PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - THERAVĀDA
-----
BÁT THÁNH ĐẠO
(ARIYAMAGGA)
Soạn giả
Trưởng Lão Hòa Thượng Hộ Tông
(Vaṅsarakkhita Mahāthera)
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐẠO
Nhơn tâm mỗi người mỗi khác, phần đông còn tham lam, chưa chán nản ngũ trần. Có kẻ đã nhàm lờn ngũ dục nhưng chưa muốn thoát ly sanh tử luân hồi; có người mong đến Niết-bàn là nơi diệt khổ. Cớ ấy, những hàng Phật tử đều mong được hết khổ như nhau, song sự tu hành có phần khác nhau, là tu bậc hạ, bậc trung và bậc thượng, tinh tấn hoặc giải đãi không đồng, là lẽ cố nhiên.
Sự tu tập cho đặng dứt khổ là thực hành theo Bát Thánh đạo, làm cho người phàm trở nên bậc Thánh, chứng pháp vô thượng bồ đề. Những người còn tham dục, chưa có thể đi thẳng đến Niết-bàn, mặc dầu thực hành theo Thánh đạo cũng khó được hoàn toàn đều đủ. Có kẻ nhiều tín ngưỡng tinh tấn tiến hành bậc thượng, dứt bỏ gia đình, danh lợi, xuất gia, chí nguyện đi thẳng đến Niết-bàn, chia ra làm hai phái là tại gia và xuất gia. Cả hai bậc hành giả đều có thể hành trình đến nơi dứt khổ (Nirodukkha)(2) .
“Bát Thánh đạo” có tám chi, là con đường tiếp dẫn chúng sinh đi đến nơi diệt dục. Những hàng tại gia cư sĩ còn thọ dụng ngũ dục cũng có thể dứt thứ ái dục thô thiển được phần nào, không xa xí thái quá làm cho thân tâm phải nóng nảy vì lửa ái dục thiêu đốt.
Những bậc xuất gia tinh tấn tu tập để đoạn trừ khổ não, khi diệt tận ái dục rồi cũng cần phải hành theo phận sự mình, như việc hoằng pháp độ sanh cho Phật pháp thêm phát triển, chẳng nên để cho thân tâm ô nhiễm ái dục, chỉ phải tiến hành cho đến mục đích cứu cánh là Niết-bàn.
Đây xin giải về cách thức hành đạo thiêng về phần diệt khổ, nghĩa là phương pháp cao thượng theo từng bậc cho đến nơi cứu cánh giải thoát.
THÁNH ĐẠO HAY LÀ TRUNG ĐẠO CÓ TÁM CHI
Sự hành trình cao quý của sanh mạng hoặc của thân, khẩu, ý để lánh khỏi sự khổ não gọi là “Thánh đạo”. Thánh đạo (Ariyamagga) dịch là “đường đi cao quý” hoặc “đường đi của bậc Thánh nhơn” là sự tu hành không quá thẳng, không quá dùn, không ở dưới quyền nô lệ của vọng tâm, làm cho thân hình phải cực nhọc vô ích gọi là “trung đạo” (majjhimapaṭipadā) là con đường giữa, không dùn, không thẳng, ví như đờn mà người lên dây vừa thẳng, khảy nghe tiếng thanh tao, êm tai thính giả.
Tiếng “đạo” (magga) dịch là “đường”, theo thông thường là đường để cho người đi, nhưng đây nói về sự hành trình của tâm, là con đường đi ra khỏi rừng khổ não, đến cảnh an vui tuyệt đối. Cụm từ “tám chi” ấy nghĩa là phải có đầy đủ cả tám chi, như dây thừng dài có tám tao xe nhập lại. Đường có tám chi ấy là: chánh kiến (sammādiṭṭhi) là hiểu phải, chánh tư duy (sammāsaṅkappa) là suy nghĩ phải, chánh ngữ (sammāvāca) là nói lời phải, chánh nghiệp (sammākammanta) là nghề phải, chánh mạng (sammāājīva) là nuôi mạng phải, chánh tinh tấn (sammāvāyāma) là tiến lên phải, chánh niệm (sammāsati) là nhớ phải, chánh định (sammāsamādhi) là định tâm phải. Cả tám chi ấy, nếu rời ra, không hiệp sức nhau, cũng không gọi là “Thánh đạo” được.
Xin đem thí dụ với đường lộ có tám chi là: có cống nước chảy, có bản chỉ đường, có bóng mát hai bên đường, có nhà nghỉ mát, có vật thực đều đủ, có lính hộ vệ bộ hành khỏi điều nguy hiểm, đường bằng thẳng dễ đi; như bát Thánh đạo có tám chi, vừa thành tựu điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, cũng như thế, theo lời giải đây, hành giả nên hiểu rằng: các đức tánh mà được phát sanh đều nương theo năng lực của tám chi đạo, chung hợp nhau, thành một sức mạnh.
NHƯ LAI CHỈ LÀ NGƯỜI CHỈ DẪN
Tất cả các pháp hằng có sự tương phản nhau, như có đêm, có ngày, có nóng, có lạnh, có nước, có lửa ... các cái ấy có tự nhiên không ai tạo ra được. Trước hết, các bậc trí tuệ xem xét tìm tòi, đem những cái ấy để dùng làm các công việc được thành tựu điều lợi ích đến kẻ tương lai. Thí dụ cho dễ nghe, như lửa là vật nóng, nước là vật lạnh, nếu dùng nước tưới hoặc tạt vào lửa, lửa tắt, nếu chưa tắt cũng làm cho giảm sức nóng của lửa chút ít không sai. Đó là điều xác thực mà người thấy đầu tiên, rồi đem chỉ dạy lại cho ta. Chư Phật cũng thế, chẳng phải Đức Chí Tôn tạo ra Thánh đạo, Đức Thế Tôn tự Ngài giác ngộ, tìm được rồi Ngài đem ra chỉ dạy rằng: đây khổ, đây nhân sanh khổ, đây sự diệt khổ, đây con đường tu hành là nhân đưa đến nơi dứt khổ, đây là con đường dắt dẫn làm cho Ma vương cùng quân ma phải lầm lạc, là con đường mà tất cả chúng sanh tự mình phải đi lấy. Chư Phật chỉ là bậc chỉ dẫn thôi.
Sự hành đạo đủ nấc, đủ bậc, gom vào trong Thánh đạo có tám chi, nếu tóm lại cho vắn tắt nữa, là pháp tam học (giới, định, tuệ) hiệp sức lại làm một, là đạo có tám chi, mỗi chi có phận sự khác nhau, như sau này.
