Chương Thứ Hai

Chương Thứ Hai

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA
    -----

    QUẢ BÁO CỦA SA-MÔN

    (SĀMAÑÑAPHALA SUTTA)

    Bhikkhu Nāga Thera – Tỳ khưu Bửu Chơn.

    DL.1958-PL..2501

    –-

    CHƯƠNG THỨ HAI

    Bạch Đức Thế Tôn, như tất cả nghề nghiệp đều có đem lại nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi, v.v... Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có thể chế định cho tôi thấy rõ sự lợi ích hiện tại của bậc xuất gia không?

    Đức Phật bèn trả lời rằng: “Như Lai có thể tuyên bố được, vậy Như Lai xin hỏi Đại vương, Đại vương hiểu như thế nào xin nói như thế ấy, thí dụ như có vị quan lại hầu hạ Đại vương hết tất cả công việc triều chánh, rất vừa lòng đẹp ý, là người nói những lời đáng thương mến và rất tôn kính Đại vương. Người ấy lại suy nghĩ rằng: ‘Ồ lạ thay! Đây là sự hưởng báu của đức vua rõ rệt, vì Ngài cũng là người như ta, tại sao mà Ngài được hưởng mọi sự vui thú của cõi đời, có nhiều người hầu hạ như bậc Chư Thiên? Còn ta đây sao lại hầu hạ người vậy, đây chính là quả phước báu của Ngài đã tạo từ kiếp trước kia không sai, vậy ta cũng nên tạo phước báu như Ngài’. Suy nghĩ kỹ, y xin từ chức để xuất gia tu hành, y cạo râu tóc, mặc y ca-sa để xuất gia. Một lúc sau, người ấy đã hoàn toàn là một bậc xuất gia có đầy đủ sự thu thúc thân, khẩu, ý, có tri túc trong bốn món vật dụng, ưa thích nơi ở thanh vắng. Trong lúc ấy có người đến tâu cho Đại vương hay về người quan hầu ấy nay đã xuất gia có nhiều đức hạnh tốt đẹp. Tâu Đại vương, khi nghe tin ấy Đại vương có nên nói như thế này: ‘Người ấy phải trở lại hầu hạ Trẫm như trước không?’

    – “Bạch Đức Thế Tôn, không nên biểu như vậy đâu, theo sự thật, chúng tôi nên tiếp đãi, đảnh lễ người ấy, nên mời ngồi, nên dâng cúng vật thực, chỗ ngụ, y phục và thuốc men, lại nên cho người chăm sóc, bảo bọc người ấy theo đúng lẽ phải”.

    – “Tâu Đại vương, theo như chuyện ấy, Đại vương hiểu như thế nào, quả báo hay là sự lợi ích hiện tại của bậc sa-môn xuất gia có thấy rõ rệt không?”

    – “Bạch Đức Thế Tôn, theo như câu chuyện này thì quả báo của sự xuất gia đã thấy rõ rệt vậy”.

    – “Tâu Đại vương, đó Như Lai có thể chế định quả báo của sự xuất gia như thế ấy”.

    – Đức Vua lại bạch thêm rằng: “Đức Thế Tôn có thể tuyên bố thêm quả báo của sự xuất gia khác cao thượng hơn đó nữa không?”

    – “Tâu Đại vương, như có người cày ruộng vất vả để làm cho được có lúa gạo (sau khi suy nghĩ kỹ rồi cũng đi xuất gia... (cũng giống cách giải đoạn trên)...

    Rồi Đức Phật lại giải thêm cho đức vua nghe rằng: “Tâu Đại vương, Như Lai giáng sanh trong cõi thế gian này là bậc đã xa lìa các tội lỗi, bậc Chánh đẳng Chánh giác, bậc đầy đủ minh và hạnh, bậc đã đi đến nơi an lạc Đại Niết-bàn, bậc thông suốt cả tam giới, bậc có nhiều đức hạnh, bậc dạy dỗ những người đáng dạy dỗ, bậc thầy cả Chư Thiên và nhân loại, bậc thông thấu lý tứ diệu đế, bậc không còn luân hồi lại nữa. Như Lai tự giác ngộ và làm cho tất cả Chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, luôn cả chúng sanh trên thế giới và các bậc sa-môn, bà-la-môn cũng được giác ngộ theo, Như lai thuyết Pháp rất tốt đẹp khoản đầu, khoản giữa và khoản chót, đầy đủ ý nghĩa về triết hạnh, lúc ấy các bậc phú gia hoặc con của bậc phú gia hoặc người nào chẳng hạn được nghe pháp ấy rồi phát tâm trong sạch rất tin tưởng và suy nghĩ rằng:

    ‘Người tại gia rất bận rộn, tạo những điều tội lỗi và phiền não chảy vào, chỉ có xuất gia mới đầy đủ thời giờ rảnh rang, vì phạm hạnh ấy người tại gia khó gìn giữ được trong sạch trọn vẹn, trơn láng như ốc xà cừ, vậy ta nên xuất gia thì tốt hơn’. Một lúc sau, người ấy dứt bỏ của cải gia tài, thân bằng quyến thuộc ít nhiều chẳng hạn, rồi cạo tóc, râu, mặc y ca-sa đi xuất gia. Khi xuất gia xong, người ấy thu thúc theo giới bổn Pātimokkha trong tứ oai nghi đầy đủ hạnh kiểm, ghê sợ tội lỗi dầu nhỏ nhen chút ít, thọ trì các điều học, thân khẩu chân chánh, sự nuôi mạng trong sạch, là người đầy đủ giới hạnh, trang nghiêm, thu thúc lục căn, có tri túc, có sự ghi nhớ (sati) và biết mình (sampajañña).

