THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ SỰ
Dịch từ Pāli sang Anh ngữ: PETER MASEFIELD
Việt dịch: Tỳ khưu MINH HUỆ
Ấn bản 2007
CHƯƠNG III
TIỂU PHẨM (CŪḶAVAGGA)
*
III.1 BẤT ÐÁNG QUỶ SỰ (ABHIJJĀMANA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Mà không làm rẽ nước".
Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đang trú ngụ ở Veḷuvana, liên quan đến một Ngạ quỷ nọ mà đã từng làm một người thợ săn.
Tương truyền rằng: ở bên kia sông Hằng, về phía tây của thành Ba-la-nại, khi bạn đi tới ngôi làng Vāsabha thì tại đó có một người thợ săn nọ ở trong ngôi làng tên là Culdaṭṭhila. Anh ta thường giết nai trong rừng, ăn phần thịt ngon nhất mà anh ta đã nướng trên lửa than, rồi bỏ phần còn lại trong một cái giỏ lá và mang khối thịt này trên một cái sào, rồi trở về làng. Khi những đứa trẻ nhỏ trông thấy anh ta ở cổng làng thì chúng chạy đến anh ta với hai bàn tay xoè ra mà nói rằng, "hãy cho con thịt! hãy cho con thịt!". Mỗi lần như thế anh ta cho chúng một ít thịt. Rồi một hôm nọ, anh ta không kiếm được thịt. Anh ta bèn trang sức vào người bằng những bông hoa uddāla, và cũng mang nhiều bông hoa trong tay anh ta đi đến ngôi làng.
Khi những đứa trẻ nhỏ trông thấy anh ta ở cổng làng, chúng chạy đến anh ta với những bàn tay xoè ra mà nói rằng. "Hãy cho con thịt, hãy cho con thịt!" Anh ta cho mỗi đứa trong bọn chúng một nhánh hoa. Ðến đúng lúc, anh ta chết và sanh vào cõi ngạ quỷ, bị trần truồng, xấu xí và trông khủng khiếp vì không biết đến đố ăn hay thức uống, ngay cả trong những giấc mơ của anh ta cũng không, và với những bó hoa uddāla được buộc vào đầu, anh ta đi bộ ngược dòng sông Hằng mà không làm rẽ nước, khi nghĩ rằng, "Ta sẽ kiếm một cái gì đó trước mặt những quyến thuộc của ta ở Culdaṭṭhila". Lúc bấy giờ, vị quan đại thần của vua Bimbisāra, tên là Koliya, đang trở về sau khi dẹp yên cuộc dấy loạn ở vùng biên giới; sau khi đã truyền lịnh cho đoàn Tượng binh và mã binh v.v... đi trên đường bộ, chính trị ấy đi bằng thuyền xuôi dòng sông Hằng; khi vị ấy trông thấy con Ngạ quỷ ấy đang đi đến trong trạng thái ấy, bèn nói lên câu kệ này để dò hỏi:
1. "Ngươi đang đi ở đây mà không làm rẽ nước của sông Hằng; Người trần truồng, tuy nhiên nửa phần trước của ngươi thì không giống một Peta, có trang sức, mang những tràng hoa. Này Peta, ngươi đang đi đâu, và chỗ ngụ của ngươi sẽ ở nơi đâu?"
Bấy giờ, để cho thấy điều được nói ra vào lúc bấy giờ bởi Ngạ quỷ và bởi Koliya, những người kiết tập Tam Tạng đã nói lên những câu kệ này:
2.... "Tôi đang đi đến Culdaṭṭhila", Ngạ quỷ nói, "ở chính giữa của ngôi làng Vāsabha, trong vùng lân cận của Ba-la-nại".
3. Và khi trông thấy nó, vị quan đại thần, là vị Koliya nổi tiếng, bèn cho Peta một bữa cơm lúa mạch, vật thực cùng một bộ y phục màu vàng.
4. Khi chiếc thuyền của vị ấy dừng lại, vị ấy bèn bảo người cho những thứ ấy đến người thợ cạo; khi chúng đã được cho đến người thợ cạo ngay tức thì chúng bỏ được trông thấy ở trên thân của ngạ qủi.
5. Nhân đó, nó được mặc vào những y phục tốt, được trang sức, và mang những tràng hoa; khi đã tin chắc rằng vật thí có lợi ích cho Ngạ quỷ ấy, do vậy người nên cho ra nhiều lần vì lòng thương tưởng đến những Ngạ quỷ".
Bấy giờ vị quan đại thần Koliya, khi cảm thấy thương hại cho Ngạ quỷ ấy, đã tạo ra hình thức bố thí ấy và rồi đi xuống dòng sông và đến Ba-la-nại vào lúc mặt mọc. Ðức Thế Tôn, khi đã đi xuyên qua hư không để tiếp độ cho họ, đang đứng ở trên bờ sông Hằng. Vị quan đại thần Koliya xuống thuyền và, rất vui sướng, thỉnh mời đức Thế Tôn khi nói rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, cầu xin đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn mà nhận lời mời của con để thọ thực ngày hôm nay. Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời. Ngay tức thì vị ấy dựng lên ở một chỗ đất khả ái một nhà mát bằng những cành cây, có trang hoàng ở bên trên và có nhiều màu sắc,và rồi dâng đến đức Thế Tôn chỗ ngồi mà vị ấy đã sửa soạn ở trong đó. Ðức Thế Tôn ngồi vào chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Rồi vị quan đại thần đi đến đức Thế Tôn, cúng dường ngài những vật thơm và những bông hoa v.v..., đảnh lễ ngài và ngồi xuống ở một bên, kể lại với đức Thế Tôn những điều mà vị ấy đã nói và câu đáp lại của Ngạ quỷ như đã được nêu ra ở trên. Ðức Thế Tôn chú nguyện rằng, "chúng Tỳ khưu hãy đến đây!" Ngay khi ngài chú nguyện câu này thì chúng Tỳ khưu, bị thúc dục bởi oai lực của Ðức Phật, đến vây quanh vị Pháp vương, như một đàn thiên nga vàng vây quanh thiên nga chúa Dhataratha, là chúa của những thiên nga vàng. Ngay tức thì dân chúng kéo đến vì nghĩ rằng, "sắp có một thời thuyết pháp lớn". Khi trông thấy cảnh này, vị quan đại thần, với lòng tịnh tín trong tâm, làm thoả mãn chúng Tỳ khưu, có đức Phật dẫn đầu, bằng thức uống và những đồ ăn gồm cả loại cứng và loại mềm. Khi Ngài đã thọ thực xong thì đức Phật, vì lòng bi mẫn đối với dân chúng, bèn tập trung vào ý nghĩ "Hãy để những ai trú ngụ trong vùng gần Ba-la-nại đến hội họp ở đậy". Và tất cả các hạng người ấy, do sức mạnh về năng lực thần thông của Ngài đã kéo đến đó.
Rồi ngài khiến cho số lượng đông đảo những Ngạ quỷ hiện ra, và dân chúng nhận biết chúng bằng chính mắt của họ. Một số trong bọn chúng thì mang những tấm vải rách rưới và bị xé thành những mảnh rất nhỏ; một số thì có cái gọi là xấu hổ, được che phủ chỉ bằng tóc của chính chúng mà thôi; trong khi một số khác thì trần truồng như ngày chúng sanh ra, bị đói và khát, với da và những tấm thân của chúng teo tóp đến nỗi chỉ còn xương, đi vất vưởng chỗ này chỗ kia. Rồi đức Thế Tôn thị hiện những năng lực thần thông của Ngài để tất cả Ngạ quỷ hội họp trong cùng một chỗ, và công bố với dân chúng những ác nghiệp mà chúng tạo nên:
Những vị kiết tập Tam Tạng nói lên câu kệ này để giải thích vấn đề:
6. "Những Ngạ quỷ, một số mặc những giẻ rách, số khác che người bằng tóc của chúng, khi đi khắp để kiếm thực phẩm, ra đi các hướng.
7. Một số chạy đi cách xa nhưng đã quay lại vì không kiểm được gì, đói, mệt lả, bước đi lảo đảo và chìm xuống trong đất.
8. Và một số mà ngã qụy xuống ở đó, khi chìm xuống trong đất, bị hành hạ tựa như bởi ngọn lửa vì đã không làm việc phước nào trong quá khứ, chúng nói rằng:
9. "Trong quá khứ, chúng ta là những người vợ và những người mẹ trong những gia đình tốt, nhưng lại có tánh ác; dầu những vật thí ở trong tầm tay, nhưng chúng ta đã không làm chỗ nương tựa cho chính chúng ta.
10. Dầu có nhiều đồ ăn và thức uống, nhiều đến nỗi nó bị quăng đi, tuy nhiên chúng ta chẳng cho gì đến những người mà đã chứng đạt Pháp cao tột, đến những bậc đã xuất gia.
11. Chỉ muốn làm điều gì mà không nên làm, lười biếng, muốn những cái ngọt ngào và tham ăn, chúng ta là những người cho những miếng, những cục và mắng nhiếc những người thọ lãnh.
12. Những căn nhà, những người hầu ấy và những vật trang sức ấy của chúng ta - bây giờ những thứ này được thọ hưởng bởi những người khác, trong khi số phận của chúng ta là đau khổ".
