Chương II. Uất Ba Lợi Phẩm (Ubbarīvagga)

Chương II. Uất Ba Lợi Phẩm (Ubbarīvagga)

    THERAVĀDA
    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ SỰ

    Dịch từ Pāli sang Anh ngữ: PETER MASEFIELD
    Việt dịch: Tỳ khưu MINH HUỆ

    Ấn bản 2007

    CHƯƠNG II

    UẤT BA LỢI PHẨM (UBBARĪVAGGA)

    *

    II.1 LY LUÂN HỒI QUỶ SỰ (SAṂSĀRAMOCAKA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Người trần truồng và có hình tướng thô xấu".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm viên, liên quan đến một nữ Ngạ quỷ nọ trong ngôi làng tên là Iṭṭhakārati, thuộc vương quốc Magadha.

    Tương truyền rằng, trong vương quốc Magadha có hai ngôi làng, Iṭṭhakāvatī và Dīgharājī, ở đó có nhiều kẻ ngoại đạo Saṃsāramocaka trú ngụ. Cách đây đã lâu, khoảng năm trăm năm về trước, một nữ nhân nọ sanh trong gia đình Saṃsāramocaka ngay tại đó ở Iṭṭhakāvatī, và do bởi những tà kiến của nàng, nàng đã giết hại nhiều côn trùng và châu chấu và tái sanh trong cõi Ngạ quỷ; Ở đó, nàng chịu khổ đói và khổ khát trong năm trăm năm. Rồi khi Ðức Thế Tôn của chúng ta đã sanh ra trong thế gian và đã lăn bánh xe diệu pháp, và đến đúng thời kỳ đến trú ngụ tại trúc lâm viên, gần Rājagaha, nàng lại sanh trở lại trong cùng gia đình Saṃsāramocaka ấy trong cùng ngôi làng Iṭṭhakāvatī ấy. Rồi một hôm nọ, khi nàng đã được bảy hoặc tám tuổi và đang mãi vui chơi với những cô gái trên con đường lớn, Ðại Ðức Trưởng lão Sārīputta, khi đang ngụ tại tịnh xá Anuravatī gần ngôi làng ấy, đi qua chính con đường gần cổng làng ấy, được tháp tùng bởi mười hai vị Tỳ khưu. Ngay lúc ấy, nhiều cô gái của ngôi làng ấy, sau khi đã rời khỏi ngôi làng, đang chơi gần cổng làng, theo phong tục của cha mẹ chúng, chúng bèn nhanh chóng đi đến với tâm Ðạo nhiệt thành, và đảnh lễ Trưởng lão và những vị Tỳ khưu khác với năm điểm chạm đất. Tuy nhiên, cô gái trong gia đình của những người không có đức tin ấy, lại tỏ ra bất kính và thiếu những tánh tốt của những người có giới đức, lại tỏ ra vô học. Do nàng đã không tích lũy những thiện nghiệp trong một thời gian dài, vẫn đứng như người thất học. Trưởng lão thấy rõ tánh hạnh trong quá khứ của nàng, sự tái sanh hiện tại của nàng trong gia đình Saṃsāramocaka, và thấy rằng nàng đáng bị sanh trong địa ngục trong tương lai. Trưởng lão biết rằng: nếu nàng đảnh lễ Ngài thời nàng sẽ không tái sanh trong địa địa ngục, dầu nàng có sanh trong cõi Ngạ quỷ nàng cũng được sự thù thắng do ngài, Trưởng lão nói với những cô ấy rằng, "các con thì đảnh lễ những vị Tỳ khưu, nhưng cô gái này thì vẫn đứng như người không được giáo dục vậy". Rồi những cô gái ấy túm lấy hai tay của cô gái, kéo nàng tới và bằng sự thúc ép, khiến nàng đảnh lễ dưới chân của Trưởng lão. Ðến đúng thời, nàng đến tuổi thanh xuân và được gả cho một chàng trai nọ thuộc một gia đình Saṃsāramocaka trong ngôi làng Dīgharājī. Khi nàng sắp sanh,thì nàng chết và sanh trong cõi Ngạ quỷ, trần truồng, và có hình tướng gớm guốc, trông thật ghê tởm; khi đi lang thang vào lúc đêm tối, nàng hiện ra trước mặt Trưởng lão Sārīputta và rồi đứng ở một bên. Khi trông thấy nàng, Trưởng lão bèn hỏi nàng bằng câu kệ này:

    1. "Nàng trần truồng và có hình tướng gớm guốc, gầy mòn với những đường gân lồ lộ. Nàng là một kẻ gầy ốm, với những xương sườn lộ ra, bây giờ, nàng là ai mà đứng ở đây?"

    Khi nghe qua điều này, nữ Ngạ quỷ ấy nói lên câu kệ này để cho biết về chính nàng:

    2. Thưa Ngài, em là một nữ Ngạ quỷ, đã đi đến cõi Ngạ quỷ trong thế giới của Yama; khi đã làm ác nghiệp, em đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ.

    Ðược hỏi thêm một lần nữa bởi Trưởng lão về nghiệp mà nàng đã làm:

    3. "Bây giờ ác nghiệp nào mà ngươi đã làm bằng thân, khẩu và ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi ra đi từ đây đến cõi của những Ngạ quỷ?"

    Nàng nói lên ba câu kệ để cho thấy rằng vì đã sống với lòng bỏn sẻn và thiếu đức bố thí, nàng đã phải sanh trong Ngạ quỷ và chịu nhiều thống khổ như vậy:

    4. "Thưa Ngài, trước kia em không có cha mẹ, hay những quyến thuộc khác, thậm chí cũng không có những người mà có lòng thương xót em, để khuyên rằng: Hãy bố thí với tâm đạo nhiệt thành đến các vị Sa-môn, Bà-la-môn".

    5. Từ nay trở đi, trong năm trăm năm, em phải đi lang thang trần truồng như thế này, bị đốt cháy bởi cơn đói và sự khát dục. Ðây là quả về ác nghiệp của em.

    6. Con xin đảnh lễ Ngài, thưa bậc Ứng Cúng, bằng tâm đạo tín thành; xin hãy thương xót con, hỡi bậc Vĩ Ðại Và Kiên Quyết. Xin hãy bố thí một cái gì đó và hồi hướng phước thí ấy đến cho con; xin hãy giải thoát cho con ra khỏi cảnh khổ này, thưa Ngài.

    Ba câu kệ này được nói bởi những vị kiết tập Tam tạng, để cho thấy tánh cách mà Trưởng lão thực hiện khi nữ Ngạ quỷ ấy đã nói như vậy:

    7. "Tốt lắm", Trưởng lão Sārīputta đồng ý, người có lòng bi mẫn, và đã cho đến các vị Tỳ khưu một miếng vật thực, một miếng vải có kích thước một gang tay và một bát nước, và hồi hướng phước thí này đến cho nàng.

    8. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, y phục, thức uống, là kết quả của phước thí này.

    9. Nhân đó, nàng được thanh tịnh, mặc y phục sạch sẽ và tươi sáng, là loại vải mịn hơn những thứ của xứ Kāsi; và được trang sức bằng nhiều loại y phục và vật trang sức, nàng đi đến Trưởng lão Sārīputta.

    Rồi khi Ðại Ðức Sārīputta trông thấy nữ Ngạ quỷ ấy sau khi đã đến trước mặt Ngài, đứng với các căn đã được làm cho tươi sáng, có nước da hoàn toàn thuần tịnh và được trang sức bằng những y phục và những vật trang sức của chư Thiên, và làm sáng lên mọi thứ quanh nàng bằng hào quang của chính nàng, vị ấy nói ba câu kệ này khi muốn nàng giải thích kết quả của những nghiệp mà nàng đang thọ hưởng:

    10. Ai mà đứng với sắc đẹp tuyệt trần, này tiên nữ, chiếu sáng khắp các hướng như được Vương Tinh.

    11. Sắc đẹp của nàng như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu bởi nàng ở đây và có sanh lên bất cứ dục lạc nào mà nàng ưa thích?

    12. Ta hỏi nàng, này Devī có đại oai lực, việc phước gì mà ngươi đã làm khi ngươi còn làm người? Do điều gì mà oai lực của ngươi sáng chói như vậy và sắc đẹp của ngươi chiếu sáng khắp mười phương?

    Nữ Ngạ quỷ ấy, khi được hỏi bởi Trưởng lão, bèn nói lên những câu kệ còn lại để làm sáng tỏ lý do về cách mà sự thù thắng này của nàng đã được nhận lãnh:

    13. Vị thánh đầy lòng bi mẫn đối với thế gian trông thấy con đã đi vào kiếp sống đau khổ - vàng vỏ, gầy ốm, đói khát, trần truồng, với da nhăn nheo.

    14. Vị ấy đã cho đến các vị Tỳ khưu một miếng vật thực, một mảnh vải có kích thước một gang tay và một bát nước, và hồi hướng phước ấy cho con.

    15. Hãy xem quả của miếng cơm ấy: Trong một ngàn năm con sẽ ăn vật thực được gia vào nhiều gia vị, vui hưởng với tất cả những gì đem lại sự thỏa mãn cho những ước muốn của con.

    16. Hãy xem loại kết quả có được của một mảnh vải chỉ bằng gang tay: nhiều y phục như trong khắp cõi của vua Nanda.

    17. Còn hơn thế nữa, thưa Ngài, là những y phục và những đồ trải bằng lụa và bằng vải len, vải lanh và vải sợi của con.

    18. Chúng có nhiều và đắt quý. Chúng còn thòng xuống từ bầu trời; và con chỉ mặc vào bất cứ cái gì mà con thấy thích.

    19. Hãy xem loại kết quả có được từ một bát nước: những hồ sen được khéo bố trí ở ngoài và có bốn góc.

    20. Với nước trong và những bờ hồ xinh đẹp, mát và thơm, được phủ lên bằng những hoa sen và hoa súng, nước đầy những nhụy sen.

    21. Và con vui thích, chơi giỡn và vui sướng, chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào. Bạch Ngài, con đến đây để đảnh lễ Bậc hiền trí có lòng bi mẫn đối với thế gian.

    Chú giải:

    Nữ Ngạ quỷ nói, "Nhiều y phục như trong khắp cõi của vua Nanda, v.v..." Bây giờ về điều này, vua Nanda là ai?

    Tương truyền rằng cách đây đã lâu, khi thọ mạng của loài người là mười ngàn năm, một người có của cải, là thường dân của xứ Ba-la-nại, trông thấy một vị Phật Ðộc Giác nọ khi ông ta đang đi bộ trong rừng. Ðức Phật Ðộc Giác đang làm một chiếc y tại đó, nhưng đã gấp nó lại và bắt đầu đem cất, vì phần nối bị thiếu. Khi người đàn ông có của cải trông thấy cảnh này, ông ta nói rằng, "Bạch Ngài, Ngài đang làm gì thế? Dầu Ngài chẳng nói gì do lòng tri túc của Ngài, ông ta vẫn biết rằng vật liệu làm y bị thiếu, bèn đặt chiếc áo choàng của ông ta dưới chân của Ðức Phật Ðộc Giác. Ðức Phật Ðộc Giác nhặt lấy nó và, khi thêm nó vào chỗ vá, làm thành chiếc y và mặc nó vào. Vào lúc thân hoại mạng chung, người đàn ông có của cải ấy chết và tái sanh trong cõi trời Ba mươi ba. Vị ấy thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên ở đó đến hết thọ mạng của mình, và khi mạng chung từ cõi ấy, sanh vào trong gia đình của một vị Tư tế quan trong một ngôi làng nọ cách Ba-la-nại một do tuần. Vào lúc vị ấy đến tuổi thành niên, thì lễ hội ăn mừng tháng mới được công bố trong ngôi làng đó. Chàng trai nói với mẹ của mình rằng, "thưa mẹ, hãy cho con một chiếc áo choàng để con có thể đi dự hội ăn mừng tháng mới". Bà ta lấy ra một chiếc áo mới và trao cho cậu. "Thưa mẹ, chiếc áo này thô quá". Chàng trai nói. Bà ta lấy ra một chiếc áo khác và trao nó cho cậu, nhưng cậu ta cũng từ chối chiếc áo này. Rồi người mẹ nói với cậu ta rằng, "này con, từ khi chúng ta sanh vào trong gia đình này, chúng ta không tạo những phước nào để có những y phục tốt hơn những thứ này nữa". "con sẽ đi đến một chỗ để kiếm ra nó, thưa mẹ". "Thế thì hãy đi đi, này con, mẹ muốn rằng chính ngày hôm nay con có thể có được quyền cai trị vương quốc Ba-la-nại này". "Tốt lắm, thưa mẹ" cậu ta đáp lại. Chàng trai cúi chào mẹ, đi vòng quanh bà ta về hướng phải và nói rằng, "xin chào mẹ". "Chào con". Tương truyền rằng ý nghĩ xảy đến với bà ta rằng, "nó có thể đi đâu? nó chỉ có thể ngồi chỗ này chỗ kia quanh ngôi nhà này mà thôi". Nhưng bị thôi thúc bởi những việc phước của mình, cậu ta rời khỏi ngôi làng và đi đến Ba-la-nại; ở đó cậu ta nằm xuống trên một tảng đá có điềm may sau khi che người từ đầu trở xuống. Lúc bấy giờ là ngày thứ bảy sau khi đức vua băng hà. Khi những vị quan cố vấn đặc biệt của đức vua và vị Tư tế quan đã làm lễ mai táng rồi, họ ngồi trong sân triều và bàn luận với nhau rằng, "Có một đứa con gái của đức vua, nhưng không có đứa con trai nào cả; Một vương quốc mà không có vua thì không tồn tại được. Chúng ta phải gởi đi một chiếc xe hoa". Họ thắng ách bốn con ngựa có màu hoa sen trắng và để vào trong chiếc xe năm biểu tượng của đức vua, đứng đầu là cái lọng trắng. Rồi họ cho chiếc xe đi và cho trổi nhạc ở đằng sau. Chiếc xe đi về cổng đông và hướng về vườn ngự uyển. Một số người nói rằng, "Chiếc xe đang đi về vườn ngự uyển theo thói quen, hãy quay nó lui". Nhưng vị Tư tế quan nói rằng, "đừng quay nó lui". Chiếc xe đi vòng quanh chàng trai về hướng phải và rồi đứng chờ sẵn để người ấy leo lên. Vị Tư tế quan dỡ lên một góc của tấm chăn, quan sát hai lòng bàn chân của vị ấy và nói rằng, "Hãy để chàng trai này làm nơi nương tựa của chúng ta- vị ấy có thể tạo ra độc nhất một vương quốc gồm cả bốn châu và hai ngàn đảo vây quanh", và rồi sai trổi nhạc ba lần khi nói rằng, "Hãy trổi nhạc lên, hãy trổi nhạc lên nữa đi!" chàng trai mở tấm chăn trên mặt ra, nhìn quanh người của vị ấy và nói rằng, "này ông bạn, ông đến đây có chuyện gì thế?" "Tâu bệ hạ, vương quốc đã đến với bệ hạ". "Vua của các ngươi đâu?" "Vị ấy đã thăng hà rồi, tâu chúa thượng". "Bao nhiêu ngày rồi?" "Hôm nay là ngày thứ bảy rồi". "Không có con trai hay con gái nào à?" "Chỉ có một đứa con gái, tâu bệ hạ, nhưng không có con trai". "Thôi được, nếu vậy thì ta sẽ cai trị". Ngay tức thì họ dựng lên một nhà mát để phong vương cho vị ấy, trang sức cho đứa con gái của đức vua bằng tất cả những vật trang sức của nàng, dẫn nàng đến vườn ngự uyển và phong vương cho chàng thanh niên. Khi vị ấy đã được phong vương, họ dâng đến cho vị ấy những tấm vải trị giá một trăm ngàn đồng, "Ðây là cái gì, này các bạn". Vị ấy hỏi, "những chiếc y của bệ hạ, tâu bệ hạ". "Chúng không thô, phải không các bạn?" "không có những thứ nào tốt hơn những thứ này trong bất cứ những y phục nào được dùng bởi loài người, tâu bệ hạ". "Vua của các ngươi có mặc giống như thế này không?" "thưa có, tâu bệ hạ". "Ta không nghĩ rằng vua của các ngươi có phước. Hãy đem đến cho ta một cái bình nước bằng vàng và ta sẽ kiếm một số y phục". Họ đem đến cái bình bằng vàng. Vị ấy đứng lên, rửa tay, súc miệng và, khi cầm một ít nước trong tay, rảy nó vào hướng đông, nhân đó tám cây như ý rẽ đất mọc lên. Vị ấy lại lấy một ít nước và rảy nó vào hướng nam, hướng tây và hướng bắc, khi rảy nước như vậy vào các hướng, thời mỗi nơi trong tất cả các hướng ấy vị ấy đã tạo ra tám cây để có ba mươi hai cây như ý mọc lên tất cả. Một số người nói rằng trong mỗi hướng, vị ấy tạo ra mười sáu cây để có tất cả sáu mươi bốn cây. Chàng trai mặc vào một chiếc của chư Thiên, đắp quanh người và nói rằng, "hãy cho đánh trống rao truyền rằng trong mỗi lãnh thổ của vua Nanda, người đàn bà làm nghề xe chỉ không cần xe chỉ nữa".

    Vị ấy bảo họ trương lên chiếc lọng và, khi đã mặc y phục, trang sức và cỡi trên con voi oai phong nhất, đi vào thành phố, đi lên cung điện và thọ hưởng sự vinh quang vĩ đại.

    Thắm thoát một thời gian, đến một hôm nọ, hoàng hậu khi trông thấy sự vinh quang của đức vua, đã tỏ tình thương của nàng bằng cách nói rằng, "chắc chắn bệ hạ cần tỏ nhiều tiết chế hơn". Khi được hỏi, "nàng muốn ám chỉ gì, này ái khanh?" nàng bèn nói rằng, "Ngài có sự vinh quang tột độ, tâu bệ hạ. Có một thời nào đó trong quá khứ, chắc bệ hạ đã làm những việc thiện, nhưng bây giờ, bệ hạ không làm những việc thiện vì hạnh phúc trong tương lai của bệ hạ". "Chúng ta có thể bố thí đến cho ai? không có những bậc giới đức". "Tâu bệ hạ, cõi Jambudīpa này không thiếu những vị A-la-hán. Bệ hạ chỉ cần sửa soạn những vật thực và thiếp sẽ thỉnh những vị A-la-hán", nàng nói. Vào ngày hôm sau, đức vua sai sửa soạn một cuộc bố thí vĩ đại. Hoàng Hậu khấn nguyện rằng, "nếu có những vị A-la-hán trong hướng này, thì xin các Ngài hãy đến đây và thọ lãnh những vật thí từ chúng con!" và nằm sấp xoay mặt về hướng bắc. Ngay khi hoàng hậu đang nằm thì Ðức Phật Ðộc Giác Paduma, là vị cao hạ nhất trong năm trăm vị Phật Ðộc Giác, là những đứa con trai của hoàng hậu Padumavatī và đang trú ngụ trong vùng Hy Mã Lạp Sơn, nói với huynh đệ của vị ấy: "Vua Nanda đang thỉnh các tôn giả, thưa chư tôn giả - chư tôn giả nên nhận lời của vị ấy". Họ đồng ý và ngay tức thì đi xuyên qua hư không và đáp xuống ở cổng bắc. Dân chúng báo tin với đức vua rằng, "Tâu bệ hạ, năm trăm vị Phật Ðộc Giác đã đến". Ðức vua đi cùng với hoàng hậu ra đảnh lễ các Ngài, lãnh bát của các Ngài và mời các Ngài vào trong hoàng cung; Ở đó, vị ấy cúng dường những vật thí đến các Ngài. Khi bữa ăn đã kết thúc, họ bèn quì xuống, đức vua ở dưới chân của vị cao hạ nhất và hoàng hậu ở dưới chân của những vị nhỏ hạ hơn, họ bạch rằng, "Các bậc Ứng Cúng sẽ sống không thiếu những vật dụng; Những việc phước của chúng con sẽ không suy giảm. Xin hãy cho chúng con lời đồng ý của các Ngài mà ở lại đây". Khi đã được sự đồng ý của các Ngài, vị ấy sai dựng lên những chỗ ngụ trong vườn ngự uyển và hầu hạ chư Phật Ðộc Giác suốt cuộc đời còn lại của họ. Khi các Ngài nhập Niết bàn, đức vua sai tổ chức những buổi lễ thiêng và tổ chức những nghi lễ mai táng bằng gỗ chiên đàn và những thứ khác, và rồi lấy xá lợi của các Ngài và tôn trí những xá lợi ấy trong một bảo tháp. Ðầy xúc động khi nghĩ rằng, "nếu cái phải đến với ngay cả những vị ẩn sĩ có đại oai lực này, thì có lời nào có thể được nói về những người như ta?" Vị ấy phong vương cho đứa con trai đầu của mình, rồi chính vị ấy ra đi, sống đời không nhà của một vị ẩn sĩ. Hoàng hậu, khi tự hỏi nàng có thể làm gì khi xét thấy đức vua đã xuất gia rồi, cũng đi xuất gia. Khi trú ngụ trong vườn ngự uyển, hai vị đạo sĩ này đã khiến cho những tầng thiền sanh lên và trải qua thời gian của họ trong pháp an lạc của thiền định. Vào lúc kết thúc thọ mạng của họ, họ sanh trong cõi phạm thiên. Tương truyền rằng Trưởng lão Mahākassapa, một đại Thinh văn của Bậc Ðạo sư của chúng ta, là đức vua Nanda ấy; và Bhaddā Kapilānī là hoàng hậu của vị ấy. Trong mười ngàn năm, chính vua Nanda này đã mặc những y phục của chư Thiên, vị ấy đã khiến cho toàn thể lãnh thổ của vị ấy giống như Uttarakuru và đã bố thí những y phục của chư Thiên đến các bậc Ứng Cúng. Bấy giờ khi đề cấp đến sự vinh quang này, nữ Petī nói rằng, "có nhiều y phục như trong khắp lãnh thổ của vua Nanda".