    PHẦN TIỂU GIỚI

    “Thầy tỳ khưu có đủ giới hạnh là thế nào? Tâu Đại vương, thầy tỳ khưu trong giáo pháp này dứt bỏ, tránh xa sự sát sanh, đã lìa bỏ khí giới và roi, thước, có sự ghê sợ tội lỗi, có lòng trắc ẩn, là người cứu độ đến sanh mạng chúng sanh. Thầy tỳ khưu ấy đã dứt bỏ, tránh xa sự trộm cắp, chỉ thọ lãnh lấy những vật nào mà người ta dâng, cho; có thân trong sạch, không phải là kẻ đạo tặc. Thầy tỳ khưu ấy đã dứt bỏ, tránh xa sự hành dâm là pháp thấp hèn của kẻ thế, đã tránh xa sự nói dối, nói những lời chân chánh, thuật lại sự thật, nói lời đúng đắn đáng cho người tin cậy, không nói gạt gẫm kẻ khác, đã dứt bỏ, tránh xa sự nói đâm thọc, nghe nơi này không đem nói lại nơi kia làm cho chia rẽ hai bên, là người hay giảng hòa cho người đã chia rẽ, tiếp sức thêm cho những người đã có sự hòa hảo càng được thêm ưa thích với nhau, là người chỉ nói những lời làm cho hòa thuận. Thầy tỳ khưu đã dứt bỏ, tránh xa lời nói độc ác, chửi mắng, chỉ nói những lời vô tội, lời nói êm dịu, đáng thương mến, đáng để vào tâm, làm cho người vừa lòng đẹp ý; lại tránh xa lời nói vô ích, viển vông, chỉ nói lời thành thật, có lý, nói pháp và luật trong lúc nên nói, nói lời người nên để vào tâm, lời đáng tin cậy, lời nói nhứt định, lời có sự lợi ích, đó là giới hạnh của thầy tỳ khưu vậy”.

    “Thầy tỳ khưu lại tránh xa sự làm hư hại đến tất cả các hạt giống và loài thảo mộc, xa lánh sự ăn sái giờ là ăn buổi chiều, buổi tối, chỉ độ mỗi ngày một lần trước khi đúng ngọ; xa lánh sự coi hát xướng, nghe âm nhạc vì nó là pháp làm cho tai hại đến pháp hành; xa lánh sự trau dồi trang điểm thân thể bằng bông hoa, sự thoa xức dầu thơm, giồi thoa mình đủ cách; xa lánh nơi cao sang quảng đại là chỗ nằm, ngồi quá cao và quý báu; xa lánh thọ lãnh vàng bạc, mễ cốc lúa thóc (chưa nấu chín); xa lánh sự thọ lãnh phụ nữ và thiếu nữ, tôi trai, tớ gái, dê, trừu, heo, gà, voi, bò, ngựa, hoặc vườn ruộng; lại xa lánh sự mang thơ đem tin tức hoặc làm tay sai cho kẻ thế; xa lánh sự buôn bán, sự lường gạt người bằng cách lường cân tráo đấu, hoặc đồ giả nói là thật, giả mạo để gạt người; hoặc chặt tay chơn cột trói giết hại, lén núp ẩn cướp giật, hăm dọa để sang đoạt của người, đó là những giới hạnh của vị tỳ khưu vậy”.

    PHẦN TRUNG GIỚI

    “Có hạng sa-môn hoặc bà-la-môn khi xuất gia rồi, khi thọ thực xong của người cúng dường do đức tin trong sạch, lại thường làm cho hư hại đến các giống thảo mộc như giống phát sanh do nơi củ hoặc rễ, cây, mắt (như tre), đọt, hạt, thầy tỳ khưu cố ý tránh xa sự làm sai ấy”.

    “Có hạng sa-môn, bà-la-môn thường thọ dụng vật dụng mà tự mình cất giữ lấy như: cơm, bánh, y phục, xe cộ, chỗ nằm ngồi, vật thoa xức và tất cả các thứ vật thực(22), thầy tỳ khưu xa lánh cách thọ dụng ấy”.

    “Lại nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn thường hay đi coi hoặc nghe các trò chơi âm nhạc, hoặc các trò chơi khác có tai hại đến pháp lành là: múa, hát, vỗ tay cho ăn nhịp, đờn kèn, giặc giã, cồn, kiểng, trống phách, hình đào kép, trò trồng tre rồi leo lên múa, cho bò cụng lộn, ngựa cắn lộn, trâu báng lộn, voi đụng lộn, dê, trừu đụng lộn, gà đá lộn, chim đá lộn, tập nghề võ đấu côn, đấu quyền, đánh giặc, đi coi tập binh, điểm binh, coi trại lính; thầy tỳ khưu đều lánh xa tất cả các trò vui chơi ấy”.

    “Hơn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay ưa thích theo các trò chơi cờ như là: cờ tướng có 8 ô vuông hoặc 10 ô vuông, cờ tướng trên hư không là đánh cờ bằng miệng, cút bắt, bắn đạn bi hay là búng sạn sỏi cho trúng nhau, đánh cờ người, giỡn với bò con, rảy màu lên giấy để bàn ra chuyện này kia, chơi trái tràm, thổi kèn bằng lá, chơi cày bừa nho nhỏ, đánh vòng, trồng chuối ngược (là đi bằng 2 tay, 2 chân đưa lên trời), lường cát, chơi đất, chơi xe, chơi cung tên nhỏ, viết chữ trên hư không rồi bàn, giả bộ nhái nhau để cười chơi, chơi cách vua muốn(23); thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả các sự chơi vô ích ấy. Đó là giới hạnh của thầy tỳ khưu vậy”.

    “Một lẽ nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay dùng xài sàng cao quảng đại đủ thứ như là: chỗ ngồi cao quá luật(24), giường ghế chân tiện hình thú dữ, khảm bằng lông thú cao hơn bốn ngón, khảm thêu hình thú dữ, khảm làm toàn bằng lông thú trắng, khảm làm bằng lông thú có nhiều bông hoa, chỗ ngồi có dồn gòn, khảm bằng lông thú, lòng dựng lên ngã về một phía hoặc hai phía, khảm làm bằng dây vàng, bạc, tơ xe, chung lại, khảm có xỏ những báu vật, khảm làm bằng lông thú, lớn vừa cho mười sáu người nữ khiêu vũ nhảy múa được, khảm trải trên lưng voi, lưng ngựa, trên xe, khảm làm bằng da cọp, da mang, gối kê đầu và gác chân đều toàn màu đỏ. Thầy tỳ khưu đều xa lánh sự dùng xài các vật quí báu ấy”.