13. Họ sẽ là những người làm thúng mà bị coi khinh và những người làm xe quỷ quyệt, họ sẽ là những chiên đà la chịu khó khăn lớn, và thỉnh thoảng làm những người hầu tắm.
14. Bất cứ gia đình nào thấp kém và chịu khó khăn lớn; chỉ riêng trong số những người này họ sẽ sanh vào, đây là số phận của những người bỏn sẻn.
15. Trong khi những người bố thí, không bỏn sẻn, trong quá khứ đã làm những việc thiện, sẽ làm sung mãn thiên giới và làm sáng rực Nandana.
16. Khi họ đã vui chơi trong cung điện Vejayanta và làm hài lòng tất cả những ước muốn của họ, họ sẽ sanh lên có địa vị cao trong những gia đình giàu có khi họ mạng chung ở cõi ấy.
17. Trong căn nhà có tháp nhọn và trong các cung điện, trên chiếc giường được trải bằng lông cừu dài, với những chi thể của họ được quạt bởi những người cầm chiếc quạt bằng lông của con chim công, họ sanh đến một gia đình như vậy, biết rõ tất cả những tiện nghi của họ.
18. Ðược trang điểm, họ sống trong vòng tay của nhiều người, mang những tràng hoa; những vú nuôi hầu hạ họ vào buổi sáng và buổi chiều, cố gắng làm cho họ thư thái.
19. Nandana thanh bình và hấp dẫn này là khu vườn lớn của cõi Tam thập, Tam thiên, chỉ dành riêng cho những người đã làm những việc phước, không phải dành cho những người mà chưa làm những việc phước.
20. Ðối với những người mà chưa làm những việc phước thì không có hạnh phúc trong đời này và đời sau; trong khi đó, đối với những người mà đã làm những việc phước thí thì có hạnh phúc ngay tại đây và cả mai sau nữa.
21. Nhiều việc thiện nên làm đối với những người muốn thân cận với họ, vì những người làm những việc phước sẽ được của cải và sự vui sướng trong cõi chư thiên.
Khi những Ngạ quỷ ấy đã cho biết chung chung như vậy về số phận của những nghiệp được làm bởi chúng và số phận của những việc phước, đức Thế Tôn bèn thuyết pháp một cách chi tiết, thích hợp với những căn tánh của những người đã hội họp ở đó, dẫn đầu là vị quan đại thần Koliya, có tâm đã được làm xúc động nhờ thời pháp ấy. Vào lúc kết thúc của thời pháp này, tuệ quán sanh lên trong Tám mươi bốn ngàn chúng sanh.
*
III.2 QUỶ SỰ VỀ SĀNUVĀSI (SĀNUVĀSI PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Vị Trưởng lão của thành phố Kuṇḍi".
Pháp thoại này được thuyết giảng khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Veḷuvana, liên quan đến những quyến thuộc quá vãng của Trưởng lão đáng kính Sānuvāsi.
Tương truyền rằng đã lâu trong quá khứ, tại Ba-la-nại, đứa con trai của vua Kitava đang trở về sau khi vui chơi ở một chỗ vui chơi nọ trong vườn ngự uyển, khi ấy vị ấy trông thấy vị Phật Ðộc Giác Sumetta đang rời khỏi thành phố sau khi đã khất thực trở về. Say sưa với ngã mạn về uy quyền và bị ô nhiễm trong tâm, vị ấy suy nghĩ, "làm sao mà tên đầu trọc ấy dám đi qua mà không chào ta!" Hoàng tử xuống khỏi lưng voi và, khi vị ấy nói với Ngài rằng, "Ta tự hỏi không biết ngươi có kiếm vật thực gì không?" Vị ấy giựt cái bát khỏi tay của ngài, ném nó xuống đất và làm vỡ nó. Rồi trêu chọc Ngài khi Ngài đứng như thế nhìn với lòng thanh tịnh, mắt nhìn xuống, thanh thoát, an nhàn và tràn ngập lòng bi mẫn, không bị nhiễu loạn vì đã đạt đến pháp chứng như thực trong tất cả mọi tình huống. Hắn bỏ đi và nói lời hiểm độc do tánh độc ác được đặt không đúng chỗ của hắn, "Ê! ngươi không biết rằng ta là con trai của vua Kitava chăng? Ngươi có thể làm gì đến ta mà chỉ đứng nhìn như thế?" Nhưng ngay khi hắn đang bỏ đi thì một sức nóng mãnh liệt phát lên trong người của hắn giống như sức nóng của ngọn lửa địa ngục. Với thân bị hành hạ dữ dội, bị những cảm thọ đau đớn cùng cực, hắn chết và sanh trong Ðại Ðịa ngục Avīji. Ở đó, hắn bị luộc trong tám mươi bốn ngàn năm khi hắn đứng quay quanh trong nhiều cách, khi thì xoay bên phải, khi thì xoay về bên trái, khi thì ngẩn mặt lên và cúi mặt xuống. Rồi khi hắn mạng chung ở cõi đó, hắn lại chịu khổ đói và khát v.v... trong thời gian vô hạn định ở cõi Ngạ quỷ. Khi hắn mạng chung từ cõi ấy, hắn lại tái sanh trong ngôi làng của những người chài lưới gần thành phố Kuṇḍi trong suốt thời gian của đức Phật này. Có sanh đến cho hắn khả năng nhớ lại những kiếp quá khứ. Khi nhớ lại bằng phương tiện này về nỗi thống khổ mà trước kia hắn đã chịu trong quá khứ thì hắn thường không đi, do sợ những ác nghiệp là bắt cá chung với những quyến thuộc của hắn, cho dù hắn đã trưởng thành. Khi họ đang đi thì hắn lại trốn vì không muốn giết cá. Trong khi hắn đi thì hắn làm hư những cái lưới hoặc nắm lấy những con cá còn sống và thả chúng xuống nước. Những quyến thuộc của hắn, không tán thành những hành động của hắn, đã tống cổ hắn ra khỏi nhà của họ. Tuy nhiên, một người anh của hắn lại đem lòng thương hại hắn. Bấy giờ vào thời ấy, Ðại Ðức Ānanda đang ngụ ở trên núi Sānuvāsin gần thành phố Kuṇḍi và đứa con trai của người chài lưới ấy mà đã bị phủ nhận bởi những quyến thuộc của anh ta, đang đi rảo quanh ở chỗ này chỗ nọ, rồi đến tại chỗ ấy và đi đến Trưởng lão vào lúc Ngài đang thọ thực. Khi Trưởng lão hỏi anh ta, thì Ngài nhận ra rằng anh ta cần vật thực, bèn cho anh ta một bữa ăn và, khi bữa ăn đã xong, Trưởng lão biết ra toàn thể vấn đề. Khi Trưởng lão biết rằng, chỉ cần một thời Pháp mà anh ta đã có lòng tịnh tín trong tâm, bèn hỏi rằng, "anh có muốn xuất gia không, này anh bạn?" Anh ta bèn đáp lại rằng, "Vâng, thưa Ngài, con muốn xuất gia". Khi Trưởng lão đã cho anh ta xuất gia thì Ngài đi với anh ta đến trước mặt Bậc Ðạo sư. Rồi Bậc Ðạo sư nói với Trưởng lão rằng: "Này Ānanda, ngươi có lòng thương tưởng đối với vị sadi này". Bởi vì vị sadi chưa làm việc thiện nào nên vị ấy sẽ nhận được ít ỏi vật thực; bởi vậy, Bậc Ðạo sư, để giúp đỡ anh ta, bèn khuyên anh ta hãy châm đầy những hũ nước để chư Tăng dùng. Khi trông thấy điều này thì thiện tín bèn cung cấp thường xuyên cho anh ta nhiều vật thực. Ðến đúng lúc anh ta thọ Ðại giới và chứng đắc đạo quả A-la-hán và sau khi trở thành một vị Trưởng lão, trú ngụ ở trên núi Sānuvāsin cùng với mười hai vị Tỳ khưu. Dầu có đến năm trăm quyến thuộc của anh ta, do không tích lũy những thiện nghiệp và chỉ tích lũy những ác nghiệp như lòng bỏn sẻn v.v..., họ đã chết và tái sanh trong cõi Ngạ quỷ. Tuy nhiên, mẹ và cha của anh ta lại không chịu đi đến trưởng lão, bởi vì họ lúng túng khi nghĩ rằng, "Ðây là người mà trước kia chúng ta đã quăng ra khỏi nhà của chúng ta", bèn sai người anh đi - là người mà đã có lòng thương tưởng Sānuvāsin. Người kia hiện ra cho thấy khi Trưởng lão đi vào làng khất thực; khi quì bằng đầu gối phải ở trên đất và chấp tay đảnh lễ, Ngạ quỷ nói những câu kệ bắt đầu bằng, "Bạch Ngài, cha mẹ của Ngài". Tuy nhiên năm câu kệ bắt đầu bằng "vị Trưởng lão của thành phố Kuṇḍi v.v..." được lồng vào bởi những vị kiết tập Tam tạng, với mục đích cho thấy văn cảnh của chúng:
1. "Vị Trưởng lão của thành phố Kuṇḍi, là người sống ở trên núi Sānuvasin tên là Poṭṭhapāda, là một vị Sa-môn, các căn đã được tu tập.