    Cái mà không được phân tích ở đây về ý nghĩa của nó thì đã được nêu ra ở chỗ khác. Khi điều này được nói bởi nữ Petī ấy, Ðại đức Sārīputta bèn kể lại đầy đủ chi tiết của câu chuyện đến mọi người - là những dân cư của hai ngôi làng Itthakāvatī và Dīgharājī mà đã đến yết kiến trưởng lão - đã khiến cho họ xúc động và diệt trừ tà kiến Samsāramocaka của họ, và rồi an trú họ thành những thiện tín. Vấn đề này được các vị Tỳ khưu biết đến và họ nêu lên vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết Pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Thời Pháp đem lại lợi ích cho nhiều Người ở đó.

    *

    II.2 XÁ LỢI PHẬT MẪU QUỶ SỰ (SĀRĪPUTTATHERAMĀTU PETAVATTHUVAṆṆAN)

    "Người trần truồng và có hình tướng ghê tởm".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm viên, liên quan đến một Nữ Ngạ quỷ mà đã từng làm Mẹ của Trưởng lão Sārīputta trong bốn kiếp về trước.

    Một hôm Ðại Ðức Sārīputta, Ðại Ðức Moggallāna, Ðại Ðức Anurudha và Ðại Ðức Kappina đang trú ngụ ở một khu rừng nọ không cách xa thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, tại Ba-la-nại có một vị Bà-la-môn có của cải lớn, đầy những kho chứa vàng và bạc. Ông ta là người hay bố thí đồ ăn, thức uống, y phục, và giường nằm và những thứ khác đến các vị Sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ, người lang thang, người đi đường xa và người ăn xin, như một cái giếng cho nước vậy. Vị ấy bố thí đến các vị A-la-hán theo đúng nhu cầu của các ngài, cung cấp mọi vật thí cần được cho ra như nước để rửa chân, những loại dầu xức để thoa chân v.v... Cũng như chăm sóc các vị Sa-môn hết mức bằng đồ ăn và thức uống v.v... cho bữa phạn thực của các Ngài. Khi đi đến những vùng khác, ông ta thường nói với vợ rằng "Này hiền thê, hãy tiếp tục chăm lo hình thức bố thí vật thực này như tôi đã sắp xếp nó, đừng để cho nó suy giảm." "Tốt lắm", bà ta đồng ý, nhưng khi ông ta đã đi khỏi rồi thì bà ta chấm dứt hình thức bố thí mà ông ta đã sắp xếp cho các vị Tỳ khưu. Bà ta thường chỉ cho những người đi đường xa, đến để xin chỗ trú ngụ, một cái láng cũ kỹ đã bị bỏ đi ở sau hè nhà, khi nói rằng, "Các ngươi có thể ở đây". Ðối với những người khách lữ hành đi đến đó để xin vật thực và thức uống v.v.. thì bà ta lại nói rằng, "Hãy ăn phẩn, uống nước đái, uống máu; hãy ăn óc não của mẹ các ngươi!" và nguyền rủa họ bằng tên của bất cứ cái gì nhơ nhuốc và bất tịnh.

    Ðến đúng thời kì, bà ta chết và bị kéo đi bởi nghiệp lực của bà ta, bà ta tái sanh trong cõi Ngạ quỷ, chịu sự thống khổ tương ứng với ác hạnh về lời nói của bà ta. Khi nhớ đến mối liên quan của chúng trong kiếp trước và muốn đi đến yết kiến Ðại Ðức Sārīputta, nữ Ngạ quỷ đi đến tinh xá của vị ấy, nhưng vị chư Thiên bảo vệ của tinh xá ấy không chịu cho nàng vào tịnh xá. Tương truyền rằng nàng đã từng làm mẹ của Trưởng lão trong kiếp quá khứ cách bốn kiếp về trước. Do đó, nàng bèn nói rằng, "trong kiếp quá khứ của tôi, tôi là mẹ của Trưởng lão cao quý Sārīputta; xin hãy cho phép tôi đi qua cổng để thăm Trưởng lão." khi nghe qua lời này, những vị chư Thiên bèn cho phép nàng. Khi nàng đã đi vào, đứng ở cuối của con đường kinh hành và hiện ra trước mặt Trưởng lão. Trưởng lão trông thấy nàng, tâm của vị ấy vị rung động bởi lòng bi mẫn và hỏi nàng bằng câu kệ này:

    1. "Người trần truồng và có hình tướng ghê tởm, gầy ốm với những đường gân lộ ra. Ngươi là con người gầy ốm, với những xương sườn lồi ra. Bây giờ ngươi là ai, ngươi là ai mà đứng ở đây?

    Khi được hỏi bởi Trưởng lão, nàng bèn nói năm câu kệ này để đáp lại:

    2. "Tôi chính là mẹ của Ngài trong những kiếp quá khứ khác, nhưng bây giờ tôi đã sanh trong cõi Ngạ quỷ, bị đói và khát.

    3. Những thứ quăng bỏ, những đồ khạt nhổ, nước dãi, nước mũi, đờm, mỡ của những xác người đang bị đốt cháy và máu của những người đàn bà đẻ,

    4. Và máu từ những vết thương và từ những cái mũi và đầu bị cắt. Do bị đói, tôi đã ăn cái gì dính theo những đàn ông và đàn bà.

    5. Tôi ăn mủ máu của gia súc và của loài người, lại không có vật che thân và nhà cửa, phải nằm trên cái giường đen.

    6. Này con thân, hãy cho giùm mẹ một vật thí, và khi con đã cho rồi, hãy hồi hướng nó đến cho mẹ. Chắc vậy, khi ấy mẹ sẽ được tự do, không còn ăn máu và mủ nữa.

    Khi đã nghe qua điều này, vào ngày hôm sau, Ðại đức Sārīputta bàn bạc với ba vị Trưởng lão, là Trưởng lão Mahā Moggallāna v.v... Và khi đang đi chung với họ đến thành Vương xá để khất thực, bèn đi đến chỗ ngụ của vua Bimbisāra. Khi đức vua trông thấy Trưởng lão, vua đảnh lễ Trưởng lão và hỏi Trưởng lão về lý do của chuyến viếng thăm: "Bạch Ðại Ðức, Ngài đến đây có mục đích gì?" Ðại đức Mahā Moggallāna báo tin cho đức vua biết về biến cố ấy. Ðức vua nói rằng, "Trẫm cho phép Ngài", và rồi tiễn đưa các vị Trưởng lão ra về. Ðức vua bảo vị quan của mình lo mọi chuyện và truyền lệnh rằng, "Hãy xây dựng bốn cái cốc gần thành phố, trong một khu rừng, có bóng mát và có nước". Vị ấy chia nhóm thợ trong nội thành ra ba nhóm theo đúng với nghề nghiệp chuyên môn của họ, sai che mái trên phước xá, rồi tự thân đi đến đó và làm điều gì cần phải làm. Khi những ẩn xá đã hoàn thành, vị ấy sai sửa soạn tất cả những vật thí cúng dường và tất cả những vật dụng thích hợp như vậy, những thức uống và y phục v.v... Cũng sai chuẩn bị sẳn để mời chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu và rồi trao tất cả phần việc này cho Ðại Ðức Sārīputta. Rồi Ðại Ðức Sārīputta bố thí những thứ này nhân danh Ngạ quỷ ấy, đến chư Tăng từ bốn phương có đức Phật dẫn đầu. Nữ Ngạ quỷ ấy bày tỏ tùy hỷ của nàng đến vị ấy và được sanh trong cõi Devaloka (cõi chư Thiên), có đầy đủ tất cả những gì mà nàng muốn. Vào ngày sau, nàng đi đến Trưởng lão Mahā Moggallāna, đảnh lễ Ngài và rồi đứng yên trong khi Trưởng lão hỏi nàng. Nàng bèn kể cho Trưởng lão nghe đầy đủ chi tiếc về cách mà nàng đã sanh làm một nữ Ngạ quỷ và làm một vị Nữ thần. Vì lý do này có lời nói rằng:

    7. "Khi vị ấy đã nghe qua những lời mà mẹ của vị ấy đã phải nói, Upatissa, đầy lòng thương xót, bèn hỏi ý kiến MoggallānaAnuruddha và Kappinā.

    8. Vị ấy dựng lên bốn phước xá, rồi cho những phước xá ấy cùng vật thực và thức uống đến Tứ Phương Tăng, rồi hồi hướng phước thí ấy đến cho mẹ của Ngài.

    9. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, thức uống và y phục, là quả của phước thí này.

    10. Nhân đó, nàng trở nên thanh tịnh, mặc những y phục tươi sáng và sạch sẽ, mặc những thứ còn mịn hơn vải lụa Kāsi, và được trang sức bằng nhiều loại y phục và những vật trang sức, nàng đi đến Kolita."

    Rồi Ðại Ðức Moggallāna hỏi Peti đó rằng:

    11. "Ngươi là người đang đứng với sắc đẹp tuyệt trần, này Devatā, sáng rực lên khắp các hướng như Dược Vương Tinh.

    12. Sắc đẹp của ngươi như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu bởi ngươi ở đây? Và có sanh lên bất cứ dục lạc nào mà ngươi ưa thích?

    13. Ta hỏi ngươi, này Devī có oai lực lớn, ngươi đã làm việc phước nào khi ngươi còn làm người? do cái gì khiến oai lực của ngươi chiếu sáng như vậy và sắc đẹp của ngươi chói lọi trong các hướng?

    Rồi nàng trả lời, khi nói rằng, "Con là mẹ của Sārīputta v.v..."

    Phần còn lại có ý nghĩa đã được giải rõ rồi.

    Rồi Ðại Ðức Moggalāna nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho những người ấy.

    *

    II.3 MẪU QUỶ SỰ (MATTĀ PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Người trần truồng và có hình tướng thô xấu".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm Viên, liên quan đến một nữ Ngạ quỷ nọ có tên là Mattā.

    Tương truyền rằng, tại Sāvatthi có một vị trưởng giả nọ có đức tin và lòng tịnh tín. Vợ của ông ta, là người được biết đến bởi cái tên là Mattā, không có đức tin cũng không có lòng tịnh tín, lại hay sân hận và không có con. Bấy giờ vị Phú hộ ấy, vì sợ dòng dõi của gia đình sẽ bị tuyệt dứt, bèn lấy một cô vợ khác tên là Tissā từ một bộ tộc ngang hàng. Nàng có niềm tin và lòng tịnh tín, lại khả ái và hấp dẫn đối với chồng của nàng. Chẳng bao lâu nàng có thai và sau mười tháng hạ sanh một đứa con trai. Tên của nó là Bhūta. Nàng trở thành nữ chủ của gia đình và hộ độ cho bốn vị Tỳ khưu một cách chu đáo. Người vợ không có con đem lòng ganh tỵ nàng. Một hôm nọ, cả hai cùng gội đầu và đang đứng với tóc ướt. Vị phú hộ đem lòng yêu thương Tissā vì nàng có những đức tính, và thường đứng nói chuyện với nàng một cách thoải mái. Vì không thể chịu được điều này và đã có lòng ganh tỵ, Mattā bèn quét nhà và đổ rác mà nàng đã gom lại lên đầu của Tissā. Ðến đúng thời kỳ, nàng chết và sanh trong cõi Ngạ quỷ, chịu đau khổ do nghiệp lực của nàng. Sự thống khổ này được biết đến qua bài kinh. Rồi một hôm nọ khi chiều tối, nàng hiện ra trước mặt Tissā khi nàng đang tắm ở sau nhà. Khi trông thấy nữ Ngạ quỷ, Tissā bèn hỏi nàng câu kệ này:

    1. "Ngươi trần truồng và có hình tướng thô xấu, gầy ôm với những đường gân lộ ra. Này con người ốm yếu, với những xương sườn lộ ra, bây giờ người là ai, người là ai mà đứng ở đây?

    Ngạ quỷ trả lời bằng câu kệ này:

    2. Tôi là Mattā, nàng là Tissā. Chị là vợ chung chồng với em trong kiếp quá khứ. Khi đã làm ác nghiệp, chị đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ.

    Tissā hỏi nàng một lần nữa về nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:

    3. Vậy nghiệp gì được làm bởi nàng bằng thân, khẩu hay ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến nàng đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"

    Ngạ quỷ giải thích nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:

    4. Tôi có tánh hung dữ và thô bạo, hay ganh tỵ, hèn hạ và xảo trá. Sau khi đã nói những lời ác về nàng, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ."

    Từ đây trở đi, họ tiếp tục nói chuyện qua lại với nhau bằng những câu kệ này:

    5. "Tất cả điều này tôi cũng biết, nàng có sân hận như thế; nhưng có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng: Tại sao thân nàng đầy bụi đất?"

    6. "Cô đã tắm gội đầu của cô và đã ăn mặc và trang điểm sạch sẽ; tuy nhiên tôi vẫn còn nhiều hơn thế nữa, còn trang điểm nhiều hơn cô.

    7. Trong khi tôi nhìn cô nói chuyện với chồng của chúng ta, nhân đó cô đã khiến lòng ganh tỵ mãnh liệt và sân hận sanh đến trong tôi.

    8. Khi trông thấy cảnh này, tôi lấy một ít bụi và tung bụi ấy lên người của cô. Chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị phủ đầy bụi".

    9. "Tất cả điều này tôi cũng biết, về cách mà nàng đã đổ bụi lên tôi; nhưng có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng bị ăn mòn bởi bệnh ghẻ?"

    10. "Cả hai chúng ta đều đi đến ven rừng để kiếm những cây thuốc. Cô thì mang về những cây thuốc trong khi tôi mang về cây Kapikacchu.

    11. Rồi chẳng có sự hay biết của cô về nó, tôi đã rải chúng lên giường của cô; chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị ăn mòn bởi bệnh ghẻ ngứa".

    12. "Tất cả điều này tôi cũng biết về cách mà nàng đã rải chúng lên giường của tôi. Nhưng có điều khác tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng bị trần truồng?"

    13. "Có một cuộc họp gồm bạn bè, cuộc hội họp của những quyến thuộc; và cô được yêu cầu đi chung với chồng của chúng ta, còn tôi thì không.

    14. Rồi lợi dụng khi cô không biết đến, tôi đã lấy đi những y phục của cô. Chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị trần truồng".

    15. "Tất cả đều này tôi cũng biết, về chuyện nàng lấy y phục của tôi, nhưng có điều khác tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng có mùi phẩn?"

    16. "Tôi đã quăng những vật thơm, những tràng hoa và những loại dầu đắt giá vào trong nhà xí. Ác nghiệp ấy được làm bởi tôi. Chính do quả của nghiệp ấy tôi có mùi phẩn".

    17. "Tất cả điều này tôi cũng biết, về ác nghiệp ấy được làm bởi nàng; nhưng có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng có kiếp sống đau khổ?"

    18. "Bất cứ của cải nào được tìm thấy trong nhà của chúng ta đều thuộc về của hai chúng ta đồng đều nhau. Tuy nhiên dầu những vật thí ở trong tầm tay của tôi, tôi lại không làm nơi nương tựa cho chính tôi. Chính do kết quả nghiệp ấy khiến tôi chịu kiếp sống đau khổ.

    19. Rồi ngay cả khi cô nói với tôi rằng: "Chị đang đeo đuổi những ác nghiệp; chắc chắn chẳng phải do những ác nghiệp mà một kiếp sống hạnh phúc dễ dàng đạt đến?"

    20. "Nàng đã đến với tôi từ bên trái, và điều tệ hại hơn nữa là nàng đã ganh tỵ với tôi. Hãy xem loại kết quả có được từ những ác nghiệp.

    21. Nàng có nhà, có những người hầu và những nữ trang này. Bây giờ những thứ này đã bị những người khác hưởng. Những vật sở hữu không tồn tại mãi mãi.

    22. "Cha của Bhūta bấy giờ đang từ chợ về nhà. Có lẽ ông ta sẽ cho nàng một ít gì đó. Hãy đợi cho đến lúc ấy, đừng đi khỏi đây."

    23. "Tôi trần truồng và có hình tướng thô xấu, gầy ốm với những đường gân lộ ra. Ðiều này sẽ làm xấu hổ cho những người nữ. Ðừng để cha của Bhūta trông thấy tôi".

    24. "Thôi được, tôi có thể cho nàng cái gì đây, hoặc tôi có thể làm gì cho nàng để nàng có thể được hạnh phúc và có đầy đủ tất cả những gì nàng muốn?".

    25. "Bốn Tỳ khưu là Chư Tăng, và bốn vị là bốn bậc - Hãy tiếp đãi tám vị Tỳ khưu này và hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi. Rồi tôi sẽ được hạnh phúc và có đầy đủ tất cả những gì mà tôi muốn".

    26. "Tốt lắm!" Nàng đồng ý. Nàng cúng dường vật thực đến tám vị Tỳ khưu, mặc y phục cho họ và hồi hướng phước thí ấy đến cho nàng.

    27. Ngay khi Tīssā hồi hướng phước thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, y phục, và thức uống, là kết quả của phước thí này.

    28. Nhân đó nàng trở nên thanh tịnh, mặc y phục sạch sẽ và tươi sáng, mặc những thứ tốt hơn vải Kāsi và, được trang sức bằng nhiều loại y phục và những vật trang sức, nàng đi đến người vợ chung chồng với nàng.

    29. "Ngươi là người đứng với sắc đẹp tuyệt trần, này Devatā, khi chiếu sáng khắp các hướng như Dược vương tinh.

    30. Sắc đẹp của ngươi như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu cho ngươi ở đây và sẽ có sanh lên bất cứ cái gì mà tâm của ngươi quá thích?

    31. Ta hỏi ngươi, này Devatā, có đại oai lực, ngươi đã làm việc phước nào khi ngươi còn làm người? Oai lực sáng chói của ngươi như vậy là do cái gì và sắc đẹp của ngươi chiếu sáng khắp các hưởng?"

    32. "Tôi là Mattā, cô là Tissā. Tôi là người vợ chung chồng của cô trong quá khứ. Sau khi đã làm ác nghiệp tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ; Nhưng bây giờ, do vật thí được cho bởi cô, tôi được an lạc, chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào.

    33. Này em gái, cầu chúc em được trường thọ, cùng với tất cả những quyến thuộc của em, và cầu chúc em đạt đến thế giới của những vị Vasavatti, là chỗ mà không có sầu muộn và ô nhiễm.

    34. Hãy xử sự ở đây cho đúng chánh pháp và hãy cho ra những vật thí, hỡi cô gái xinh đẹp; Hãy đoạn trừ bợn nhơ của lòng ích kỷ cùng với cội rễ của nó và đi về cõi chư Thiên mà không mang theo tội gì".