    “Hơn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay sửa soạn, trang điểm thân mình như là: thoa xức các vật thơm để làm cho mất mùi hôi hám, đấm bóp, tắm rửa, bắt gân, soi hình, giồi mình, đeo tràng hoa, dùng vật xoa thức, đồ thoa mặt có chấm chấm, giồi mặt, đồ đeo tay, đồ cột tóc, cầm ba ton, đao, gươm, dù lọng, giày làm sái luật, đội mão, đeo hột xoàn, quạt bằng lông thú, vải trắng, vải có ren dài ở 2 đầu. Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả sự trang điểm như thế ấy”.

    “Hơn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay nói những điều viển vông vô ích là nói “Tiracchānakathā”(25) như: nói về vua chúa, về tướng cướp, quan đại thần, về tướng soái, về sự kinh sợ, sự chiến tranh, vật thực, nước uống, vải hàng, chỗ nằm, bông hoa, vật thơm, về thân quyến, xe cộ, về làng xóm, tỉnh, xứ, bến nước, thân quyến đã quá vãng, cõi vũ trụ, biển giả, nói sự vô ích thế này thế kia, nói về sự suy vi hoặc tiến hóa. Thầy tỳ khưu đều xa lánh nói viển vông vô ích như thế ấy”.

    “Một lẽ nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay cãi cọ hơn thua như nói: người không phải hiểu biết pháp và luật đâu, tôi đây mới là người hiểu biết, người hiểu biết pháp và luật sao được, người hành sai, tôi hành mới đúng đắn, lời nói nào của tôi cũng đều có lợi ích, lời nói của người đều vô ích cả, lời nên nói trước người lại nói sau và nói ngược lại, lời nói của người nói sái lâu lắm rồi, tội lỗi do lời nói của người tôi đã bắt được, đã đè nén thắng được rồi, vậy người đi học thêm nữa đi, rồi sẽ nói chuyện trả lời với tôi, như người có giỏi thì trả lời bây giờ đi. Thầy tỳ khưu đều xa lánh những lời nói hơn thua như thế ấy”.

    “Lại nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay làm tay sai cho kẻ thế như là vua chúa, bà-la-môn, điền chủ hoặc các trẻ con sai biểu các bậc xuất gia ấy đi chỗ này chỗ kia, đem vật này đi, đem vật khác lại, thầy tỳ khưu đã xa lánh những sự mang tin tức thơ từ của kẻ thế sai biểu như thế ấy”.

    “Một lẽ nữa, có bậc sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay làm bộ gạt gẫm kẻ thế cho kiêng nể, cung kính mình do sự dùng xài các món vật dụng, hoặc nói bợ đỡ kẻ thế, nói xa nói gần, hăm dọa mắng nhiếc kẻ thế, muốn kiếm lợi do nơi lợi lộc (là được của người này đem cho người khác để cầu lợi lớn hơn). Thầy tỳ khưu đều xa lánh các sự làm giả dối ấy”.

    “Đó là giới, hạnh của thầy tỳ khưu vậy”.

    PHẦN ĐẠI GIỚI

    “Trong thế gian này có hạng sa-môn, bà-la-môn đã thọ thực của người tín thí do đức tin rồi thường hay làm điều tà mạng để nuôi mạng sống bằng các môn học đê hèn (tiracchānavījjā) như là coi tay, bàn điềm lành dữ, như sét đánh, v.v..., bàn chiêm bao, coi tướng, bàn vật bị chuột, mối cắn; chỉ cách tế thần lửa, cách cúng tế bằng ngọc, bằng trấu, bằng cám, bằng gạo, bằng sữa, bằng dầu, bằng miệng(26), bằng máu, chỉ cách xây địa lý để cất nhà cho có lợi, về vườn ruộng tốt xấu, coi ma quỉ, bắt ma quỉ, cách ếm đối nhà cửa, cách kêu rắn và trừ nọc rắn, cách chữa bịnh ung thư, cách giải độc bị bò kẹp, rít, chuột cắn, cách bàn tiếng con thú hoặc chim kêu, quạ kêu, coi tuổi, cách ngăn ngừa tên đạn không cho trúng, cách coi dấu chân thú rừng(27). Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả những sự nuôi mạng không chân chính ấy”.

    “Một lẽ nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay làm điều tà mạng khác nữa như là: bàn về tướng của cục ngọc, của hàng vải, của gậy, roi, khí giới, đao, tên, cung, súng, coi tướng phụ nữ, nam nhơn, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, voi, ngựa, dê, trâu, bò, trừu, gà, chim, các hình vẽ, coi nóc nhà, hình rùa, hình thú rừng. Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả sự làm không chân chính ấy”.

    “Hơn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay làm điều tà mạng để nuôi sống như là: bàn coi ngày nào đức vua ra trận sẽ thắng, ngày nào nên trở về thành, lúc nào nên xông tới, lúc nào nên thối lui, nếu đức vua ở trong thành sẽ thắng, ở ngoài thành sẽ bại, hoặc cách ngược lại, hoặc bàn vị này sẽ thắng trận, vị kia sẽ bại(28). Thầy tỳ khưu đều xa lánh cách nuôi mạng sống không chân chính ấy”.

    “Hơn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay nuôi mạng bằng cách đê hèn khác nữa như là: bàn đến ngày đó sẽ có nguyệt thực, nhật thực, ngày nào sao hôm sao mai hiệp nhau, hoặc đi ngang qua mặt trăng mặt trời; mặt trăng, mặt trời đi chung một đường hay đi sái đường nhau, các vì sao cũng như cách ấy, bữa nào sẽ có ánh sáng từ trên hư không rớt xuống, sẽ có sự nóng một phía trời, sẽ có động đất, sẽ có sấm sét; mặt trời, mặt trăng, sao sẽ mọc lên hoặc lặn đi sẽ được trong sạch hay là nhơ bẩn; nguyệt thực, nhật thực sẽ đem lại sự vui khổ như thế này, sao mọc lên hợp chung nhau cũng vậy; mặt trăng, mặt trời, chòm sao mà đi chung nhau hay là sái đường nhau sẽ đem lại sự vui khổ cho nhơn loại như thế này thế kia; ánh sáng trên không rơi xuống, sự động đất, trời gầm sấm sét, mặt trời, mặt trăng, chòm sao lặn mọc, tỏ hay lu mờ sẽ đem lại sự vui khổ cho nhơn loại thế này thế kia. Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả các nghề nuôi mạng sống không chân chính như thế ấy”.