2. Mẹ, cha và anh của vị ấy đã đi đến kiếp sống đau khổ trong cõi Yama (Diêm vương). Khi đã làm những ác nghiệp, họ đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ.
3. Rơi vào kiếp sống đau khổ, bị kim chích vào mình, mệt mỏi, trần truồng và gầy ốm, kinh sợ, ở trong tình trạng khiếp đảm lớn và có bàn tay dính đầy máu, chúng thường không để lộ chính mình.
4. Người anh của vị ấy, sửng sờ, trần truồng và một mình ở trong một con hẻm, cong xuống đất ở cả bốn chỗ, lộ hình ra ở trước mặt của Trưởng lão.
5. Nhưng Trưởng lão không quan tâm và đi qua trong im lặng; bởi vậy, nó báo cho Trưởng lão biết rằng, "Tôi là anh của Ngài, đã sanh làm một Ngạ quỷ.
6. Thưa Ngài, mẹ và cha của Ngài đã đi vào kiếp sống đau khổ của Yama. Khi đã làm những ác nghiệp, họ đã đi khỏi đây và đến cõi của những Ngạ quỷ.
7. Khi đã đi đến kiếp sống đau khổ, bị kim chích mệt mỏi, trần truồng và gầy ốm, kinh sợ, bị kinh hãi lớn và có bàn tay dính máu, họ không chịu hiện ra.
8. Ngài có lòng thương xót, hãy thương xót. Khi Ngài đã bố thí, hãy hồi hướng cho chúng tôi; vì chính do những vật thí đã được cho ra bởi Ngài mà những kẻ có bàn dính máu được nuôi sống".
Rồi những vị kiết tập Tam Tạng đọc những câu kệ này để cho thấy cách hành động được thực hiện bởi Trưởng lão, khi vị ấy nghe qua điều này.
9. "Khi Trưởng lão và mười hai vị Tỳ khưu đã đi khất thực, họ hội họp ở cùng một chỗ với mục đích san sẽ bữa ăn.
10. Trưởng lão nói với tất cả họ rằng, "Hãy cho đến tôi cái đã được thọ lãnh; tôi sẽ đổi nó thành bữa ăn cho chư Tăng vì lòng bi mẫn đối với quyến thuộc của tôi."
11. Họ trao nó cho Trưởng lão và Trưởng lão mời chư Tăng. Khi đã cho ra, Trưởng lão bèn hồi hướng phước thí ấy đến cho mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng, "xin cho phước thí nầy dành cho những quyến thuộc của tôi, xin những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc".
12. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì vật thực hiện ra, sạch sẽ, hảo hạng, được khéo sửa soạn, và được thêm gia vị bằng nhiều loại hương vị, nhân đó người anh của vị ấy hiện ra, đẹp trai, mạnh khoẻ và an vui, khi nói rằng, "vật thực này có nhiều, thưa ngài, nhưng xem ra chúng tôi vẫn còn trần truồng. Thưa Ngài, xin hãy tự mình cố gắng bằng cách nào đó để chúng tôi có thể có được những y phục".
14. Trưởng lão lượm về tất cả những miếng vải từ những đống rác. Khi vị ấy đã biến những miếng vải thành một chiếc y, vị ấy cho nó đến chư Tăng từ bốn phương.
15. Khi đã cho rồi, Trưởng lão bèn hồi hướng nó cho mẹ, cha anh của Trưởng lão, khi nói rằng, "Xin cho phước thí này thấu đến những quyến thuộc của tôi. Xin cho những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc."
16. Ngay khi vị ấy hồi hướng những phước thí này thì những y phục hiện ra, nhân đó người anh của vị ấy, ăn mặc những y phục xinh đẹp, hiện ra trước mặt Trưởng lão. Khi nói rằng:
17. "Nhiều y phục như ở trong toàn cõi của Vua Nanda. Còn nhiều hơn thế nữa, thưa Ngài, là những y phục và những đồ trải của chúng tôi.
18. Bằng vải lụa và vải len, vải lanh và vải bông. Chúng có nhiều và đắt giá, chúng còn thòng xuống từ trên trời.
19. Và chúng tôi chỉ mặc vào cái chúng tôi ưa thích. Xin hãy tự cố gắng, thưa Ngài, bằng cách nào đó để chúng tôi có thể có được nhà ở.
20. Khi Trưởng lão đã dựng lên một thảo am, vị ấy dâng nó đến tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng lão hồi hướng phước ấy cho mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng: "Xin cho những phước thí này thấu đến những quyến thuộc của tôi. Xin cho những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc!"
21. "Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì những căn nhà hiện ra - những nhà ở có tháp nhọn được chia ra thành những ngăn đều nhau.
22. Cái giống như những căn nhà của chúng tôi ở đây thì không được tìm thấy trong nhân loại; những căn nhà như của chúng tôi ở đây giống như những căn nhà được tìm thấy trong cõi chư thiên.
23. Chói lọi, chúng chiếu sáng khắp bốn hướng. Xin hãy tự mình cố gắng, thưa Ngài, bằng cách nào đó để chúng tôi có thể có được nước".
24. Khi Trưởng lão đã chăm đầy một lu nước, Ngài cho nó đến Tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng lão bèn hồi hướng nó đến mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng "Xin cho phước thí này thấu đến quyến thuộc của tôi! Xin cho những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc!"
25. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này, thì nước hiện ra; những hồ sen khéo hiện bày sâu và có bốn góc, khéo hiện bày.
26. Với nước trong vắc và những bờ hồ xinh đẹp, mát và thơm ngát, được che phủ bằng hoa sen và hoa súng, nước có đầy những phấn sen.
27. Khi họ đã tắm và uống nước trong đó, họ lại hiện ra trước mặt của Trưởng lão, khi nói rằng, "Nước này có nhiều, thưa Ngài, nhưng những bàn chân của chúng tôi bị nứt nẻ đau đớn.
28. Khi dạo đi đây đó, chúng tôi đi khập khiểng trên sỏi và trên cỏ Kusa có gai nhọn. Xin hãy tự mình cố gắng, thưa Ngài, bằng cách nào đó để chúng tôi có thể có đủ phương tiện đi lại".
29. Khi Trưởng lão đã có được một đôi giày, vị ấy bèn dâng nó đến tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng lão bèn hồi hướng phước thí này đến cha mẹ và anh của vị ấy khi nói rằng, "Xin cho phước thí này đến những quyến thuộc của tôi! Xin cho những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc!"
30. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước thí này thì những Ngạ quỷ đi đến bằng xe kéo, khi nói rằng, "Thưa Ngài, Ngài đã thể hiện lòng bi mẫn bằng vật thực và y phục này,
31. Nhà này và vật thí về nước uống - cả những cái này và vật thí về xe này. Thưa Ngài, chúng tôi đã đến để đảnh lễ bậc hiền trí có lòng bi mẫn đối với Thế gian".
Trưởng lão nêu lên vấn đề ấy với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên khi nói rằng, "cũng giống như những Ngạ quỷ ở đây, cũng vậy trong kiếp sống ngay trước của ngươi, ngươi cũng đã làm một Ngạ quỷ chịu nhiều thống khổ", và khi được thỉnh cầu bởi Trưởng lão, Ngài bèn kể lại quỷ sự sợi chỉ và thuyết giảng chánh pháp cho hội chúng đã hội họp ở đó. Khi đã nghe qua thời pháp này, dân chúng, đầy xúc động, trở nên có những xu hướng về những việc phước như bố thí v.v...
*
III.3 TẠO XA QUỶ SỰ (RATHAKĀRA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Có cột bằng ngọc bích, rực rỡ, chiếu sáng".
Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Savatthi, liên quan đến một nữ Ngạ quỷ nọ.