    Rồi Tissā nêu lên vấn đề ấy với người đàn ông giàu có. Người đàn ông giàu có ấy nêu vấn đề với các vị Tỳ khưu và các vị Tỳ khưu nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy đó làm vấn đề cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp cho hội chúng đã hội họp ở đó. Khi họ đã nghe thời pháp này, thì những người ấy, khi đã có sự động tâm, bèn đoạn trừ bợn nhơ về lòng bỏn xẻn v.v... Và thiên về giới đức, sự bố thí v.v... và được quyết định sanh về thiên giới.

    *

    II.4 NAN ÐÀ QUỶ SỰ (NANDĀ PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Ngươi có sắc tướng nám đen và thô xấu".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên quan đến một nữ Ngạ quỷ tên là Nandā .

    Tương truyền rằng, trong một ngôi làng nọ không cách xa thành Sāvatthi có một vị thiện nam tên là Nandasena, có đức tin và lòng tịnh tín. Tuy nhiên, vợ của ông ta tên là Nandā, không có đức tin cũng không có lòng tịnh tín, thấp hèn, có tánh nóng nảy và hay nói lời thô lỗ; nàng bất kính và không tuân phục chồng của nàng, lại còn lăng mạ chửi mắng mẹ chồng bằng giọng oang oang như cái trống chầu. Ðến đúng thời kỳ, nàng chết và tái sanh trong cõi Ngạ quỷ ở chỗ không xa ngôi làng ấy. Và một hôm, nàng hiện ra không cách xa vị thiện nam Nadasena trong khi ông ta đang rời khỏi ngôi làng ấy. Khi ông ta trông thấy nàng, bèn nói với nàng câu kệ này:

    1. Nàng có hình tướng nám đen và thô xấu, trông xấu xí và dữ dằn, có mắt đỏ và răng dài lồi ra. Ta không nghĩ rằng nàng có thể là người được.

    Chú giải:

    1. Ở đây, NÁM ÐEN (Kāṅī): Có sắc tối; giống như những cục than đã bị đốt cháy. THÔ XẤU (Pharusā): Thô thiển. TRÔNG DỮ DẰN (Bhīrudassanā): Trông kinh khiếp, dễ sợ. Một cách đọc hoán chuyển khác là Bhārudassanā, trông tối đen, nghĩa là khó nhìn do sự thô xấu của nàng v.v... ÐỎ (Pingala): Có mắt đỏ. DÀI LỒI RA (Kalārā): Những cái răng dài, lồi ra. Ta nghĩ rằng nàng chỉ là một Ngạ quỷ. Ðây là ý nghĩa.

    Khi nghe qua điều này, Ngạ quỷ bèn nói lên câu kệ để giải thích rằng nàng là ai:

    2. "Tôi là Nandā, này Nandasena, tôi là vợ của anh trong quá khứ. Sau khi đã làm ác nghiệp, tôi đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ."

    Chú giải:

    2. TÔI LÀ NANDĀ, NÀY NANDASENA (ahaṃ nandā nandasena): Thưa chồng Nandasena, Tôi tên là Nandā. TÔI LÀ VỢ CỦA ANH TRONG QUÁ KHỨ (Bhariyā te pure ahuṃ): Tôi là vợ anh của anh trong kiếp quá khứ.

    Sau câu kệ này là câu hỏi của vị thiện nam:

    3. "Bây giờ ác nghiệp nào được làm bởi nàng từ thân, khẩu hoặc ý. Do kết quả của nghiệp nào khiến nàng phải ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"

    Rồi nàng trả lời vị ấy, khi nói rằng:

    4. Tôi có tánh nóng nảy, thô bạo, và cũng không có lòng tôn kính đối với ông. Sau khi đã nói những lời ác về ông, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ."

    Vị thiện nam lại nói rằng:

    5. "Ở đây, ta sẽ cho nàng chiếc áo choàng của ta: Hãy mặc vào chiếc áo choàng này. Khi đã mặc chiếc áo choàng này rồi, thời hãy đến và ta sẽ dẫn nàng về nhà.

    6. Những y phục, đồ ăn và thức uống nàng sẽ có được khi nàng đã đi về nhà. Và nàng sẽ nhìn thấy những đứa con trai của nàng và thăm những nàng dâu của nàng".

    Rồi nàng nói hai câu kệ này với vị ấy:

    7-8. "Cái gì được cho từ tay của ông vào trong tay của tôi thì không có ích lợi gì cho tôi. Nhưng hãy làm thoả mãn bằng đồ ăn và thức uống đến các vị Tỳ khưu có giới đức, đã thoát khỏi tham, và hãy bố thí đến những kẻ nghe nhiều, rồi hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi. Thời tôi sẽ được hạnh phúc và có dồi dào những gì tôi muốn".

    Ba câu kệ này được nói bởi những vị kiết tập Tam tạng:

    9. "Tốt lắm!" Vị ấy đồng ý và phân phát nhiều vật thí - đồ ăn, thức uống, vật thực cứng, y phục và chỗ ngụ, dù che, những vật thơm và những tràng hoa, và nhiều loại trầm hương khác đến các vị Tỳ khưu có giới đức, không còn tham, và đến những bậc Ða văn. Sau khi đã làm thoả mãn họ bằng đồ ăn và thức uống, ông ta hồi hướng phước thí đến cho nàng.

    10. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì kết quả hiện ra, vật thực, y phục và thức uống là kết quả của việc bố thí này.

    11. Nhân đó, nàng trở nên thanh tịnh, được mặc y phục sạch sẽ và tươi sáng, mang những thứ tốt hơn vải Kasī và, được trang sức bằng nhiều loại y phục và những vật trang sức, nàng đi đến chồng của nàng".

    Từ đây trở đi là những câu kệ về sự trao đổi chuyện trò giữa vị thiện nam và Ngạ quỷ.

    12. Nàng là người đứng với sắc đẹp tuyệt trần, này Devatā, chiếu sáng rực lên khắp các hướng như Dược Vương Tinh.

    13. Sắc đẹp của nàng như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu bởi nàng ở đây và sẽ còn sanh lên bất cứ lạc thú nào mà tâm của nàng ưa thích?

    14. Ta hỏi nàng, này Devī có đại oai lực, nàng đã làm việc phước nào khi còn làm người? Do cái gì khiến oai lực của nàng sáng chói như vậy và sắc đẹp của nàng chiếu sáng khắp các hướng?"

    15. "Tôi là Nandā, thưa ông Nandasena, tôi là vợ của ông trong quá khứ. Sau khi làm việc ác, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ. Nhưng bây giờ, do vật thí được cho đến bởi ông, tôi được sung sướng, chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào.

    16. Cầu chúc cho ông được sống lâu, cùng với tất cả những quyến thuộc của ông, và cầu chúc ông đạt đến chỗ ở của những vị Vasavatti, chỗ mà không sầu muộn và ô nhiễm.

    17. Hãy xử sự ở đây theo đúng với chánh pháp và cho ra những vật thí, này gia chủ; hãy đoạn trừ bợn nhơ của lòng ích kỷ cùng với căn cội của nó, và đi đến thiên giới mà không mang theo tội lỗi gì?

    Khi nàng đã giải thích như vậy với Nandasena về sự vinh quang thần thiên của nàng và nguyên nhân của nó, nàng bèn đi đến chỗ ngụ của chính nàng. Vị thiện nam nêu ra vấn đề ấy với các vị Tỳ khưu và các vị Tỳ khưu nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh khởi và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Thời pháp đem lại lợi ích cho những người ấy.

    *

    II.5 NHĨ HOÀN NỮ QUỶ SỰ

    "Trên người có trang sức, mang những vòng tai sáng bóng".

    Pháp thoại nàng được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên quan đến Devaputta MatthaKuṇḍali. Ở đây, bất cứ điều gì được nói đến đều đã được nêu ra trong thiên cung sự về Matthakuṇḍali, trong bộ thiên cung sự thuộc phần chú giải nội dung ý nghĩa; và do đó nên được hiểu đúng như đã được trình bày ở đó.

    Trong trường hợp này, đó chính là câu chuyện về Devaputta Matthakuṇḍali từ khi vị ấy trở thành một Vimāna Devatā trở đi. Cha của vị ấy là một Bà-la-môn Adinnapubbaka, đã đi đến bãi tha ma do nỗi ưu bi vì bị mất đứa con trai của ông ta, và đang đi quanh chỗ thiêu xác đứa con mà khóc lóc trong khi vị thiên tử, với mục đích làm vơi đi nỗi ưu bi của người cha, bèn bỏ đi cái lốt chư Thiên của vị ấy và hiện ra làm một Petā đầy đau khổ, và với hai cánh tay được xiết lại trong nỗi sầu muộn, đang và kêu khóc, "ôi, mặt trăng ôi mặt trời!" Cho dù nó được bao gồm trong bộ kinh thiên cung sự, nhưng câu chuyện về vị ấy phải được xem là cũng được bao gồm trong bộ kinh Ngạ quỷ sự; lý do là bất cứ ai mà từ bỏ kiếp sống làm người cũng có thể được đề cập qua tên gọi là Peta.

    *

    II.6 HẮC QUỶ SỰ (KAṆHA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Hãy dậy, thưa Kaṇha, tại sao ngài nằm như thế?"

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên quan đến một vị thiện nam có đứa con trai đã chết.

    Tương truyền rằng, tại Sāvatthi, đứa con trai của một vị thiện nam nọ đã chết. Bị đâm thủng bởi cây tên sầu muộn, ông ta không tắm, không ăn, không làm việc, không đi hầu Ðức Phật, chỉ nói lảm nhảm mà thôi, khi nói rằng, "con đâu rồi, này con trai bé bỏng yêu quý của cha? con đã vội vàng đi đâu mà bỏ lại ta?" v.v... Bậc Ðạo sư khi đang dò xét thế gian vào lúc hừng sáng, trông thấy khả năng của ông ta có thể chứng đắc quả Thánh Tu-đà-hườn. Và vào ngày hôm sau, Ngài đi đến Sāvatthi để khất thực, được vây quanh bởi chúng Tỳ khưu. Khi Ngài đã thọ thực xong, Ngài cho các vị Tỳ khưu ra về, rồi đi với người thị giả, là Trưởng lão Ānanda, đến cửa nhà của ông ta. Những người hầu báo tin cho vị thiện nam biết rằng Bậc Ðạo sư đã đến, và rồi thỉnh Bậc Ðạo sư ngồi trên chỗ ngồi mà họ đã soạn sẵn. Rồi họ đi tìm vị thiện nam và dẫn ông ta đến trước Bậc Ðạo sư. Khi ông ta trông thấy Ngài, bèn ngồi xuống một bên. Ngài hỏi rằng, "Này thiện nam, chuyện gì thế, có phải ngươi đang than khóc đó chăng?" Khi ông ta nói rằng, "Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn"; Ngài bèn nói rằng, "Này ông thiện nam, các bậc trí tuệ ngày xưa đã nghe một câu chuyện từ các bậc Trí tuệ và không khóc than cho đứa con trai đã chết". Và khi được thỉnh cầu bởi ông ta, Ngài bèn kể lại câu chuyện xa xưa ấy.

    Tương truyền rằng, đã lâu, trong thành phố Dvā-ravatī có mười vị hoàng tử - Vāsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Aj-juna, Pajjunaṃ, aṭapaṇḍita và Aṅkura. Trong những vị hoàng tử này, đứa con yêu dấu của Ðại vương Vāsudeva đã chết. Ðức vua sầu khổ trước biến cố này; Vua bỏ bê tất cả mọi phận sự của mình, ôm ghì lấy chiếc giường của vị ấy và rồi nằm nói chuyện lảm nhảm. Lúc bấy giờ, Ghatapaṇḍita suy nghĩ rằng, "Ngoài ta ra, không ai có thể diệt trừ nỗi ưu bi của anh ta được. Ta sẽ diệt trừ nỗi ưu bi của anh ta bằng một mẹo." Bởi vậy, vị ấy giả làm một người điên, và khi nhìn lên bầu trời, đi rảo khắp thành phố mà nói rằng, "Hãy cho tôi con thỏ! Hãy cho tôi con thỏ!", và toàn thể thành phố đã dao động khi nghe tin rằng Ghaṭapaṇḍita đã điên loạn. Lúc bấy giờ, vị quan cố vấn đặc biệt của Ðức Vua, có tên là Rohineyya, đi đến vua Vāsudeva và nói lên câu kệ này để khởi chuyện với Ðức vua:

    1. "Hãy dậy, thưa Kaṇha, tại sao ngài nằm đó? Sự mơ tưởng đem lại lợi ích gì cho ngài? Người mà là em trai của ngài, là quả tim của ngài, là con mắt phải của ngài, đã bị áp đảo bởi những cơn gió. Vị ấy đang khao khát một con thỏ, thưa Kesava!"

    Bậc Ðạo sư, là người đã trở thành Bậc Chánh Ðẳng Giác, khi ấy nói lên câu kệ này để làm sáng tỏ tánh cách mà vị ấy ngồi dậy khỏi chiếc giường khi nghe qua những lời này:

    2. "Khi nghe qua những lời của Rohiney-ya, Kesava vội vã đứng dậy, vì ưu bi cho em trai của vị ấy!"

    Ðức vua đứng dậy và vội vàng đi xuống hoàng cung và rồi đi đến trước mặt của Ghaṭapaṇḍita, nắm chắc vị ấy bằng cả hai tay, và khi nói chuyện với vị ấy, đã nói lên ba câu kệ này:

    3. "Tại sao em, như một người điên, nói nhảm rằng, "con thỏ, con thỏ!" quanh khắp cả Dvāraka này? Em muốn loại thỏ nào?

    4. Thỏ bằng vàng? bằng ngọc? thỏ bằng đồng? ngay cả thỏ làm bằng bạc? hay thỏ làm bằng những loại đá quý? Chẳng hề gì, anh sẽ sai làm con thỏ ấy đó cho em.

    5. Cũng có những con thỏ bé nhỏ khác mà rảo đi trong những khu rừng. Anh cũng sẽ mang về cho em những con thỏ này. Em muốn loại thỏ nào?

    Khi nghe qua điều này, Ghaṭapaṇḍita nói lên câu kệ này:

    6. "Em không muốn con thỏ ấy, là những con thỏ mà ở trên đất. Em muốn con thỏ từ mặt trăng. Hãy đem con thỏ ấy xuống cho em này Kesava!"

    Khi đức vua nghe điều này, vị ấy trở nên thất vọng, khi nghĩ rằng, "Không nghi ngờ gì em của ta đã trở thành như một người điên", và nói lên câu kệ này:

    7. Bây giờ! Này người thân của ta, chắc chắn em đã quăng đi đời sống ngọt ngào của em rồi. Em khao khát cái mà không nên khao khát khi em muốn con thỏ từ mặt trăng".

    Khi Chaṭapaṇḍita nghe điều mà Ðức vua đã phải nói, vị ấy đứng bất động ở đó và nói rằng: "Thưa anh, như anh biết rằng sẽ có mất mát đời sống cho một người mà khao khát con thỏ từ mặt trăng, không thể có được nó, Tại sao anh cứ kêu than về một đứa con trai đã chết, là kẻ mà anh không thể có được?" Và nói lên câu kệ để giải thích quan điểm này:

    8. Này Kaṇha, nếu anh biết cách mà anh dùng để khuyên những người khác như vậy. Tại sao chính ngày hôm nay, anh lại than vãn cho một đứa con trai đã chết trong quá khứ rồi?"

    9. "Nhưng điều này không thể có được, dầu bởi người hay bởi phi nhân, rằng, 'Một đứa con sanh đến cho ta thì không nên chết.' Cái mà không có được thì có thể kiếm ở đâu?

    10. Chẳng phải do Mantra, rễ của cây thuốc, những loại thuốc, cũng chẳng phải do của cải mà có thể đem về kẻ quá cố mà anh kêu khóc đến, này Kaṇha ạ!"

    Rồi để chỉ cho người anh của vị ấy thấy rằng, không thể ngăn cản cái được gọi sự chết này được, dầu bằng của cải hay dòng tộc hay kiến thức, giới đức hay thiền định. Chaṭapaṇḍita đã thuyết pháp cho Ðức vua bằng năm câu kệ này.

    11. Những người có của cải lớn, có những vật sở hữu lớn, dầu là những vị Sát-đế-lỵ có những vương quốc. Cho dù những kẻ này, có nhiều của cải và ngũ cốc, cũng không thoát khỏi già và chết được.

    12. Những vị Sát-đế-lỵ, Bà la môn, Vệ sá, Thủ đà, Chiên đà la và Pukkusa. Ngay cả những người này và những người khác, bằng dòng tộc của họ, cũng không thoát khỏi già và chết.

    13. Những kẻ tụng đọc Mantra bao gồm sáu chương, được soạn ra bởi Phạm thiên Brahma. Ngay cả những người này và những người khác, qua kiến thức ấy, cũng không thoát khỏi già và chết được.

    14. Và ngay cả những vị ẩn sĩ, những đạo sĩ đã được an tịnh và đã tự chế. Ngay cả những vị đạo sĩ này cũng phải rời bỏ thân xác của họ khi thời gian đến.

    15. Những vị A-la-hán, những bậc đã tu tiến, đã làm điều cần được làm và đã thoát khỏi các lậu hoặc. Ngay cả họ cũng phải để xuống tấm thân này khi đã hết nghiệp thiện và bất thiện của họ.

    Khi nghe qua pháp thoại này do Ghaṭapaṇḍita nói ra, Ðức vua, tựa như được người ta rút ra cây tên ưu bi,và với lòng tịnh tín trong tâm, khi ấy bèn nói lên những câu kệ còn lại để tán dương Chañpaṇḍita.

    16. "Ta quả thật đang cháy nóng, như ngọn lửa cháy bằng thục tô; nhưng bây giờ, tất cả những sầu muộn của ta đã được dập tắt tựa như ta được tưới lên người bằng nước mát.

    17. Cây tên, quả thật vậy, là nỗi ưu bi, mà đâm xuyên qua tim của ta, nay đã được rút ra rồi. Ngươi đã đoạn trừ ưu bi ấy, ưu bi về đứa con trai của ta mà đã đè nặng lên ta.

    18. Nhờ rút ra được cây tên, ta trở nên an tịnh và mát mẻ; từ khi nghe những lời của ngươi, ta không còn ưu bi hay than khóc nữa.

    19. Cũng như Ghata đã làm cho anh của mình vơi đi nỗi ưu bi. Những bậc trí tuệ có lòng bi mẫn cũng hành động như thế ấy.

    20. Như Ghata đi theo anh của mình với lời khuyên tốt; cũng vậy, người mà có những người cố vấn và những người hầu như vậy cũng sẽ có được những lời khuyên tốt như thế.

    Những câu kệ còn lại có ý nghĩa giống như đã được nêu ra ở trên.

    Khi Bậc Ðạo sư đã kể lại pháp thoại này, Ngài bèn nói rằng, "Như vậy, này ông thiện nam, chính những bậc Trí tuệ thuở xưa đã diệt trừ nỗi ưu bi của họ về đứa con trai đã chết của họ khi họ nghe một câu chuyện từ những Bậc trí tuệ. Rồi Ngài thuyết giảng tứ đế và thêm vào bổn sanh, lúc kết thúc thời pháp ấy, vị thiện nam ấy được an trú trong quả Thánh Tu-đà-huờn.

    *

    II.7 TÀI HỘ QUỶ SỰ (DHANAPĀLA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Ngươi trần truồng và có hình tướng thô xấu."

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi ngài đang ngụ ở Jetavana, liên quan đến Ngạ quỷ Dhanapāla (Tài Hộ).