    “Còn nữa, có nhiều hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay bàn hoặc dạy những nghề nghiệp đê hèn để nuôi mạng sống như là: bàn coi năm nay mưa nhiều, ít, có lúa gạo dồi dào hay thiếu kém, có sự yên ổn hay là ghê sợ, sẽ có bịnh hoạn hay vô bịnh, dạy cách đếm tay không, làm toán, tính mão, làm thơ phú, dạy sách giải về vũ trụ (như giải tại sao con quạ đen, cò trắng,..). Thầy tỳ khưu đều xa lánh những nghề nuôi mạng không chân chính ấy”.

    “Còn nữa, có nhiều hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay bàn hoặc dạy những nghề đê hèn khác nữa để nuôi mạng sống như là: chỉ cách cưới gả, cách bỏ ngãi mê, cách làm cho xa lìa nhau, cách thâu tiền, cách buôn bán, cách làm cho thương yêu nhau, ghét nhau, cách dưỡng thai, cách làm cho á khẩu, tà thuật làm cứng hàm, cho điếc tai, hỏi gương là cách cầu Chư Thiên nhập vào gương rồi hỏi chuyện lành dữ, hỏi cô gái ngồi đồng, hỏi Chư Thiên cầu nhập vào người, cách thờ mặt trời, cách thờ Đại Phạm Thiên, cách thổi trong miệng cho ra lửa, cách gọi thần tài đến an trụ. Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả các nghề nuôi mạng không chân chính ấy”.

    “Còn nữa, có hạng sa-môn, bà-la-môn xuất gia rồi thường hay làm những nghề đê hèn để nuôi mạng sống như là: chỉ cách cúng vái, cách tế lễ, ếm đối ma quỉ, ếm đối nhà cửa, làm cho người lại cái giống đàn ông và ngược lại, cách cất nhà, cách cúng tế đất đai, rửa mặt cho sạch rồi cho nước dư đến người, xối nước tắm cho người, tế thần lửa, làm thuốc cho mửa, làm thuốc xổ, làm thuốc chữa bịnh phía trên phía dưới, chữa bịnh nhức đầu, nấu dầu để nhỏ lỗ tai, làm thuốc xông con mắt, thuốc ngửi, thuốc thoa xức, thuốc mát, làm thầy mổ xẻ, trị bịnh trẻ con, cách dã thuốc độc. Thầy tỳ khưu đều xa lánh tất cả những cách làm đê hèn để nuôi mạng như thế ấy”.

    “Đó là những giới hạnh của thầy tỳ khưu vậy. Tâu Đại vương, những sự sợ sệt nào mà phát sanh lên do nơi sự không thu thúc trong giới hạnh, thì thầy tỳ khưu không có những sự sợ sệt ấy nữa đâu, ví như sự kinh sợ nào của một đức vua vừa mới được tôn vương, nhưng đức vua đã trừ hết tất cả những sự kinh sợ ấy là kẻ nghịch rồi thì dầu ở một nơi nào đức vua ấy cũng không có sự sợ sệt nữa cũng như thế ấy. Thầy tỳ khưu ấy đã được giới hạnh trong sạch như của các bậc thánh nhơn rồi thì thường hưởng sự an vui thanh tịnh trong thân tâm. Tâu Đại vương, đó là cách đầy đủ giới hạnh của vị tỳ khưu vậy”.

    QUẢ BÁO SA-MÔN

    “Tâu Đại vương, trong giáo pháp của Như Lai, thầy tỳ khưu phải thu thúc lục căn cho thanh tịnh là khi nhãn căn tiếp xúc với sắc trần, tâm không để ý đến thể tướng và phụ tướng của sắc ấy, hai pháp ác là vui thích và bất bình thường hay ám ảnh đè nén tâm của người không thu thúc nhãn căn, nhưng hai pháp ấy không thể làm hại đến tâm của vị tỳ khưu đã thu thúc; khi nhĩ căn tiếp với thinh trần – khi tỷ căn tiếp xúc với khí trần – khi thiệt căn tiếp xúc với vị trần – khi thân căn tiếp xúc với xúc trần – khi ý căn tiếp xúc với pháp trần – tâm không để ý đến thể tướng và phụ tướng của pháp trần ấy, hai pháp ác là vui thích và bất bình thường hay ám ảnh đè nén tâm của người không thu thúc ý căn, nhưng hai pháp ác ấy không thể nào làm hại được đến tâm của thầy tỳ khưu đã thu thúc ý căn vậy. Khi thầy tỳ khưu đã thu thúc lục căn theo bậc thánh nhơn như thế ấy thì hằng hưởng được sự an tịnh không lẫn lộn với phiền não bên trong.

    Tâu Đại vương, vị tỳ khưu ấy lại có sự ghi nhớ và biết mình là: khi đi tới hoặc thối lui cũng biết rõ, khi ngó ngay tới hoặc ngó hai bên, khi xòe tay ra hay nắm tay vô, khi mặc y mang bát, khi thọ thực, uống nước cũng đều biết rõ, hoặc khi đại tiện, tiểu tiện, khi đứng, đi, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói chuyện, làm thinh đều biết rõ rệt không quên mình.

    Thầy tỳ khưu có đủ sự ghi nhớ và biết mình như thế ấy. Tâu Đại vương, thầy tỳ khưu trong giáo pháp này là bậc tri túc (santosa) trong y phục để che thân, trong vật thực, mỗi khi đi đâu chỉ có đem theo các món phụ tùng y bát thôi, cũng ví như loài phi cầm đi đâu chỉ có đem theo cặp cánh để bay vậy thôi, thì thầy tỳ khưu tri túc cũng chỉ đem theo các món y bát như thế.