Tương truyền rằng cách đây đã lâu, trong thời của đức Thế Tôn Kassapa, có một người đàn bà nọ có hạnh kiểm tốt và tìm thấy đức tin trong giáo pháp do sự thân cận với bạn lành. Nàng dựng lên một chỗ ngụ, trông rất khả ái, được khéo làm cân đối bằng những bức vách có trang hoàng, những cột trụ, những bậc thang và nền nhà. Nàng thỉnh các vị Tỳ khưu ngồi ở đó, dâng cúng vật thực thượng vị đến các Ngài và dâng thảo am đó đến chúng Tỳ khưu. Ðúng lúc nàng chết và, do bởi nghiệp ác khác biệt, nàng sanh làm một Vimānapetī gần hồ Rathakāra ra trên vùng Himālaya, chúa của các núi. Do năng lực của thiện nghiệp về việc bố thí ấy đến chư Tăng nên có sanh lên, ở giữa hồ ao, và được trang sức bởi lạc viên như Nandana, một cung điện cao vút được làm toàn bằng những báu vật, và ở tất cả các mặt thì cực kỳ hấp dẫn, mê ly và khả ái, trong khi chính nàng thì có nước da màu vàng ròng, trông xinh đẹp khả ái và hấp dẫn lạ thường. Nàng sống ở trong đó, hưởng sự vinh quang của chư thiên, nhưng cô đơn chẳng có người nam nào. Bất mãn sanh lên trong nàng vì sống mà không có người đàn ông nào trong trong thời gian lâu dài ấy. Nàng trở nên bất mãn và suy nghĩ rằng, "Ta sẽ bày một mẹo!", Nàng thả vào trong con sông một số xoài chín của chư thiên. Mọi chuyện nên được hiểu theo cùng cách như đã được kể lại trong quỷ sự Kaṇṇnamuṇḍa. Tuy nhiên ở đây, một chàng trai là dân cư của thành Ba-la-nại, trông thấy một trong những trái xoài ấy ở trong sông Hằng. Ðến đúng lúc, anh ta lên đường để tìm kiếm xem nó từ đâu đến, và trông thấy con sông ấy; và bằng cách đi theo con sông này, đã đến tại chỗ ngụ của nàng. Khi nàng trông thấy anh ta nàng bèn dẫn anh ta vào trong chỗ ngụ của nàng, đón chào anh ta và mời anh ta ngồi. Khi trông thấy sự thù thắng của nàng, anh ta bèn nói lên những câu kệ này để dò hỏi về nó:
1. "Có cột bằng ngọc bích, lấp lánh, rực rỡ và có vô số những bức tranh, đó là cung điện mà nàng đã trú ngự rực rỡ và nàng nghỉ ở đó, hỡi Devī có đại oại lực, trông như ánh trăng rằm.
2. Và nước da của nàng giống như vàng tan chảy, tướng mạo chói sáng của nàng trông vô cùng khả ái, nhưng nàng lại ngồi một mình trên chiếc giường vinh quang vô song của nàng, xem ra nàng không có chồng.
3. Và nàng có những hồ sen này ở khắp bốn hướng, có nhiều hoa, với nhiều hoa sen và hoàn toàn được trải lên bằng bụi vàng; bùn và bèo tấm thì không được biết đến ở đó.
4. Những con thiên nga trông khả ái và dễ thương, lội quanh ở trên mặt nước luôn khi và kéo đàn với nhau, tất cả chúng đều duyên dáng, hót với giọng thanh tao như những tiếng trống định âm.
5. Chói sáng, lộng lẫy trong sự vinh quang của nàng, nàng nằm tựa lưng trong chiếc thuyền của nàng, với đôi mi rậm, vui vẻ và giọng nói khả ái; tay chân nỏn nà, nàng vô cùng rực rỡ.
6. Cung điện này không có tỳ vết và đứng ngang bằng; có những công viên làm tăng thêm sự vui thích và khoái lạc của nàng. Hỡi công nương có sắc đẹp tột bậc, ta ước rằng ta có thể vui hưởng với nàng ở đây giữa khoái lạc nầy".
Khi chàng trai đã nói như vậy, thì nàng Vimānadevatā, để trả lời vị ấy, bèn nói câu kệ này:
7. "Hãy làm một công việc để được thọ hưởng ở đây và hãy khiến cho tâm của chàng thiêng về đây, khi chàng đã làm một việc để được ở đây như vậy, chàng sẽ được xem là người làm thoả mãn tất cả mọi ước muốn của chàng.
Khi chàng trai đã nghe điều mà tiên nữ đã phải nói ra, vị ấy bèn rời khỏi chỗ ấy, đến những con đường nhân loại, vị ấy giữ tâm chuyên chú vào những chỗ ấy và thực hành những việc phước thích hợp và chẳng bao lâu sau, khi mạng chung, tái sanh ở đó, cọng trú với Petī ấy. Những vị Kiết tập Tam Tạng đã nói lên câu kệ kết thúc để giải thích vấn đề.
8. Vị ấy đã đồng ý với nàng khi nói rằng: "Tốt lắm" và làm các việc phước để được sống ở đó; khi đã tích luỹ thiện nghiệp để sống ở đó, chàng trai tái sanh cọng trú với nàng.
Khi họ đã hưởng sự vinh quang của chư Thiên ở tại đó trong một thời gian dài, vị thiện nam chết do hết phước của nghiệp ấy, nhưng nàng tiên nữ thì vẫn còn sống ở đó trong một trung gian Phật thời do phước của nàng đã gieo vào mảnh ruộng đó. Rồi khi đức Thế Tôn của chúng ta đã xuất hiện trong thế gian và đã lăn bánh xe chánh pháp, và đến đúng lúc đang trú ngụ ở Jetavana, Ðại Ðức Moggallana vào một hôm nọ, khi đang đi trên những ngọn núi, trông thấy cung điện của nàng Vimānapetī ấy và hỏi nàng những câu kệ bắt đầu bằng: "có một trụ bằng ngọc bích, lấp lánh, rực rỡ..." Nàng bèn thuật lại biến cố ấy với Ngài ngay từ đầu, và khi đã nghe qua điều này, Trưởng lão bèn đi đến Sāvatthi và nêu lên vấn đề ấy với đức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh Pháp cho hội chúng đã tụ họp ở đó. Khi đã nghe qua Pháp thoại này, dân chúng đã thực hành những việc phước như bố thí v.v... Và trở nên có sự ưa thích với chánh Pháp.
*
III.4 QUỶ SỰ VỀ TRẤU (BHUSAPETVATTHU)
"Một người thì sáng kiến trong khi lại một người khác".
Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Sāvatthi, liên quan đến bốn Ngạ quỷ.
Tương truyền rằng tại một ngôi làng nọ không cách xa thành Sāvatthi, có một người thương buôn bất lương nọ, kiếm sống bằng nghề đong lường gian dối v.v... Ông ta thường lấy một ít võ trấu, trộn thêm đất sét nâu để làm tăng thêm trọng lượng và rồi trộn cái này với lúa đỏ mà ông ta bán ra khi ấy. Ðứa con trai của ông ta trở nên tức giận khi nghĩ rằng, "ông ta đã không hành động một cách đáng kính đối với những bạn bè của ta và những người tốt bụng của ta khi họ đi đến nhà". Và chộp lấy miếng da lót cái ách đánh một cái vào đầu mẹ của anh ta. Ðứa con dâu của ông thì ăn bằng cách lấy trộm thịt được dự định cho tất cả và khi được gọi đến một lần nữa bởi họ, để giải thích sự kiện, chính nàng đã thề rằng, "nếu thịt ấy được ăn bởi tôi, thì xin cho tôi ăn thịt sau khi móc ra từ cái lưng của tôi kiếp nầy đến kiếp khác". Vợ của ông ta nói với những người đến xin những phương tiện kiếm sống rằng không có gì cả, và khi bị nài ép bởi họ, bà ta thề bằng cách nói dối rằng, "Nếu có một cái gì đó mà tôi lại nói là không có gì thì xin cho tôi kiếm ăn bằng phẩn ở bất cứ chỗ nào mà tôi sanh ra!"
Ðến đúng lúc, bốn người này chết và sanh làm Ngạ quỷ trong khu rừng Viñjha. Ở đó, người thương buôn bất lương, do quả của những ác nghiệp của ông ta, thường cầm trấu cháy đỏ ở cả hai tay và rải nó ở trên đầu của ông ta và do vậy phải chịu đau khổ lớn. Ðứa con trai của ông ta thường tự làm bể cái đầu của chính mình bằng những cái búa sắt và chịu đau đớn không xiết kể. Nàng dâu của ông ta, do quả những ác nghiệp của nàng, chịu đau đớn vô hạn vì phải ăn lấy thịt mà nàng móc ra liên tục từ cái lưng của nàng bằng móng tay lớn, rất dài và bén của nàng. Trong khi đó, ngay sau khi bữa ăn bằng cơm sạch và thơm mà những hạt gạo đen đã được lấy đi từ đó, được dâng đến cho vợ của ông ta thì nó trở thành phẩn có mùi hôi thối và ghê tởm; bị làm thủng lỗ chỗ bởi nhiều loại sâu, bà ta thường nắm chắc phẩn ấy bằng hai bàn tay và cảm thọ đau khổ lớn khi ăn lấy nó.
Bấy giờ, khi bốn người này đã sanh trong cõi Ngạ quỷ và đang chịu đau khổ lớn thì Ðại Ðức Moggallāna, khi đang đi dạo quanh những ngọn núi vào một ngày nọ, đi đến tại chỗ ấy và trông thấy chúng. Trưởng lão dò hỏi những nghiệp mà chúng đã tạo bằng câu kệ này:
1. "Một người thì cầm trấu trong tay trong khi có người nữa; và người đàn bà này thì ăn thịt và máu của chính mình; còn ngươi thì ăn phẩn dơ dáy và gớm ghiếc - đây là kết quả của nghiệp nào?"
Khi Trưởng lão đã dò hỏi như vậy về những ác nghiệp mà chúng đã làm, người vợ của vị thương nhân bất lương khi ấy bèn nói những câu kệ này để giải thích những nghiệp được làm bởi tất cả họ:
2. Người này trong quá khứ đã làm hại mẹ của mình, trong khi người này là một vị thương nhân bất lương. Người này ăn thịt và dối gạt bằng sự nói dối.
