* Tích Uragajātaka
Đức-Phật thuyết giảng tích Uragajātaka được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh trong dòng bà-la-môn trong xóm nhà gần cửa thành Bārāṇasī, sống bằng nghề nông, gia đình Đức-Bồ-tát có một người vợ, một con trai, một con gái, một con dâu và một người tớ gái, gồm có 6 người sống hòa thuận thương yêu nhau được hạnh phúc an-lạc. Đức-Bồ-tát thường khuyên bảo 5 người thân rằng:
“Này các người thân! Các ngươi nên tạo phước-thiện bố-thí tùy theo khả năng của mình, nên giữ gìn ngũ-giới cho được trong sạch và giữ gìn bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng, nên thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết của mình (maraṇānussati) rằng: Sinh- mạng của ta là không bền vững, sự chết của ta là điều chắc chắn, ta phải chết là điều không sao tránh khỏi, sinh-mạng của ta có sự chết là cuối cùng, sinh-mạng của ta là vô thường, sự chết là thường.
Các ngươi không nên dể duôi suốt ngày đêm.”
Năm người thân trong gia đình nói lên lời hoan hỷ “sādhu” vâng theo lời khuyên bảo của Đức-Bồ-tát, nên họ đều là người không dể duôi, thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết.
Một hôm, Đức-Bồ-tát cùng với con trai đi ra đồng, Đức-Bồ-tát đang cày ruộng, còn con trai gom rác lại một chỗ rồi đốt. Gần chỗ ấy, có con rắn độc nằm trong hang, khói bay đến làm mắt của nó khó chịu, nó giận dữ bò ra thấy người con trai đang đốt rác, liền bò đến cắn người con trai, chất độc cực mạnh làm cho người con trai đau điếng, hét thất thanh, rồi chết ngay tại chỗ.
Nghe tiếng hét thất thanh của con trai, người cha ngưng cày, chạy đến thấy con trai đã chết, Đức-Bồ-tát thản nhiên ẵm thi thể con trai đến nằm dưới cội cây, đắp tấm vải lên thi thể, rồi Đức-Bồ-tát vẫn tự nhiên không có khổ tâm sầu não, trở lại tiếp tục cày ruộng, đồng thời niệm-niệm sự chết rằng:
Ngũ-uẩn có trạng-thái vô-thường, ngũ-uẩn có trạng-thái tan rã là thường, thì đã tan rã rồi; ngũ-uẩn có trạng-thái diệt là thường, thì đã diệt rồi, các pháp-hữu-vi có trạng-thái vô-thường.
Sinh-mạng của mỗi người là không bền vững, sự chết của mỗi người là điều chắc chắn, mỗi người phải chết là điều không sao tránh khỏi, sinh-mạng của mỗi người có sự chết là cuối cùng, sinh-mạng của mỗi người là vô thường, sự chết là thường.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát nhìn thấy người bạn thân từ xa đến gần, bèn hỏi rằng:
- Này bạn thân! Bạn có đến nhà tôi không?
- Thưa anh, tôi sẽ đến nhà anh.
- Này bạn thân! Nếu như vậy thì bạn báo cho vợ tôi biết rằng: “Hôm nay, không cần phải đem 2 phần ăn như mọi ngày, chỉ cần đem một phần ăn là đủ. Trước đây, chỉ có người tớ gái đem vật thực đến, nhưng mà hôm nay, tất cả 4 người đều mặc bộ quần áo màu trắng, cầm hoa và vật thơm đến đây.”
Người bạn thân nhận lời, rồi đến nhà gặp vợ của Đức-Bồ-tát, báo tin cho bà biết đúng như lời của Đức-Bồ-tát.
Sau khi nghe báo tin như vậy, người vợ của Đức-Bồ-tát cám ơn người bạn thân, liền biết rõ rằng: Đứa con trai yêu quý đã chết rồi.
Người mẹ của đứa con trai yêu quý chết vẫn thản nhiên, đại-thiện-tâm trong sạch của người mẹ, không hề tỏ vẻ khổ tâm sầu não, bởi vì bà hằng ngày đêm thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết.