    Thầy tỳ khưu ấy, khi đã có giới hạnh, thu thúc lục căn, có sự ghi nhớ và biết mình, tri túc theo hạnh của các bậc thánh nhơn lại thích ở nơi thanh vắng như là: ở trong rừng, dưới cội cây, trên núi, trong động, rừng mả mồ, rừng thưa, hoặc nơi đồng trống, nơi đống cỏ rơm; sau khi đi bát về thọ thực xong rồi ngồi kiết già hoặc bán già, thân mình ngay thẳng, gom thâu sự ghi nhớ chủ tâm vào đề mục tham thiền(29).

    Thầy tỳ khưu ấy, dứt bỏ làm cho sạch không còn dư sót vui thích theo ngũ trần, dứt bỏ lòng thù oán, hãm hại, có tâm tế độ, giúp đỡ làm lợi ích cho chúng sanh, dứt bỏ làm cho sạch pháp hôn trầm (là sự mê tâm buồn ngủ) do nhờ sự ghi nhớ, biết mình và nhìn xem ánh sáng, dứt bỏ tâm phóng dật là tâm xao xuyến, buông lung theo cảnh giới, cố ráng làm cho tâm yên tịnh bên trong, lại dứt bỏ sự hoài nghi trong các pháp lành, tâm trong sạch và xa lánh sự hoài nghi.

    Tâu Đại vương, cũng ví như người vay tiền của kẻ khác để làm công việc, công việc người ấy lại đạt kết quả tốt đẹp, người ấy lại trả hết nợ cũ, còn dư lại tiền của cũng nhiều, có thể nuôi gia đình đầy đủ, khi người ấy nhớ đến mình đã trả xong nợ rồi thì tâm thỏa thích vui mừng; hoặc ví như người mang bịnh nặng, rất đau khổ, cơm nước không ăn uống được, sức lực mòn mỏi, yếu đuối trong một lúc, sau người ấy được lành bịnh, ăn ngon, có sức khỏe bình phục lại như thường, người ấy mỗi khi nghĩ đến mình đã khỏi bịnh thì tâm rất thỏa thích vui mừng; hoặc ví như người bị giam cầm, sau khi được thả ra người ấy rất vui mừng vì được sự tự do thong thả; hoặc ví như người tù tội, sau khi được thả ra...; hoặc ví như người có nhiều của cải đem theo mình đi đường có nhiều sự tai hại, không cơm nước, có thú dữ, đạo tặc ở phía trước phía sau. Sau khi qua khỏi con đường nguy hiểm ấy thì người rất vui mừng thỏa thích như thế nào thì, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu khi suy xét thấy năm pháp che lấp (nivaraṇa) ngăn cản còn trong thân tâm thì tâm cũng lo sợ như người thiếu nợ, có bịnh, bị giam, bị tội tù và đường nguy hiểm ấy. Khi nào suy xét thấy năm pháp che lấp không còn trong thân tâm nữa vì đã thoát khỏi rồi thì tâm cũng vui mừng thỏa thích phát sanh lên, khi tâm thỏa thích phát sanh lên thì phỉ lạc cũng phát sanh, khi phỉ lạc phát sanh lên thì sự an tịnh cũng phát sanh, khi sự an tịnh phát sanh thì tâm được sự an lạc, khi tâm được sự an lạc rồi thì lần lần được an trụ.

    Thầy tỳ khưu ấy, khi tâm đã xa lìa các trần, xa lìa các pháp ác rồi thì được đắc sơ thiền có những chi tầm, tứ, phỉ, lạc, an tịnh cũng phát sanh lên do nhờ tâm an trụ ấy. Thầy tỳ khưu ấy được hưởng sự an lạc đầy đủ trong tứ oai nghi và làm cho khắp cả thân mình được đầy đủ sự phỉ lạc và an tịnh. Tâu Đại vương, ví như người thạo việc tắm rửa cho kẻ khác, lấy mạt phấn và trầm để vào trong chén đồng rải nước cho đều rồi vò cục lại để thêm nước vào ngâm cho đến chiều thì các vật ấy tự nhiên dính nhẹo lại với nhau hết như thế nào thì thầy tỳ khưu cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy tràn sự phỉ lạc và an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sự xuất gia, tự mình thấy rõ hiện tại, cao thượng, quí báu hơn tất cả các quả báo đã kể ở phía trước vậy.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu suy xét thấy sơ thiền còn bận rộn với chi tầm và sát, mới ráng trong sạch nhứt tâm niệm cho đắc nhị thiền, không có chi tầm và sát, chỉ còn có phỉ lạc và an tịnh phát sanh do thiền định mà thôi. Thầy tỳ khưu ấy làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần tràn trề sự phỉ lạc và an tịnh; ví như vùng nước sâu, đầy tràn lên nhưng các nguồn nước từ hướng đông, tây, nam, bắc chảy đến cũng không mưa cũng không có rơi xuống vùng nước ấy nhưng tự nhiên nước trong mát mẻ trào lên làm cho vùng nước ấy được thấm thía đầy dẫy khắp mọi nơi như thế nào, thì thầy tỳ khưu ấy cũng làm cho khắp châu thân được thấm nhuần đầy dẫy sự phỉ lạc và an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia, cao quí hơn các quả báo đã giải trước đây vậy.