3. Về phần tôi khi còn ở dương thế, tôi là một người vợ nhà và là nữ gia chủ của toàn thể gia đình. Dầu ở trong tầm tay, tôi đã giấu cái này và chẳng cho đến một ai một miếng nào của cái này, tự che đậy mình bằng cách nói dối rằng, " không có cái gì trong ngôi nhà này cả; nếu có mà tôi đã đem giấu thời xin cho vật thực của tôi sẽ là phẩn!".
4. Chính do kết quả của nghiệp ấy và do bởi sự kiện rằng tôi đã nói dối nên bữa ăn bằng gạo thơm này biến thành phẩn dành cho tôi.
5. Các nghiệp không phải không có quả, cũng chẳng có nghiệp nào tiêu diệt, vì tôi phải ăn và uống phẩn có những con dòi và có mùi hôi thối này.
Khi Trưởng lão đã nghe qua điều mà Petī ấy đã phải nói ra, vị ấy nêu lên vấn đề ấy với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy nó làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết Pháp cho hội chúng đã hội họp ở đó. Thời pháp đó đem lại lợi ích cho những người ấy.
*
III.5 TIỂU NHI QUỶ SỰ (KUMĀRA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Trí tuệ của đấng Thiện Thệ thật vi diệu".
Ðây là Tiểu nhi quỷ sự. Câu chuyện ấy xuất phát như thế nào?
Tương truyền rằng tại thành Sāvatthi có nhiều thiện tín tự tổ chức thành một nhóm Phật tử và đã dựng lên ở trong thành phố ấy một phước xá lớn và trang hoàng nó bằng những tấm vải có đủ màu sắc. Vào lúc sáng sớm, họ thỉnh Bậc Ðạo sư và chư Tăng đến và thỉnh chư Tăng có đức Phật dẫn đầu ngồi trên những chỗ ngồi được trải bằng những tấm khăn trải đắc giá, có phẩm chất cao nhất, cúng dường các Ngài những vật thơm và những bông hoa v.v... và tổ chức một cuộc lễ cúng dường long trọng. Khi trông thấy cảnh này thì một người đàn ông nọ, có tâm bị che ám bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn, không thể chịu đựng sự cúng dường như vậy, bèn nói rằng, "Thật tốt hơn tất cả nếu những thứ này được mang vào trong đống rác còn hơn là cho đến những tên đầu trọc nầy". Khi nghe qua điều này thì những thiện tín, tâm của họ bị xúc động, bèn suy xét rằng, "Quả thật trầm trọng thay ác nghiệp đã sanh lên trong người đàn ông bằng điều mà ông ta xúc phạm đến chư Tăng có đức Phật dẫn đầu". Họ thuật lại vấn đề ấy với mẹ của anh ta và nói rằng, "Bà nên đi và sám hối đức Thế Tôn và những thinh văn đệ tử của Ngài". "Tốt lắm", bà ta đồng ý và khi đã quở trách đứa con trai của bà ta, đe doạ hắn, bà đi đến đức Thế Tôn và chúng Tỳ khưu và sám hối, thú nhận điều lầm lỗi mà con trai của bà đã vị phạm, và cúng dường đức Thế Tôn và chư Tăng trong bảy ngày bằng những vật thí có món cơm dẻo.
Chẳng bao lâu sau, đứa con trai của bà ta chết và sanh vào trong bào thai của một cô gái điếm sống bằng những việc làm nhơ bẩn. Bấy giờ nàng nhận ra rằng nó là một đứa con trai ngay khi nó vừa sanh ra và sai người bỏ nó trong bãi tha ma. Nó nằm ở đó, được bảo vệ bởi năng lực của những việc phước của nó và, không bị quấy rầy bởi ai cả, ngủ an vui tựa như trong lòng mẹ của hắn. Người ta nói rằng những những vị chư Thiên đã bảo vệ hắn. Rồi khi đến rạng sáng, đức Thế Tôn đã xuất khỏi đại bi định và đang dò xét thế gian bằng Phật nhãn của Ngài, Ngài trông thấy đứa bé bị bỏ hoang trong bãi tha ma và vào lúc mặt trời mọc, đi đến bãi tha ma ấy. Dân chúng kéo đến khi nói rằng, "Bậc Ðạo sư đã đến đây; chắc Ngài có mục đích nào đó ở đây". Ðức Thế Tôn nói với hội chúng đã hội hợp ở đó rằng, "đứa bé này không nên bị coi thường; cho dù bây giờ nó bị bỏ trong bãi tha ma này trong trạng thái bơ vơ, nhưng trong tương lai nó sẽ được sự thù thắng cao tột cả trong đời sống này và cả trong đời sống mai sau". Ðược hỏi bởi những người ấy, "Bạch đức Thế Tôn, nó đã làm nghiệp gì trong kiếp quá khứ"; Ngài bèn giải thích nghiệp mà đứa bé đã làm và sự vinh quang mà nó sẽ đạt được trong tương lai, bằng những câu kệ bắt đầu rằng:
"Vinh dự cao tột đang được thể hiện bởi dân chúng đến chư Tăng có đức Phật dẫn đầu trong khi người kia thì có sự lầm lẫn trong tâm và có lời nói lời thô lỗ, những lời nói khiếm nhã".
Ngài thuyết giảng chánh pháp thích hợp với những căn tánh của chúng sanh đang hội họp ở đó và sau đó thuyết diệu pháp mà chính chư Phật đã giác ngộ (khổ, tập, diệt, đạo). Vào lúc kết thúc của thời Pháp ấy, tuệ quá sanh lên trong tám mươi bốn ngàn chúng sanh. Và trước mặt đức Thế Tôn một người đàn ông giàu có, có đến tám mươi koṭi, đã nhận nuôi đứa bé khi nói rằng, "Nó sẽ là con của tôi." Ðức Thế Tôn nói rằng, "Ðứa bé này được bảo vệ bởi tài sản lớn như vậy và được sự giúp đỡ của mọi người". Và Ngài đi về tinh xá, và đúng lúc, khi người đàn ông giàu có chết, cậu ta kế thừa tài sản được để lại bằng di chúc của ông ta và khi tổ chức công việc trong gia đình, cậu ta trở thành một gia chủ có tài sản lớn trong cùng thành phố ấy và hăng say làm những việc phước như bố thí v.v... Rồi một hôm nọ, các vị Tỳ khưu bắt đầu bàn luận với nhau trong giảng đường chánh pháp rằng, "Quả thật kỳ diệu thay về lòng bi mẫn của Bậc Ðạo sư đối với chúng sanh; Ðúng vậy, ngay cả đứa bé ấy là kẻ mà lúc bấy giờ đang ở trong trạng thái bơ vơ nay lại thọ hưởng sự vinh quang vĩ đại và đang thực hành những việc phước cao cả".
Khi nghe qua điều này, Bậc Ðạo sư trả lời rằng, "Này các Tỳ khưu, sự vinh quang của cậu ta không chỉ bấy nhiêu đâu; vì quả thật vậy, vào lúc thân hoại mạng chung, vị ấy sẽ tái sanh làm con của Sakkha, vua của chư thiên, trong cõi ba mươi ba và được sự vinh quang lớn của chư Thiên.". Khi nghe qua điều này, các vị Tỳ khưu và dân chúng bèn tán dương trí tuệ vô song của Bậc Ðạo sư, người ta nói rằng, "khi đức Thế Tôn toàn tri trông thấy điều cần được làm thì Ngài đi đến đó, giúp đỡ người mà đã bị bỏ đi trong bãi tha ma hôi hám ấy ngay khi cậu ta mới sanh ra", và nói về biến cố liên quan đến người ấy trong suốt cuộc đời của họ. Những vị kết tập Tam tạng nói những câu kệ để giải thích vấn đề này:
1. "Trí tuệ của đức Thiện Thệ thật vị diệu. Bậc Ðạo sư đã trả lời theo cá nhân: Dầu có tràn đầy phước báu nhưng có người trở thành hạ sanh, trong khi dầu có phước báu giới hạn nhưng có người lại trở nên cao quý.
2. Ðứa bé này bị bỏ rơi trong bãi tha ma, vẫn sống suốt đêm bằng sự ẩm ướt của ngón tay cái. Chẳng phải những quỷ Dạ Xoa hay những loài bò sát mà có thể quấy rầy đứa bé, là một người đã làm những việc phước rồi.
3. Tuy nhiên, những con chó liếm chân của nó trong khi những con quạ và những con giả can thì vây quanh nó; những đàn chim lấy đi những thứ nhơ uế của sự sanh con, trong khi những con quạ thì lấy đi ghèn từ con mắt của nó.
4. Không ai đem đến cho nó sự bảo vệ, cũng chẳng cho nó thuốc men hay sự hun khói bằng hạt cải, họ cũng chẳng chú ý những sự liên kết của các vì sao hay thậm chí rải ra tất cả những hạt ngũ cốc.
5. Bị rơi vào trong trạng thái khốn khổ như bị mang đi vào lúc ban đêm và bị bỏ rơi trong bãi tha ma và, run rẫy như khúc bơ tươi, đời sống không chắc chắn, tuy nhiên vẫn tồn tại.
6. Người được chư Thiên cung kính và loài người trông thấy vị ấy; vừa khi trông thấy nó, bậc Vô thượng tri bèn công bố rằng, "Ðứa bé này sẽ thành người thuộc gia đình cao cả nhất của thành phố này do bởi tài sản của nó".
