giữa chư tăng tuyên bố như vầy: Atthataṃ bhante (đây là vị nhỏ hạ còn cao hạ hơn hết thì đổi chữ bhante ra chữ āvuso) saṅghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthāro anumodadha – Bạch chư tăng, y Kaṭhina của tăng tôi đã thọ rồi, sự thọ này đã hợp pháp, xin chư tăng hãy hoan hỷ (anumodanā). Nếu trong chùa đó chỉ có 1 vị nhỏ hạ hơn hoan hỷ thì đổi chữ anumodātha lại chữ anumodāhi thôi.

    Về phần các vị hoan hỷ ngồi chồm hổm lên đọc như vầy: Atthataṃ āvuso saṅghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthāro anumodāma – này đạo hữu, y Kaṭhina của tăng, ông đã thọ rồi, sự thọ này rất hợp pháp, vậy chúng tôi hoan hỷ thọ lãnh phước báu. Nếu trong chùa chỉ có 1 vị hoan hỷ thì đổi chữ anumodāma lại chữ anumodāmi.

    Khi đọc hoan hỷ thì tất cả chư tăng đều được phước báu in nhau như vị tỳ khưu thọ lãnh.

    Trong bộ luật parivāra có nói tăng hay 1 nhóm tăng (2 hay 3 vị) thọ Kaṭhina không thể được, chỉ có 1 vị tỳ khưu mới lãnh được mà thôi và khi tăng hay nhóm tăng hoan hỷ thọ lãnh phước báu thì tăng cũng như nhóm tăng đều quả báu in nhau hết thảy.

    Khi thí chủ dâng y xong rồi về hết thì tất cả y và đồ phụ tùng thuộc về của tăng, tăng có thể chia nhau tùy theo số chư tăng nhập hạ trước, nếu không có sổ nhập hạ thì chia dâng từ chỗ vị cao hạ cho đến cuối cùng tùy theo vật dụng đủ đến đâu hay đó, chỉ trừ những trọng vật (garubhanda) như giường ghế, chậu, dao, búa v.v... thì không nên chia vì đó là trọng vật của tăng. Cách chia từ vị cao hạ xuống dưới không bắt số, không nên lựa y bằng giá nhau, nên lựa y tốt đáng chia cho vị cao hạ mỗi vị một lá cho đến cùng, nếu còn dư thì cũng chưa từ trên trở xuống hết đến đâu cũng được, còn mấy vị nào thiếu thì kỳ sau ai đem y dâng nữa trong hạn kỳ của phước báu lễ dâng y năm tháng đó thì lấy chia tiếp cho các vị chia còn thiếu trước kia, dầu cho ý phát sanh lên cho huê hợi của chùa cũng phải chia bằng cách ấy. Nếu trong chung quanh sīmā chùa có nhiều liêu cốc của nhiều nhóm chư tăng cũng phải tụ lại trong 1 chỗ với nhau rồi thọ lãnh y Kaṭhina mới thành tựu. Nếu thọ lãnh riêng ra thì không thành tựu đâu.

    Đây giải về cách thọ lãnh y Kaṭhina thành tựu hay không thành tựu.