ĐẠO CÓ TÁM CHI CÓ PHẬN SỰ KHÁC NHAU
Chánh kiến (sammādiṭṭhi) là sự hiểu phải, hiểu đúng đắn theo thông thường cả bên đời và bên đạo, cả phàm pháp và thánh pháp. Sự hiểu rằng, chúng sanh sanh ra trong thế gian này mà được tốt hoặc xấu cũng do cái nghiệp mà tự mình đã làm. Phước, tội mà chúng sanh đã tạo ra, chúng sanh phải chịu quả không sai. Địa ngục, thiên đàng và Niết-bàn là cảnh có thực cho đến hiểu rằng: sanh, già, bệnh, chết là khổ. Sự ham muốn là nhân sanh khổ, dứt bỏ được sự ham muốn ra là nhân cho điều vui sướng, tu theo Bát Thánh đạo là nhân diệt được sự ham muốn. Đó là thuộc về sự hiểu biết phải theo bậc phàm. Còn sự hiểu biết phải theo Thánh vức là pháp vi tế cao thượng hơn nữa, vì là sự hiểu biết của bậc Thánh nhơn. Nhưng hành giả nên biết rằng: Thánh đạo phải nương phàm đạo mới phát sanh ra được, nghĩa là người có đức tin cần phải thọ trì phần giới, phần định, phần tuệ trong phàm đạo cho đầy đủ rồi nên tiến hành pháp minh sát, quán tưởng(3) thấy rõ thân thể chỉ là danh sắc(4) nương lẫn nhau mới có thể duy trì được, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải người, rồi quán tưởng danh sắc theo ba tướng: vô thường, khổ não, vô ngã, dùng trí tuệ quán tưởng cho đến khi phát tâm vô ký trong tất cả danh sắc.
Sự hiểu biết như thế gọi là có tuệ vô ký trong danh sắc (saṅkhārupekhāñāṇa)(5) khi (saṅkhārupekkhāñāṇa) được thuần thục trong lúc đạo phát sanh, rồi tâm xuống giữ “thường tâm” (bhavaṅga)(6) “tốc lực tâm tìm cảnh giới trong ý”(7) (monodvārāvajjanacitta) phát sanh rồi “tốc lực tâm hành 7 khana”(8) là: “sát định tâm”(9) tốc lực tâm đầu tiên gọi là parikama, “cận định tâm”(10) tốc lực tâm thứ hai gọi là upacāra, “thuận sát tâm”(11) tốc lực tâm thứ ba gọi là anuloma, “gô-trá-phu tâm”(12) tốc lực tâm thứ tư gọi là gotrabhū. Thắng lực của phàm đạo chỉ đến đây là cùng. Tốc lực tâm nối tiếp thuộc về phần Thánh đạo có tuệ nhãn là khí cụ đoạn tuyệt thụy miên phiền não (anusaya)(13) hằng lặn núp trong tâm. Sự hiểu biết chơn chánh như thế gọi là chánh kiến (sammādiṭṭhi) thuộc về phần Thánh đạo.
Chánh tư duy (sammāsaṅkappo) là “suy nghĩ phải” chỉ về suy nghĩ trong việc tìm phương pháp để ra khỏi ngũ dục, suy nghĩ trong việc không thù oán chúng sanh, suy nghĩ trong việc không làm khổ chúng sanh cho thân tâm được giải thoát khỏi các sự thống khổ, gọi là suy nghĩ phải trong chi đạo thứ hai.
Cả hai chi đạo đã giải ấy thuộc về phần trí tuệ đặt vào trong tuệ học (paññāsikkhā).
Chánh ngữ (sammāvācā) là “nói lời phải” là không nói bốn lời dữ (nói dối, nói lời chia rẻ, mắng chửi, nói lời vô ích). Chánh nghiệp (sammākammanta) là “nghề phải”: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm. Chánh mạng (sammāājīva) là “nuôi mạng phải” là lánh khỏi các điều tà mạng, cả đường đời và đường đạo. Về phần cư sĩ phải lánh khỏi sự buôn bán sai lầm(14). Hàng xuất gia phải lánh sự tà mạng có tội lỗi theo đường đời (lokavajja) và đường đạo (paññattivajja)(15) . Cả ba chi đạo này dính dấp với sự sanh mạng của loài người trong đường đời và đường đạo, từ bậc tại gia đến hàng xuất gia, tùy bậc thấp cao, đều thuộc về phần giới, nên đặt vào trong giới (Sīlasikkhā).
Chánh tinh tấn (sammāvāyāma) là “tiến lên phải” là tiến trong bốn điều: cần không cho tội phát sanh trong tâm, cần dứt bỏ tội đã phát sanh, cần làm những việc lành, cần giữ gìn những việc lành đã phát sanh, không cho tiêu hủy.
Chánh niệm (sammāsati) là nhớ phải, nhớ trong pháp Tứ niệm xứ:
- Trí nhớ là khí cụ để phân biệt, quán tưởng thân thể rằng: thân này chỉ là thân, chẳng phải chúng sanh, thân ta, thân người gọi là dùng trí nhớ quán tưởng trong thân (kayānupassanāsatipaṭṭhāna).
- Trí nhớ là khí cụ để phân biệt, quán tưởng cái thọ(16) rằng: thọ này chỉ thọ thôi, chẳng phải chúng sanh, người, thân ta, thân người, gọi là trí nhớ quán tưởng cái thọ (vedanānupassanāsatipaṭṭhāna).
- Trí nhớ là khí cụ để phân biệt quán tưởng cái tâm dơ bẩn hoặc trong sạch rằng: tâm này chỉ là tâm, chẳng phải chúng sanh, người, thân ta, thân người, gọi là trí nhớ quán tưởng cái tâm (cittānupassanāsatipaṭṭhāna).
- Trí nhớ là khí cụ để phân biệt quán tưởng pháp lành hoặc dữ đã phát sanh rằng: pháp ấy chỉ là pháp, chẳng có chúng sanh, người, thân ta, thân người gọi là trí nhớ quán tưởng pháp (dhammānupassanāsatipaṭṭhāna).
Chánh định (sammāsamādhi) là tâm yên lặng, là tâm định trong bốn bậc thiền, là phương pháp tu tâm cho an tịnh xa lánh ngũ dục, lìa khỏi ác pháp, nhứt là năm pháp cái đặt vào trong năm chi thiền: tầm (vitakka) là trạng thái của tâm lên bắt lấy đề mục thiền định làm cảnh giới; sát (vicāra)(17) là tâm quan sát, suy nghĩ đề mục thiền định; phỉ (pīti) là thân tâm no đủ, vui sướng, nhẹ nhàng, mát mẻ trong đề mục thiền định; lạc (sukha) là thân tâm an vui thơ thới do phỉ phát sanh; định (ekaggatā) là tâm an tịnh trong một cảnh giới. Khi tâm có đầy đủ cả năm chi thiền ấy gọi là đắc sơ thiền (paṭhamajhāna). Khi tâm được trong sạch vững vàng thêm lên nữa, dứt bỏ tầm và tứ chỉ còn phỉ, lạc và định, đầy đủ cả ba chi ấy, gọi là đắc nhị thiền (dutiyajhāna). Tâm càng vi tế cực lành, dứt phỉ, chỉ còn lạc và định có đầy đủ hai chi ấy gọi là đắc tam thiền (tatiyajhāna). Tâm vi tế thêm nữa, vô ký trong các cảnh giới, dứt lạc, biến thành xả và định, có đầy đủ cả hai chi ấy gọi là đắc tứ thiền (cittutthajhāna).
Cả ba chi đạo thuộc về pháp trau dồi cái tâm trở nên trong sạch, xa khỏi điều dơ bẩn là các phiền não, nên đặt vào trong định học (samādhisikkhā) hoặc tâm học (cīttasikkhā).