Vâng theo lời phu quân, bà báo tin này cho 3 người thân trong gia đình, cả 3 người thân đều có đại-thiện-tâm trong sạch, nên không có người nào tỏ vẻ khổ tâm sầu não khóc than, bởi vì hằng ngày họ thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết.
Bốn người thân trong gia đình mặc bộ đồ màu trắng thản nhiên tay cầm hoa, vật thơm và một phần ăn cùng nhau đi ra đám ruộng. Khi ấy, Đức-Bồ-tát đang ngồi bên cạnh thi thể của con trai, chờ đợi 4 người thân trong gia đình đến.
Đức-Bồ-tát nhận phần ăn, rồi ngồi dùng vật thực, sau khi dùng vật thực xong, cả 5 người thân trong gia đình cùng nhau đi tìm củi đem về làm giàn thiêu.
Tất cả 5 người thân cùng nhau khiêng thi thể người chết đặt lên trên giàn thiêu, cúng dường vật thơm và hoa, rồi châm lửa làm lễ hỏa-táng thi thể người thân. Đức-Bồ-tát cùng với 4 người thân trong gia đình đều có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, nên không có một ai rơi một giọt nước mắt, bởi vì họ thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇā-nussati) hằng ngày đêm.
Do năng lực của giới và pháp-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati) của Đức-Bồ- tát và người thân trong gia đình làm cho chỗ ngồi của Đức-vua-trời Sakka phát nóng, Đức- vua-trời Sakka xem xét thấy rõ, biết rõ nguyên- nhân đó là do năng lực của giới và pháp-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati) của Đức-Bồ-tát và người thân trong gia đình của Ngài, nên Đức-vua-trời phát sinh đức-tin trong sạch nghĩ rằng:
“Trẫm sẽ ngự đến chỗ Đức-Bồ-tát và 4 người thân của Ngài, Trẫm sẽ được nghe lời nói hùng hồn như sư tử rống, rồi ban cho gia đình đầy thất báu.”
Đức-vua-trời Sakka liền hiện xuống biến hóa thành người đứng gần chỗ làm lễ hỏa-táng, truyền hỏi Đức-Bồ-tát rằng:
- Này quý vị! Quý vị đang thiêu đốt gì vậy?
* Đức-Bồ-tát thưa với người ấy rằng:
- Thưa Ngài, gia đình chúng tôi đang làm lễ hỏa-táng thi thể người thân.
* Đức-vua-trời Sakka truyền bảo rằng:
- Này quý vị! Quý vị không phải hỏa-táng thi thể người thân, dường như quý vị giết con nai, rồi đang nướng chín nó.
* Đức-Bồ-tát thưa với người ấy rằng:
- Thưa Ngài, điều mà Ngài nói không phải vậy, sự thật gia đình chúng tôi đang làm lễ hỏa- táng thi thể người thân.
* Đức-vua-trời Sakka truyền bảo rằng:
- Này quý vị! Nếu quý vị nói như vậy thì thi thể người ấy là người thù của quý vị.
* Đức-Bồ-tát thưa với người ấy rằng:
- Thưa Ngài, người ấy chính là đứa con trai ruột của tôi, không phải là người thù của gia đình chúng tôi.
* Đức-Vua-Trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Thưa ông! Nếu ông nói như vậy thì đứa con trai ấy là đứa con ngỗ nghịch, không phải là đứa con yêu quý của ông phải không?
* Đức-Bồ-tát thưa với người ấy rằng:
- Thưa Ngài, đứa con trai ấy là đứa con yêu quý nhất của tôi.
* Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Thưa ông! Sự thật như vậy, do nguyên nhân nào mà ông không khóc than thương tiếc đứa con yêu quý nhất của ông?
* Đức-Bồ-tát thưa với người ấy nguyên nhân không khóc than bằng câu kệ rằng:
Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ, hitvā gacchati saṃ tanuṃ. Evaṃ sarīre nibbhoge, pete kālakate sati. Ḍayhamāno na jānāmi, ñātīnaṃ paridevitaṃ. Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gati.