    Vấn: Có mấy cách thọ y Kaṭhina không thành tựu? Đáp: Có 24 cách làm cho lễ thọ y Kaṭhina không thành tựu gọi là anathākāra. 1) ullikhitama: lãnh y Kaṭhina chưa xong chỉ đo bề dài bề ngang vậy thôi; 2) dhovanamattena: lãnh y Kaṭhina chưa cắt may xong chỉ mới giặt; 3) cīvaravicāranamattena: lãnh y Kaṭhina chưa làm xong chỉ tính toán sắp đặt đây là y 5 điều, 7 điều, 9 điều, 11 điều; 4) chedanamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ mới cắt ra thôi; 5) bandhnamattena: lãnh làm chưa xong vì mới lược kết vào; 6) ovaṭṭiṭṭakaranamattena: lãnh y chưa xong chỉ mới may thưa thưa theo hàng hàng chỉ lược sơ; 7) kaṇḍūsakaranamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ mới kết vải khuy để cột; 8) dalikamma karanamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ lấy vải Kaṭhina may thêm vô y cũ của mình 1 lớp nữa; 9) anuvāta karanamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ mới may bìa dài; 10) paribhaṇḍ karanamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ mới may bề ngang; 11) ovaṭṭeya karanamattena: lãnh y chưa làm xong chỉ mới nối mảnh vải này với mảnh vải kia chỗ này với chỗ nọ; 12) kambalamaddana mattena: lãnh y nhuộm chưa đúng màu y casa(10); 13) nimittakatena: lãnh y Kaṭhina do tỳ khưu đã nói xa nói gần là nói ướm (như nói tôi chỉ lãnh mặt y như thế này); 14) parikathākatena: lãnh y Kaṭhina do tỳ khưu nói ra nói vô kêu gọi biểu họ làm (như nói chùa tôi không ai dâng y vô hết, ai làm phước dâng y sẽ được vợ giàu có phước lớn v.v...); 15) kukkhukatena: lãnh y do tỳ khưu đi kiếm xin đem về hay mượn y của người khác hay tự thọ lãnh bằng y của mình đã có; 16) sanidhīkatena: lãnh y đã để cách qua 1 ngày trong tay người lãnh; 17) nissaggiyena: lãnh y vì để cách đêm; 18) akappakatena: lãnh y vì chưa làm dấu; 19), 20), 21) aññatra saṅghātiyā, uttarāsaṅgena antaravāsakena: lãnh y Kaṭhina ngoài tam y ra là ngoài tăng-già-lê, uất-đà-la-tăng, an-đà-hội nhưng nếu lãnh 1 lần luôn 3 lá y thì cũng không được chỉ lãnh 1 cái mà thôi; 22) aññatra pañcakena vā atireka pañcakena vā tadaheva sañchinnena sammandalīkatena: lãnh y Kaṭhina, mấy điều không cắt đứt ra, bẻ xếp lại rồi may chồng lên hay là may mà không đủ 9 chi của y hay lãnh y chỉ may chỉ có 2, 3, 4 điều mà thôi, ngoài ra y 5, 7, 9 và 11 điều; 23) aññatra puggalassa atthārā: lãnh không phải 1 vị mà chư tăng hay 1 nhóm tăng thọ lãnh; 24) nissīmaṭṭho anumodati: đứng hay ngồi ngoài sīmā mà thọ lãnh hay hoan hỷ anumodānā.

    Nói về sīmā và cận sīmā thì khi đọc tuyên ngôn ñatti giao y cho vị tỳ khưu lãnh thì luôn luôn phải ở trong sīmā. Còn khi thọ lãnh attharā hay hoan hỷ anumodānā thì trong sīmā hay cận sīmā gọi là upacāra sīmā cũng được.

    Chỗ này thế nào gọi cận sīmā? Chỗ gọi là cận sīmā, nếu trong chùa có hàng rào thì kể từ hàng rào ấy còn như chùa không có hàng rào thì xa bằng người liệng cục đất từ chùa ra, chỗ chư tăng đã nhập hạ, ngoài đó ra thì không thọ được.

    Đây là cách giải về lãnh y không thành tựu.

    Đây giải về cách thọ lãnh hợp pháp có 17 cách

    Cách lãnh y thành tự hợp pháp gọi là athatākāra: 1) ahatana: lãnh y Kaṭhina bằng vải mới; 2) ahatakāya: lãnh y đã làm xong bằng vải hơi cũ nhùn nhục; 3) pilotikāya: lãnh y bằng vải sātaka cũ; 4) paṃsukūlena: lãnh y làm bằng vải paṃsukūla là thứ vải bỏ nơi mồ mả hay nơi nào lượm đem dâng; 5) āpaṇikena: lãnh y bằng vải rớt gần quán chợ họ lượm đem dâng; 6) animittakatena: lãnh y trong sạch chớ không phải nói xa gần cho thiện tín đem dâng; 7) aparikathākatena: lãnh y không phải do nói ướm hay nói trắng trợn cho họ đem dâng; 8) akukkukatena: lãnh y không phải do đi xin hay mượn của người; 9) asandhikatena: lãnh y không để cách đêm; 10) anissaggiyena: lãnh y không để bị ưng xả đối trị; 11) kappakatena: lãnh y đã làm dấu đàng hoàng; 12), 13), 14) saṅghātiyā attarāsaṅgena antarayāsakena: lãnh ngay y tăng-già-lê, uất-đà-la-tăng hay an-đà-hội cái nào 1 cái chớ không đặng lãnh 1 lần 2, 3 cái; 15) pañcakenavā atireka pañcakena vā taḍaheva sañchinnena samadalīkatena: lãnh y cắt may xong bằng 5 điều, 7 điều, 9 điều, hay 11 điều nội trong ngày; 16) puggalassa attharā: 1 vị tỳ khưu thọ lãnh; 17) sīmāṭṭho anumodati: tỳ khưu ở trong sīmā hay cận sīmā của mình nhập hạ mà thọ lãnh và hoan hỷ anumodanā.