Đạo có đầy đủ cả tám chi ấy có giải rộng, bao trùm các đường đạo khác, nhứt là phép tri túc (santosa) quán tưởng trong khi thọ tứ vật dụng (paccavekkana), lục căn thu thúc (indriyasaṃvaraṃ) cũng gom vào trong giới hạn của đạo có tám chi như: chánh kiến là thấy phải cũng gọi là hiểu chơn chánh, vừa lòng theo lẽ phải luôn cả phần phàm và phần thánh cho đến tướng, thể, nhân, quả. Đức Phật có giải trong kinh “Mahācittarisaka sutra” rằng: Chánh kiến là chủ tể các chi đạo vì là nguyên nhơn cho thấy rõ: như vầy là tà kiến, như vầy là chánh tư duy, như vầy là tà tư duy, cho đến như vầy là cao, như vầy là thấy, cả phần quấy và phần phải là nhân sanh sự tín ngưỡng cho nên các pháp có chánh tín đều khép vào chánh kiến, dầu sự hiểu phải lẽ như hiểu bố thí được phước, tạo nghiệp phải thọ quả, không tiêu diệt, kiếp vị lai có, địa ngục, thiên đường cũng có, đời này và đời sau cũng có, như thế, cũng vẫn gọi là chánh kiến cả. Lý thuyết đã giải đây chỉ lời thí dụ cho thấy rằng: Đạo có tám chi, có nghĩa lý sâu xa rộng lớn bao trùm cả các pháp lành khác.
Sự tu hành là trau dồi thân, khẩu trong sạch, lánh khỏi tội, theo thân môn và khẩu môn gọi là “giới” (sīla); sửa trị cho tâm yên lặng gọi là “định” (samādhi); làm cho trí tuệ sắc bén, chặt đứt các phiền não gọi là “tuệ” (paññā). Đây giải cho thấy rằng: đạo có tám chi đầy đủ gọi là “giới, định, tuệ”.
Trong đạo có đầy đủ tám chi ấy: chánh kiến như người hướng đạo (magguddesaka) dắt dẫn các chi khác cho phát sanh. Các chi khác sanh, trợ tiếp chánh kiến cho thêm sức mạnh. Chánh kiến cũng giúp các chi đạo kia dần dần càng thêm mạnh mẽ. Đạo có tám chi giúp đỡ nhau, hiệp lực nhau, dắt dẫn nhau, khi đã được thường hiệp lực rồi, sức mạnh càng tăng trưởng thuần thục dần dần, là nhân cho Thánh đạo, Thánh quả, sẽ tùy thời mà phát sanh ra được.
HÀNH GIẢ CHIẾN ĐẤU VỚI PHIỀN NÃO NHỜ SỰ HIỆP LỰC
Đạo có tám chi ấy như một đại binh do tám đội binh nhỏ hiệp lại, có đội chiến binh, đội lao động, đội vận lương, đội lương y v.v... đội binh lớn ấy có chánh kiến là vị tướng soái vì sự hiểu chơn chánh thuộc về trí tuệ, ví như người lúc xem thấy rõ phiền não rồi cầm khí giới là trí tuệ, tính đào bứng gốc rễ phiền não, ái dục liệng bỏ cho dứt... Đứng vững trên đất là chi đạo thuộc về phần giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Mài khí giới với đá mài là chi đạo thuộc về phần định (là: chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định) khi khí giới đã mài bén đúng đắn rồi, đoạn trừ quân nghịch là phiền não(18), ái dục cho tiêu tan hết, do sự hiệp lực của các chi đạo, như dây đỏi có tám tao xe nhập lại.
Những gốc rễ của các sự khổ là “vô minh” là gốc, rễ cái, có nhiều rễ con chia tẻ ra vô số, như trong thập nhị nhân duyên(19) (paṭiccasamuppada): Đức Phật thuyết vô minh đứng đầu, sự khổ sau cuối cùng, nghĩa là vô minh là nơi cu hội phát sanh những điều tội lỗi trú trong tâm chúng sanh. Các tội lỗi hoặc phiền não ấy đều là vật kiền chặt chúng sanh với nhiều sự khổ, cho nên gọi là sử(20) (saññojana). Phiền não buộc rịt ấy chia ra có mười thứ mà người đoạn trừ được nhờ có đao bén là “Thánh đạo”. Các phiền não ấy chia ra làm hai phần: phần thô thiển và phần vi tế. Phần thô thiển có tác ý phát sanh, thấy rõ mình và người như sự tham lam (abhijjhāvisamalobha) và sân hận (dosa).
Còn phiền não vi tế ẩn núp trong tâm như lậu phiền não(21) (āsava), thụy miên (anusaya) không rõ rệt là phiền não do tác ý, nhưng có thể giúp sức cho phiền não thô thiển. Hành giả đoạn được cả hai phần phiền não cần phải nhớ thắng lực của “Thánh đạo tuệ” (Ariyamaggañāṇa) đã phát sanh rõ rệt nương theo đạo có tám chi hiệp lực lại đầy đủ giờ nào, thì phát sanh “Thánh thiện tâm sở” (lokuttarakusalacetasika) làm cho Thánh đạo tuệ phát sanh trong giờ ấy. Sự hiệp lực nhau có thể phát sanh trong thời hành pháp minh sát hoặc trong thời nghe pháp của Đức Thiên Nhơn Sư, tâm thọ được cảnh giới dễ dàng giờ nào, đạo hiệp lực trong giờ ấy.
CHI ĐẠO HIỆP LỰC MỚI THÀNH TỰU THÁNH ĐẠO
Sự hiệp lực của chi đạo, chỉ phải đến mức thành tựu, thánh đạo ấy chưa thành tựu được liền trong thời công phu tham thiền hoặc trong khi tu pháp minh sát lúc đầu, nhưng được chứng quả trong giờ cuối cùng của sự tiến hành pháp minh sát, khi tâm nhảy lên níu thánh tuệ hoặc “đạo tâm” đầu tiên phát sanh, tiếp theo “minh kiến thuận sát tuệ”(22) (saccānulomikañāṇa) (gotrabhūñāṇa) do thắng lực của tâm sở(23) mà mình được trau dồi từ trước cũng có hoặc mới tu bổ thêm phát sanh trong thời ấy cũng có, hiệp lực tạo ra thành đạo tuệ là khí cụ để trừ phiền não vô minh cho tiêu tan, làm cho trí tuệ phát sanh, vì như sự nổi lửa trong nơi tối, tối tiêu tan, ánh sáng phát sanh trong thời ấy.