    Tương truyền rằng trước khi Ðức Phật xuất hiện tại kinh đô Erakaccha trong vương quốc của những vị Dasaṇṇa, có một vị thương nhân giàu có tên là Dhanapālaka, là kẻ không có đức tin cũng không có lòng tịnh tín và keo kiệt, lại chấp theo tà kiến Natthika. Những hoạt động của ông ta được biết đến qua kinh tạng. Khi ông ta chết, ông ta sanh làm một Ngạ quỷ trong vùng hoang vắng. Thân của ông ta lớn bằng thân của cây thốt nốt. Da thì nổi u lồi, thô thiển và trông kinh khiếp, xấu xí và dị hợm - Trông thật ghê tởm. Bị chế ngự bởi cơn đói và khát và cái lưỡi của nó thè ra khỏi cái cuống họng khô cháy của nó, nó đi lang thang chỗ này chỗ nọ trong năm mươi lăm năm mà không kiếm được một chút gì, dầu là một hột cơm hay một giọt nước. Rồi khi Ðức Thế Tôn của chúng ta xuất hiện trong thế gian và đã lăn bánh xe Diệu Pháp, và đến đúng lúc đang cư trú tại Sāvatthi, một số thương nhân là những dân cư của thành Sāvatthi, chất đầy hàng hóa trong năm trăm cỗ xe, đi đến xứ Uttarāpatha, bán hàng hóa của họ ở đó, và lại chất đầy những hàng hóa nhận được vào những cỗ xe của họ. Khi họ đang trở về vào lúc chiều tối, họ đi đến một con sông bị khô nước nọ. Họ tháo ách cho những con bò ở đó và cấm trại qua đêm. Rồi con Ngạ quỷ ấy bị khát, đi đến tìm kiếm một cái gì đó để uống. Vì không kiếm được gì dầu một giọt nước ở đó, nó ngã sấp, thất vọng, như cây thốt nốt bị đốn hạ đến gốc rễ. Khi trông thấy nó, những thương nhân bèn hỏi nó bằng câu kệ này:

    1. "Ngươi trần truồng và có hình tướng thô xấu, gầy ốm với những đường gân lộ ra. Ngươi là kẻ ốm yếu, với những xương sườn lộ ra, bây giờ người là ai?"

    Nhân đó Ngạ quỷ nói rõ gốc gác của nó.

    2. "Thưa Ngài, tôi là một Ngạ quỷ, đã đi đến kiếp sống đau khổ trong cõi của Yama; Sau khi đã làm ác nghiệp, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ". Một lần nữa các thương nhân lại hỏi Ngạ quỷ về nghiệp mà nó đã tạo:

    "Vậy ngươi đã làm ác nghiệp nào bằng thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"

    Nó bèn nói những câu kệ này để kể về những hoàn cảnh về quá khứ, hiện tại và tương lai của nó, từ chỗ sanh lên trước kia của nó trở đi, và cho họ một lời sách tấn:

    4. "Tại thành phố của những người Dasaṇṇa, là Erakaccha nổi tiếng. Trong quá khứ tôi là một thương nhân ở đó, được biết đến qua cái tên là Dhanapāla (người giữ của).

    5. Tám mươi cỗ xe chất đầy vàng là của tôi; tôi cũng có nhiều vàng và nhiều ngọc trai và những loại đá quý.

    6. Dầu có của cải to lớn như vậy, nhưng tôi lại không thích bố thí. Tôi đóng cửa trước khi ăn vì sợ những người ăn xin sẽ thấy tôi.

    7. Tôi không có niềm tin, hèn hạ, keo kiệt và hay chửi mắng. Tôi có thói quen ngăn cản nhiều người trong khi họ đang bố thí và làm các thiện sự.

    8. Khi nói rằng, "không có kết quả nào từ sự bố thí cả, kết quả của sự tự chế sẽ đến từ đâu?" Tôi phá huỷ những hồ sen và những chỗ uống nước khác, những khu huê viên, những chỗ dẫn nước ở bên đường và những chiếc cầu tại những chỗ khó băng qua.

    9. Tôi đã không làm việc làm phước thiện. Tôi chỉ làm những việc ác. Khi rời khỏi cõi ấy, tôi sanh vào trong cõi Ngạ quỷ, bị hành hạ bởi cơn đói và khát. Trong năm mươi mười lăm năm kể từ khi tôi chết.

    10. Tôi không biết rõ về ăn hay uống nước. Người bị cản trở đi đến chỗ hư hoại, người đi đến chỗ hư hoại bị cản trở. Tương truyền rằng những Ngạ quỷ quả thật biết rằng người mà bị cản trở đi đến chỗ hư hoại.

    11. Trong quá khứ tôi cũng bị cản trở như thế. Tôi đã không bố thí dầu có nhiều của cải tồn đọng. Dầu những vật thí nằm trong tay, tôi cũng chẳng làm chỗ nương tựa cho chính tôi.

    12. Về sau tôi cảm thấy ăn năn khi những nghiệp của chính tôi bắt đầu cho quả. Sau bốn tháng cái chết sẽ đến với tôi.

    13. Và tôi sẽ rơi xuống địa ngục kinh khiếp và ác nghiệt: có bốn góc với bốn cổng, nó được chia thành những phần bằng nhau, được bao quanh bởi một bức tường sắt, có mái bằng sắt ở trên.

    14. Cái nền nóng rực sáng của nó làm bằng sắt cháy đỏ: Nó trải rộng khắp quanh một trăm do tuần, đứng mãi mãi như thế.

    15. Ở đó, trong một thời gian dài tôi sẽ trải qua những cảm thọ đau đớn do quả của những ác nghiệp của tôi. Vì lý do này tôi vô cùng sầu khổ.

    16. Do đó tôi xin nói với các người rằng, "Tôi xin chúc lành đến các người, mỗi người trong các vị đã hội họp ở đây. Ðừng gieo tạo một ác nghiệp nào dầu công khai hay bí mật.

    17. Vì nếu quý vị làm hoặc sẽ làm một ác nghiệp nào đó thời sẽ không có con đường trốn thoát khỏi đau khổ dành cho các người đâu, cho dù các người có bay lên trời và chạy đi xa khuất chỗ nào.

    18. Hãy tôn kính mẹ, hãy tôn kính cha; Hãy tôn kính các bậc trưởng thượng trong gia đình. Hãy tỏ sự sùng kính đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn, bằng cách này các người sẽ đi đến cõi trời."

    Chú giải:

    Sau khi nghe qua điều mà Ngạ quỷ đã phải nói, những thương nhân ấy, đầy xúc động và thương hại cho nó, bèn lấy một bát nước, bảo nó nằm xuống và rồi đổ nước vào miệng của nó. Sau đó, mọi người đã làm điều này nhiều lần, nhưng nước mà nó thèm khát không đi xuống được cuống họng của nó do vì quả của những ác nghiệp của Ngạ quỷ ấy. Như vậy làm sao để nỗi khao khát của nó được dập tắt? Họ hỏi nó xem liệu nó có được nguôi ngoai chút ít hay không. "Cho dù có nhiều người đổ nhiều lần vào miệng của tôi nhiều giọt nước, tuy nhiên vẫn sẽ không có lối thoát khỏi cõi Ngạ quỷ này được", nó nói.

    Khi những thương nhân nghe qua điều này, họ đầy xúc động và nói rằng, "Nhưng có cách gì khiến cơn khát của ngươi được được dập tắt không?" Ngạ quỷ nói rằng, "Khi ác nghiệp này gần hết và những vật thí đã được cúng dường đến Ðức Tathāgata hay những vị Sāvaka của Ðức Tathāgata, và người ta hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi, thời tôi sẽ được thoát khỏi cảnh Ngạ quỷ này".

    Khi nghe qua điều này, những thương nhân ấy bèn đi đến Sāvatthi, đi đến Ðức Thế Tôn và nêu vấn đề ấy với Ngài. Họ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới, và trong bảy ngày dâng cúng vật thực cúng dường to lớn đến Chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu và hồi hướng phước thí đến Ngạ quỷ ấy. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh khởi và thuyết Pháp đến tứ chúng và nhờ thời pháp ấy mọi người từ bỏ bợn nhơ của lòng bỏn xẻn và tham lam v.v... Và lấy làm thoả thích trong những việc phước như bố thí v.v...

    *

    II.8 TIỂU THƯƠNG QUỶ SỰ (CŪLASEṬṬHIPITAVATTHŪVAṆṆANĀ)

    "Thưa ông, ông là người mà đã xuất gia, bị trần truồng và gầy ốm".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm Viên, liên quan đến Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi.

    Tương truyền rằng, tại Ba-la-nại có một vị Gia chủ tên là Cūlaseṭṭhi, là người chẳng có niềm tin cũng không có lòng tịnh tín, lại là người bần tiện và keo kiệt và không có sự kính trọng trong việc thực hành những việc Phước. Khi chết, ông ta tái sanh trong cõi Ngạ quỷ, đầu của ông ta trọc lóc, không có y phục và, thân thể thì không có thịt và máu đến nỗi chỉ còn da bọc xương và gân mà thôi. Tuy nhiên, đứa con gái Ānulā của ông ta, đang ở trong nhà của chồng nàng tại Andhakavinda, sửa soạn một số vật thí như cơm v.v... Với ước muốn tiếp đãi một số Bà-la-môn để cầu siêu cho cha của nàng. Khi ông ta biết được việc này, Ngạ quỷ ấy, đầy mong ước, bèn đi đến đó xuyên qua hư không, đến Rājagaha vào lúc mà vua Ajātasattu đang đi tới đi lui ở tầng trên của cung điện, không thể ngủ được bởi vì lương tâm khó chịu do những cơn ác mộng, vì đã nghe thoe lời xúi dục của Devadatta, sau khi giết chết phụ vương của vị ấy. Khi trông thấy con Ngạ quỷ ấy đi xuyên qua hư không, đức vua bèn hỏi nó bằng câu kệ này:

    1. "Ngươi là kẻ đã xuất gia, bị trần truồng và gầy ốm, ngươi đang đi đâu vào lúc ban đêm và vì lý do gì? Hãy nói cho ta biết điều này, chúng ta, nếu có khả năng, có thể tặng cho ngươi những vật sở hữu cùng với tất cả mọi thứ".

    Ðược hỏi như vậy bởi đức vua, Ngạ quỷ nói lên ba câu kệ giải thích tình cảnh của nó:

    2. "Thành Ba-la-nại nổi tiếng ở từ đằng xa; và tôi là một gia chủ ở đó, giàu có nhưng bần tiện. Tôi đã không bố thí, lại có tâm hưởng lạc. Do bởi ác hạnh khiến tôi phải đi đến cõi Yama.

    3. Tôi bị kiệt quệ đến như cây kim do bởi những điều này; Vì chính lý do này, tôi đi đến những quyến thuộc của tôi để kiếm một cái gì đó để ăn, nhưng họ thiếu đức bố thí và không tin rằng có quả của sự bố thí trong kiếp sau.

    4. Tuy nhiên, đứa con gái của tôi thường xuyên lẩm bẩm rằng, "Tôi sẽ cho những vật thí nhân danh cha và ông của tôi". Những vị Bà-la-môn thì được hầu hạ sẵn cái mà nàng đã sửa soạn và tôi đang đi đến Andhakavinda để kiếm ăn.

    Từ đây trở đi là những câu kệ được nói bởi những vị kiết tập Tam Tạng..

    5. Ðức vua nói với nó rằng: "Sau khi ngươi đã ăn cái đó, ngươi hãy trở lại đây nhanh; ta cũng sẽ cúng dường. Hãy nói cho ta biết liệu có nguyên nhân nào vì chúng ta muốn lắng nghe một câu nói nào đó về những điều kiện mà có thể tin được!"

    6. "Chắc vậy", nó nói và ra đi. Nhưng những người ăn vật thực ở đó thì không xứng đáng thọ lãnh những vật thực cúng dường. Bởi vậy một lần nữa nó trở lại Rājagaha và xuất hiện trước mặt chúa của loài người.

    7. Khi thấy rằng Ngạ quỷ ấy đã trở lại, đức vua bèn nói rằng, "Ta sẽ cho cái gì? Hãy nói cho ta biết liệu có nguyên nhân nảo khiến dĩ ngươi có thể được hạnh phúc trong một thời gian dài về sau".

    8. "Khi Ðại vương đã dâng cúng đến Ðức Phật và Chư Tăng vật thực cùng với thức uống và y phục, tâu bệ hạ, thời hãy hồi hướng phước thí ấy vì lợi ích của tôi. Bằng cách này, tôi có thể được hạnh phúc trong một thời gian dài trong tương lai".

    9. Do đó, đức vua đi xuống và ngay tức thì tự tay dâng cúng những vật thí vô song đến chư Tăng; vị ấy thuật lại sự việc ấy đến đức Tathāgata và hồi hướng phước thí ấy đến cho Ngạ quỷ.

    10. Ðược tôn trọng như vậy và với tướng mạo sáng chói vô cùng, nó xuất hiện trước mặt chúa của loài người và nói rằng, "Bây giờ tôi là một Yakkha có thần thông cao cả nhất. Không có những kẻ nào giống hay bằng tôi về năng lực hay thần thông.

    11. Hãy xem sự vinh quang vô hạn này của tôi được hồi hướng đến bởi Ðại vương, sau khi Ðại vương đã cúng dường vô song thí đến chư Tăng. Tôi sẽ được thoả mãn, tiếp tục và luôn luôn dồi dào và sẽ sống hạnh phúc, hỡi Deva của loài người!"

    Khi Ngạ quỷ đã ra đi sau khi cáo từ như vậy, vua Ajātasattu nêu lên vấn đề ấy với các vị Tỳ khưu. Các vị Tỳ khưu đi đến Ðức Thế Tôn và nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh khởi và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Khi họ đã nghe qua thời pháp này, thì họ từ bỏ bợn nhơ của lòng bỏn sẻn và thoả thích trong những việc phước như bố thí v.v...

    *

    II.9 QUỶ SỰ VỀ ANKURA (AṄKURA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Chính mục đích ấy mà chúng tôi đang đi".

    Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Sāvatthi, liên quan đến một peta tên là Aṅkura. Trong trường hợp này, Aṅkura đúng ra không phải là một Peta, nhưng vì những việc làm của vị ấy liên quan đến một Peta; do đó, câu chuyện này được gọi là Aṅkura quỷ sự. Ðây là câu chuyện tóm tắt.

    Trong thành phố Asitañjana ở vùng Kaṃsabhoga thuộc xứ Uttarāpatha, có sanh đến cho Upasāgara, đứa con trai của vua Mahāsāgara, là người cai trị vương quốc Uttaramadhurā, và đến cho Devagabbhā, đứa con gái của Mahākaṃsaka (những đứa bé sau đây:), một đứa con gái là Aṅjanadevī và mười người anh của nàng là Vāsudeva, Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Pajjuna, Ajjuna, Ghaṭapaṇḍita và Aṅkura - cả thảy là mười một vị Sát Ðế Lỵ. Bắt đầu từ kinh đô Asitañjana, Vāsudeva và những người em của vị ấy, bằng những cái đĩa, đã tiêu diệt các vị vua trong sáu mươi ba ngàn thành phố của tòan cõi Diêm Phù Ðề, kết thúc tại Dvāravatī. trong khi đang trú ngụ tại Dvāravatī, họ chia vương quốc ra thành mười phần. Tuy nhiên họ đã quên phần cho đứa em gái Añjanadevī của họ, và khi sực nhớ đến nàng, họ bèn nói rằng, "chúng ta sẽ chia nó thành mười một phần", nhưng Aṅkura, là đứa con trai nhỏ nhất nói rằng, "Các anh có thể cho nàng phần của tôi. Tôi sẽ kiếm sống bằng nghề buôn bán, và các anh có thể gởi đến cho tôi những món tiền thuế thu được từ những vùng của các anh". "Tốt lắm", họ đồng ý và sau khi đã cho phần chia của Aṅkura đến em gái của họ, thì chín vị Vua cùng sống chung tại Dvāravatī. Tuy nhiên Aṅkura thì mãi mê trong việc buôn bán và thường xuyên tổ chức những cuộc bố thí lớn. Bấy giờ, vị ấy có một người nô lệ làm viên giữ kho của vị ấy và là người thích làm các việc từ thiện. Với lòng tịnh tín trong tâm, Aṅkura kiếm về một người con gái của một gia đình tốt và gả nàng cho vị ấy. Vị ấy chết ngay khi đứa con trai của vị ấy đang sanh ra và Aṅkura, vào lúc sanh, đã cho cậu bé vật thực và sự hưởng công mà vị ấy đáng ra phải trả cho cha của nó. Rồi khi cậu bé đến tuổi trưởng thành, vấn đề sanh lên trong hoàng gia rằng, liệu cậu ta có phải là một nô lệ hay không. Khi Añjanadevī nghe tin này, nàng nêu gương con bò cái và giải thoát cho anh ta khỏi tình trạng nô lệ khi nói rằng, "Ðứa con trai của một người đàn bà tự do thì chính người ấy cũng là người tự do". Nhưng chàng trai vì xấu hổ, không thể cam tâm sống ở đó được, bèn đi đến kinh đô Bheruva, là nơi mà anh ta kết hôn với đứa con gái của một người thợ may, và kiếm sống bằng nghề thợ may. Lúc bấy giờ, trong kinh đô Bheruva có một thương nhân giàu có tên là Asayhamahāseṭṭhi, là người cúng dường những vật thực to lớn đến các Sa-môn và Bà-la-môn, những người nghèo khổ, những người sống lang thang, những người lữ hành và những người ăn xin. Người thợ may đầy hoan hỷ và hạnh phúc, thường đưa lên cánh tay phải của ông ta và chỉ về chỗ ngụ của Asayhamahāseṭṭhi cho những người mà không biết ngôi nhà của vị thương nhân giàu có, khi nói rằng, "Hãy đi đến đó và kiếm bất cứ cái gì có thể dùng được".

    Những việc làm của ông ta được ghi lại trong kinh tạng. Trải qua một thời gian dài, ông ta chết và sanh trong một khu rừng hoang, làm một vị Devatā trong một cây đa, có cánh tay phải cho ra những ước muốn. Bấy giờ cũng tại Bheruva, có một người đàn ông chuyên trông coi những vật thí của Asayhaseṭṭhi, nhưng chính ông ta thì không có niềm tin cũng không có lòng tịnh tín, có tà kiến và không có lòng kính trọng trong việc phước. Khi ông ta chết ông ta sanh làm một Ngạ quỷ không cách xa chỗ ngụ của vị Devaputta ấy. Những việc mà ông ta đã làm được ghi lại trong kinh tạng. Khi Asayhāseṭṭhi chết, ông ta ra đi cọng trú với Sakkha, vua của chư Thiên, trong cõi ba mươi ba.

    Bấy giờ sau một thời gian, a.nkura mang những hàng hóa của ông ta trên năm trăm cỗ xe, một vị Bà-la-môn nọ cũng mang theo hàng hóa của ông ta trên năm trăm cỗ xe. Với một ngàn cỗ xe này, hai người đi vào con đường trong một khu rừng hoang và bị lạc đường. Sau khi đi lang thang quanh quẩn ở đó trong nhiều ngày, họ hết cỏ, nước và vật thực. Aṅkura sai những sứ giả cỡi ngựa đi tìm nước trong bốn hướng. Rồi vị Yakkha ấy, với cánh tay mà có thể ban ra những ước muốn, trông thấy cảnh ngộ mà họ đã lâm vào và khi nhớ đến một vài sự giúp đỡ mà Aṅkura đã làm cho vị ấy trong những ngày trước kia, bèn nghĩ rằng, "À được, ta phải giúp vị ấy?" và chỉ cho vị ấy trông thấy cây đa, nơi mà vị chư Thiên ấy sống. Tương truyền rằng, cây đa ấy có nhiều nhánh và lá sum suê, với những tàn lá dày đặc cho bóng mát Aṅkura vô cùng sung sướng khi trông thấy nó và cắm trại ở dưới gốc cây ấy. Vị Yakkha đưa lên cánh tay phải và trước hết cho mọi người uống nước no đủ, sau đó cho đến bất cứ ai bất cứ cái gì cần đến. Khi những người ấy đã được làm thoả mãn bằng nhiều loại đồ ăn và thức uống v.v... Như họ mong ước và hết mệt mỏi do đi đường xa, vị thương nhân Bà-la-môn ấy, bằng sự suy luận bất chánh, đã suy nghĩ rằng, khi chúng ta đã đi từ đây đến Kampoja để tìm kiếm của cải, thời chúng ta sẽ làm gì? Nhưng nếu bây giờ chúng ta bắt vị Yakkha này bằng một mưu mẹo nào đó và để vị ấy vào trong xe thời chúng ta mới có thể trở lại chính thành phố của chúng ta". Với ý nghĩ này trong tâm vị ấy nói lên hai câu kệ để cho a.nkura biết mưu kế của vị ấy:

    1. Xét thấy rằng chúng ta đi đến Kampoja vì mục đích tầm cầu của cải, nhưng muốn đạt được mục đích phải nhờ vào vị Yakkha hằng ban cho những điều mong ước, sống ở cây đa này; vậy chúng ta hãy đem theo vị Yakkha này!

    2. Khi chúng ta đã mang được vị Dạ xoa này đi, hoặc là do sự bằng lòng của vị ấy hoặc bằng sự cưỡng bách, và để vị ấy vào trong một cỗ xe, thời chúng ta có thể đi nhanh đến Dvāraka.