    Mātikā: mẫu sanh 8 cách làm lễ Kaṭhina vô hiệu lực hay tiêu hoại: 1) pakkamanantikā: sự đi ra khỏi ranh chùa chỗ lãnh kathina; 2) niṭṭhānantikā: sự làm y xong; 3) sanniṭṭhānantikā: sự quyết tâm dứt khoát; 4) nāsannantikā: sự hư hoại y (như lửa cháy, trộm cắp); 5) savanantikā: sự nghe tin tức; 6) āsāvacchedika: do sự hết hy vọng; 7) sīmātikkantikā: do quá hạn kỳ lễ Kathina; 8) sahubbhāra: do sự hợp lại chư tăng mà hủy bỏ.

    1. Giải rằng: Tỳ khưu khi thọ lãnh y rồi nghĩ rằng “Ta không trở lại chùa này nữa” rồi đem y đã làm xong đi ra khỏi ranh chùa chỗ nhập hạ thì lễ Kaṭhina của vị ấy vô hiệu lực vì đã hư hoại và cũng không được 5 quả báo nữa. Đó là nguyên nhân thứ nhất.

    2. Tỳ khưu đã thọ lãnh y Kaṭhina rồi, đem phần y của mình được làm chưa xong đi ra khỏi, khi đến chùa khác rồi bèn nghĩ rằng “Ta nhờ họ tiếp làm y nơi chùa này và không trở lại chùa cũ mình nữa”. Tỳ khưu ấy nhờ người tiếp làm xong thì lễ dâng y của vị ấy hết hiệu lực.

    3. Tỳ khưu thọ lãnh y về dâng y rồi, đem y làm chưa xong đi ra khỏi ranh chùa bèn nghĩ rằng “Ta sẽ không mượn người tiếp làm y đâu và ta cũng không trở lại chùa cũ nữa”. Khi tỳ khưu suy tính như vậy thì hiệu lực của lễ dâng y chấm dứt.

    4. Tỳ khưu thọ lãnh lễ dâng y rồi, đem y chưa làm đi ra khỏi vòng rào chùa mới nghĩ rằng “Ta sẽ cho người tiếp làm y nơi đây và ta sẽ không trở lại chùa cũ nữa”. Nhưng khi đương làm y thì bị hư hoại do trộm cướp hay bị lửa cháy thì lễ dâng y ấy hết hiệu lực.

    5. Tỳ khưu thọ lãnh lễ dâng y rồi, nghĩ rằng “Ta sẽ trở lại chùa” rồi đem y đi, khi đi ra ngoài vòng rào chùa rồi lại nghĩ rằng “Ta sẽ cho người tiếp làm y nơi này”, khi tỳ khưu làm y xong lại được tin chư tăng nơi chùa mình đã hủy bỏ lễ Kaṭhina, khi vừa nghe tin như vậy thì lễ Dâng y Kaṭhina không còn hiệu lực.

    6. Tỳ khưu thọ lãnh lễ dâng y rồi, đi ra khỏi chùa với ý định kiếm y nơi chỗ khác, nhưng khi ra khỏi vòng rào chùa lại nghĩ rằng “Ta sẽ kiếm y ngoài ranh chùa và ta sẽ không trở lại chùa nữa”. Tỳ khưu ấy đang kiếm y, nhưng chưa được, lại bỏ ý định kiếm y nữa. Chỉ bỏ ý định kiếm y nữa thì lễ Kaṭhina của vị ấy hết hiệu lực.

    7. Tỳ khưu thọ lãnh lễ dâng y rồi, nghĩ rằng “Ta sẽ trở lại chùa cũ” rồi đem y chưa làm ra đi, khi đi ra khỏi ranh chùa cho người tiếp làm y đó, đến khi làm xong lại nghĩ “Ta sẽ trở về chùa” nhưng bị ngưng lại ngoài ranh chùa cho đến khi hết hạn kỳ lễ Kaṭhina, thì tự nhiên lễ ấy cũng đồng hết hiệu lực.

    8. Tỳ khưu thọ lãnh lễ dâng y rồi, nghĩ rằng “Ta sẽ trở lại chùa cũ” rồi đem y chưa làm ra đi, khi cho người tiếp làm y ấy xong lại nghĩ rằng “Ta sẽ trở về chùa” và cũng trở về đến đúng lúc lễ Kaṭhina hết hiệu lực chung cùng với các vị khác.

    Sự bận rộn hay ràng buộc – palibodha.

    Sự ràng buộc có 2 là: āvāsa palibodho: sự ràng buộc chỗ ở nhập hạ; cīvara palibodho: sự ràng buộc về y.