7. "Nó đã thọ trì điều gì, bấy giờ phạm hạnh của nó là gì? Do kết quả của thiện hạnh nào khiến sau khi đi đến cảnh ngộ như vậy, nó lại có thể tiếp tục hưởng một tiềm năng như thế này?"
Bấy giờ đức Thế Tôn, khi được hỏi theo cách ấy bởi những thiện tín ấy, bèn trả lời theo đó; những vị kiết tập tam tạng nói lên bốn câu kệ để chứng minh điều này.
8. Mọi người đang thể hiện sự tôn kính cúng dường cao tột đến chư Tăng có đức Phật dẫn đầu, trong khi cậu ta thì có sự lầm lạc trong tâm và nói những lời thô lỗ, khiếm nhã.
9. Khi cậu ta đã loại trừ ý nghĩ ấy và sau đó có được sự hoan hỷ và lòng tịnh tín, cậu ta đã hầu hạ Ðức Tathāgata mà đang ngụ ở Jetavana, trong bảy ngày, bằng món cơm dẻo.
10. Ðó là sự thực hành của cậu ta, đó là phạm hạnh của cậu ta, đây là kết quả của thiện hạnh ấy, sau khi đã đi đến một cảnh ngộ như vậy, cậu ta có thể đi tiếp để hưởng một tiềm lực như thế này.
11. Sau khi trãi qua cuộc sống hiện tại trong một trăm năm, được cung cấp bằng tất cả mọi điều mong muốn mà vị ấy muốn, vào lúc thân hoại mạng chung, ra đi cọng trú với Vāsava trong cuộc sống kế tiếp".
*
III.6 QUỶ SỰ SERINĪ (SERINĪ PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Ngươi trần truồng và có hình tướng xấu xí".
Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên quan đến nữ Ngạ quỷ Serinī.
Tương truyền rằng tại Hatthinipura, trong vương quốc của những người Kuru, có một cô gái điếm tên là Serinī. Bấy giờ có những vị Tỳ khưu từ chỗ này chỗ nọ kéo đến đó với mục đích làm lễ Uposatha và trở thành một hội chúng đông đảo những vị Tỳ khưu. Khi trông thấy cảnh này, những người dân sửa soạn những vật thí như mè, gạo v.v.... thục tô, bơ tươi và mật ong v.v... và tổ chức một buổi lễ cúng dường lớn.
Bấy giờ vào thời ấy, cô gái điếm ấy chẳng có đức tin hay lòng tịnh tín, và tâm của nàng bị che ám bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn. Mặc dù dân chúng đã ra sức thuyết phục nàng khi nói rằng, "Hãy đến và tỏ lòng tùy hỷ của cô với sự bố thí vật thực này!" Nhưng nàng vẫn tỏ ra hoàn toàn không có lòng tịnh tín khi nói rằng, "Có lợi ích gì trong việc bố thí đến những vị Sa-môn trọc đầu này? Tại sao tôi phải cho đi dầu chỉ một vật nhỏ nhặt?" Ðúng lúc nàng chết và tái sanh làm một Petī trong một hào rãnh của một thị trấn của biên giới nọ.
Bấy giờ, một thiện nam nọ của vùng Hatthinipura đã đi đến thành phố ấy để buôn bán và trải qua suốt đêm, lúc gần sáng, anh ta đi đến cái hào ấy để làm một công việc nọ. Khi nàng trông thấy anh ta ở đó, nàng bèn nhận ra anh ta và, khi đứng không cách xa, tự hiện ra trần truồng với thân chỉ có da và xương còn lại mà thôi, một cảnh tượng nhờm gớm vô cùng. Khi anh ta trông thấy nàng, anh ta bèn hỏi nàng câu kệ này:
1. "Nàng trần truồng và có hình tướng xấu xí, gầy ốm với những đường gân lộ ra, này kẻ gầy ốm với những xương sườn lộ ra, bây giờ nàng là ai mà đứng ở đây?"
Nàng cũng nói cho anh ta biết về mình bằng câu kệ này:
2. "Thưa ông, tôi là một nữ Ngạ quỷ, đã đi đến kiếp sống đau khổ trong cõi Yama. sau khi đã tạo ác nghiệp, tôi đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ".
Anh ta bèn hỏi nàng một lần nữa về nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:
3. "Bây giờ ác nghiệp nào được làm bởi nàng, bằng thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến nàng đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"
Và rồi nàng bèn kể cho anh ta nghe về nghiệp mà nàng đã tạo và, thêm nữa, điều cần được làm bởi anh ta để đem lại lợi ích cho nàng, bằng sáu câu kệ này:
4. "Tôi đã kiếm những đồng tiền ở những nơi tắm công cộng; dầu những vật thí ở trong tầm tay nhưng tôi đã không làm chỗ nương tựa cho tôi.
5. Bị khát bỏng, tôi đi đến con sông, nhưng nó trở nên trống rỗng; giữa sức nóng tôi đi đến bóng mát nhưng nó trở nên bị thiêu đốt bởi mặt trời.
6. Và một cơn gió như ngọn lửa thổi lên người tôi, đốt cháy tôi, nhưng tôi đáng bị như thế này, thưa ông. Và sự đau khổ khác còn kinh khủng hơn thế này.
7. Khi ông đi đến Hatthinipura, ông nên nói với mẹ tôi rằng: "tôi đã trông thấy con gái của bà đã đi đến kiếp sống đau khổ trong thế giới của Yama. Sau khi đã làm ác nghiệp, nàng đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ ".
8. Ở đây, có cái được để dành nhưng không được công bố bởi tôi. Khoảng bốn trăm ngàn ở dưới chiếc giường.
9. Từ món tiền này, bà nên bố thí giùm cho tôi; bà cũng có thể dùng một phần số tiền ấy để cung cấp cho sự nuôi mạng của bà, nhưng khi bà đã cho những vật thí nên hồi hướng phước thí ấy cho tôi; thời tôi sẽ hạnh phúc và có được dồi dào những điều mà tôi muốn."
Khi Petī ấy đã nói như vậy, vị thiện nam liền đồng ý với điều mà nàng đã nói. vị ấy làm xong công việc của mình ở đó, đi đến Hatthinipura và thuật lại vấn đề với mẹ của nàng. Ðể giải rõ sự kiện này, những vị kiết tập Tam Tạng nói rằng:
10. "Tốt lắm," Vị ấy đồng ý và đi đến Hatthinipura, nói với mẹ của nàng rằng: "Tôi đã trông thấy con gái của bà đã đi đến kiếp sống đau khổ trong thế giới của Yama. Sau khi đã làm ác nghiệp, nàng đã ra đi từ đây đến cõi của những Ngạ quỷ.
11. Khi ấy nàng ra sức thuyết phục tôi khi nói rằng, "ông nên nói với mẹ của tôi rằng, tôi đã trông thấy con gái của bà đã đi đến kiếp sống đau khổ trong thế giới của Yama. Sau khi đã làm ác nghiệp nàng đã ra đi từ đây đến cõi của những Ngạ quỷ.
Ở đây có cái được để lại nhưng không được công bố bởi tôi. Chừng bốn trăm ngàn ở dưới gầm giường.
13. Từ món tiền này, bà nên bố thí vật thực giùm cho tôi, số tiền ấy cũng có thể nuôi mạng cho bà. Và khi bà đã cho ra những vật thí, mẹ của tôi nên hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi. Rồi tôi sẽ được hạnh phúc và có dồi dào những gì mà tôi mong ước.
14. Nhân đó bà ta cho ra những vật thí và hồi hướng phước thí ấy đến cho nàng; và Petī ấy được hạnh phúc và có thân trông xinh đẹp.
Khi đã nghe qua điều này, mẹ của nàng bèn cho ra những vật thí đến chúng tăng và hồi hướng những vật thí này đến cho nàng. Ðược an trú trong sự thù thắng về những phương tiện kiếm sống mà nàng đã thọ lãnh theo cách này, nàng hiện ra trước mặt của mẹ nàng và giải thích nguyên nhân của nó. Mẹ của nàng báo tin cho các vị Tỳ khưu biết và các vị Tỳ khưu nêu lên vấn đề ấy với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy là nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã tụ họp ở đó. Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho hội chúng ở đó.
*
III.7 LIỆP LỘC QUỶ SỰ (MIGALUDDA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Ngươi còn trẻ và được tôn kính bởi những người nam và những người nữ".
Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Ðức Thế Tôn đang ngụ ở Veḷuvana, liên quan đến một Ngạ quỷ mà trước kia là người săn nai.