    Hơn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu suy xét chán nản sự phỉ lạc trong nhị thiền do nhờ tâm xả có sự ghi nhớ và biết mình, ráng dứt bỏ sự phỉ lạc rồi mới đắc tam thiền, chỉ còn có sự an tịnh mà thôi, các bậc thánh nhơn thường hay khen ngợi người đã đắc được tam thiền chỉ có tâm xả và sự ghi nhớ và hưởng sự khoái lạc vậy thôi, thì thầy tỳ khưu ấy cũng đắc được tam thiền và làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy tràn sự an tịnh vì đã dứt bỏ sự phỉ lạc ở nhị thiền rồi, cũng ví như nơi đìa đầm chỗ bông súng, hoa sen trắng, sen đỏ mọc, có thứ mọc lên chưa tới mặt nước, ngập trong nước các thứ bông sen ấy tự nhiên thấm nhuần đầy dẫy nước mát từ gốc tới ngọn như thế nào thì thầy tỳ khưu khi đắc tam thiền rồi thì cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy sự an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sa-môn xuất gia, cao thượng hơn các quả đã giải trước.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy lại dứt bỏ cả vui, khổ mới đắc được tứ thiền không còn vui khổ, chỉ có sự ghi nhớ trong sạch và xả mà thôi, thầy tỳ khưu ấy làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy tâm trong trẻo, cũng ví như người lấy vải trắng phau sạch sẽ đắp lên từ đầu đến chân rồi ngồi yên lặng, toàn khắp châu thân người ấy không có chỗ nào mà không có vải trắng phau như thế nào, thì thầy tỳ khưu cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy tâm trong sạch như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của bậc sa-môn xuất gia, tự mình thấy rõ hiện tại, cao thượng quí báu hơn các quả báo đã giải trước.

    Thầy tỳ khưu ấy khi tâm được yên trụ, trong sạch, không tiếp xúc với phiền não, có trạng thái mềm dịu, có thể làm việc được dễ dàng, không rung động theo cảnh giới như thế rồi thì chú tâm đến pháp “minh sát tuệ” là cho thấy rõ, biết rõ thân ngũ uẩn này, nơi hội họp lại của tứ đại, phát sanh lên do cha mẹ, tấn hóa lên do nhờ vật thực có tánh cách không thường phải săn sóc tắm rửa, thoa bóp nhọc nhằn, nhưng rồi nó cũng sẽ tự nhiên tan rã, tâm thức của ta đây nương nhờ với thân này, dính líu với thân này, cũng ví như ngọc ma-ni trong trẻo có tám góc, thợ đã giồi mài xong, có chiếu nhiều ánh sáng, nếu có chỉ màu xanh, đỏ, trắng, vàng, nâu, đen xỏ vào viên ngọc ma-ni ấy, người có con mắt sáng, lại cầm cục ngọc ấy lên xem thì thấy rõ ràng đây là ngọc ma-ni, đây là chỉ màu như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm trong sạch rồi thì khi chú tâm vào pháp “minh sát tuệ” cũng thấy rõ thân tứ đại này có trạng thái vô thường, có nhiều sự bận rộn, săn sóc rồi nó cũng sẽ tan rã không sai vậy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sự xuất gia, cao thượng hơn các quả báo đã kể trước.

    Khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi, thầy tỳ khưu chú tâm để dùng pháp “hóa thân” là dùng tâm mình biến hóa ra thân hình khác có đầy đủ các thủ túc và các bộ phận, lục căn đều tốt đẹp, ví như người rút tim bức ra khỏi cộng, hoặc ví như người rút gươm ra khỏi vỏ, hoặc ví như lột da rắn cho rời ra, người ấy thấy rằng: đây là gươm, đây là vỏ gươm, gươm này ta đã rút ra từ vỏ vậy, như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để dùng pháp “hóa thân” cũng thấy rõ đây là thân ta đã rút ra khỏi tâm như thế ấy. Đó là quả báo của sự xuất gia, cao thượng hơn các quả báo đã kể trước.

    Thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch và thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để biến hóa các pháp “thần thông”, thầy tỳ khưu ấy có thể biến hóa một người thành ra nhiều người hoặc ngược lại, làm chỗ kín đáo thành ra chỗ trống hoặc ngược lại, đi thấu qua vách, qua rào, qua núi cũng như đi ngoài trống, lặn hụp trong mặt đất cũng như lặn hụp trong nước, đi trên mặt nước cũng như đi trên đất, bay bổng trên hư không như loài phi cầm, rờ rẫm mặt trời, mặt trăng, có nhiều oai lực cũng được, hoặc làm thân mình lớn lên cho tới cõi trời Phạm Thiên. Tâu Đại vương, ví như người thợ làm đồ gốm đã rành nghề, khi đất sét đã nhồi dẻo dai kỹ lưỡng rồi muốn nắn ra món chi cũng được như ý muốn, hoặc ví như người thợ tiện hoặc chạm rành nghề, khi ngà, xương đã sửa soạn xong có thể làm ra vật chi cũng được như ý muốn như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã trong sạch thanh tịnh rồi có thể biến hóa các pháp thần thông được dễ dàng cũng như thế ấy. Đó là quả báo của sự xuất gia, rất cao thượng, quí báu hơn các quả báo đã giải trước.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để đắc “nhĩ thông” có lỗ tai thần có thể nghe được hai thứ tiếng là tiếng Chư Thiên và tiếng người, từ xa hoặc gần cũng được, cũng ví như người có lỗ tai tốt đi xa, khi nghe tiếng trống, chuông lớn nhỏ, tiếng còi, tiếng kèn đều nghe biết rõ rệt không sai lầm như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi có thể đắc được nhĩ thông nghe cả hai thứ tiếng cũng như thế ấy. Đó là quả báo của bậc xuất gia, rất cao thượng, quí báu hơn các quả báo đã giải trước.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để đắc “tha tâm thông” có thể biết được tâm kẻ khác, như tâm ái tình hoặc tâm không có ái tình; tâm sân hận, hoặc tâm không sân hận; tâm si mê hoặc tâm không si mê; tâm muốn hôn mê (là tâm dụ dự lười biếng) hoặc tâm không hôn mê; tâm phóng dật hoặc tâm không phóng dật; tâm quảng đại(30) hoặc tâm không quảng đại(31); tâm này còn có tâm khác cao thượng hơn hoặc tâm này không còn tâm nào cao thượng hơn(32); tâm yên trụ(33) hoặc tâm không yên trụ(34); tâm giải thoát hoặc tâm chưa giải thoát. Tâu Đại vương, cũng ví như người thiếu niên nam nữ ưa thích sự trang điểm, khi soi hình trong kiếng hoặc trong nước tự nhiên thấy rõ gương mặt mình sạch, dơ, có mụn tàn nhang hay không có cũng thấy rõ như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch rồi cũng có thể thấy được, biết được tâm của kẻ khác rõ rệt cũng như thế ấy. Đó là quả báo rất cao thượng của bậc xuất gia, hơn các quả báo đã giải trước.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để đắc “túc mạng thông” là biết rõ những tiền kiếp của mình và của chúng sanh từ 1 kiếp 2, 3, 4, 5, 10, 100, 1000, 10.000 kiếp cho đến vô lượng vô biên, hằng hà sa số kiếp(35), mỗi kiếp đều nhớ rõ sanh nơi nào, hưởng sự vui khổ như thế nào, tuổi thọ bao nhiêu, khi chết nơi ấy rồi sinh lại nơi nào cũng đều nhớ rõ, ví như có người bỏ xứ mình đi qua xứ khác, người ấy có thể nhớ rõ lại lúc mình ở nơi xứ người, ngồi, đứng, đi như thế này, nói chuyện hoặc làm thinh như thế này đều nhớ rõ không sai lầm như thế nào, thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch rồi cũng có thể đắc được “túc mạng thông” biết rõ những tiền kiếp của mình và của chúng sanh như thế ấy. Đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia rất cao thượng và quí báu hơn các quả báo đã giải trước.

    Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để đắc “nhãn thông” cũng gọi là “sanh diệt thông” là thấy rõ sự sanh diệt của chúng sanh do nơi nhãn thông, thầy tỳ khưu ấy có nhãn thông trong sạch vượt qua khỏi nhục nhãn của thường nhơn, thấy rõ sự sanh diệt của chúng sanh, thấp hèn hoặc cao thượng, hình dạng xấu tốt ở cảnh giới vui khổ đều do duyên nghiệp của mình gây nên, như chúng sanh nào tạo ra những nghiệp ác do thân khẩu ý, khi dể các bậc thánh nhơn, chấp theo tà kiến, sau khi chết rồi phải thọ sanh vào cảnh khổ như súc sanh, a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục; còn chúng sanh nào tạo ra những nghiệp lành do thân khẩu ý trong sạch, hay cung kính khen ngợi các bậc thánh nhơn, có chánh kiến, tạo ra những nghiệp lành do chánh kiến ấy, sau khi chết được sanh về nhàn cảnh là sanh làm người giàu sang hoặc sanh về cõi thiên đàng, cũng ví như người ngồi trên lầu canh gác ở chính giữa ngã tư đường, trong đô thị, có cặp mắt sáng, đứng trên lầu ấy thấy rõ mọi người đi vào nhà, ra khỏi nhà, đi tới lui theo đường, ngồi đứng theo hai bên đường đều thấy rõ như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch không bợn nhơ, lẫn lộn với tùy phiền não rồi thì chú tâm để đắc “nhãn thông” thấy rõ sự sanh diệt luân hồi của chúng sanh cũng như thế ấy. Đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia cao thượng hơn tất cả các quả báo đã giải trước.

    Hơn nữa, tâu Đại vương, khi thầy tỳ khưu ấy tâm đã được trong sạch, không có tiếp xúc với phiền não, có trạng thái mềm mại, có thể làm việc được dễ dàng, không rung động theo cảnh giới như thế rồi thì chủ tâm cho đắc “lậu tận thông” (asavakkhaya ñāna) là trí tuệ thấy rõ pháp, diệt trừ các pháp trầm luân(36), thầy tỳ khưu ấy thấy rõ đúng theo chân lý đây là khổ, đây là nguyên nhân để phát sanh lên sự khổ, đây là Niết- bàn nơi diệt tắt cái khổ, đây là con đường bát thánh đạo thực hành theo để đi đến nơi diệt khổ; và biết rõ đây là pháp trầm luân đây là nguyên nhân để phát sanh lên pháp trầm luân, đây là Niết-bàn là nơi diệt tắt các pháp trầm luân, đây là con đường thực hành để diệt tận các pháp trầm luân. Khi thầy tỳ khưu thấy rõ như thế thì tâm được giải thoát khỏi pháp trầm luân trong ngũ trần dục cảnh, trầm luân trong tam giới, trầm luân trong vô minh(37), khi tâm của thầy tỳ khưu đã giải thoát như thế rồi thì tự biết rằng “Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát”, sự sanh của ta cũng đã dứt rồi, con đường phạm hạnh ta đã thực hành tròn đủ rồi, mười sáu phận sự phải làm ta đã làm xong rồi(38), đạo hạnh nào mà phải thực hành cũng không còn nữa, kiếp này là kiếp chót của ta vậy.

    Tâu Đại vương, cũng ví như một ao vũng, nước ở trên núi thật trong, không nhơ bẩn, người có cặp mắt sáng đứng dựa mé nước ấy thấy rõ ốc, hến, sạn, đá, cá, ếch đang lội tới lui hoặc dừng lại ở trong nước đó một cách rõ rệt như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã được trong sạch rồi thì chú tâm để đắc pháp “lậu tận thông” là trí tuệ thấy rõ và diệt trừ các pháp trầm luân cũng như thế ấy.

    Tâu Đại vương, đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia cao thượng, quý báu hơn tất cả các quả báo đã giải trước, lại nữa, cũng không còn quả báo nào cao thượng hơn các quả báo của bậc xuất gia mà Như Lai đã giảng giải vậy”.

    – Khi Đức Phật giảng xong, đức vua A-Xà-Thế bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, hay quá, đúng quá, cũng ví như người lật ngửa vật đã úp, hoặc như mở trống vật người che đậy, hoặc như chỉ đường cho người lạc lối, hoặc ví như đốt đèn lên trong chỗ tối cho người có mắt sáng được thấy rõ mọi vật như thế nào thì pháp mà Đức Thế Tôn đã giảng giải ấy rất rộng rãi và rõ rệt như thế ấy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi xin thành kính quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Đức Thế Tôn nhận biết cho tôi là người thiện nam đã quy y Tam bảo kể từ ngày nay cho đến trọn đời. Bạch Đức Thế Tôn, những tội lỗi mà tôi đã phạm là bởi tôi ngu tối, lầm lạc và không thông thạo nên đã nhẫn tâm sát hại phụ vương là một vị Pháp vương xa lìa cõi thọ, cũng vì muốn quyền cao lộc cả. Xin Đức Thế Tôn xá tội lỗi ấy cho tôi, đặng tôi được thu thúc từ nay về sau”.