- Thưa Ngài, như con rắn lột da cũ, rồi bỏ đi, Cũng như vậy, con trai của tôi bỏ thân của nó, rồi đi tái-sinh kiếp sau. Sau khi nó chết, tái-sinh kiếp sau, còn lại thi thể không có cảm giác.
Thi thể con trai bị thiêu đốt không biết sự khóc than thương tiếc của những người thân quyến. Con trai của tôi có cõi-giới nào thì tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới ấy. Vì vậy, tôi không khóc than đứa con trai ấy.
Sau khi nghe Đức-Bồ-tát thưa bằng câu kệ hùng hồn như sư tử rống như vậy, tiếp theo Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi phu nhân của Đức-Bồ-tát rằng:
- Thưa bà! Người ấy là gì của bà vậy?
* Phu nhân của Đức-Bồ-tát thưa rằng:
- Thưa Ngài, người ấy là đứa con trai mà tôi đã mang thai 10 tháng, sinh ra đời được nuôi bằng sữa mẹ, được tôi nuôi nấng trưởng thành.
* Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Này bà! Người cha không khóc than thương tiếc đứa con trai yêu quý của mình, bởi vì đàn ông có tâm dũng cảm, còn bà là người mẹ có tình thương yêu đứa con yêu quý nhiều. Do nguyên nhân nào mà bà cũng không khóc than thương tiếc đứa con yêu quý của bà?
* Phu nhân của Đức-Bồ-tát thưa với người ấy nguyên nhân không khóc than bằng câu kệ rằng:
Anavhito tato āgā, ananuññāto ito gato. Yathā’gato tathā gato, tattha kā paridevanā. Ḍayhamāno na jānāmi, ñātīnaṃ paridevitaṃ. Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gati.
- Thưa Ngài, đứa con trai này tôi không mời từ cõi-giới khác, nó tự đến sinh trưởng trong gia đình chúng tôi, nay tôi không cho phép mà nó tự từ bỏ cõi người đi tái-sinh kiếp sau. Con trai của tôi đến cõi người thế nào, nay nó đi tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác thế ấy. Tôi khóc than thương tiếc đứa con trai trong cõi-giới ấy, có ích lợi gì cho tôi.
Thi thể con trai bị thiêu đốt không biết sự khóc than thương tiếc của những người thân quyến. Con trai của tôi có cõi-giới nào thì tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới ấy. Vì vậy, tôi không khóc than đứa con trai ấy.
Sau khi nghe phu nhân của Đức-Bồ-tát thưa bằng câu kệ hùng hồn như sư tử rống như vậy, tiếp theo Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi người con gái của Đức-Bồ-tát rằng:
- Này cô bé! Người ấy là gì của cô vậy?
* Con gái của Đức-Bồ-tát thưa rằng:
- Thưa Ngài, người ấy là anh trai ruột của tôi.
* Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Này cô bé! Theo lẽ thường em gái thương yêu anh trai của mình. Do nguyên nhân nào mà cô bé cũng không khóc than thương tiếc người anh trai yêu quý của cô?
* Con gái của Đức-Bồ-tát thưa với người ấy nguyên nhân không khóc than bằng câu kệ rằng:
Sace rode kisā assaṃ, tassā me kiṃ phalaṃ siyā. Ñātimittasuhajjānaṃ, bhiyyo no aratī siyā. Ḍayhamāno na jānāmi, ñātīnaṃ paridevitaṃ. Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gati.
- Thưa Ngài, anh trai của tôi đã chết, nếu tôi khóc than thương tiếc thì thân hình của tôi bị gầy yếu, có kết quả gì đối với tôi và anh trai của tôi. Thật ra, chỉ có sự buồn rầu khổ tâm sẽ phát sinh đối với thân quyến, bạn bè, người thân của tôi nhiều hơn mà thôi. Thi thể anh trai bị thiêu đốt không biết sự khóc than thương tiếc của những người thân quyến. Anh trai của tôi có cõi-giới nào thì tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới ấy. Vì vậy, tôi không khóc than người anh trai ấy.
Sau khi nghe con gái của Đức-Bồ-tát thưa bằng câu kệ hùng hồn như sư tử rống như vậy, tiếp theo Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi người con dâu của Đức-Bồ-tát rằng:
- Này cô nương! Người ấy là gì của cô vậy?