    Tuy nhiên khi vị Bà-la-môn đã nói vậy, thì Aṅkura, kiên cố trong pháp của bậc chân nhân, đã nói lên câu kệ này để phản đối điều đã được nói ra:

    3. Người không nên bẻ gãy những nhánh của cây mà người đã ngồi ở dưới bóng mát của nó, vì làm hại một người bạn quả thật là một điều ác.

    Khi nghe qua điều này, vị Bà-la-môn, khi dựa vào quy tắt khéo được thành lập rằng xử dụng hành động đạo đức giả để tiêu diệt là nền tảng của sự thành công, bèn thốt lên câu kệ này khi đặt mình vào vị trí đối lập với Aṅkura:

    4. Người nên đốn hạ thân của cây mà người đã ngồi hay nằm ở dưới bóng mát của nó, nếu người ấy cần đến nó.

    Khi vị Bà-la-môn đã nói theo cách này, thì Aṅkura nói lên câu kệ này để đề cao pháp của Bậc thiện nhân:

    5. Người không nên làm hại những lá của cây mà người đã ngồi hay nằm dưới bóng mát của nó, vì kẻ làm hại một người bạn thì quả thật là người độc ác.

    Vị Bà-la-môn lại nói lên một câu kệ để đề cao quan điểm của ông ta:

    6. Người nên nhổ lên cây ấy ngay cả với những chồi rễ của nó, nhổ lên cây mà người ấy ngồi hay nằm dưới bóng mát của nó, nếu đó là nhu cầu của vị ấy.

    Khi vị Bà-la-môn đã nói theo cách này thì Aṅkura bèn nói lên ba câu kệ, vì muốn làm cho quan điểm của vị Bà-la-môn trở nên vô nghĩa:

    7. Người không nên mưu tính làm một điều ác ngay cả trong tâm của mình để chống lại người mà mình đã ở lại đêm trong nhà của người kia, và là chỗ mà người ấy đã có được đồ ăn và thức uống, sự tri ân được các bậc thiện nhân hằng khen ngợi.

    8. Người không nên mưu tính một việc ác ngay cả trong tâm của mình để làm hại người mà người ấy đã ở lại trong nhà của người mà mình đã được tiếp đãi bằng đồ ăn và thức uống - cánh tay không chìu theo điều ác sẽ đốt cháy kẻ làm hại bạn của mình.

    9. Người mà trước kia đã được người ta ban cho một điều khả ái và về sau người ấy làm hại ân nhân của mình bằng một việc ác, người ấy là người làm hại kẻ vô tội, người ấy sẽ không thấy điều may mắn.

    7. DẦU TRONG MỘT ÐÊM (ekarattimpi): người ấy đã ở lại trong nhà của người kia dầu chỉ trong một đêm rất ngắn ngủi. NƠI MÀ NGƯỜI ẤY ÐÃ ÐƯỢC ÐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG (Yatthi annapānaṃ puriso labhetha): trước mặt người ấy, bất cứ ai cũng được đồ ăn và thức uống hay một sự nuôi ăn nào đó. MỘT NGƯỜI KHÔNG NÊN MƯU TÍNH MỘT VIỆC ÁC NGAY CẢ TRONG TÂM MÌNH ÐÊ LÀM HẠI NGƯỜI KIA (Na tassa pāpaṃ mamasā pi cetaye): Một người không nên nghĩ, không nên mong muốn điều xấu hay ác cho ân nhân của mình ngay cả trong tâm của mình, đừng nói gì dùng thân và khẩu để làm hại. Tại sao vậy? SỰ THI ÂN ÐƯỢC CÁC BẬC THIỆN NHÂN HẰNG KHEN NGỢI (Kataññutā sap-purisehi vaṇṇitā): ngươi có sự tri ân quả thật được chư Phật v.v... Tán dương, là người tối thắng nhất trong những bậc chân nhân.

    8. ÐÃ ÐƯỢC TIẾP ÐÃI (Upaṭṭhito): Ðược cung cấp bằng đồ ăn và thức uống, đã được hầu hạ bằng những lời "hãy lấy cái này, hãy ăn cái này". CÁNH TAY KHÔNG CHÌU THEO ÐIỀU TỔN HẠI (adub-bhapānī): Cánh tay không quen hại người, cánh tay được kềm chế. ÐỐT CHÁY KẺ LÀM HẠI MỘT NGƯỜI BẠN (Dahate mitta dubbhiṃ): Nó đốt cháy, nó tiêu diệt, kẻ hại một người bạn. Một tội lỗi, đã gieo nên, nhắm đến những người mà có những thiện ý và không lỗi lầm, do bởi một người khác, sẽ đem lại sự suy sụp cho chính người kia, không có sự ngoại lệ nào. Về nội dung thực tiễn của nó, người mà không có lỗi quả thật đốt cháy người kia. Vì lý do này, Ðức Thế Tôn nói rằng, "Người mà làm hại kẻ không lỗi lầm, bậc thanh tịnh và không có sự chê trách, thời điều ác ấy sẽ dội ngược lại chính kẻ ngu ấy như bụi tung ngược chiều gió".

    9. NGƯỜI MÀ TRƯỚC KIA ÐƯỢC NGƯỜI TA BAN CHO MỘT HÀNH ÐỘNG KHẢ ÁI (Yo pubbe katakalyāno): Người mà đã được người ta đem đến một vài điều tốt, được giúp đỡ bởi một người có giới đức nào đó. VÀ NGƯỜI MÀ VỀ SAU LÀM HẠI ÂN NHÂN CỦA MÌNH BẰNG MỘT VIỆC ÁC (Pacchā-pāpena himsati): Và người mà trong một thời điểm tương lai nào đó giáng xuống một hành động ác, sự rủi ro, điều xấu, đến người đã thi ân cho người ấy. LÀ NGƯỜI BỊ BÀN TAY SẠCH TIÊU DIỆT (allapāṇi-hato poso): người ấy bị tiêu diệt, người ấy bị giáng xuống, theo cách như đã kể trên, do bởi chính sự thự hành việc thi ân bởi bàn tay sạch, bởi người mà đã thi ân cho người ấy, khi làm như vậy bằng bàn tay sạch, bàn tay đã được rữa sạch, hay nói cách khác chính bàn tay sạch của người ấy đã bị tiêu diệt, rồi nó bị tiêu diệt, vì người ấy đã tấn công kẻ đã thi ân cho mình; người ấy là một kẻ vô ân. Người ấy sẽ không thấy điều may mắn (Na so shadrāni passati): Loại người đã được giải rõ như vậy sẽ không thấy, tức là, không tìm thấy, sẽ không có được, hạnh phúc ở trong đời này hay đời sau.

    Vị Bà-la-môn bị đánh bại như vậy bởi Aṅkura bằng sự đề cao thiện nhận pháp, chẳng nói thêm một lời nào nữa và nín thinh. Tuy nhiên, khi đã nghe cuộc nói chuyện qua lại này giữa hai người trong bọn họ và, dầu tức giận vị Bà-la-môn, vị Yakkha vẫn nghĩ rằng, "Bây giờ cứ để như thế, về sau ta sẽ quyết định điều gì nên làm đối với vị Bà-la-môn độc ác này", và rồi nói lên câu kệ này để cho thấy phạm vi không thể thắng phục vị ấy bởi bất cứ một người nào khác.

    10. Chẳng phải deva hay người hay quyền lực nào khiến ta dễ dàng bị nhiếp phục, ta là một Yakkha, đã đạt đến năng lực thần thông cao tột, quảng đại và có sắc đẹp cùng sức mạnh.

    Từ đây trở đi có một cuộc trao đổi chuyện trò bằng mười sáu câu kệ, giữa Aṅkura và vị Devaputta:

    11. "Bàn tay của ngươi hoàn toàn bằng vàng, là cái chứa đựng của bộ năm, và có mật ong chảy ra, nước trái cây có nhiều hương vị khác nhau. Tôi nghĩ rằng Ngài phải là một Purindada".

    12. "Tôi không phải là Deva hay Gandhab-ba, cũng chẳng phải là Sakkhapurindada; là một Peta mà Ngài sẽ biết tôi, này Aṅkura này người đến đây từ Bheruva"

    13. "Hạnh kiểm và tánh nết của Ngài như thế nào trước kia khi Ngài còn ở Bheruva? Ðiều phước cho kết quả trong bàn tay này là do bởi loại phạm hạnh nào?"

    14. "Trước kia tôi là một người thợ may ở trong thành Bheruva, lúc bấy giờ tôi chịu khó khăn lớn và sống cuộc đời rất cực khổ. Tôi chẳng có gì để bố thí

    15. Nhưng tiệm may của tôi thì ở rất gần Asayha, là người có đức tin và là bậc thầy trong việc bố thí, một người có lương tâm,đã thực hành những việc phước.

    16. Những người ăn xin và những người đi đường thuộc nhiều bộ tộc khác nhau thường đi đến đó và họ cũng thường hỏi tôi về chỗ ngụ của Asayha rằng, "Xin chúc lành đến Ngài! Chúng tôi nên đi đâu,những vật thí được cho ra ở đâu?"

    17. Khi được hỏi như vậy, tôi thường đưa lên cánh tay phải cuả tôi và chỉ về chỗ ngụ của Asayha cho họ thấy và nói rằng, "Xin chúc lành đến các người! các người nên đến đó, vật thí được cho ra ở đó tại chỗ ngụ của Asayha".

    18. Vì lý do này khiến bàn tay của tôi ban ra những điều mong ước, vì lý do này khiến bàn tay của tôi có mật ong chảy ra, điều phước mà cho kết quả trong bàn tay này là do bởi loại phạm hạnh này".

    19. Người ta nói rằng ngài không bố thí vật thực đến ai cả bằng chính tay của ngài nhưng vì ngài hoan hỷ với những vật thí của người khác nên ngài đã đưa lên bàn tay của ngài và chỉ đường.

    20. Vì lý do này nên bàn tay của ngài cho ra những điều mong ước, vì lý do này khiến bàn tay của ngài có mật ong chảy ra, do bởi loại phạm hạnh này khiến điều phước cho quả trong bàn tay của ngài.

    21. Thưa Ngài, người mộ đạo là người đã cho ra những vật thí bằng chính bàn tay của mình, khi người ấy rời bỏ thân người, sẽ đi về chỗ nào?

    22. "Tôi không biết trạng thái đi và đến của Aṇgīrasa, người mà chịu đựng điều quá sức chịu đựng, nhưng tôi đã nghe ở trước mặt của Vessavana rằng Asayha đã đi cọng trú với Sakkha".

    23. "Thật đầy đủ để làm những việc thiện và cho ra những vật thí thích hợp. Sau khi trông thấy bàn tay cho ra những điều mong ước này, ai mà lại không thực hành những việc phước?

    24. Như vậy, khi tôi đã đi từ đây và trở lại Dvāraka, tôi sẽ bố thí những vật thực để đem lại hạnh phúc cho tôi.

    25. Tôi sẽ cho đồ ăn và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ cho nước ở bên vệ đường, những cái giếng và những chiếc cầu ở những chỗ mà khó đi qua.

    Dạ xoa lấy làm rất hoan hỷ khi nghe Aṅkura nguyện rằng vị ấy sẽ bố thí những vật thực, bèn sách tấn vị thương nhân làm những việc phước thí khi nói rằng, "Ngài nên cho ra những vật thí một cách rộng rãi, thưa Ngài. Tôi sẽ giúp ngài bằng cách sắp xếp những công việc bằng cách nào đó để những vật thí của Ngài không bị cạn kiệt". (Khi quay qua vị Bà-la-môn), vị ấy nói tiếp rằng. "Trong khi ông, này ông thương nhân Bà-la-môn, không biết khả năng của chính mình mà dám nói rằng ông muốn mang đi một người như ta bằng cách xử dụng sức mạnh", và sau khi khiến cho những hàng hóa của ông ta biến mất, đe doạ ông ta, doạ sẽ hại ông ta bằng sự tấn công của một Dạ xoa. Rồi Aṅkura nài nỉ vị ấy bằng nhiều cách, và làm nguôi ngoai vị Dạ xoa bằng cách bảo vị Bà-la-môn xin lỗi, và nhờ đó khiến cho tất cả hàng hóa của ông ta xuất hiện trở lại. Khi đêm đến, vị ấy để Dạ xoa ra đi và, trong khi tiếp tục đi trên con đường của vị ấy, trông thấy một Ngạ quỷ nọ ở gần trước mặt vị ấy, trông rất kinh khiếp, vị ấy nói lên câu kệ này để dò hỏi về nghiệp mà nó đã tạo;

    26. "Vì lý do gì khiến những chi thể của ngươi méo mó và khuôn mặt của ngươi nhăn nhó? Và tại sao hai con mắt ngươi lại chảy giọt? Ác nghiệp nào được làm bởi ngươi?"

    Rồi Ngạ quỷ nói lên ba câu kệ:

    27. Tôi đã trông coi những vật thí trong phước xá của Angīrassa, là vị gia chủ yêu quê hương và là một người có đức tin.

    28. Tôi đã trông thấy những người ăn xin ở đó đến trong trạng thái cần vật thực. Tôi bước qua một bên và nhăn mặt.

    29. Vì lý do này nên tay chân của tôi bị méo mó và khuôn mặt của tôi bị nhăn nhó. Ðây là lý do khiến mắt của tôi rỉ chảy. Ðây là ác nghiệp được làm bởi tôi.

    Vì lý do này vị ấy nói rằng:

    30. "Vì lý do ấy mà tay chân của tôi bị méo mó và mắt của tôi bị cau có. Ðây là lý do khiến mắt tôi bị rỉ chảy, đây là ác nghiệp được làm bởi tôi".

    Nghe qua điều này Aṅkura thốt lên câu kệ này khi đến gần Ngạ quỷ.

    31."Này kẻ khốn khổ, nghiệp đã cư xử đúng với ngươi, khiến mắt ngươi cau có và mắt của ngươi rỉ chảy, bởi vì ngươi đã nhăn mặt khi trông thấy vật thí của người khác".

    Aṅkura lại nói lên một câu kệ để chê trách vị thương nhân ấy, là vị thầy trong việc thực hành bố thí.

    32. "Làm sao người ta lại có thể nhờ vào một người khác khi cho ra đồ ăn, thức uống, vật thực cứng, y phục và chỗ ngụ?"

    Trong khi vị ấy quở trách vị thương nhân như vậy, Aṅkura bèn nói lên hai câu kệ để cho thấy cách hành động mà vị ấy sắp thực hiện.

    33. "Như vậy, khi tôi đã đi khỏi đây và đã trở lại Dvāraka, tôi sẽ cung cấp những vật thí mà sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi.

    34. Tôi sẽ cho đồ ăn và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ chứa nước ở bên vệ đường, những giếng nươc và những chiếc cầu nơi mà người ta khó đi qua".

    Ý nghĩa vừa nói được nêu ra rồi.

    Khi ấy bốn câu kệ này cũng được lồng vào bởi những vị kiết tập Tam Tạng, để cho thấy cách mà Aṅkura hành động.

    35. "Khi từ chỗ đó trở về và đã trở lại DvārakaAṅkura cung cấp những vật thí mà sẽ đem lại hạnh phúc cho vị ấy.

    36. Vị ấy cho ra đồ ăn và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ chứa nước ở bên vệ đường, những giếng nước, những chiếc cầu ở nơi mà người ta khó đi qua.

    37. "Ai bị đói? và ai bị thiêu đốt? Ai muốn mặc vào những y phục này? Những con bò của ai bị kiệt quệ? - Từ những con bò này người ta có thể thắng vào một con bò thiến. Ai cần dù che? và nước hoa? Ai cần hoa? Ai cần một số giày dép?"

    38. Những người thợ cạo, những người nấu bếp và những người bán vật thơm luôn luôn kêu lên như vậy, cả sáng lẫn chiều, ở đó tại chỗ ngụ của Aṅkura".

    Thời gian trôi qua với sự bố thí vĩ đại được ban ra như vậy, ngôi nhà nơi mà những vật thí được cho ra chỉ trở nên thưa thớt và có những người đi đường tình cờ đến viếng vì muốn được thoả mãn. Khi Aṅkura trông thấy điều này, vị ấy cảm thấy không được mãn nguyện, bởi vì ý định cao cả vị ấy là cho những vật thí, bèn gọi đến người đàn ông trẻ tên là Sindhaka mà vị ấy đã chỉ định liên quan đến sự bố thí của vị ấy và nói lên hai câu kệ:

    39. "Aṅkura ngủ an vui". Những người tin vào ta như vậy; nhưng ta khó ngủ, này Sindhaka, bởi vì ta không thấy những người ăn xin.

    40. "Aṅkura ngủ an vui". Những người tin vào ta như vậy; nhưng, này Sindhaka, ta khó ngủ vì những người đi đường quá ít".

    Khi nghe qua điều này, Sindhaka, muốn rằng vị ấy nên làm sáng tỏ khuynh hướng cao cả của vị ấy đối với sự bố thí, bèn thốt lên câu kệ này:

    41. "Nếu Sakkha, chúa cõi Ba mươi ba và của tất cả thế giới, mà ban cho Ngài một đặc ân, khi chọn lựa, thì Ngài sẽ chọn đặc ân nào?"

    Chú giải:

    41. Ðây là ý nghĩa: nếu Sakkha, chúa chư Thiên trong cõi trời Ba mươi ba và cũng là chúa tất cả thế gian, mà ban cho Ngài một đặc ân khi nói rằng, "Hãy chọn bất cứ ân huệ nào mà tâm của ngươi khao khát, này Aṅkura", "Khi chọn lựa, khi mong ước, thì ngài muốn chọn loại đặc ân nào?"

    Rồi Ankura nói lên hai câu kệ thành thực công bố ý định của vị ấy.

    42-43. "Nếu Sakkha, chúa của cõi Ba mươi ba, mà ban cho ta một đặc ân, thời ta sẽ chọn lấy đặc ân từ Sakkha như vầy: Khi ta thức dậy vào lúc mặt trời mọc sẽ xuất hiện những vật thực chư Thiên và những người ăn xin có giới đức, trong khi ta đang bố thí thì chúng sẽ không bị hết, sau khi ta đã bố thí thì ta không cảm thấy hối tiếc và tâm của ta có lòng tịnh tín khi ta bố thí.

    Khi Aṅkura công bố ý định của vị ấy, thì một người đàn ông tên là Sonaka, mà đang ngồi ở đó, là người có tánh cẩn thận, bèn nói hai câu kệ khi muốn ngăn cản vị ấy đừng bố thí quá mức.

    44. "Người không nên ban bố tất cả những vật sở hữu của mình cho người khác; Người nên vừa cho những vật thí vừa bảo vệ tài sản của mình. Do đó, của cải tốt hơn sự bố thí, những gia đình không tồn tại được do sự bố thí quá mức.

    45. Không phải không cho, cũng không phải cho quá mức mà được các bậc trí khen ngợi đâu. Do đó, của cải tốt hơn sự bố thí; người nên thực hiện sự tiết độ. Ðây là cách của những kẻ cương quyết.

    Muốn thử vị ấy, Sindhaka sau đó đã nói lên một lần nữa những câu kệ bắt đầu bằng, "Người không nên ban ra tất cả những sở hữu của mình."

    Khi nghe qua điều này, Aṅkura bèn công bố phương châm và hành động mà vị ấy sẽ thực hành bằng bốn câu kệ, để cố gắng làm cho người kia thay đổi tâm ý của mình:

    46. Thưa ngài, thực ra tôi vẫn muốn tiếp tục bố thí, và nếu điều ấy là đúng thời những người xứng đáng sẽ kết hợp với tôi; như đám mưa làm đầy chỗ đất thấp, tôi sẽ làm thoả mãn tất cả những người đi đường.

    47. Khi người trông thấy những người ăn xin thì sắc tướng của người trở nên tươi sáng và khi người đã cho thì thấy vui thích; đây là hạnh phúc dành cho người sống ở nhà.

    48. Khi người trông thấy những người ăn xin thì sắc tướng của người sẽ trở nên tươi sáng, và khi người đã cho rồi thì sẽ thấy hoan hỷ - đây là sự thực hành thành công của sự hy sinh.

    49. Ngay trước khi bố thí người nên hoan hỷ; khi đang bố thí tâm của mình nên tịnh tín; khi người đã bố thí rồi, thì người cũng được vui thích; đây là lối thực hành thành công của sự hy sinh".