Khi tám đạo chi hiệp lực tạo ra trí tuệ là khí cụ để giác ngộ pháp diệu đế, diệt ba sử đầu tiên được, do Thánh đạo trong bậc đầu của đạo gọi là “Tu-đà-huờn đạo tuệ” (Sotāpattimaggañāṇa). Nếu “thiện tâm sở” phát sanh còn mạnh mẽ nhiều, khi tâm xuống giữ tâm thường tâm (bhavaṅga) trong thời mà Tu-đà-huờn đạo tâm diệt rồi, hiệp lực làm cho Tư-đà-hàm đạo tâm phát sanh, đoạn trừ sở còn dư sót cho tiêu diệt dần dần. Nếu Thánh đạo còn nhiều tâm đổng lực là cho A-na-hàm đạo tâm và A-la-hán đạo phát sanh đến mức diệt tận tất cả sử không còn dư sót. Nên hiểu rằng, thời mà đạo tâm xuống giữ thường tâm rồi phát sanh lại ấy, rất mau chóng, cho nên mới có lời rằng: ông này chứng Tu-đà-huờn quả, ông này chứng Tư-đà-hàm quả, ông này chứng A-la-hán quả như thế, chỉ một lần ít khi nghe nói về sự hành trình của đạo tâm sanh và diệt theo từng bậc.
Chi đạo hiệp lực nhau, tạo ra bốn bậc đạo tâm đắc trí tuệ để giác ngộ diệu đế là:
1- Tu-đà- huờn đạo tuệ (sotāpattimaggañāṇa)(24),
2- Tư-đà-hàm đạo tuệ (sakadāgāmimaggañāṇa)(25),
3- A-na hàm đạo tuệ (Anāgāmimaggañāṇa)(26),
4- A-la-hán đạo tuệ (Arahattamaggañāṇa)(27).
Sự thành tựu bốn bậc đạo tuệ đều nhau trong thời gian rất ngắn chẳng chần chờ qua đêm ngày, tháng, năm, hoặc qua đến đời khác, nghĩa là đắc A-la-hán đạo chỉ một lần. Điều này chỉ do nơi căn và duyên pháp có ít hoặc nhiều, cao hay thấp của người hành giả, là điều trọng yếu.
Bốn bậc đạo tuệ ấy có phận sự đào bứng thụy miên (anusaya) lậu phiền não (āsava) ẩn núp trong tâm cho tiêu diệt, nhưng nhiều loại phiền não mà đạo tuệ đào bứng ấy gọi là sử (saññojana) là loại phiền não buộc rịt tâm chúng sanh phải xoay vần trong vòng sanh tử, chia ra có mười loại.
1- Thân kiến (sakkāyadiṭṭhi) là sự hiểu rằng: thân thể là của ta; hiểu rằng: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là của ta hoặc ta có sắc, thọ, tưởng, hành, thức như thế. Đó là sự hiểu quấy, là nhân thủ(28) rằng: thân hoặc vật dính với thân này là ta, là của ta, là nhân sanh ra tại khổ nhiều thứ. Loại phiền não này thuộc về phần si mê.
2- Hoài nghi (viccikicchā) là sự ngờ vực nghi ngại trong sự hành đạo, là phương pháp giải thoát khỏi những thống khổ, cho đến ơn đức Tam bảo là nơi nương nhờ cao quí của thế gian mà cũng còn nghi ngại, nửa tin nửa ngờ làm cho buộc ràng trí não, suy xét không ra hết một đời hoặc hết hạn kỳ mà mình chưa đoạn trừ được. Loại phiền não này cũng kể vào phần si mê.
3- Giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa) là sự giữ giới sai lầm, không phải chơn chánh mà chấp là chơn chánh, như tin rằng hành được các đức cao quí, như chấp rằng học thiền định được biết gồng chém không đứt, bắn không nổ... không hiểu đó là phương tiện để trau dồi tâm tánh cho trong sạch, khỏi điều dơ bẩn. Đó là phiền não, cũng khép vào phần si mê.
4- Tình dục (kāmarāga) là tình yêu mến trong vật dục (vatthukāma) do thế lực của phiền não dục (kilesakāma) cố gìn giữ trong tâm không chịu buông rời trong các cõi hoặc trong thế gian, có thứ dục thuộc loại phiền não về sự thương yêu trìu mến, trong ngũ dục là sắc, thinh, khí, vị, xúc. Loại phiền não này kể vào phần tình dục (rāga) hoặc xan tham (lobha) vi tế.
5- Uất ức (paṭigha) là sự bậc tức trong tâm: những điều xốn xan, khó chịu do sân hận mà phát sanh đều thuộc về phần sử này cả. Đó là phiền não về loại sân hận.
Cả năm sử này kể vào bậc thấp, gọi là sử phần hạ cấp (arambhāgiyasaññojana) có năng lực buộc rịt chúng sanh trong hạ giới (dục giới).
6- Sắc dục (rūparāga) là sự thương yêu vừa lòng trong sự an vui phát sanh do thắng lực của thiền hữu sắc hoặc tâm dính chặt trong cõi sắc, là phước báu của sắc thiền, tâm cố chấp thiền định về phần sắc thiền.
7- Vô sắc dục (arūparāga) là sự yêu mến vừa lòng trong cảnh giới phát sanh do thắng lực của thiền vô sắc, hoặc tâm luyến trong vô sắc giới về phần thiền vô sắc, tâm cố chấp trong thiền vô sắc. Đó là phiền não cũng kể vào trong loại tình dục, song tình dục là cực kỳ vi tế.
8- Ngã mạn (māna) là sự chấp “ta” như vầy, như kia vì sự phân biệt giai cấp, tông phái, sang, hèn, giàu, nghèo, hoặc vì một lẽ gì khác: là nhân đem mình so sánh với người khác rằng: ta hơn người, ta bằng người, ta thấp hèn hơn người và có tính hay giận run. Phiền não này kể vào trong loại si mê.
9- Phóng vật (uddhacca) là tâm phóng đãng, khó chú trọng về một việc gì, lòng buông thả, khi trồi, khi sụt, không ở yên một chỗ, không trau dồi, lo nghĩ, chỉ an dật tự nhiên. Đó là phiền não cũng kể vào trong loại si mê.
10- Vô minh (avijjā) là tư cách không biết rõ, là nói về sự ngu dốt không hiểu, không thông, không vừa lòng các pháp theo lẽ phải, tự nhiên, là căn sanh các ác pháp, là nguồn gốc của tất cả phiền não.
Cả năm sử sau, từ thứ 6 đến thứ 10 này, thuộc về phần sử cực kỳ vi tế gọi là sử phần cao cấp (uddhaṃbhāgiyasaññojana) là sử về phần cao có năng lực trói chặt chúng sanh trong thượng giới là cõi sắc và vô sắc.
PHƯƠNG PHÁP DIỆT TRỪ SỬ PHIỀN NÃO CỦA THÁNH ĐẠO (ARIYAMAGGA)
Cái tâm trau dồi để tiến hành pháp minh sát niệm(29) chỉ sau khi có trí tuệ đã bén nhọn như hoàng kiếm(30) của Thánh đạo đến mức gọi là “Tu-đà-huờn đạo tuệ” có thắng lực vừa đoạn tuyệt được sử thứ 1, 2, 3 (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ) nếu chưa chặt đứt được, vì trau dồi chưa đến mực bên Tu-đà-huờn đạo. Quả tâm được thành tựu nhờ đã đào bứng được sử gọi là Tu-đà-huờn quả tuệ, là bậc có danh hiệu “nhập lưu” (sotāpanna) là người đến dòng nước chảy về Niết-bàn, không còn thối chuyển theo thường nhơn nghĩa là sẽ chứng quả A-la-hán trong thời vị lai không sai. Sự thành công chậm hoặc mau ấy là do căn và duyên phần của mỗi người. Các sử khác, mặc dầu chưa diệt được, cũng có thể làm cho nhẹ nhàng hơn khi còn ở bậc thường nhơn.