Tương truyền rằng, tại thành Vương-xá, có một người thợ săn nọ kiếm sống bằng nghề săn bắn và giết nai. Anh ta có một người bạn là một thiện nam, là người mà, vì không thể thuyết phục anh ta từ bỏ những ác nghiệp luôn khi, bèn thức tỉnh anh ta làm những việc phước vào lúc ban đêm khi nói rằng, "này bạn, hãy từ bỏ sát sanh vào lúc ban đêm đi." Anh ta thường không làm điều này vào lúc ban đêm và thường sát sanh chúng sanh chỉ trong ban ngày mà thôi. Ðúng lúc, anh ta chết và sanh làm một Vimāna Peta ở gần Rājagaha, chịu nhiều thống khổ suốt ngày, nhưng thường làm hài lòng cho chính mình, với đầy đủ dục lạc vào lúc ban đêm. Khi trông thấy anh ta, thì Trưởng lão đáng kính Nārada bèn hỏi anh ta bằng câu kệ này:
1. "Ngươi còn trẻ và được tôn kính bởi những nam nhân và những nữ nhân; ngươi trông rất xinh đẹp nhờ những dục lạc, nhưng vào lúc ban ngày thì ngươi lại thọ lãnh quả khổ. Ngươi đã làm gì trong kiếp quá khứ của ngươi?"
Khi nghe qua điều này, Ngạ quỷ nói những câu kệ này để cho Trưởng lão biết những nghiệp mà nó đã làm:
2. Trong quá khứ, ở thành Rājagaha xinh đẹp, ở Giribbaja khả ái ấy, tôi đã làm một người thợ săn độc ác và có bàn tay dính máu.
3. Bị ô nhiễm trong tâm, tôi sống không có sự thu thúc, luôn luôn hướng đến sự làm hại những kẻ khác, vô cùng độc ác đối với những chúng sanh vô tội, là những sanh vật ở khắp nơi.
4. Tôi có một người bạn có tâm từ ái, là một thiện nam có đức tin, và người ấy khi cảm thấy thương hại, đã nhiều lần khuyên tôi khi nói rằng:
5. "Ðừng làm những ác nghiệp, này bạn, đừng đi đến trạng thái đau khổ, nếu bạn muốn được hạnh phúc sau khi chết, hãy tránh xa sự sát sanh một cách bừa bãi này".
6. Tôi lắng nghe nghững lời này của vị ấy đang muốn cho tôi được hạnh phúc, và mong mỏi cho tôi được hạnh phúc. Tuy nhiên tôi, vì đã lâu quen với những ác nghiệp và do thiếu trí suy xét, đã không làm theo đầy đủ lời khuyên của anh ta.
7. Một lần nữa, con người rất có trí tuệ ấy, do lòng bi mẫn, đã khuyên tôi tỏ sự thu thúc khi nói rằng, "Nếu ban ngày bạn phải sát sanh, thời hãy thu thúc vào lúc ban đêm."
8. Bởi vậy tôi chỉ giết chúng sanh vào lúc ban ngày mà thôi, nhưng thu thúc vào lúc ban đêm, không làm những điều ấy; và nay, vào ban đêm tôi tự làm thoả mãn chính mình nhưng vào lúc ban ngày thì tôi có một kiếp sống đau khổ và bị ăn thịt.
9. Do bởi thiện nghiệp ấy nên vào lúc ban đêm tôi hưởng những dục lạc của chư Thiên, trong khi đó vào lúc ban ngày thì những con chó săn hùng hổ sống vào tôi từ khắp các hướng để ăn thịt tôi.
10. Bấy giờ những người mà tiếp tục đặt mình vào, và thường xuyên chuyên tâm vào lời dạy của Ðức Sugata; thiết nghĩ, riêng những người này sẽ đạt đến trạng thái bất tử.
Chú giải:
Khi nó đã nói như vậy thì Trưởng lão bèn nêu lên vấn đề ấy với Bậc Ðạo sư. Bậc Ðạo sư lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó. Mọi chuyện đều giống y như đã được nêu ra ở trên.
*
III.8 ÐỆ NHỊ LIỆP LỘC QUỶ SỰ
"Trong ngôi nhà có tháp nhọn và trong cung điện."
Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Veḷuvana, liên quan đến một Ngạ quỷ khác mà trước kia cũng là một thợ săn nai.
Tương truyền rằng tại Rājagaha, có một chàng trai trẻ thợ săn nọ, do có tài săn bắn, đã từ bỏ những tiện nghi về của cải của anh ta và ngày đêm đi đây đó để săn nai. Một vị thiện nam nọ là bạn hữu của anh ta, do lòng bi mẫn, cho anh ta lời khuyên này, "Này bạn, hãy từ bỏ sát sanh, e rằng sẽ có đau khổ dành cho bạn trong một thời gian dài". Nhưng anh ta chẳng quan tâm. Rồi vị thiện nam ấy thỉnh một vị Trưởng lão nọ mà đã có tâm tu tiến và đã đoạn trừ các lậu hoặc, khi nói rằng, "Bạch Ngài, xin Ngài hãy thuyết pháp đến một người đàn ông đó đó bằng cách nào đó để anh ta từ bỏ sự sat sanh." Bởi vậy vào một hôm nọ, vị Trưởng lão ấy, trong khi đang đi quanh thành Rājagaha để khất thực, đứng tại cửa nhà của anh ta. Khi trông thấy Ngài, thì người săn nai, đầy tôn kính, đi ra để đón Ngài, mời Trưởng lão vào nhà và dâng chỗ ngồi đến Truởng lão. Trưởng lão ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Khi anh ta đi đến Trưởng lão, anh ta cũng ngồi xuống. Trưởng lão nói cho anh ta biết về những quả dữ của sự sát sanh và rồi giải thích những lợi ích của sự kiêng tránh, nhưng khi anh ta nghe qua điều này thì anh ta không muốn từ bỏ nó. Rồi Trưởng lão nói với anh ta rằng, "Này bạn, nếu bạn không thể từ bỏ hoàn toàn được, thì tối thiểu cũng hãy từ bỏ nó vào lúc ban đêm". "Tốt lắm, thưa Ngài, con sẽ tránh xa". Phần còn lại tương tự như câu chuyện ở ngay trước, ngoại trừ rằng ở chỗ mà những câu kệ có liên quan đến thì Trưởng lão hỏi anh ta bằng ba câu kệ này:
1. Trong ngôi nhà có tháp nhọn và trong cung điện, ở trên chiếc giường được trải bằng lông cừu dài, ngươi vui thích với âm thanh ngọt ngào của năm loại nhạc.
2. Rồi vào lúc tàn đêm, đến khi mặt trời mọc, ngươi lại đi đến bãi tha ma, ở đó ngươi chịu nhiều thống khổ.
3. Bây giờ ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do thân khẩu, hoặc ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi chịu sự thống khổ này?"
Rồi Ngạ quỷ ấy giải thích vấn đề với Trưởng lão:
4. "Trong thành Rājagaha khả ái, ở Giribbaja xinh đẹp ấy, trong quá khứ con là thợ săn nai, con là người độc ác, không tự chế.
5. Con có một người bạn có tâm từ ái, là một vị thiện nam có đức tin và, một vị Sa-môn, một vị Sāvaka của đức Gotama, thường sống nhờ vào gia đình của anh thiện nam bằng sự để bát; dầu vị ấy, có lòng thương hại đến con, khuyên can con nhiều lần. Khi nói rằng:
6. "Ðừng làm những ác nghiệp, này bạn, đừng đi đến trạng thái đau khổ; nếu bạn muốn được hạnh phúc sau khi chết; thời hãy tránh xa sự sát sanh này."
7. Con lắng nghe những lời này của vị ấy, là người muốn cho con được hành phúc và mong mỏi cho con được lợi ích, tuy nhiên con, vì quá lâu đã quen với điều ác và thiếu trí tuệ, nên không làm theo lời khuyên của vị ấy.
8. Lại một lần nữa con người có trí tuệ vô cùng ấy, do lòng bi mẫn, khuyên con hãy tỏ sự tự chế, khi nói rằng, "Nếu ban ngày bạn phải giết những chúng sanh thời hãy tỏ sự tự chế vào lúc ban đêm."
9. Bởi vậy con chỉ sát sanh vào lúc ban ngày, nhưng tự chế vào lúc ban đêm không làm điều ấy - và vào lúc ban đêm con làm hài lòng chính mình, nhưng ban ngày con có một kiếp sống đau khổ và bị ăn thịt.
10. Vì thiện nghiệp ấy nên vào lúc ban đêm con hưởng những dục lạc của chư thiên, trong khi ban ngày thì những con chó hung hăng rơi vào con từ khắp các hướng để ăn thịt con.
11. Bấy giờ những người mà tiếp tục chuyên tâm, thường xuyên chuyên chú vào giáo pháp của đấng Sugata; riêng những người này, xét nghĩ, sẽ đạt đến trạng thái bất tử, là chỗ vô vi."
*
III.9 TRÁ KHI QUỶ SỰ (KŪTAVINICCHAYIKA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Mang tràng hoa, đội mão và đeo vòng tai".
Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đã ngụ ở Veḷuvana, liên quan đến một Ngạ quỷ đã từng chấp theo tà kiến.