    Khi Aṅkura đã công bố như vậy phương châm hành động mà vị ấy sắp thực hiện hằng ngày, vẫn duy trì sự bố thí vĩ đại, ý định của vị ấy về sự bố thí càng ngày càng được gia tăng nhiều hơn. Do bởi điều này khiến cho toàn thể vương quốc lúc bấy giờ phải dẹp qua công việc để nhường chỗ cho những lễ hội. Khi sự bố thí vĩ đại ấy đang tiến hành thì những người mà đã nhận được những phương tiện cần thiết cho cuộc sống đã bỏ mọi công việc làm ăn của họ và đi dạo quanh tùy thích.

    Do bởi điều này khiến những kho báu của hoàng gia trở nên trống rỗng và nhân đó, các vị vua sai sứ giả đến Aṅkura, nói lại rằng, "vì những vật bố thí của Ngài, thưa Ngài, nền kinh tế của chúng tôi đã bị suy sụp và những kho báu của chúng tôi đã trở nên trống rỗng. Ngài nên biết giới hạn thích hợp đến chừng mức mà vật thí nên được cho ra".

    Khi nghe qua điều này, Aṅkura đi đến Dakkhināpatha, và tại vùng tamil sai dựng lên một số lớn những phước xá ở một chỗ không cách xa biển, và duy trì những sự bố thí vĩ đại của vị ấy ở đó trong suốt cuộc đời còn lại của vị ấy. Vào lúc thân hoại mạng chung, vị ấy tái sanh vào cõi ba mươi ba. Những người kiết tập Tam tạng nói những câu kệ này để cho thấy sự vinh quang của những vật thí của vị ấy và sự tái sanh trong thiên giới của vị ấy:

    50. Sáu chục ngàn cỗ xe chứa đầy vật thực thường xuyên được cho đến mọi người ở chỗ ngụ của Aṅkura, là người có con mắt nhìn về những việc phước.

    51. Ba ngàn người nấu bếp, trang sức những bông tai có cẩn ngọc, là những người trông coi những vật thí cho sự dâng hiến, nhờ Aṅkura mà họ được sự nuôi mạng.

    52. Sáu chục người đàn ông, là những chàng thanh niên trang sức những vòng tai có cẩn châu ngọc, chẻ củi ở chỗ bố thí vật thực vĩ đại của Aṅkura.

    53. Sáu chục ngàn phụ nữ, tất cả đều trang sức và có mang châu ngọc, sửa soạn nhiều loại gia vị tại chỗ bố thí vĩ đại của Aṅkura.

    54. Sáu chục ngàn phụ nữ, tất cả đều trang sức và có mang châu ngọc, đứng sẵn sàng với cái vá trong tay tại chỗ bố thí vĩ đại của Aṅkura.

    55. Vị Sát-đế-lỵ này đã bố thí dồi dào đến nhiều người, vị ấy đã bố thí trong một thời gian dài, ân cần, bằng sự quan tâm chu đáo và bằng chính tay của vị ấy, nhiều lần, nhiều lần.

    56. Aṅkura đã duy trì sự bố thí vĩ đại của vị ấy trong một thời gian dài, trong nhiều nửa tháng, trong nhiều mùa và nhiều năm.

    57. Sau khi Aṅkura đã thực hành sự bố thí như vậy và hy sinh như vậy trong một thời gian dài như vậy, vị ấy từ bỏ thân xác của con người và đi đến cõi Ba mươi ba.

    Trong khi vị ấy đang thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên sau khi đã sanh vào trong cõi ba mươi ba như vậy, trong thời của Ðức Thế Tôn của chúng ta có một chàng trai tên là Indaka, là người với lòng tịnh tín trong tâm, đã cúng dường một muỗng vật thực đến Trưởng lão Anuruddha khi Ngài đang đi khất thực. Ðến lúc vị ấy chết, do oai lực của việc phước đã gieo vào phước điền, được tái sanh trong cõi ba mươi ba, làm một vị chư Thiên có oai lực và đại thần thông, chiếu sáng rực rỡ và vượt trội hơn vị chư Thiên Aṅkura, về mười thuộc tính như tướng mạo chư Thiên v.v... Vì lý do này, có lời nói rằng:

    58. Sau khi cho một muỗng vật thực đến Anuruddha, Indaka bỏ thân xác của con người và đến cõi ba mươi ba.

    59. Về mười cách, Indaka sáng chói hơn Aṅkura: Là dung sắc, giọng nói, vị, hương thơm và vật xúc chạm, tất cả đều khả ái với tâm.

    60. Về thọ mạng và danh tiếng, nước da, sự hạnh phúc và quyền lực. Như vậy, Indaka sáng chói hơn Aṅkura .

    Khi Aṅkura và Indaka thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên sau khi tái sanh trong cõi trời ba mươi ba như vậy thì Ðức Thế Tôn của chúng ta, vào hạ thứ bảy sau khi chứng đắc nhất thiết trí, đã thị hiện song thông vào đêm trăng tròn của tháng Āsālhī, ở dưới gốc cây Gaṇdamba gần cổng của thành Sāvatthi. Ðúng lúc, Ngài đi bằng ba bước chân, đến cõi ba mươi ba và ngồi trên tảng đá Paṇḍukambala ở dưới chân của cây San hô, để thuyết giảng Abhidhaṃma.

    Khi chiếu sáng rực rỡ như mặt trời mới mọc ở trên núi Yugandhara, Ngài chiếu ra hào quang từ chính thân của Ngài, vượt trội ánh sáng của những vị chư Thiên đi chung và những vị Brahma đã hội họp ở đó từ mười ngàn thế giới. Ngài trông thấy Indaka ngồi ở gần bên, và Aṅkura ngồi ở cách xa mười hai do tuần, và nói lên câu kệ này với mục dích giải thích tầm quan trọng về pháp thành tựu nơi những bậc xứng đáng thọ lãnh vật cúng dường:

    "Một sự bố thí vĩ đại đã được cho bởi ngươi, này Aṅkura, trong một thời gian dài. Người lại ngồi quá cách xa, hãy đến trước mặt của Như Lai".

    Khi nghe qua điều này, Aṅkura bèn bạch rằng, "Bạch Ðức Thế Tôn, con đã cho ra nhiều vật thực trong một thời gian dài, và dầu con đã duy trì sự bố thí vĩ đại ấy, nhưng vì không có được những bậc xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng dường, giống như hạt giống được gieo vào thửa ruộng có đất cằn cỗi, nên không có quả báu dồi dào. Nhưng đối với Indaka, dầu vị ấy chỉ cho một vật thí gồm một muỗng vật thực, bởi vì vị ấy có được người xứng đáng thọ lãnh vật cúng dường, nên có trổ sanh, như hạt giống được gieo trên đám ruộng phì nhiêu, quả phước vô cùng dồi dào này. Những vị kiết tập Tam tạng nói những câu kệ này để minh họa quan điểm này:

    61. Khi Ðức Phật, bậc cao quý nhất trong nhân loại, đang ngụ ở trên tảng đá Paṇdukaṃpala ở dưới chân của cây san hô trong cõi ba mươi ba. Những vị chư Thiên từ mười ngàn thế giới đã đến tụ họp và tỏ sự tôn kính đến Ðức Phật khi Ngài lưu lại trên đỉnh núi.

    63. Chẳng có vị chư Thiên nào vượt trội Ðức Phật về sắc tướng. Ðức Phật trội hơn tất cả những vị chư Thiên ấy, riêng Ngài chiếu sáng rực rỡ.

    64. Vào lúc ấy, Aṅkura ở cách xa mười hai do tuần trong khi Indaka, sáng chói hơn vị ấy, đang ở gần bên Ðức Phật.

    65. Ðức Phật, khi nhìn vào cả Aṅkura và Indaka, bèn nói những lời này để đề cao những bậc đáng thọ lãnh vật cúng dường.

    66. "Một sự bố thí vĩ đại được cho ra bởi ngươi, này Aṅkura, trong một thời gian dài. Vậy mà Ngươi đã ngồi quá cách xa, hãy đến trước mặt Như lai".

    67. Bị thúc dục bởi bậc đã tu chứng, Aṅkura bèn đáp lại rằng, "những vật thí ấy có lợi ích gì cho con đâu? Chúng không có được những bậc xứng đáng thọ lãnh vật thí,

    68. Trong khi đó, vị Yakkha Indaka này đã cho ra một vật thí có phần nhỏ bé, thế mà sáng chói hơn chúng con như mặt trăng sáng trội các vì sao.

    69. Cũng như nhiều hạt giống được gieo trên đám ruộng khô cằn, nó không cho kết quả dồi dào cũng không làm hài lòng người gieo.

    70. Cũng vậy, nhiều vật thí, khi được đặt vào trong những người có hạnh kiểm nghèo nàn, thì không cho kết quả dồi dào, cũng không làm hài lòng người cho.

    71. Và cũng như, khi hạt giống ít mà được gieo trên một đám ruộng phì nhiêu và có những đám mưa thích hợp tưới xuống, thì kết quả làm hài lòng người gieo.

    72. Cũng vậy, có quả lớn khi việc phước, dầu nhỏ nhặt nhất, được làm đối với những người có bản tánh như có giới đức và có đức tánh khác..."

    73. Những vật thí cho ra có sự phân biệt thời cái được cho ra có quả báo lớn. Khi những vật thí được cho ra với sự phân biệt thời những người bố thí sẽ đi đến cõi trời.

    74. Bố thí với sự phân biệt được Ðức Sugata tán dương. Cái mà được cho đến những Bậc xứng đáng thọ lãnh những vật cúng dường ở đây trong đời này thì có quả báu lớn như hạt giống được gieo trên thửa ruộng màu mỡ.

    Khi bắt đầu bằng câu kệ rằng, "Một sự bố thí vĩ đại được cho ra bởi ngươi", Ngạ quỷ sự về Aṅkura này được nêu lên bởi Bậc Ðạo sư ở cõi ba mươi ba trước mặt các vị chư Thiên trong mười ngàn, nhằm mục đích giải thích tầm quan trọng của việc có được những bậc xứng đáng thọ lãnh những vật cúng dường.

    Khi Ngài đã thuyết tụng Abhidhamma ở đó trong ba tháng và đã làm lễ Ðại Tự Tứ vị Deva ấy của những vị chư Thiên đã đi xuống từ cõi trời ấy, được vây quanh bởi những hội chúng chư Thiên, đến thành phố Sankassa.

    Ðúng lúc, Ngài đến tại Sāvatthi và trong khi đang ngụ ở Jetavana, Ngài giảng giải chi tiết giữa tứ chúng nhằm mục đích giải thích tầm quan trọng của việc có được những bậc xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng dường, bài pháp bắt đầu từ, "mục đích ấy mà nhờ đó chúng ta đang đi", và đưa giáo pháp đến đỉnh cao bằng thời pháp về tứ đế. Vào lúc kết thúc của thời Pháp ấy, tuệ quán về diệu pháp đã sanh lên trong vô số ngàn Koṭi chúng sanh.

    *

    II.10 UẤT ÐA LA MẪU QUỶ SỰ
    (UTTARAMĀTU PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Một vị Tỳ khưu mà đã đi để nghỉ trưa".

    Ðây là Ngạ quỷ sự về mẹ của Uttara. Ðây là phần giải thích về ý nghĩa của nó.

    Khi Hội kiết tập tam tạng lần thứ nhất đã được tổ chức tại chỗ nhập Niết bàn của Bậc Ðạo sư, Ðại Ðức Mahā Kaccāyana đang ngụ cùng với mười hai vị Tỳ khưu trong một khu rừng nọ không cách xa thành Kosaṃbi. Lúc bấy giờ, một vị Tư tế quan của vua Udena, là người trước kia đã trông coi những công việc của vị ấy trong thành phố ấy, đã chết. Bởi vậy đức vua cho gọi đứa con trai của ông ta đến, là một chàng thanh niên tên là Uttara, và bổ nhiệm cậu ta vào chức vụ quản đốc khi nói rằng, "Bây giờ ngươi phải trông coi những công việc mà trước kia cha của ngươi đã trông coi". "Thưa vâng", Cậu ta đáp lại. Vào một hôm nọ, cậu ta đi đến khu rừng, đem theo một số thợ mộc để kiếm một số gỗ về sửa sang thành phố. Trong khi ở tại đó, vị ấy đi đến chỗ ngụ của vị Trưởng lão đáng kính Mahā Kacchāyana và trông thấy Trưởng lão đang ngồi một mình ở đó và đang mặc những chiếc y được làm bằng vải vụn từ đống rác. Ðầy lòng tịnh tín khi trông thấy riêng oai nghi này của Ngài, vị ấy đảnh lễ Trưởng lão, nói lời chào hỏi thân mật, và rồi ngồi xuống ở một bên. Rồi Trưởng lão thuyết pháp cho vị ấy. Khi đã nghe qua pháp, vị ấy có đầy lòng tịnh tín đối với Tam bảo và, khi đã được an trú trong tam qui, bèn mời Trưởng lão, khi nói rằng, "Bạch Ðại Ðức, xin Ngài hãy bi mẫn mà nhận lời mời của con đến Ngài và Chư Tăng để đến thọ thực trong ngày hôm sau".

    Trưởng lão nhận lời bằng cách im lặng. Rồi vị ấy rời khỏi chỗ ấy, đi đến thành phố và báo tin cho những thiện tín khác biết, khi nói rằng, "Tôi đã mời Trưởng lão trong ngày hôm sau. Các bạn cũng nên đến nhà của tôi nơi mà những vật thí sẽ được cho ra". Vào lúc sáng sớm của ngày hôm sau, vị ấy sai sửa soạn vật thực loại cứng và loại mềm, sai công bố rằng đã đến giờ và rồi đi ra để đón tiếp Trưởng lão khi ngài đang đi đến với mười hai vị Tỳ khưu. Vị ấy đảnh lễ họ và mời họ vào nhà. Khi Trưởng lão và các vị Tỳ khưu đã ngồi trên những chỗ ngồi đã được soạn sẵn với những đồ trải đắc giá và thích hợp, vị ấy cúng dường đến các Ngài vật thơm, những bông hoa, hương trầm và đèn nến; và làm thoả mãn các Ngài bằng đồ ăn và thức uống thượng vị. Ðầy lòng tịnh tín và với hai tay chấp lại trong thái độ tôn kính, vị ấy lắng nghe lời tùy hỷ của các Ngài.

    Khi Trưởng lão đang đi, sau khi sự phúc chúc cho bửa thọ thực đã được thực hiện, vị ấy cầm lấy bát Trưởng lão và, khi đi theo các Ngài, rời khỏi thành phố. sau khi đã thỉnh Trưởng lão quay lui, vị ấy thỉnh cầu Trưởng lão rằng, "bạch Ngài, Ngài nên viếng thăm nhà con thường xuyên", và rồi trở về sau khi biết được Trưởng lão đã nhận lời mời. Do sự hầu hạ Trưởng lão như vậy, vị ấy được an trú trong giáo giới của Trưởng lão và chứng đắc quả thánh Tu-đà-hườn. Vị ấy sai dựng lên một phước xá, khiến cho tất cả quyến thuộc của vị ấy được tìm thấy đức tin trong giáo pháp. Tuy nhiên, mẹ của vị ấy, có tâm bị che mờ bởi lòng bỏn xẻn và hay chửi mắng vị ấy như vầy, "Cầu cho đồ ăn và thức uống này mà mày đã cho đến các vị Sa-môn như vậy, trái nghịch với ước muốn của tao, sẽ biến thành máu nhơ cho ngươi trong kiếp sau!" Tuy nhiên bà ta, đã bỏ ra một cành thoa bằng lông đuôi của con chim công để dâng cúng nó trong ngày đại nhựt của tịnh xá ấy. Khi bà ta chết và tái sanh trong cõi Ngạ quỷ và do quả phước của vật thí bằng cái thoa từ lông đuôi của con chim công nên tóc của bà ta đen, mướt, xoắn ở đuôi tóc, mịn và dài. Khi nữ quỷ đi xuống dòng sông với ý định sẽ uống nước", thì dòng sông ấy biến thành máu. Trong năm mươi lăm năm nàng đi lang thang, bị đói và khát.

    Rồi một hôm nọ nàng trông thấy Trưởng lão Kaṇkhārevata đang ngồi trên bờ sông để nghỉ trưa. Nữ quỷ đi đến Trưởng lão trong khi che mình bằng mái tóc dài và xin Ngài một ít nước. Liên quan đến điều này, lời nói sau đây được nói đến, hai câu kệ cuối đã được lồng vào ở đây bởi những vị kiết tập Tam tạng:

    1. "Con Nữ Ngạ quỷ trông xấu xí và ghê sợ ấy đi đến một vị Tỳ khưu mà đã đi nghỉ trưa và đang ngồi ở trên bờ sông hằng.

    2. Tóc của nàng rất dài, xõa xuống đến đất. Ðược che phủ bởi tóc của nàng, nàng nói với vị Sa-môn như vầy.

    3. Trong năm mươi lăm năm từ khi con chết, con không biết là đã ăn hay đã uống nước như thế nào xin hãy cho con một ít nước, thưa Ngài, con bị khô khát vì thiếu nước.

    Từ đây trở đi là những câu kệ nói về cuộc vấn đáp qua lại giữa Trưởng lão và nữ Ngạ quỷ:

    4. "Nước mát của sông Hằng chảy xuống từ Hi mã lạp sơn, ngươi có thể lấy một ít ở đây mà uống. Tại sao lại xin nước ở nơi ta?"

    5. "Thưa Ngài, nếu chính con lấy nước từ sông Hằng thời nó sẽ biến thành máu dành cho con . Ðó là lý do khiến con xin nước".

    6. "Ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của ác nghiệp nào khiến nước biến thành máu dành cho ngươi?"

    7. "Thưa Ngài, con trai của con là Uttara, có đức tin và là một Thiện nam đã chống lại ý muốn của con, nó cúng dường đến cho những vị Sa-môn những y phục và bỏ vật thực, những vật dụng và những chỗ ngụ.

    8. Nhưng con, bị khuấy động bởi lòng bỏn sẻn, đã nguyền rủa nó như vầy, "Cầu cho những chiếc y và vật thực bố thí, những vật dụng và những chỗ ngụ mà mày bỏ cho những vị Sa-môn, chống lại ý của con.

    9. Cầu cho điều này hãy biến thành máu dành cho ngươi trong kiếp sau, này Uttara, chính do kết quả của nghiệp ấy khiến cho sông Hằng trở thành máu dành cho con ".

    Rồi Ðại Ðức Revata đã cho một số nước đến chư Tăng nhân danh nữ Ngạ quỷ, đi khất thực và lấy vật thực mà vị ấy đã nhận lãnh được đem dâng đến chư Tăng. Vị ấy lượm những miếng vải từ đống rác v.v... rửa sạch chúng rồi kết thành những tấm nệm và tấm thảm, và cho đến các vị Tỳ khưu. và bằng cách này, nữ Ngạ quỷ ấy đạt đến sự vinh quang của chư Thiên. Nàng đi đến Trưởng lão và cho Trưởng lão thấy sự vinh quang của chư Thiên mà nàng đã đạt được. Trưởng lão giải thích vấn đề ấy với tứ chúng mà đã đến trước mặt Trưởng lão và rồi ban ra một thời pháp thoại. Dân chúng, đầy xúc động, nhờ đó được thoát khởi bợn nhơ của lòng bỏn xẻn và lấy làm hoan hỷ trong những thiện pháp như bố thí v.v...

    Quỷ sự này nên được xem là đã được kết thúc trong bản sưu tập này tại hội kiết tập lần thứ hai.

    *

    II.11 TƯ NGẠ QUỶ SỰ (SUTTA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Trong quá khứ tôi đã cho một vị Tỳ khưu, một người đã xuất gia".

    Ðây là Ngạ quỷ sự về sợi chỉ. Câu chuyện đã bắt nguồn như thế nào?