Tâm của bậc “nhập lưu” (sotāpanna) đã được sửa trị cao thêm đến mực gọi là “Tư-đà- hàm đạo tuệ” (sakadāgāmaggañāṇa) chặt đứt được sử như bậc nhập lưu, song đã làm cho mấy sử khác được nhẹ nhàng hơn, luôn đến tình dục (ragā), sân hận (dosā), si mê (mohā) phần thô thiển cũng đã giảm sức hơn bậc nhập lưu. Quả tuệ bậc trên kế tiếp gọi là “Tư-đà- hàm quả tuệ” (sakadāmiphala). Bậc này gọi là “nhứt lai” là bậc còn thọ sanh lại làm người một lần nữa.
Tâm của bậc Tư-đà-hàm trau dồi được cao thượng thêm nữa đến mức gọi là “A-na-hàm đạo tuệ” (anāgāmimaggañāṇa) và đào bứng thêm được 2 sử là sử thứ 4, 5 “tình dục” (kāmarāga), uất ức (patigha), cộng lại làm 5 thứ sử hoặc sử bậc hạ (orambhāgiyasaññojana) mà Thánh đạo bậc này đã tận diệt rồi. Quả tâm phát sanh tiếp tục gọi là A-na-hàm quả tuệ (anāgāmiphalañāṇa). Người chứng được đạo quả bậc này gọi là “bất lai” là bậc không còn thọ sanh làm người trong thế gian này nữa.
Tâm của bậc A-na-hàm đã tu tập được cao thượng thêm đến mức gọi là “A-la-hán đạo tuệ” (arahattamaggañāṇa) có thể cắt đứt cả 10 sử chẳng còn dư sót. Liên tiếp quả tâm sẽ phát sanh gọi là “A-la-hán quả tuệ” (arahattaphalañāṇa). Bậc được chứng quả gọi là A-la- hán là bậc đã đoạn tuyệt vành, căm của bánh xe luân hồi và được nhập Niết-bàn trong kiếp hiện tại.
PHƯỚC BÁU CỦA SỰ HÀNH ĐẠO
Lậu phiền não thụy miên ẩn núp trong tâm, ví như quân nghịch rình rập để báo thù làm hại chúng phải thường chịu khổ não xót xa, nóng nảy không ngừng nghỉ, thừa dịp trộm cướp, đạo đức của chúng ta phải tiêu hủy, làm cho rối lòng loạn tánh không thấy rõ chơn lý. Đó là quân nghịch quấy rối sanh ra đều cực nhọc, đớn đau trong mỗi kiếp. Sự trau dồi đức tánh theo lý trung đạo, vì như sự đánh đuổi quân nghịch đồn trú trong thân tâm ta, cho nó chạy ra khỏi. Thánh quả phát sanh sau khi tiến hành Thánh đạo, thì thân tâm được im lặng, có sự an vui thơ thới, vì không còn bị quân nghịch làm hại.
Lại nữa, đạo có tám chi ấy là con đường đạo cao quí hằng làm cho trí tuệ thanh tịnh thấy rõ pháp diệu đế một cách tường tận (ñāṇadassana) có thể làm cho dứt cả sự khổ, thọ hưởng an vui như sở nguyện, không sai. Cho nên, Đức Thế Tôn khuyến khích hàng Phật tử hành theo bát Thánh đạo như Phật ngôn rằng: “Đạo là con đường có tám chi, cao thượng hơn tất cả các con đường, nếu chúng sanh thực hành theo, sẽ trở nên thanh tịnh đúng đắn, nhờ có trí tuệ thấy rõ pháp diệu đế. Các người hãy đi theo con đường ấy, rồi sẽ được dứt những khổ não, thọ hưởng an vui thanh tịnh y như chí nguyện”.
CÁCH THỨC HÀNH ĐẠO THEO THÔNG THƯỜNG
Sự hành đạo của người lấy “đời làm trọng” (lokādhipateyya), hoặc lấy “mình làm trọng” (attādhipateyya) chẳng phải là nhân đem mình ra khỏi biển khổ, nhất là sanh khổ, dầu chỉ là trau dồi thân, khẩu, ý cho được thuần lương, không có tội theo thế gian thôi. Về phần tu lấy “pháp làm trọng” (dhammādhipateyya) không tùy đời, không theo mình, chỉ thực hành chánh pháp mới gọi là phương tiện đem mình ra khỏi khổ từng bậc, cho đến Niết-bàn là nơi cứu cánh giải thoát.
Tiếp theo đây, xin giải về sự tu tập trau dồi trí nhớ và trí tuệ, chia ra làm năm phần là:
GIỚI (SĪLA)
Giới là sự thu thúc thân, khẩu theo qui luật, không cho phát sanh tội lỗi theo thân môn và khẩu môn, là sự trau dồi thân và khẩu cho đoan chánh, lánh xa luật cấm, ở theo lời Phật chuẩn hành khi hành giả trì giới được trong sạch đầy đủ rồi, thì hằng thọ phước báu mát mẻ an vui, gọi là “giới”.
Giới chia ra làm từng chi, có nhiều thứ, nhiều phần, có ngũ giới, bát quan trai giới, thập giới, cụ túc giới (227 giới), đều là lời Phật cấm răn để dứt các tội lỗi phát sanh do thân môn và khẩu môn, là điều ngăn ngừa sửa trị sự hành vi bên ngoài cho đoan chánh theo luật định, dầu có sơ xuất về đường tâm cũng không sao phá giới được. Giới là phương phép thực hành cho có trật tự trang nghiêm theo mỗi hạng người. Nếu chia theo bậc thì có hai: giới của bậc cư sĩ gọi là “tại gia giới” (agāriyasīla) hoặc tại gia luật (agāriyavinaya); giới của hàng xuất gia gọi là “xuất gia giới” (anāgāriyasīla) hoặc xuất gia luật (anāgāriyavinaya)
Khi hành giả đã giữ giới theo bổn phận mình được trong sạch đầy đủ rồi, giới hỗ trợ cho định thêm sức mạnh hoặc cho thiền định phát sanh.
THIỀN ĐỊNH (SAMĀDHI)
Trì giới được trong sạch đầy đủ, ví như hành giả đứng vững trên nấc thang đầu tiên, tiếp theo nên tiến hành theo pháp thiền định ví như nấc thang thứ nhì.
Thông thường, tâm của phàm nhân hằng biến đổi, vọng chuyển phóng túng theo các cảnh giới, khó an trụ, thường hay buông thả, đeo níu cảnh giới vừa ý, lìa xa cảnh giới trái ý và quyến luyến theo ái dục không ngừng nghỉ, không êm lặng, ví như loài khỉ hoặc trẻ con. Cho nên, người chưa quán tưởng thấy rõ: sanh, già, đau, chết là sự khổ lớn lao của chúng sanh, thì rất khó sửa trị cái tâm ở theo chánh pháp. Song những người đã nhàm chán, ghê gớm danh sắc không sanh lòng cảm xúc và tìm đường để thoát khỏi thống khổ, là người có phước đức dày dặn, dầu chưa tham thiền được nhiều cũng có thể thành công đắc quả dễ dàng, có khi chỉ nghe pháp của Đức Thế Tôn mà được chứng quả.