Bấy giờ, Ðại vương Bimbisāra thường thọ trì Bát Quan Trai sáu ngày trong một tháng, và noi theo gương của vị ấy, nhiều người khác cũng thọ trì Bát Quan Trai giới. Ðức vua thường hỏi những người mà đến yết kiến vị ấy rằng, "Nào nào, ngươi có thọ trì Bát Quan Trai giới hay không?" Rồi một người đàn ông, được bổ nhiệm vào triều đình của vị ấy, là người có lời nói đâm thọc, gian lận, quen ăn hối lộ và làm những hành động bạo quyền đã nói rằng, "Tâu bệ hạ, thần có thọ trì nó", vì sợ phải nói ra rằng ông ta đã không thọ trì nó. Rồi khi ông ta đang rời khỏi tầm nhìn của đức vua, thì một người bạn nói với ông ta rằng, "Nào nào, này bạn, bạn có thọ trì nó ngày hôm nay không?". "Này bạn, tôi nói như vậy là do sợ hãi đó thôi khi mặt đối mặt với Ðức vua, nhưng tôi chẳng có thọ trì nó," Sau đó người bạn này nói với ông ta rằng, "Dầu vậy, bạn vẫn còn có thể thọ trì nửa ngày Bát Quan Trai giới cho ngày hôm nay, vậy hãy nguyện thọ trì Bát Quan Trai giới đi." "Tốt lắm", ông ta nói và đồng ý với điều mà người bạn nói, rồi đi về nhà, chẳng ăn gì, súc miệng và thọ trì Bát Quan Trai giới.
Ðêm hôm ấy, khi đã đi đến giường, thì những cơn đau khốc liệt, dữ dội, gây ra bởi cơn gió mạnh sanh lên, do bụng trống, đã đoản mạng của ông ta và, ngay sau khi chết ông ta sanh làm một Vimāna Peta ở một chỗ sâu hút trong một ngọn núi. Do thọ trì chỉ một đêm của ngày Bát Quan Trai giới mà ông ta nhận được một cung điện với tùy tùng gồm mười ngàn tiên nữ, và hưởng sự vinh quang thần tiên vĩ đại; Nhưng vì sự nói dối và nói đâm thọc của ông ta, nên ông ta phải ăn thịt sau khi đã móc ra từ chính lưng của ông ta. Ðại Ðức Nārada, khi đi xuống từ núi Kỳ-xà-quật, trông thấy vị ấy và Trưởng lão hỏi vị ấy bằng bốn câu kệ, sau đó vị ấy trả lời vấn đề cũng bằng bốn câu kệ:
1. "Ngươi có đeo tràng hoa, đội mão và đeo vòng, và khắp người của ngươi được phủ bằng trầm hương; nét mặt của ngươi rạng rỡ và ngươi chiếu sáng như mặt trời.
2. Những người hầu này của ngươi, những vị phi nhân này trong hội chúng của ngươi, và đây là những nữ hầu của ngươi, mười ngàn thiếu nữ này.
3. Chúng mang những vòng xuyến và những vòng đeo tay, và đầu của chúng được trang sức bằng những vòng hoa đội đầu bằng vàng - Ngươi có oai lực lớn và tướng mạo của ngươi làm dựng tóc.
4. Tuy nhiên ngươi lại ăn thịt mà chính ngươi đã móc ra từ lưng của ngươi: bây giờ ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do thân khẩu hay ý? do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi ăn thịt từ lưng của ngươi?"
5. "Ở trong thế giới hữu tình, tôi đã làm suy sụp chính tôi bằng những lời nói dối và đâm thọc, bằng sự gian trá và lường gạt.
6. Khi tôi đã đi đến một hội chúng ở đó và đến lúc để nói ra sự thật thì tôi lại không nói đúng sự thật và không nói những điều đem lại lợi ích cho tôi, lại còn đi theo con đường sái quấy.
7. Cũng như tôi ngày hôm nay ăn thịt từ chính lưng của tôi, cũng vậy người nào mà làm người nói xấu sau lưng cũng phải ăn thịt của chính mình.
8. Chính Ngài đã trông thấy điều này, thưa Ngài Nārada. Những người mà có lòng bi mẫn và có thiện tâm thường nói rằng, "Ðừng nói đâm thọc cũng đừng nói dối và đừng làm người nói xấu sau lưng!"
Tất cả phần còn lại đều được nêu ra như ở trên.
*
III.10 GIỚI BẤT KỈNH THẤP QUỶ SỰ (DHĀTUVIVAṆṆA PETAVATTHUVAṆṆANĀ)
"Khi đứng trong không trung".
Ðây là quỷ sự về sự coi thường. Khi Ðức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn giữa hai cây Sāla trong rừng cây Sāla Upattana của những người Malla tại Kusinārā và những Xá-lợi của Ngài đã được phân chia, vua Ajātasattu lấy phần Xá-lợi của mình và, khi niệm hồi tưởng những ân đức của Ðức Phật, bèn tổ chức một buổi lễ lớn để cúng dường Ngài kéo dài trong bảy năm, bảy tháng, và bảy ngày, trong suốt thời gian ấy có vô số người sanh tâm tịnh tín và đạt đến thiên giới. Tuy nhiên, có đến tám mươi sáu ngàn người bị ô nhiễm vì đã từ lâu không có đức tin, chấp theo tà kiến và, dầu ở trong những điều kiện có thể làm khởi sanh lòng tịnh tín, vẫn bị ô nhiễm trong tâm và bị tái sanh trong cõi Ngạ quỷ.
Cũng trong thành Rājagaha ấy, một người vợ, đứa con gái và con dâu của một vị phú hộ nọ, là người có của cải, với lòng tịnh tín trong tâm, họ đã suy nghĩ rằng, "Chúng ta hãy cúng dường đến Xá-lợi", và mang một ít vật thơm và những bông hoa v.v... Rồi lên đường đi đến chỗ mà Xá-lợi được tôn trí. Người đàn ông giàu có ấy tỏ thái độ coi thường của ông ta về sự tôn kính Xá-lợi và phỷ báng Xá-lợi khi nghĩ rằng, "Có lợi ích gì mà tôn kính những khúc xương?" họ chẳng quan tâm đến lời mà ông ta nói và đi đến chỗ ấy, cúng dường đến Xá-lợi và, khi đã trở về nhà, họ bị phát bệnh đến nỗi chẳng bao lâu sau họ chết, tái sanh trong cõi Devaloka do nhờ việc phước ấy.
Tuy nhiên, về phần ông phú hộ, bị che ám bởi lòng sân hận và chẳng bao âu sau cũng chết, tái sanh trong cõi Ngạ quỷ do bởi ác nghiệp ấy. Rồi một hôm nọ, Ðại Ðức Mahā Kassapa, do lòng bi mẫn đối với chúng sanh, thị hiện những năng lực thần thông của Ngài bằng cách nào đó để dân chúng có thể trông thấy cả những Ngạ quỷ và những vị chư thiên. Khi Ngài đã làm điều này, đứng trong khuôn viên của Bảo tháp ấy và hỏi ba câu kệ đến con Ngạ quỷ mà xưa kia đã tỏ thái độ khinh thường Xá-lợi, và rồi Ngạ quỷ đáp lại:
1. "Khi đứng trong không trung, ngươi toả ra mùi xú uế, hôi hám, và những con dòi rúc rỉa cái miệng hôi thối của ngươi. Ngươi đã làm nghiệp gì trong quá khứ?
2. Nhân đó, có những kẻ khác cầm những con dao của họ và khoét vào thịt của ngươi nhiều lần lập đi lập lại; chúng phun vào ngươi chất kiềm và rồi lại khoét ngươi nhiều lần lập đi lập lại.
3. Bây giờ ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi phải chịu sự thống khổ như thế này?"
4. "Trong thành Rājagaha xinh đẹp, là thành Giribbaja khả ái ấy, thưa Ngài, tôi là chủ của rất nhiều của cải và ngũ cốc.
5. Tôi đã ra sức ngăn cản người vợ này, đứa con gái và nàng dâu của tôi khi họ đang mang những bông hoa Tamāla, những hoa sen xanh và những dầu xức đắt giá đi đến bảo tháp. Ðây là ác nghiệp được làm bởi tôi.
6. Chúng tôi đang lãnh chịu tám mươi sáu ngàn loại khổ thọ; sau khi đã tỏ thái độ coi thường về sự tôn kính Xá-lợi, chúng tôi đã bị nấu sôi cùng cực như trong địa ngục.
7. Ngài hãy tách rời những người mà mở miệng nói lời bất lợi ra khỏi hội chúng đang cử hành đại lễ cúng dường Xá-lợi của bậc A-la-hán.
8. Hãy xem những người này đang đi đến, mang những tràng hoa và có trang sức, họ đang thọ hưởng kết quả của những bông hoa - họ rực rỡ và vinh hoa.
9. Và khi đã trông thấy sự kiện kỳ diệu làm ngạc nhiên và làm tóc dựng đứng này, những bậc trí tuệ sẽ tán dương và đảnh lễ Ngài, thưa đại hiền trí.
10. Bây giờ khi đã ra đi khỏi đây và lại được tái sanh trong cõi người, tôi sẽ nghiêm trang cúng dường ở bảo tháp nhiều lần lập đi lập lại.
Ðại Ðức Mahā Kassapa lấy vấn đề mà được nói như vậy bởi Ngạ quỷ làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó.
Quỷ sự về sự coi thường đã kết thúc - như vậy phần trình bày về ý nghĩa của chương ba, Tiểu phẩm, được tô điểm bởi mười câu chuyện trong những câu chuyện Ngạ quỷ của bộ Khuddhaka Nikāya đã kết thúc.
-ooOoo-
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.