    Tương truyền rằng, trên bảy trăm năm trước khi Bậc Ðạo Sư của chúng ta ra đời, ở trong một ngôi làng nọ không cách xa thành (Savatthi), có một chàng trai nọ đã hộ độ một vị Phật Ðộc Giác. Khi anh ta đến tuổi Trưởng thành, người mẹ kiếm về cho anh ta một đứa con gái của một gia đình tốt từ dòng dõi có địa vị ngang hàng, nhưng chính ngày mà cậu ta sắp kết hôn thì chàng trai, khi đã đi chung với một số bạn bè để tắm, bị một con rắn cắn chết. Người ta còn nói rằng chính vì cậu ta bị một con dạ xoa nhập vào. Dầu cậu ta đã làm nhiều việc thiện bằng sự hộ độ ấy của cậu ta đến Ðức Phật Ðộc giác, tuy nhiên, vì cậu ta luyến ái với cô gái nên phải sanh làm một Vimāna Peta, nhưng có thần thông và oai lực lớn. Khi muốn đem cô gái vào trong cung điện của mìmh, vị ấy tự nghĩ rằng. "Bây giờ bằng cách nào để nàng có thể làm một việc phước, để sống và hưởng những khoái lạc của tình yêu với ta ở đây trong chính cuộc sống này? Trong khi vị ấy đang suy xét cách để nàng có thể sống trong sự vinh quang của ái lạc thần tiên thì trông thấy một vị Phật Ðộc Giác đang làm y. Vị ấy đi đến trong hình tướng của con người và đảnh lễ Ngài, rồi hỏi rằng: "Bạch Ngài, Ngài có cần chỉ không?" "Chúng ta đang làm những chiếc y, này thiện nam", Ðức Phật Ðộc giác đáp lại. Vị ấy chỉ về ngôi nhà của cô gái mà nói rằng, "Thôi được, Ngài nên đi và xin một ít chỉ ở tại chỗ đó". Ðức Phật Ðộc giác đi đến đó và đứng ở cửa nhà.

    Khi nàng trông thấy Ðức Phật Ðộc giác đang đứng ở đó, nàng nhận ra rằng Bậc Ứng cúng đang cần một ít chỉ từ nàng và, với lòng tịnh tín trong tâm, đã dâng đến Ngài một cuộn chỉ. Rồi vị chư thiên trong lốt người ấy đi đến nhà của cô gái, xin phép mẹ của nàng và sống với nàng trong vài ngày. Ðể giúp đỡ mẹ của nàng, vị ấy bỏ đầy tiền và vàng trong tất cả những cái hũ trong nhà của họ và viết tên của vị ấy ở trên tất cả các cái hủ, khi nói rằng, "Của cải này đã được cho bởi các vị chư thiên thì sẽ không ai có thể lấy được", rồi dẫn cô gái vào trong cung điện của vị ấy. Mẹ của nàng, khi đã có được nhiều của cải này, bèn cho đến những quyến thuộc của mình, đến những người nghèo khổ và những người vô gia cư v.v... Và chính bà ta cũng dùng nó. Khi bà ta đang cơn hấp hối, bà ta nói với những quyến thuộc rằng, "Nếu con gái của tôi đến thì hãy chỉ cho nó của cải này" Và rồi mệnh chung.

    Rồi bảy trăm năm sau khi Ðức Thế Tôn của chúng ta xuất hiện trong thế gian và lăn bánh xe chánh pháp, và đến đúng lúc đang trú ngụ ở Sāvatthi, sự bất mãn sanh đến cho người đàn bà đang sống với vị phi nhân. Nàng nói với vị ấy rằng, "Thưa lang quân, hãy đem em trở lại với căn nhà của chính em", và rồi nói lên những câu kệ này:

    1. "Trong quá khứ tôi đã cho đến một vị Tỳ khưu, đến một người xuất gia, số chỉ mà vị ấy đã đến xin tôi. Do kết quả của điều ấy, phước báu dồi dào được thọ lãnh và nhiều Koṭi y phục đã xuất hiện dành cho tôi.

    2. Cung điện của chàng được trải ra bằng những bông hoa và trông khả ái, nó có vô số bức tranh và được hầu hạ bởi những người đàn ông và đàn bà. Tôi xử dụng nó và tự mặc y phục, tuy nhiên nhiều vật sở hữu vẫn không hết.

    3. Do kết quả của việc phước ấy, hạnh phúc và khoái lạc được thọ lãnh ở đây. Khi tôi lại đi đến cõi người một lần nữa, tôi sẽ quyết tâm làm những việc phước. Xin hãy đem tôi đi, thưa lang quân".

    Khi nghe qua điều này, vị phi nhân ấy, không muốn đi vì do lòng ái luyến và cũng thương hại cho nàng, bèn thốt lên câu kệ này:

    4. "Ðã bảy trăm năm từ khi em đến đây. Em sẽ già và tại đó sẽ bịnh lão, và tất cả những quyến thuộc của em có lẽ đã chết rồi. Em sẽ làm gì khi từ đây em đi đến chỗ đó?

    Khi vị ấy đã nói như vậy, nàng bèn nói mà không tin điều mà vị ấy đã nói, và thốt lên câu kệ này:

    5. "Chỉ có bảy năm kể từ khi đến đây, em có được hạnh phúc thần tiên. Khi em đã trở lại cõi người một lần nữa, em quyết định làm những việc phước. Hãy đem em đi, thưa lang quân.

    Khi nàng đã nói như vậy, vị Vimānā Peta ấy bèn khuyên nàng bằng nhiều cách, "Em sẽ không sống ở đó trên bảy ngày kể từ bây giờ. Sẽ có một số của cải được cho bởi ta và do mẹ em cất. Hãy cho nửa số của cải này đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn với ước muốn rằng, em có thể sanh lên ngay tại đây," Khi đã nói điều này, vị ấy bèn nắm lấy tay nàng và đặt nàng ở giữa ngôi làng của nàng, khi nói cho nàng biết rằng nàng nên sách tấn những người khác, mà cũng đến đó, làm những việc phước theo khả năng của họ, và rồi vị ấy ra đi. Vì lý do này mà có lời nói rằng:

    6. Vị ấy cầm chắc cánh tay của nàng và dẫn nàng về, sắp già và yếu đuối, khi nói rằng, "Nàng hãy bảo những người khác mà cũng đến đây rằng, "Hãy làm những việc phước, rồi hạnh phúc sẽ nhận được".

    Ðể cho nàng thấy điều nào sẽ phải nói, "Những người khác mà cũng đã đến" v.v... Ðược nói đến. Ðây là ý nghĩa: "Này em yêu, em nên làm những việc phước và em nên bảo những người khác, nên sách tấn những người khác mà đã kéo đến đây để thăm em, rằng, "Thưa các bạn kính mến, cho dù cái đầu cuả các bạn và y phục của các bạn bị cháy sáng, các bạn cũng không biết điều này và hãy làm những việc phước, như bố thí v.v... Vì khi những việc phước đã được làm rồi, thì hạnh phúc là quả của chúng chắc chắn sẽ nhận được, đừng sanh tâm nghi ngờ gì về điều này cả!"

    Khi vị ấy đã nói lên điều này và đã đi khỏi chỗ đó, người đàn bà đi đến chỗ ngụ của những quyến thuộc của nàng và cho họ biết nàng. Nàng lấy của cải mà họ dâng đến và, khi cho những vật thí đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn, bèn sách tấn tất cả mọi người mà đi đến trước mặt nàng, bằng câu kệ này:

    7. "Những Peta và những con người cũng vậy đã được tôi trông thấy khi họ đi đến chỗ ưu bi do không làm điều gì tốt đẹp, cũng như các vị chư thiên và nhân loại là những chúng sanh an trú trong hạnh phúc, sau khi làm những việc phước mà quả sẽ được thọ hưởng là hạnh phúc".

    Khi đã sách tấn họ như vậy, nàng tổ chức một cuộc bố thí cúng dường đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn, kéo dài trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, nàng chết và tái sanh trong cõi Ba mươi ba. Các vị Tỳ khưu nêu lên vấn đề với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh pháp cho hội chúng đã hội hợp ở đó. Ngài đã giải thích chi tiết về lợi ích lớn và quả báu lớn của những vật thí được dâng đến chư Phật Ðộc Giác. Khi nghe qua pháp thoại này, họ được thoát khỏi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn và lấy làm thoả thích trong những việc phước như bố thí v.v...

    *

    II.12 VÔ NHĨ KHUYỂN CẨU QUỶ SỰ (KAṆṆAMUṆḌA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Những bậc thang của ngươi bằng vàng".

    Câu chuyện này được nói đến trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Sāvatthi, liên quan đến nữ Ngạ quỷ Kaṇṇa Muṇḍa.

    Tương truyền rằng cách đây đã lâu, trong thời kỳ của đức Phật Kassapa, tại kinh đô Kimbilā có một vị thiện nam nọ, là bực thánh Tu-đà-huờn và có cùng một đức tin với năm trăm vị thiện nam khác. Vị ấy siêng năng làm những việc phước như trồng những vườn cây khả ái, đắp đê, làm cầu v.v... Và trong khi đang ngụ ở đó, vị ấy cho dựng lên một Tinh xá dành cho chư Tăng và thỉnh thoảng đi với họ đến tinh xá ấy. Những người vợ của họ cũng là những tín nữ và trong khi, thỉnh thoảng, đi đến đó trong sự hoà hợp với nhau và, mang theo những vật thơm, những tràng hoa và dầu xức... dọc đường họ muốn nghỉ chân ở những khu vườn khả ái và những nhà nghĩ v.v... trước khi tiếp tục đi. Rồi một hôm nọ, một số tên lừa đảo đang ngồi với nhau ở một trong những nhà nghỉ, chú ý đến sắc đẹp của họ khi họ bỏ đi sau khi đã nghỉ ở đó, và đã đem lòng ái luyến những nữ nhân ấy. Khi chúng nhận biết rằng những nữ nhân ấy có giới hạnh, chúng bắt đầu nói chuyện với nhau khi tự hỏi rằng, "Ai có thể làm nứt rạn giới của một người nào đó trong nhóm nữ nhân này?" "Tôi có thể", một người trong bọn chúng nói lên. Chúng đánh cuộc rằng, "Chúng ta đánh cuộc một ngàn đồng. Nếu anh không làm được điều ấy thời anh phải nộp cho chúng tôi một ngàn đồng".

    Khi cố gắng bằng vô số cách, do bởi lòng tham được tiền và sợ thua cuộc, anh ta chơi đàn bảy dây, tạo ra những tiếng nhạc du dương, khi họ đi đến nhà nghỉ. Khi hát những bản nhạc mang tánh chất khiêu dâm với giọng hát ngọt ngào của anh ta, bằng âm thanh của bản nhạc ấy, anh ta đã khiến cho một người đàn bà nọ trong bọn họ làm rạn nứt giới hạnh của nàng, rồi tà dâm với nàng và được một ngàn đồng từ những tên lưu manh ấy. Những người mà thua một ngàn đồng bèn thuật lại vấn đề ấy với chồng của nàng. Vì không tin họ, nên vị ấy hỏi nàng rằng: "Cô có làm như những người này nói không?" "Tôi không biết điều gì như thế cả", nàng phủ nhận. Thấy anh ta không tin nàng, nàng bèn chỉ về một con chó mà đang đứng gần đó và thề rằng, "nếu em làm một điều gì ác như thế này, thì xin cho con chó bị đứt tai ấy ăn thịt của em ở bất cứ nơi nào mà em sanh ra". Dầu năm trăm nữ nhân ấy biết rằng nàng là một kẻ tà dâm, khi được hỏi rằng, "cô ta đã có phạm một ác nghiệp như thế hay không?" họ nói dối rằng,

    "Chúng tôi không biết như thế đâu", và thề rằng, "Nếu chúng tôi biết điều này thời xin cho chúng tôi làm những nô lệ của nàng trong tất cả những kiếp sống mai sau".

    Bấy giờ người đàn bà tà dâm trở nên gầy mòn ốm yếu do bị dằn vặt bởi lương tâm cắn rứt và, chẳng bao lâu sau thì chết. Nàng sanh làm một Vimānapetī ở trên bờ hồ Kaṇṇamuṇḍa, là một trong bảy cái hồ lớn của núi Himālāya, chúa của các núi, và ở bên ngoài quanh khắp cung điện của nàng có sanh lên một hồ sen thích hợp để cho nàng hưởng quả của các nghiệp của nàng. Khi năm trăm nữ nhân còn lại chết, họ sanh làm những nô lệ của nàng do bởi lời thề của họ. Do quả của những việc phước được làm trước kia, nàng thọ hưởng sự vinh quang thần tiên ở đó suốt ngày, nhưng vào lúc nửa đêm, bị thúc dục bởi những năng lực của những ác nghiệp của nàng, nàng đứng dậy khỏi chiếc giường của nàng và đi đến bờ của hồ sen. Khi nàng đi đến đó, thì một con chó đen có cỡ bằng con voi trẻ, có hình tướng ghê sợ, hai tai bị đứt, những cái răng nanh dài lồi ra, nhọn và trông dữ tợn, đôi mắt của nó mở rộng và giống như những cục than cháy đỏ của gỗ Acacia, lưỡi của nó thè ra như một tia chớp không bị đứt đoạn, những cái móng nhọn và trông dữ tợn, và lông bờm xờm, dài một cách dị hợm, nhân đó nó đến và vật nàng xuống đất, hùng hổ xé xác nàng như người bị đói quá mức. Khi nó đã ăn thịt nàng đến chỉ còn một bộ xương, nó dùng những cái nanh của nó tha nàng đi và ném nàng vào trong hồ sen rồi biến mất. Khi bị ném vào trong đó, ngay tức thì nàng trở lại hình tướng bình thường của nàng, và sau khi trèo đến cung điện của nàng. nàng lại nằm trên chiếc giừơng. Tuy nhiên, những người khác thì phải chịu khổ do phải làm nô lệ cho nàng mà thôi.

    Chúng tiếp tục sống ở đó theo cách này cho đến khi năm trăm mươi năm đã trôi qua, nhân đó chúng trở nên bất mãn vì chúng tiếp tục thọ hưởng sự vinh quang của thần tiên như vậy mà không có sự hiện diện của người đàn ông nào. Bấy giờ, ở đó có một con sông chảy ra từ hồ Kaṇṇamuṇḍa và chảy vào sông Hằng sau khi đi ngang qua một khe núi. Gần chỗ ngụ của họ là một khu rừng giống như một khu vườn khả ái được trang điểm bởi nhiều trái cây của chư Thiên, những cây xoài mít v.v... Chúng suy nghĩ như vầy, "bây giờ, nếu chúng ném những trái xoài này xuống con sông thì chắc chắn sẽ có một người nào đó trông thấy nó và đi đến do muốn được những trái như vậy, và rồi chúng ta có thể vui chơi với người đàn ông ấy. Và chúng đã làm đúng điều này. Một số trái xoài mà chúng ném được vớt lên bởi những vị Ðạo sĩ, một số bởi những người thợ rừng và một số dính vào bờ sông. Tuy nhiên có một trái trôi theo dòng nước của sông Hằng, và đúng lúc đến tại xứ Ba-la-nại.

    Lúc bấy giờ, vua của xứ Ba-la-nại đang tắm ở trong dòng sông Hằng bên trong vòng đai lưới bằng đồng, và trái xoài ấy, trôi đi theo dòng nước, đúng lúc trôi đến và dính vào cái lưới bằng đồng ấy. Khi những quân hầu của Ðức vua trông thấy trái xoài của chư thiên đồ sộ ấy và có đầy màu sắc, hương vị. Họ dâng trái xoài ấy đến Ðức vua. Ðức vua lấy một phần và để thử nó, bèn cho nó đến một tên cướp đang bị giam ở trong tù, chờ ngày xử trảm, ăn nó. Khi anh ta đã ăn nó rồi, anh ta bèn nói rằng, "Tâu bệ hạ, trước kia chưa bao giờ thần được ăn một trái xoài như vậy; theo thần nghĩ, đây chắc là một trái xoài của chư thiên". Ðức vua cho anh ta một lát xoài nữa, và khi anh ta đã ăn nó thì tóc bạc của anh ta và những nét nhăn biến mất, và anh ta trở nên vô cùng hấp dẫn về sắc tướng, giống như người vẫn còn trong thời thơ ấu của mình. Khi đức vua trông thấy điều này, vị ấy đầy ngạc nhiên và tò mò, bèn ăn trái xoài và được tánh thanh lịch về thân. Vị ấy hỏi những quân hầu của mình rằng, "những trái xoài như vậy được tìm thấy ở đâu?" "Người ta đồn rằng nó ở trên núi Himālaya, là vua của các núi, tâu bệ hạ", quân hầu nói và khi được hỏi, "có thể đi hái chúng đem về được không?" chúng nói rằng, "Những người thợ rừng chắc biết, tâu bệ hạ". Ðức vua cho gọi những người thợ rừng đến, nói cho họ biết vấn đề và rồi hỏi ý kiến của họ. Vị ấy cho một ngàn Kahāpana đến một người thợ rừng nghèo khổ và sai anh ta đi khi nói rằng, "Hãy đi nhanh và đem về trái xoài như thế này cho ta".

    Anh ta trao một ngàn Kahāpana cho vợ và các con, lấy những thứ dự trữ cho chuyến hành trình và đi ngược dòng sông Hằng, hướng về hồ Kaṇṇamuṇḍa. Khi anh ta đã đi khỏi những con đường đi của loài người, anh ta trông thấy một đạo sĩ ở một chỗ nằm bên dưới hồ Kaṇṇamuṇḍa xa sáu chục Do tuần. Khi đi dọc theo con đường được mô tả bởi vị ấy, anh ta lại trông thấy một đạo sĩ ở một chỗ xa hơn ba mươi do tuần. Khi đi dọc theo con đường được mô tả bởi vị đạo sĩ nầy, anh ta lại trông thấy một Ðạo sĩ nữa ở một chỗ xa hơn ba mươi do tuần. Khi đi dọc theo con đường được mô tả bởi vị ấy, anh ta lại trông thấy một Ðạo sĩ khác ở một chỗ xa mười lăm do tuần và nói cho vị ấy biết lý do về chuyến đi của mình. Ðạo sĩ khuyên anh ta rằng: "Từ đây đi tiếp, anh sẽ rời khỏi con sông Hằng to lớn này và đi theo một con sông nhỏ ngược dòng cho đến khi anh trông thấy một khe núi, khi đó anh sẽ cầm một cây củi đang cháy dở và đi vào lúc đêm tối. Khi con sông không chảy vào lúc đêm tối thì đây là thời gian thích hợp để anh đi tiếp. Khi anh đã đi được vài do tuần, anh sẽ trông thấy những trái xoài". Anh ta làm đúng điều này và khi mặt trời mọc, anh ta đến rừng xoài vô cùng hấp dẫn ấy; ở đó vang dội những bài ca của những đàn chim thuộc nhiều loại và được tô điểm bởi những khóm cây và những nhánh trải ra của chúng oằn xuống dưới thấp do sức nặng của những trái xoài mà chúng mang. Quang cảnh thật lộng lẫy bởi những chùm hào quang của những loại ngọc báu.

    Khi những thiếu nữ phi nhân ấy trông thấy anh ta đang đi đến ở một khoảng xa, chúng chạy đến anh và nói rằng, "Người đàn ông này thuộc về của tôi! Người đàn ông này thuộc về của tôi!". Tuy nhiên khi anh ta trông thấy họ, thì anh ta lấy làm sợ hãi, vì anh ta không phải là người đã làm những việc phước để được thọ hưởng sự vinh quang của thần tiên ở đó với chúng, và khi kêu to, bèn chạy đi và thuật lại biến cố ấy với Ðức vua sau khi anh ta đi đến Ba-la-nại. Khi đức Vua nghe qua điều này thì vị ấy đầy mong ước được trông thấy mỹ nhân ấy và được ăn những trái xoài ấy. Bởi vậy, vị ấy giao vương quốc cho những vị quan cố vấn đặc biệt của mình, và khi lấy cớ là đi săn, bèn đi theo con đường được chỉ bởi người thợ rừng. Ðược theo hầu bởi một nhóm tùy tùng, vị ấy để quân hầu của mình ở một chỗ cách xa vài do tuần và tiếp tục dẫn người thợ săn đi và. Ðến đúng lúc, vị ấy cũng cho anh ta quay lui từ đó và đi vào khu rừng xoài khi mặt trời đang mọc lên.

    Khi những thiếu nữ trông thấy vị ấy như một vị chư thiên mới sanh lên, họ bèn đi ra để đón tiếp vị ấy. Rồi khi nhận ra rằng, đó là vua, họ khởi lên tình cảm rạc rào và lòng kính trọng. Họ tắm cho đức vua thật chu đáo và trang điểm cho vị ấy một cách xinh đẹp bằng những y phục, vật trang sức, tràng hoa, vật thơm và dầu xức của chư thiên, rồi dẫn vị ấy lên cung điện của họ. Ở đó, họ cho vị ấy ăn vật thực của chư thiên có những hương vị hảo hạng, hầu hạ vị ấy theo những sở thích của vị ấy.