“Thiền định” là phép làm cho tâm an trụ khắn khít, vững vàng trong một cảnh giới, là dùng trí nhớ buộc tâm mình dính với một đối tượng. Về cảnh giới của tâm thì cái chi cũng được, chỉ làm sao cho tâm đừng vui thích theo tình dục, phiền não thôi
“Thiền định” kỳ thực, kể ra có nhiều phép... song tóm tắt có 40, sau khi đã chọn lựa, chỉ lấy những pháp đại cương hợp lại làm từng phần để làm qui phạm. Cả 40 phép phương tiện ấy là cảnh giới để buộc ràng cái tâm cho an trụ vững bền, cho vừa phát sanh thiền định, như phép kasiṇa và phép niệm theo hơi thở. Những phép không có thể làm cho tâm nhập định là phương tiện đem cái tâm đến bậc cận định như phép niệm Phật, niệm pháp, niệm bố thí(31).
Tâm tìm suy xét trong các cảnh giới gọi là “tầm” (vitakka), tâm xem xét quán tưởng các cảnh giới ấy là “sát” (vicāra), “tâm nhớ” gìn giữ tầm và sát không cho vọng niệm trong các cảnh giới khác, như bò mà người buộc chặt với cây nọc, hằng vùng vẫy, chuyển động, cho đến khi sức cùng lực tận rồi mới chịu té, ngã nằm bên cây nọc ấy, gọi là “tịnh”(32). Khi tâm đã tịnh, “phỉ” phát sanh, tiếp tục “lạc” cũng phát sanh. Nếu có thắng lực vừa cho tâm an trụ trong một cảnh giới, thì “tâm định” phát sanh ấy gọi là nhập sơ thiền, có đủ 5 chi: tầm, sát, phỉ, lạc, định. Nếu thiền định có thắng lực mạnh mẽ, tâm càng vi tế hơn là nguyên nhân đắc thiền định bậc trên theo thứ tự (xem nơi chương có giải về tám chi đạo ở nơi trước).
Cận định là thiền định chưa được khắn khít bền bỉ, chỉ là bậc gần nhập định, mặc dù có tầm, sát, phỉ, lạc cũng chưa đủ thắng lực sanh định, nên chưa có thể gọi là định được. Ví như trẻ con mới tập đứng, dầu đứng ngồi được chốc lát cũng chưa có đủ sức lực đứng cho bền vững, đứng lên rồi phải té xuống, cứ vẫn đứng, té luôn, song trong thời mà tâm ở bậc cận định, nếu cố gắng tinh tấn tiến hành phép minh sát niệm, quán tưởng ba tướng (vô thường, khổ não, vô ngã) cũng có thể thành tựu, thấy rõ chút ít pháp diệu đế, chỉ khác nhau là không đắc các đức cao thượng thêm nữa, như các pháp thần thông.
Thiền định là tâm xa lìa khỏi pháp cái, là tâm mềm mại, nhẹ nhàng, đáng hành sự, muốn thấy thế nào cũng có thể thấy được, do thắng lực của thiền định non hoặc già. Những người muốn được giải thoát không cầu đắc pháp thần thông, hằng đem tâm tìm suy xét thân thể hoặc năm uẩn của mình và của người, chia ra từng phần mà lòng còn hoài nghi là “ta” là “vật thường tồn lâu dài” hoặc có sự an vui như thế(33).
TRÍ TUỆ (PAÑÑĀ)
Khi tâm đã khắn khít là đắc thiền định rồi, có tâm mềm mại sẵn dành để tiến hành, quán tưởng sắc pháp và danh pháp mà mình cần phải thấy, cần phải giác ngộ từ bậc thô thiển cho đến bậc cực kỳ vi tế cả về phần chung và riêng, từ trên xuống dưới, dưới trở lên trên, từ khi mới thọ sanh rồi biến đổi, cho đến lúc tiêu diệt là nơi cuối cùng. Trí tuệ là khí cụ để quán tưởng nhân quả theo thứ tự, theo pháp minh sát tuệ, chia ra làm 9 bậc là: 1) trí tuệ quán tưởng thấy sự sanh và diệt là quán tưởng thấy cả sự sanh và diệt của danh sắc (udayabbhayānupassanāñāṇa); 2) trí tuệ quán tưởng thấy sự tan rã, tiêu diệt, của danh sắc (bhaṅgānupassanāñāṇa); 3) trí tuệ quán tưởng thấy danh sắc rõ rệt, là cái đáng ghê sợ, là tưởng xét thấy danh sắc phân minh có thể tướng đáng ghê sợ, như các thú dữ, như thấy sư tử (bhayatūpaṭṭhānañāṇa); 4) trí tuệ quán tưởng thấy tội lỗi, là tưởng xét thấy tội của danh sắc rõ rệt, như thấy nhà đang bị lửa cháy (adīnavānupassanāñāṇa); 5) trí tuệ thấy sự nhàm chán vì thể tướng, xét thấy danh sắc ấy chỉ có tội lỗi thôi (nibbidānupassanāñāṇa); 6) trí tuệ quán tưởng thấy, chỉ muốn được giải thoát là muốn ra khỏi danh sắc mà mình nhàm chán ấy, như thú mắc bẫy muốn thoát khỏi bẩy (muñcitukamyatāñāṇa) ;7) trí tuệ quán tưởng tìm đường chọn lựa, rảo kiếm trong danh sắc để tìm phương giải thoát, như loài chim (samuddasakuṇī)(34) xuống tắm chơi trong biển (patisaṅkhānupassanāñāṇa); 8) trí tuệ quán tưởng thấy tâm vô ký trong danh sắc, như người đàn ông vô ký với vợ đã từ bỏ hẳn rồi (saṅkhārupekkhāñāṇa); 9) trí tuệ hành vừa theo sự giác ngộ pháp diệu đế trong thời của tâm thuận minh sát phát sanh trong “tâm tìm cảnh giới trong ý” (manodvārāvajjana) chặt bỏ thường tâm (bhavaṅgacitta) sau saṅkhārupekkhāñāṇa, trong thời Thánh đạo sẽ phát sanh.
Sự tu pháp tuệ niệm không muốn đắc pháp thần thông là điều ràng buộc, vì chẳng phải là pháp diệt trừ phiền não mê lầm, trái lại, là điều trở ngại sự hành trình của hành giả chỉ muốn giải thoát khỏi sự khổ. Sự thị hiện thần thông cần phải nhập định cho thuần thục, đều đủ, làm cho người sanh lòng tín ngưỡng, ngõ hầu để hoằng pháp trong thời gian mà người đang xu hướng theo thần thông. Còn về phần tuệ niệm cần phải dùng trí tuệ quán tưởng danh sắc cho giác ngộ pháp diệu đế để đoạn tuyệt phiền não, tiến hành theo chín pháp minh sát tuệ như đã có giải phiền não về phần thụy miên (anusaya) hoặc sử (saññojana) ẩn núp trong tâm kể vào ác pháp của tâm. Đạo đã tu tập khi có cơ hội hiệp lực nhau làm thành đạo cũng theo đoạn trừ thụy miên hoặc sử cho tiêu diệt. Đây thuộc về thiện pháp của tâm.