    Giải rằng: Thầy tỳ khưu trong Phật pháp khi ở nơi cư ngụ nào khi đi ra khỏi mà còn cố ý muốn “Ta sẽ trở lại” gọi là sự ràng buộc về chỗ ở, hoặc đã đi đến ở nơi chùa khác rồi mà vẫn còn mến tiếc sẽ trở lại chùa cũ nữa.

    Sự ràng buộc về y là: tỳ khưu sao chưa làm y hoặc làm mà chưa xong hoặc giã sự hy vọng còn kiếm y chưa dứt, như vậy gọi là sự ràng buộc về y.

    Hết hiệu lực hay hủy bỏ – ubbhāra.

    Hết hiệu lực hay hủy bỏ có 2 là: atthamātikā: sự hết hiệu lực của lễ Kaṭhina do 8 mẫu sanh matikā phía trước; anatarubbhāra: sự hết hiệu lực hay hủy bỏ lễ Kaṭhina do chư tăng nơi chùa đồng lòng đọc tuyên ngôn hủy bỏ do một nguyên nhân nào.

    Như có nhiều vị tỳ khưu khách đến y đều cũ hết, thiện tín thấy vậy rủ nhau dâng y vào chùa đến chư tăng, lẽ tự nhiên chư tăng đã thọ lễ Kaṭhina mới có quyền chia nhau mà thôi, thành ra các vị tăng khách y vẫn cũ rách. Thí chủ thấy vậy lấy làm lạ, bèn bạch hỏi vì lý do nào mà các vị khách tăng không được chia y mới dâng. Khi các vị tỳ khưu cho biết vì phước báu của lễ Kaṭhina nên mấy vị khách tăng không có quyền chia. Thí chủ bèn đem việc ấy bạch Phật làm cách nào cho các vị tăng được lãnh y mới.

    Đức Phật dạy rằng: Muốn cho các vị khách tăng ấy lãnh y được thì chư tăng tại chùa phải hội nhau lại đọc tuyên ngôn hủy bỏ lễ Kaṭhina đi thì tự nhiên phước báu của lễ Kaṭhina không còn hiệu lực nữa. Khi ấy thí chủ muốn dâng y đến các vị khách tăng thì mới thọ lãnh được.

    Bởi cớ ấy khi muốn hủy bỏ lễ Kaṭhina trước khi hết thời hạn, vì một lý do nào thì phải hội chư tăng đã lãnh lễ Kaṭhina lại mà đọc tuyên ngôn như vầy: “Sunātu me bhante saṅgho, yadi saṅghassa pattallaṃ saṅgho kathinaṃ uḍḍhareyya, esā ñati. Sunātu me bhante saṅgho saṅgho Kaṭhina uddhara ti yass’āyasmato khamati kathinassa uddharo so tunhassa yassa nakkhamati so bhāseyya, ubbha taṃ saṅghena kathinaṃ. Khamathi saṅghassa tasmā tunhī evametaṃ dhārayāmi – Kính bạch đại đức tăng, xin tăng nghe tôi trình bày, nếu thời giờ phù hợp đến chư tăng, vậy tăng nên hủy lễ Kathina, đây là lời tuyên ngôn. Bạch đại đức tăng, xin tăng nghe tôi trình bày, giờ tăng hủy bỏ lễ Kathina, sự hủy bỏ lễ Kaṭhina này vừa lòng vị nào thì xin vị ấy làm thinh, còn vị nào không vừa lòng thì xin vị ấy nói lên cho biết. Lễ Kaṭhina tăng đã hủy bỏ rồi, sự việc này hợp đến chư tăng, bởi vậy chư tăng mới làm thinh. Tôi xin ghi nhận sự ưng thuận của chư tăng do nơi sự làm thinh ấy”.

    Theo thông thường thì khi lễ Dâng y Kaṭhina hết hiệu lực vì bị hủy bỏ hoặc đứt 2 điều ràng buộc thì đương nhiên 5 phước báu cũng chấm dứt.

    -oo0ooo-

    (8) Nhập hạ có 2 kỳ là: kỳ trước kể từ rằm tháng 6 âl cho đến rằm tháng 9, kỳ sau kể từ rằm tháng 7 âl đến rằm tháng mười đây là nói năm điều hòa không có tháng nhuần khoảng ấy.

    (9) Sikkhāmānā tập sự trong 2 năm phải giữ 6 giới tới giới không ăn sái giờ, đúng 2 năm mới tu lên được tỳ khưu ni.

    (10) Như mới nhuộm y còn màu, như ngà voi, lá cây chính, vàng tươi, màu sen đỏ, màu rơm rạ, màu dừa lửa đều không được.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.