    Rồi sau một trăm năm đã trôi qua, đức vua thức dậy vào lúc nửa đêm và, trong khi đang ngồi, trông thấy nữ Petī bị nghiệp tà dâm ấy đang đi đến bờ của hồ sen. Vị ấy đi theo nàng vì muốn khám phá xem nàng có thể đang đi đâu vào giờ ấy trong đêm, và trông thấy nàng bị ăn thịt bởi con chó khi nàng đi đến đó. Vị ấy suy gẫm vấn đề ấy trong ba ngày mà vẫn không hiểu được chuyện gì, rồi quyết định rằng chắc đó là kẻ thù của nàng và quyết định giết chết con chó, bắn nó bằng một cây tên nhọn. Rồi vị ấy nhận chìm nàng vào trong hồ, khi đó vị ấy trông thấy rằng nàng đã lấy lại hình tướng xưa cũ của nàng, vị ấy bèn hỏi nàng về những biến cố ấy bằng những câu kệ này:

    1. "Những bậc thang của ngươi bằng vàng và được rải ra bằng cát vàng; có những hoa súng trắng ở đó thật khả ái, thơm dịu dàng và khiến tâm được vui thích;

    2. Ðược che mát bằng nhiều loại cây và tràn ngập bởi tất cả các loại hương thơm; được che phủ bằng nhiều loại sen, được phủ lên bằng những sen trắng,

    3. đầy mê ly, chúng thoảng đưa mùi thơm khả ái khắp quanh khi được quạt bởi làn gió nhẹ; có vang dội những tiếng kêu của loài thiên nga và cò, vang dội tiếng kêu của những con ngỗng hồng.

    4. Có nhiều đàn chim xúm lại và đầy những bản nhạc của những đàn chim ấy; những khóm cây mang nhiều loại trái và những rừng cây mang nhiều loại hoa.

    5. Giống như một thành phố như thế này thì không tìm thấy được trong nhân loại. Và nàng có nhiều cung điện được làm bằng bạc và bằng vàng, làm loé mắt, chúng chiếu sáng khắp bốn hướng.

    6. Những người này mà là những người hầu của nàng, đó là năm trăm nô lệ của nàng; chúng mang những chiếc vòng tay và vòng đeo cổ, và đầu của chúng được trang sức bởi những tràng hoa đội đầu bằng vàng.

    7. Có nhiều chiếc giường của nàng, được làm bằng bạc và bằng vàng, và được phủ lên những tấm da của non sơn dương, được khéo trưng bày và trải bằng những tấm lông cừu dài.

    8. Khi nàng đã đi nghỉ ở trên đó, nàng có dồi dào tất cả gì nàng mong ước, tuy vậy vào lúc nửa đêm đến, nàng thức dậy khỏi chỗ đó và đi ra.

    9. Nàng đi đến chỗ khả ái và đứng trên đám cỏ xanh mướt bao quanh toàn thể hồ sen ấy.

    10. Nhân đó có một con chó bị mất tai cắn xé từng chi thể của nàng, và khi nó đã ăn thịt nàng, nó khiến cho nàng chỉ còn bộ xương, rồi nàng chìm vào trong hồ sen và thân của nàng lại giống y như trước.

    11. Rồi với những chi thể được phục hồi, trông xinh đẹp và diễm kiều, nàng mặc vào y phục và đi đến trước mặt ta.

    12. Bây giờ ác nghiệp nào được bỏi nàng bằng thân, khẩu, ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến cho con chó không có tai ăn thịt các chi thể của nàng?"

    Khi được hỏi như vậy bởi đức vua, Petī ấy bèn thốt lên năm câu kệ để kể lại câu chuyện về nàng cho vị ấy nghe từ đầu:

    13. Tại Kimbilā có một gia chủ, là một thiện nam có đức tin; thiếp là vợ của vị ấy, nhưng lại có ác hạnh và ngoại tình.

    14. Chồng của thiếp nói điều này với thiếp trong khi thiếp đã tà dâm như vậy, "Ðiều này không thích hợp cũng không hay". Ðó là chuyện nàng đã gian dâm phản bội lại ta bằng cách ấy".

    15. Thiếp đã nói một lời dối trá kinh khủng khi thiếp thề rằng, "Em đã không ngoại tình chống lại anh bằng thân hoặc bởi ý".

    16. Nếu em ngoại tình chống lại anh hoặc bằng thân hoặc bằng ý, thì xin cho con chó không có tai ấy ăn thịt các chi thể của em".

    17. Chính do kết quả của ác nghiệp ấy và do bởi sự kiện rằng thiếp đã nói dối, nên đã bảy trăm năm qua thiếp bị ăn thịt từng chi thể bởi con chó không có tai ấy.

    Khi nàng đã nói như vậy, nàng bèn nói lên hai câu kệ để tán dương sự phục vụ mà vị ấy đã đem đến cho nàng:

    18. Và Ngài, tâu bệ hạ, đã đến đây vì thiếp và đã giúp đỡ nhiều; thiếp đã được thoát khỏi con chó không tai ấy và không còn sầu khổ; chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào.

    19. Thiếp xin cúi mình trước bệ hạ, tâu bệ hạ, và chúc bệ hạ. Mãi thọ hưởng tất cả những dục lạc của phi nhân, tâu bệ hạ, hãy vui chơi với thiếp".

    Rồi đức vua chán cuộc sống ở đó và cho biết ý định muốn ra đi của vị ấy. Khi nghe qua điều này petì ấy, do bởi sự luyến ái của nàng với đức vua, bèn nói lên câu kệ bắt đầu rằng,: "Thiếp xin cúi mình trước Ngài, tâu bệ hạ", Và nài nỉ hãy ở lại ngay tại đây. Nhưng đức vua, quyết chí ra đi, bèn nói câu kệ kết thúc, để công bố ý định của vị ấy:

    20. Ta đã thọ hưởng những dục lạc này của phi nhân và đã vui chơi với nàng. Hỡi con người may mắn của ta, ta xin nàng, hãy nhanh chóng đem ta trở lại.

    Khi Vimānapetī ấy đã nghe qua những lời mà đức vua đã phải nói thì nàng không thể chịu sự chia ly của họ. Với tâm bối rối và đau đớn vì sầu khổ, thân của nàng run rẩy, cho dù nàng đã nài xin bằng nhiều cách, nàng cũng không thể thuyết phục Ðức vua ở lại đó. Nàng đưa đức vua đến kinh đô, mang theo nhiều châu báu có giá trị và dẫn vị ấy lên cung điện và, sau khi nàng khóc lóc và ta thán, nàng bèn trở lại chỗ ngụ riêng của nàng. Bấy giờ đức vua, đã trông thấy điều này, đầy xúc động, vị ấy thực hành những việc phước như bố thí v.v.. Và được sanh về thiên giới. Rồi khi Ðức Thế Tôn của chúng ta đã xuất hiện trong thế gian và lăn bánh xe chánh pháp và đến lúc đang trú ngụ ở Sāvatthi, Ðại Ðức Moggallāna, vào một hôm nọ khi đi rảo quanh trên những ngọn núi, trông thấy người đàn bà ấy với tùy tùng của nàng và hỏi nàng về nghiệp mà nàng đã tạo. Nàng bèn kể lại mọi chuyện với Trưởng lão kể từ đầu. Trưởng lão nêu lên vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ngài lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Mọi người, sau khi có được sự xúc động này, bèn từ bỏ những ác nghiệp và thực hành những việc phước như bố thí v.v... Thoả thích trong chánh pháp và được sanh về Thiên giới.

    *

    II.13 UẤT BA LỢI QUỶ SỰ (UBBARĪ PETAVATTHUVAṆṆANĀ)

    "Này Brammādatta, có một vị vua".

    Bậc Ðạo sư, trong khi đang ngụ ở Jetavana, đã kể lại quỷ sự Ubbarī này, liên quan đến một vị thiện nam nọ.

    Tương truyền rằng tại Sāvatthi, có một người chồng của tín nữ nọ đã chết và nàng, sầu muộn vì nỗi khổ chia ly giữa hai vợ chồng, thường đi đến chỗ thiêu xác của người chồng và khóc lóc ta thán cho vị ấy. Khi Ðức Thế Tôn trông thấy rằng nàng có đủ duyên lành để chứng đắc quả thánh Tu-đà-huờn, tâm của Ngài bị kích thích bởi lòng bi mẫn, bèn đi đến nhà của nàng và ngồi ở chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Nàng tín nữ đi đến Ðức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống ở một bên. Rồi Bậc Ðạo sư hỏi nàng rằng, "Này tín nữ, có phải nàng đang than khóc đó không?" Khi nàng nói rằng, "Thưa vâng, bạch Ðức Thế Tôn, con khóc than vì phải chia ly với người con yêu dấu", Ngài bèn kể lại một biến cố trong quá khứ, khi muốn diệt trừ ưu bi cho nàng:

    Cách đây đã lâu, tại kinh đô Kapila trong Vương quốc Pañcāla, có một vị vua tên là Cuḷanibrahma-datta. Vị ấy từ bỏ những lối sống lầm lạc và chuyên tâm chăm lo lợi ích cho mọi người trong xứ sở, cai trị vương quốc mà không vi phạm mười pháp của một vị vua. Vào một dịp nọ, khi muốn nghe điều gì đang được nói ở trong vương quốc của mình, vị ấy giả dạng làm một người thợ may, rời khỏi kinh đô mà không có ai đi theo và đi dạo quanh từ ngôi làng này đến ngôi làng khác, từ châu quận này đến châu quận khác. Khi vị ấy trông thấy rằng toàn thể vương quốc được thoát khỏi những tên đạo tặc và không bị cưỡng bách, và mọi người đang sống trong những thời kỳ thân ái - quả thật vậy, đến nổi họ để những cánh cửa nhà của họ mở tung - vị ấy trở về một cách vui sướng.

    Khi vị ấy đang đi đến kinh đô, vị ấy đi vào nhà của một thiếu phụ mà đã sống một kiếp sống đau khổ trong một ngôi làng nọ. Khi nàng trông thấy vị ấy, nàng bèn nói rằng, "Này ông là ai, thưa ông, và ông từ đâu đến?" "Tôi là một người thợ may, thưa bà, và tôi đang đi rảo quanh để làm những công việc may vá, để kiếm tiền công. Nếu bà có công việc may vá nào thời hãy cho tôi một tí vật thực và một ít tiền thù lao, rồi tôi sẽ làm những công việc ấy cho bà. "Chúng tôi không có công việc nào cần làm cả, cũng không có vật thực và tiền thù lao. Ông sẽ phải làm việc cho một người khác, thưa ông". Bà ta nói.

    Trong khi đang sống ở đó trong một vài ngày, vị ấy trông thấy đứa con gái của bà ta mà có tướng may mắn trong tương lai và có phước, và hỏi mẹ của nàng, "Ðứa con gái này đã lấy ai chưa hay vẫn còn độc thân? Nếu nàng chưa kết hôn với ai thời hãy gả nàng cho tôi, vì tôi có thể cung cấp cho bà mọi phương tiện của một đời sống thoải mái". "Tốt lắm, thưa ông", Bà ta đáp lại và gả đứa con gái của bà ta cho vị ấy. Vị ấy sống với nàng trong vài ngày và rồi cho nàng một ngàn Kahāpana, khi nói rằng, "Anh sẽ trở lại chỉ trong vài ngày, này cưng; đừng tuyệt vọng", và đi về kinh đô.

    Ðức vua sai san bằng và trang hoàng con đường giữa kinh đô dến ngôi làng và rồi đi đến đó trong vẻ uy nghi vĩ đại của một vị vua. Vị ấy đặt cô con gái trên đống Kahāpana, tắm cho nàng bằng nước vàng và bạc, ban cho nàng cái tên là Ubbarī và đặt nàng vào địa vị Chánh hậu. Vị ấy cho ngôi làng đến những quyến thuộc của nàng và dẫn nàng về kinh đô bằng vẻ uy nghi long trọng của hoàng gia. Khi thọ hưởng những khoái lạc tình yêu với nàng vị ấy trải qua một triều đại thanh nhàn chừng nào vị ấy còn sống, và rồi khi hết thọ mạng thì băng hà.

    Khi đức vua chết và những nghi thức mai táng vị ấy đã được cử hành, tâm của Hoàng hậu bị đâm thủng bởi mũi tên của ưu bi, vì sự chia ly của họ, bèn đi đến chỗ thiêu xác của vị ấy; ở đó, nàng cúng dường trong nhiều ngày bằng những vật thơm và những bông hoa v.v... Tán dương những ân đức của Ðức vua và sau đó đi vòng quanh hoả đài của vị ấy theo chiều bên phải, khóc lóc và ta thán như người bị điên.

    Bấy giờ vào thời ấy, Ðức Thế Tôn của chúng ta là bồ tát và vị ấy đã xuất gia, sống cuộc đời của một ẩn sĩ và chứng đắc các thiền chứng và các thắng trí. Trong khi đang cư ngụ trong một khu rừng nọ ở một vùng lân cận của Himālaya, bằng thiên nhãn của đạo sĩ, đạo sĩ trông thấy ubbarii đang bị đâm thủng bởi mũi tên của ưu bi. Ðạo sĩ đi xuyên qua hư không và rồi, khi làm cho mọi người trông thấy mình, đạo sĩ đứng trong hư không và hỏi mọi người mà đang đứng rãi rác ở chỗ này chỗ nọ, "đây là hoả đài của ai? và vì ai mà người đàn bà này khóc, ta thán rằng, "Hỡi Brahmādatta, hỡi Brahmādatta?" Khi nghe qua điều này, những người dân bèn nói rằng, "Thưa Ngài, đây là Ubbarī, là vợ của Brahmādatta, là người mà, từ khi vị ấy băng hà, đã đi đến hoả đài của vị ấy, khóc than, ta thán và gọi tên của vị ấy "Brahmādatta".

    1. Có một vị Vua tên là Brahmādatta, là chúa của những người đánh xe Pañcāla. Rồi sau nhiều ngày và nhiều đêm, vị vua ấy đã chết.

    2. Người vợ Ubbarī của vị ấy đi đến hoả đài của vị ấy và khóc lóc; vì không còn trông thấy Brahmādatta ở đâu nữa, nàng khóc than rằng, "Hỡi Brahmādatta!"

    3. Bấy giờ có một ẩn sĩ nọ đi đến đó, là một hiền trí có giới hạnh vẹn toàn, và ở đó vị ấy hỏi những người mà được gặp ở đó, rằng,

    4. "Ðây là hoả đài của ai mà tràn ngập tất cả những loại hương thơm như vậy? Ðây là vợ của ai mà khóc cho một người chồng đã đi xa khỏi đây, là người, khi không còn trông thấy Brahmādatta ở đâu nữa, khóc lóc rằng, "Hỡi Brahmādatta!"

    5. Và những người mà có mặt ở đó, những người mà được gặp ở đó, bèn giải thích rằng, "Thưa bậc hữu phúc, đó là vợ của Brahmādatta, thưa Ngài."

    6. Hoả đài này là của vị ấy, đang tràn ngập tất cả những loại hương thơm; và đây là vợ của vị ấy đang khóc lóc cho một người chồng mà đã đi xa khỏi đây, là người mà không còn trông thấy Brahmādatta ở đâu nữa, đang khóc lóc rằng, "Hỡi Brahmādatta!"

    Khi Ðạo sĩ nghe qua những lời của họ, do lòng bi mẫn, vị ấy bèn đi đến trước mặt Ubbarii và nói lên câu kệ này với mục đích diệt trừ ưu bi của nàng:

    7. "Tám mươi sáu ngàn người mang tên Brahmādatta đã được thiêu ở chỗ thiêu xác này. Vì ai trong những người này mà nàng khóc than vậy?".

    Khi nàng đã được hỏi như vậy bởi vị ẩn sĩ, Ubbarī bèn nói lên câu kệ nầy để chỉ rõ vị Brahmā-datta mà nàng ám chỉ về.

    8. Vị vua mà là con trai của Cūḷāni, là con bò chúa trong những vị Pañcāla vương. Chính vì vị ấy khiến tôi khóc than, thưa Ngài, chồng của tôi là người đã ban cho tôi tất cả mọi điều mong ước của tôi.

    Khi Ubbarī đã nói như vậy, vị ẩn sĩ lại nói lên hai câu kệ:

    9. Tất cả các vị vua đều có cái tên là Brahmādatta; tất cả đều là con trai của cù.lani và là chúa của những người Pañcāla vương.

    10. Ngươi đã làm chánh hậu lần lượt của tất cả; tại sao ngươi bỏ những người trong quá khứ ấy mà chỉ khóc than cho người cuối cùng này thôi vậy?

    Khi nghe qua điều này, Ubbarī đầy xúc động, một lần nữa lại nói lên câu kệ này với vị ẩn sĩ ấy:

    11. Thưa Ngài, có phải chính tôi là người đàn bà trong thời gian lâu dài ấy? Tôi là người mà Ngài nói đến là đã làm người đàn bà thường xuyên trong luân hồi chăng?

    Khi nghe qua những lời này, Ðạo sĩ bèn nói lên câu kệ này, để cho thấy rằng trong luân hồi không có định luật nào như vậy rằng một người đàn bà chỉ là một người đàn bà mà thôi và một người đàn ông chỉ là một người đàn ông mà thôi:

    12. Nàng đã làm một người đàn bà, nàng đã làm một người đàn ông, Nàng cũng sẽ đi vào bào thai của loài thú. Giới hạn của quá khứ lâu dài này sẽ không được trông thấy như vậy.

    Khi nàng đã nghe thời pháp như vậy, được giảng dạy bởi vị Ðạo Sĩ ấy, mà trong đó vị ấy làm sáng tỏ ảnh hưởng của những nghiệp và sự vắng mặt của bất cứ giới hạn nào của vòng luân hồi, đầy xúc động trong tâm của nàng khi nghe nói về vòng luân hồi và với lòng tịnh tín trong tâm của nàng đối với pháp, mũi tên ưu bi của nàng biến mất và nàng nói lên những câu kệ này để cho biết lòng tịnh tín của nàng và cõi lòng không ưu bi của nàng:

    13. Tôi quả thật bị cháy nóng, giống như ngọn lửa được châm bằng thục tô; nhưng bây giờ, tất cả mọi sầu khổ của tôi đã được dập tắt, tựa như tôi đã được tưới lên người bởi nước.

    14. Quả thật vậy, mũi tên là ưu bi cho người chồng của tôi mà đã tràn ngập cõi lòng của tôi.

    15. Với mũi tên đã được rút ra, tôi trở nên an tịnh và mát mẻ. Từ khi nghe Ngài, thưa Ðại hiền trí, tôi không còn ưu bi hay than khóc nữa.

    Ý nghĩa của những câu này cũng giống như ý nghĩa đã được nêu ra ở trên. Rồi Bậc Ðạo sư nói lên bốn câu kệ để cho thấy cách cư xử của Ubbarī, là người mà (bấy) giờ đã có sự xúc động trong tâm của nàng:

    16. Khi nàng đã nghe qua những lời này của vị ấy, lời nói khéo thuyết của vị Sa-môn ấy, nàng mang y và bát rồi ra đi sống cuộc đời không nhà.

    17. Và nàng, là người từ đời sống gia đình, ra đi sống đời không nhà, trau dồi tâm từ ái dẫn đến tái sanh trong cõi phạm thiên.

    18. Khi đi lang thang từ làng này đến làng nọ, qua các phố chợ và các kinh đô; Uruvelā là tên của ngôi làng mà nàng đã chết.

    19. Sau khi đã trau dồi tâm bác ái để được sanh vào cõi phạm thiên và sau khi loại trừ những ý nghĩ của một nữ nhân, nàng đi đến cõi Phạm thiên Bvalimalokā.

    Chú giải:

    Khi Bậc Ðạo sư đã kể lại Pháp thoại này và đã diệt trừ ưu bi cho nàng tín nữ ấy, sau đó Ngài thuyết pháp cho nàng về Tứ đế, và vào lúc kết thúc của thời pháp ấy, nàng tín nữ được an trú trong quả Thánh Tu-đà-hườn. Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho hội chúng đã hội họp ở đó.

    Phần trình bày về quỷ sự Ubbarī đã kết thúc - Như vậy phần trình bày ý nghĩa của phẩm thứ hai, Uất-ba-lợi phẩm mà được tô điểm bởi mười ba câu chuyện trong những chuyện Ngạ quỷ này của bộ Khuddaka Nikāya đã kết thúc.

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.