Lại nữa, về ác pháp là “vô minh” có nhiều danh hiệu khác thêm nữa, nhất là tối tăm, ngu dốt, mê muội, mù, ... Về phần thiện là “minh” có nhiều danh hiệu khác thêm nữa, nhất là sáng sủa, trí tuệ, ánh sáng, mắt, ...
“Vô minh” và “minh” ấy đều có rất nhiều chi dắt dẫn hộ tùng, nhưng đây chỉ gọi chung là “vô minh” hoặc “minh” thôi. Vì hai pháp này chủ tể đứng đầu của tất cả ác pháp và thiện pháp.
ĐẠO, QUẢ
Pháp lành bậc thượng, hiệp lực nhau do thắng lực thiền định và trí tuệ tạo thành tâm sở, pháp làm cho phát sanh tâm cao thượng gọi là đạo tâm hoặc đạo tuệ. Tâm này phát sanh đoạn trừ chướng ngại trong thời đồng nhau. Thời tâm này gọi là thời của đạo tâm tồn tại chỉ một thời rồi diệt, phát sanh tức tốc tâm mới, trong thời ấy gọi là “quả tâm” hoặc là “quả tuệ”.
Đạo tuệ, quả tuệ(35) chia ra làm bốn bậc có thấp cao hơn nhau thế nào, như đã có giải ở nơi trước. Đến khi tâm bậc tối thượng là A-la-hán quả phát sanh rồi, gọi là bậc cuối cùng của đạo quả là bậc Niết-bàn(36).
NIẾT-BÀN
Đạo ví như sự chặt đứt dây nô lệ, buộc trói, chặt đứt được nhiều ít theo thắng lực của đạo quả, như sự giải thoát khỏi nô lệ buộc trói thân tâm, được hưởng mọi bề hạnh phúc chẳng còn bị ràng buộc nữa, quả cuối cùng là thân tâm được an vui thanh tịnh. Nghiệp dữ cũ đã dứt, nghiệp mới cũng chẳng có, cả phần phước và phần tội.
Đức A-la-hán làm việc gì cũng chỉ là “làm”, không sanh “kết mạc” (vipāka)(37) vì đã dứt hẳn lậu phiền não rồi. Tâm của các ngài trong sạch, lánh xa sự cố chấp vì tâm thủ, không có nhân duyên là khí cụ làm cho thọ sanh trong cảnh vui hoặc cảnh khổ trong kiếp vị lai nữa. Tâm của các ngài đã yên lặng, an vui, thanh tịnh cao thượng, dầu còn năm uẩn là nơi cư trú của sự khổ, như chúng sanh thường tình, song các ngài không thọ khổ vì đã đoạn tuyệt nguồn gốc của tất cả điều khổ não, không cho sanh chồi, mọc nhánh nữa, chỉ còn chờ thời kỳ tiêu diệt theo lẽ thường của danh sắc thôi. Bậc này gọi là hữu dư y Niết-bàn (nupādisesanibbāna) đã diệt tất cả phiền não chỉ còn năm uẩn (hoặc gọi vắn tắt là Niết-bàn cũng được). Đến khi tịch diệt hoặc vì lẽ gì chẳng hạn, mà năm uẩn của các ngài tiêu diệt, song diệt như đây gọi là diệt cả năm uẩn và phiền não, chẳng có chi là nhân duyên sanh năm uẩn mới trong cõi mới nữa, là tắt như ngọn đèn hết dầu hết tim rồi tắt, như thế gọi là “vô dư y Niết-bàn” (anupādisesanibbāna) nghĩa là tắt tất cả, chẳng còn cái chi dư xót (hoặc gọi vắn tắt là Đại Niết-bàn) (parinibbāna) cũng được.
Theo lời đã giải đây, tóm tắt lại rằng: giới, định, tuệ là pháp hành, còn đạo, quả, Niết- bàn là pháp thành (xin xem bản đồ có giải rõ ở sau).
Tiếp theo đây xin trích soạn những lời Phật ngôn trong các kinh để làm tài liệu thêm cho hành giả. Có Phật ngôn rằng: “Này các thầy tỳ khưu! Trong rừng có một cái bưng là nơi mà bầy thú thường xuống uống nước, có một người mong giết bầy thú ấy, liền ngăn chận đường lên của chúng, mở rộng con đường có sự lo sợ đến bầy thú, rồi đem thú cái, thú đực đến làm mồi, bầy thú rừng ấy phải bị hại thưa thớt đi lần lần. Có một người nữa là người mong mỏi điều hạnh phúc đến bầy thú ấy, mới chận bít đường có sự nguy hiểm, mở đường khỏi điều lo sợ và bắt bỏ thú mồi ấy ra, đến sau, bầy thú lại dần dần trở nên đông đúc. Này các thầy tỳ khưu! Như Lai đem thí dụ này cho các ngươi hiểu rõ rằng: bưng tức là ngũ dục; bầy thú đông đúc ấy tức là tất cả chúng sanh; người ngăn chặng đường làm hại bầy thú tức là ma vương; con đường có sự lo sợ tức là đường tà đạo có tám chi là : hiểu quấy, suy nghĩ quấy, nói quấy, nghề quấy, nuôi mạng quấy, tiến lên quấy, nhớ quấy, định tâm quấy; thú mồi đực tức là tình dục vì thế lực của sự vui sướng sa mê; thú mồi cái tức là phiền não vô minh; người muốn sự hạnh phúc (đến bầy thú) là Như Lai; con đường không có điều lo sợ là Thánh đạo có tám chi là hiểu phải, suy nghĩ phải, nói phải, nghề phải, nuôi mạng phải, tiến lên phải, nhớ phải, định tâm phải. Này các thầy tỳ khưu! Con đường có điều hạnh phúc, Như Lai đã khai mở rồi, đường xấu xa Như Lai đã ngăn bít rồi, thú mồi đực, thú mồi cái, Như Lai đã bắt bỏ rồi, như thế ấy.”
Sự thực hành theo Thánh đạo có tám chi là nhân cho đắc Niết-bàn, Đại đức Xá-Lợi-Phất có giải rằng: “Này các ông! Đạo là đường tu hành cho thấy rõ Niết-bàn, là Thánh đạo có tám chi: hiểu phải, suy nghĩ phải, nói phải, nghề phải, nuôi mạng phải, tiến lên phải, nhớ phải, định tâm phải. Này các ông! Đạo là đường tu hành, ấy là đường tu hành theo cho đặng thấy rõ Niết-bàn.”