* Con dâu của Đức-Bồ-tát thưa rằng:
- Thưa Ngài, người ấy là phu quân của tôi.
* Đức-Vua-Trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Này cô nương! Theo lẽ thường người vợ thương yêu tha thiết chồng của mình. Do nguyên nhân nào mà cô nương cũng không khóc than thương tiếc người chồng yêu quý của cô nương?
* Con dâu của Đức-Bồ-tát thưa với người ấy nguyên nhân không khóc than bằng câu kệ rằng:
Yathāpi dārako candaṃ, gacchantam’anurodati. Evaṃ sampadamevetaṃ, yo petamanusocati. Ḍayhamāno na jānāmi, ñātīnaṃ paridevitaṃ. Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gati.
- Thưa Ngài, như đứa bé thơ nhìn thấy mặt trăng tròn trên không trung, khóc đòi xin cho được mặt trăng như thế nào, người nào khóc than thương tiếc đến người chết, đã tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác cũng như thế ấy. (không có khác gì nhau). Thi thể người chồng bị thiêu đốt không biết sự khóc than thương tiếc của những người thân quyến. Chồng của tôi có cõi-giới nào thì tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới ấy. Vì vậy, tôi không khóc than người chồng ấy.
Sau khi nghe con dâu của Đức-Bồ-tát thưa bằng câu kệ hùng hồn như sư tử rống như vậy, tiếp theo Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi người tớ gái của gia đình Đức-Bồ-tát rằng:
- Này bà! Người ấy là gì của bà vậy?
* Người tớ gái của gia đình Đức-Bồ-tát thưa:
- Thưa Ngài, người ấy là cậu chủ của tôi.
* Đức-vua-trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Này bà! Có phải bà thường bị cậu chủ ấy sai khiến hành hạ, hay bị cậu chủ ấy rầy la, nên bà không khóc than thương tiếc cậu chủ ấy, có phải vậy không?
* Người tớ gái thưa rằng:
- Thưa Ngài, Xin Ngài không nên nói như vậy, cậu chủ của tôi là người có đức tính nhẫn-nại, tâm-từ, thương yêu tất cả mọi người. Tôi thương yêu cậu chủ như là đứa con ruột của mình.
* Đức-Vua-Trời Sakka truyền hỏi rằng:
- Này bà! Nếu là như vậy thì tại sao bà không khóc than thương tiếc cậu chủ của bà vậy?
* Người tớ gái của gia đình Đức-Bồ-tát thưa với người ấy nguyên nhân không khóc than bằng câu kệ rằng:
Yathā ca udakakumbho, bhinnno appaṭisandhiyo. Evaṃ sampadamevetaṃ, yo petamanusocati. Ḍayhamāno na jānāmi, ñātīnaṃ paridevitaṃ. Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gati.
- Thưa Ngài, như nồi nước bằng đất bị vỡ ra từng mảnh vụn rồi, không thể gắn liền lại như xưa được như thế nào, người khóc than thương tiếc người chết, đã tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác rồi, không sao sống trở lại được cũng như thế ấy. Thi thể cậu chủ bị thiêu đốt không biết sự khóc than thương tiếc của những người thân quyến. Cậu chủ của tôi có cõi-giới nào thì tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới ấy. Vì vậy, tôi không khóc than cậu chủ ấy.
Sau khi Đức-Vua-Trời Sakka lắng nghe câu kệ của 5 người trong gia đình của Đức-Bồ-tát, nên phát sinh đức-tin trong sạch, rồi truyền bảo rằng:
- Kính thưa quý vị! Quý vị đều là những người không dể duôi, thực-hành đề-mục niệm- niệm sự chết (maraṇānussati). Kể từ nay, xin quý vị không cần làm lụng công việc gì, Trẫm là Đức-vua-trời Sakka có đức-tin trong sạch nơi quý vị, Trẫm ban tặng 7 thứ báu nhiều vô hạn trong ngôi nhà của quý vị. Xin quý vị tạo phước-thiện bố-thí, giữ gìn giới trong sạch, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati).