    – “Tâu Đại vương, những tội lỗi đã phạm ấy nay Đại vương đã thấy rõ theo sự thật nên sám hối ăn năn, Như Lai cũng xá tội lỗi ấy cho Đại vương. Theo kinh luật của bậc Thánh nhơn, người nào thấy rõ tội lỗi của mình và biết ăn năn hối ngộ, sám hối tội lỗi ấy thì người ấy sẽ được sự tấn hóa không sai”.

    – Khi Đức Phật vừa dứt lời, thì đức vua bèn bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, tôi xin đảnh lễ Ngài để kiếu từ, vì tôi còn bận nhiều công việc triều chánh”.

    – “Tâu Đại vương, xin Đại vương tùy tiện theo thì giờ của Ngài”.

    Khi đó, đức vua rất hoan hỷ vui thích lời giảng của Đức Phật, đảnh lễ xong, đứng dậy đi vòng quanh Đức Phật rồi lui ra về.

    Khi đức vua ra về rồi thì Đức Phật bèn cho gọi các thầy tỳ khưu mà nói rằng: “Này các thầy tỳ khưu, đức vua A-Xà-Thế đã đào hết các pháp lành của mình, nếu đức vua không giết cha thì ngài sẽ đắc Tu-đà-huờn đạo, xa lìa bụi nhơ nơi tâm trên chỗ ngồi đó không sai vậy”.

    Khi Đức Phật giảng xong, các thầy tỳ khưu lấy làm thỏa thích lời Ngài đã giảng giải ấy.

    “Dứt quả báo của sự xuất gia”

    Soạn xong tại Kratie, mùa xuân năm Mậu Tuất 1958 – Ph.L. 2501 (11-3-58)

    – Dứt tác phẩm Quả báo sa-môn –

    -oo0oo-

    (22) Đây là nói cách cất giữ sái luật, cất vật đúng theo luật thì vô tội.

    (23) Là chơi cách chia ra hai bên nam và nữ, rồi bọn bên nam nói nhỏ tên bên nữ, bên nữ cũng nói tên bên nam, nếu hai bên nói trúng nhau thì bắt nhau qua lại giả làm vợ chồng.

    (24) Là chỗ nằm ngồi cao quá bốn ngón tay Đức Phật (lối năm tấc tây) kể từ thanh giường phía dưới trở xuống, đây là chỗ ngồi nằm có bốn chi là bốn cẳng. Nếu làm đủ bảy chi là bốn cẳng, hai tay vịn và một chỗ dựa, thì dầu có cao quá luật cũng vô tội, như pháp tọa chẳng hạn (theo lời chú giải).

    (25) Tiracchanakatha: là nói viển vông bông lông vô ích, không có lợi cho sự tu hành giải thoát cho mình và cho người. Như nói ông vua này có nhiều uy thế, sang trọng, ông vua kia yếu hèn hơn, không mấy uy quyền (vì ông vua nào không quyền thế, sang trọng nên nói cũng vô ích). Nếu nói ông vua đó có nhiều quyền thế sang trọng nhưng có nhiều đức tin, có đạo đức, biết tu hành, bố thí, trì giới, tham thiền... nói như thế thì nên nói.

    (26) Là miệng ngậm vật tế như hột cải đem vào trong lửa để tế, hoặc cách đọc cúng tế bằng miệng không.

    (27) Là để bàn và chỉ cho các thợ săn.

    (28) Bàn như vậy để cho người nhớ ơn dâng cúng tứ vật dụng cho mình.

    (29) Có 40 đề mục, tùy theo đề mục nào mà mình thích hợp đã học.

    (30) Là tâm đắc thiền về cảnh sắc giới.

    (31) Là tâm chưa đắc cõi thiền nào, là tâm còn ở cảnh dục giới.

    (32) Là tâm đã đắc thiền hữu sắc và vô sắc.

    (33) Là tâm đã cận định hoặc nhập định.

    (34) Là tâm chưa được cận định hoặc nhập định.

    (35) Kiếp (kappa) có bốn là: từ quả địa cầu khởi sự hư hoại cho đến lửa cháy thiêu hết gọi là kiếp hoại (saṃvaṭṭakappa); từ khi lửa cháy hết chỉ còn khí u u minh minh gọi là kiếp không (saṃvaṭṭaṭṭhāyikappa); từ khi quả địa cầu mới phát sanh lên cho đến khi có mặt trời, mặt trăng gọi là kiếp thành (vivaṭṭakappa); từ khi mặt trời mặt trăng sanh lên cho đến khi khởi sự hư hoại gọi là kiếp trụ (vivaṭṭahayikappa). Bốn tiểu kiếp này gọi là đại kiếp (mahākappa) (xem tập 14, tr.202).

    (36) Trầm luân có 3 hoặc 4 là: trầm luân trong ngũ trần, trầm luân trong tam giới, trầm luân trong vô minh, nếu 4 thì ta thêm trầm luân trong kiến thức.

    (37) Xin xem nhân quả liên quan đã có giải rõ.

    (38) Mười sáu phận sự là:

    1.dukkhaṃpariññeyyaṃ - ta biết rõ cái khổ,

    2.dukkhasamudayopahātābbo - nguyên nhân phát sanh lên cái khổ ta phải dứt bỏ,

    3.dukkhanirodhosacchikātabbo - sự diệt tắt khổ ta phải làm cho rõ rệt (xong),

    4.dukkhanirodha gāminipaṭipada bhāvetabbo - sự thực hành để diệt tắt cái khổ ta phải thực hành; mỗi thánh đạo là Tu-đà-huờn đạo, Tư-đà-hàm đạo, A-na-hàm đạo và A-la-hán đạo đều có 4 phận sự, trong 4 thánh đạo thành ra 16 phận sự.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.