Sau khi truyền bảo như vậy, Đức-vua-trời Sakka ban tặng 7 thứ báu nhiều vô hạn trong ngôi nhà của Đức-Bồ-tát, rồi hồi cung ngự trở về cung trời Tam-thập-tam-thiên.
Sau khi nghe Đức-Phật thuyết giảng tích Uragajātaka xong, người cận-sự-nam gia chủ có người con trai chết, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Tích Uragajātaka liên quan đến kiếp hiện-tại
Tích Uragajātaka này, Đức-Bồ-tát là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu-kiếp của những nhân vật trong tích Uraga-jātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:
- Phu-nhân của Đức-Bồ-tát, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā.
- Đứa con trai của Đức-Bồ-tát, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Rāhula.
- Đứa con gái của Đức-Bồ-tát, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā.
- Người tớ gái của gia đình Đức-Bồ-tát, nay kiếp hiện-tại là cận-sự-nữ pháp-sư Khujjuttarā.
- Đức-Bồ-tát, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
Nhận xét về tích Uragajātaka
Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama truyền dạy những người thân trong gia đình không nên dể duôi hằng ngày đêm nên thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati), đó là 1 trong 40 đề-mục thiền-định.
Sự chết (maraṇa) là cuối cùng của tất cả chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng, chắc chắn không có một ai tránh khỏi được.
* Nếu người nào hằng ngày đêm thường thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati):
- Trong cuộc sống hằng ngày, nếu người ấy nghe hoặc thấy người thân nào chết, thì người ấy vẫn có đại-thiện-tâm bình tĩnh không khóc than, bởi vì sự khóc than không có lợi ích gì cho người thân đã chết, cũng không có lợi ích cho mình cả, thậm chí sự khóc than còn làm cho những người thân trong gia đình bà con thân quyến thêm khổ tâm mà thôi.
- Nếu người ấy đến lúc lâm chung thì có đại- thiện-tâm tỉnh táo không sợ chết, sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là paṭi-sandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi thiện dục-giới.
* Nếu người nào hằng ngày đêm không thường thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết:
- Trong cuộc sống hằng ngày, nếu người ấy nghe hoặc thấy người thân nào chết, thì đó là điều mà người ấy không muốn nghe, không muốn thấy, bởi vì người ấy có tham-tâm muốn người thân ấy sống, nhưng mà người thân ấy đã chết, đó là điều mất mát, nên người ấy phát sinh sân-tâm khổ tâm sầu não, khóc than thương tiếc người thân ấy đã chết.
- Nếu người ấy đến lúc lâm chung thì có bất-thiện-tâm (ác-tâm) hoảng hốt sợ chết mà phải chết, sau khi người ấy chết, nếu bất-thiện-nghiệp trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là paṭisandhicitta: ác-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới là (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp trong cõi ác-giới ấy.
Cho nên, sự chết là cuối cùng của mỗi kiếp chúng-sinh lớn nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh nói chung, mỗi kiếp người nói riêng, chắc chắn không có ai tránh khỏi được. Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày đêm nên thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati) rằng:
“Addhuvaṃ me jīvitaṃ, dhuvaṃ me maraṇaṃ, avassaṃ mayā maritabbameva, maraṇapariyosānaṃ me jīvitaṃ, jīvitameva aniyataṃ, maraṇaṃ niyataṃ.”
“Sinh-mạng của ta là không bền vững, sự chết của ta là chắc chắn, ta phải chết là điều không sao tránh khỏi, sinh-mạng của ta có sự chết là cuối cùng, sinh-mạng của ta là vô thường, sự chết là thường.”
Nếu người nào hằng ngày đêm thường thực-hành đề-mục niệm-niệm sự chết (maraṇānussati) thì khi nghe hoặc thấy người thân nào đã chết, người ấy vẫn có đại-thiện-tâm bình tĩnh sáng suốt biết làm tròn bổn phận của mình đối với người thân đã chết ấy. Hoặc người ấy đến lúc lâm chung, vẫn có đại-thiện-tâm tỉnh táo không sợ chết, nên sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới.
Nguồn: Jātakaṭṭhakathā, Pañcakanipāta, Maṇikuṇḍalavagga, Uragajātaka.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.