Đức Phật hằng tán dương sự bố thí. Những thí chủ dâng cúng đến các hạng Sa-môn ở theo bát Thánh đạo, gọi là bố thí có phước báu cao thượng, ví như ruộng có đủ tám chi, có đất phân rất tốt, hằng trổ sanh nhiều bông trái. Có Phật ngôn rằng: “Này các thầy tỳ khưu! Giống lúa mà người gieo trong ruộng có đủ tám chi hằng được nhiều bông trái, có mùi vị ngon ngọt, cây lúa nứt nở lớn bụi. Này các thầy tỳ khưu! Ruộng có tám chi trong thế gian này là: không có chỗ cao, chỗ thấp, đều bằng phẳng nhau; không có nhiều đá sỏi; không có đất mặn hoặc nước muối đọng lại; không có đất cứng lắm, cày không được; có nhiều đường nước chảy ra; có nhiều lòng nước nhỏ lớn; có nhiều bờ ruộng và đê. Này các thầy tỳ khưu! Bố thí dâng cúng đến hàng Sa-môn có đủ tám chi, hằng được quả nhiều, được nhiều phước báu cao quí, được quả to lớn. Này các thầy tỳ khưu! Hàng Sa-môn có đủ tám chi trong thế gian là người có sự: hiểu phải, suy nghĩ phải, nói phải, nghề phải, nuôi mạng phải, nhớ phải, tiến lên phải, tịnh tâm phải. Này các thầy tỳ khưu! Sự bố thí mà người đã làm rồi trong hàng Sa-môn có đủ tám chi ấy, hằng có quả nhiều, có phước báu nhiều, có quả quí trọng, có quả to lớn như thế ấy.”
Người quán sát thấy rõ pháp của Đức Phật gọi là như được xem thấy Phật. Đức Thế Tôn có giải cho một vị tỳ khưu Vakkali nghe như vầy: “Này Vakkali! Người nào suy thấy pháp, người ấy gọi là thấy Như Lai; người nào được thấy Như Lai, người ấy gọi là thấy pháp.”
Phận sự của đức Thiên Nhơn Sư, Ngài đã làm trọn rồi, đối với các bậc Thinh văn, Ngài chẳng còn phận sự nào phải làm thêm nữa. Có Phật ngôn rằng: “Này các thầy tỳ khưu! Phận sự tiếp độ, tìm kiếm điều lợi ích nào mà Như Lai nên làm đến các bậc Thinh văn, phận sự ấy Như Lai đã làm đến tất cả các ngươi rồi. Này các thầy tỳ khưu! Nơi cội cây kia, nơi thanh vắng kia, các ngươi hãy tu tập cho đầy đủ, các ngươi chẳng nơi dể duôi, sau rồi các ngươi chẳng có sự ăn năn than tiếc. Đó là lời dạy bảo của Như Lai đối với các ngươi.”
Trước khi nhập Niết-bàn, Phật ngợi khen những người hành theo pháp, gọi là bậc dâng lễ cúng dường đến Như Lai bằng cách cao thượng.
Trong lúc cuối cùng, Ngài có thức tỉnh các thầy tỳ khưu, không nên dể duôi cẩu thả trong sự hành đạo bằng lời như sau này: “Này A-nan-đa! Các tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni, thiện nam hoặc tín nữ nào hành pháp vừa theo pháp, người ấy gọi là tôn kính dâng lễ cúng dường đến Như Lai bằng cách cao thượng. Này A-nan-đa! Các ngươi nên niệm tưởng như vầy: chúng ta dắt dẫn nhau hành pháp, vừa theo pháp, tu chơn chánh, hành theo pháp như thế ấy. Này A-nan-đa! Các ngươi không nên hiểu rằng giáo pháp của Đức Giáo chủ chúng ta đã qua khỏi rồi, nay Đức giáo chủ chúng ta không có, như thế. Này A-nan-đa! Pháp và luật mà Như Lai đã giảng giải rồi, đã chế định rồi, pháp và luật ấy sẽ là giáo chủ của người (thay mặt cho Như Lai) trong khi Như Lai đã nhập Niết-bàn.”
Tiếp theo đây, Đức Phật gọi các ông tỳ khưu mà rằng: “Này các thầy tỳ khưu! Như Lai thức tỉnh các ngươi trong lúc này, các danh sắc (năm uẩn) hằng có sự tiêu diệt là lẽ thường, các ngươi hãy làm cho sự không cẩu thả phát sanh đầy đủ, ấy là lời cuối cùng của Như Lai.”
‒ Dứt chương trình hành pháp-tóm tắt bấy nhiêu ‒ ---
-oo0oo-
(2) Nirodukha: dịch là không khổ, khốn; cực nhọc, khó khăn, đây chỉ về Niết-bàn.
(3) Quán tưởng là định tâm mà tưởng, sự tưởng tượng ấy phát hiện ra rõ rệt.
(4) Danh là : thọ, tưởng, hành, thức; sắc là thân tứ đại (đất, nước, lửa, gió).
(5) Giải rõ trong “Thanh tịnh giải”.
(6) Giải rõ trong “Thanh tịnh giải”.
(7) Giải rõ trong “Thanh tịnh giải”.
(8) Kháná (khana) tàu âm là sátna là thời gian rất ngắn ngủn mau chóng của tốc lực tâm.
(9) Tốc lực tâm suy xét tìm sự nhập định.
(10) Tốc lực tâm gần nhập định.
(11) Tốc lực tâm suy xét theo “tầm sát định tốc lực tâm” và “cận định tốc lực tâm” trước.
(12) Giải rõ trong “Thanh tịnh kinh giải”.
(13) Thụy miên là phiền não thường thường ẩn núp trong tâm ý người.
(14) Buôn bán sai lầm có 5 : bán khí giới, bán người, bán rượu, bán thuốc độc, bán thú.
(15) Có giải trong “luật tu xuất gia” và tập chí.
(16) Thọ là sự dụng nạp, nhận lấy cảnh giới.
(17) Sát (vicāra) – cũng còn gọi là tứ.
(18) Phiền não là buồn rầu cực nhọc.
(19) Có giải trong Phật ngôn thiệt lục.
(20) Sử là phiền não hay sai khiến chúng sanh xoay vần trong chốn mê lầm khổ não.
(21) Lậu phiền não là phiền não hay khiến chúng sanh ngủ ngầm trong ba cõi, luân chuyển trong sáu đường, hở lọt như nhà bị dột, rơi giọt nước dơ bẩn.
(22) Trí tuệ thấy rõ vì quan sát thuận theo chín pháp minh sát.
(23) Tâm sở là pháp sở hữu phụ thuộc của tâm vương
(24) Dịch là : Dự lưu (dự vào dòng thánh)
(25) Dịch là : Nhứt lai (còn thọ sanh lại trong thế gian nầy một lần nữa)
(26) Dịch là : Bất lai (không còn tho sanh lại trong thế gian nầy nữa)
(27) Dịch là : Ứng cúng, Vô học, Vô sanh
(28) Thủ là giữ lấy.
(29) Có giải trong Thanh Tịnh kinh giải.
(30) Hoàng kiếm là cây kiếm rất quí mà các vị đế vương thường mang.
(31) Có giải trong tạp chí Ánh sáng Phật pháp.
(32) Tịnh nghĩa là êm lặng.
(33) Xem thêm pháp minh sát trong quyển “Thanh Tịnh Kinh giải”.
(34) Chim Samuddasakuṇī hằng tìm phương bay qua khỏi biển mặc dầu biển rộng mênh mông, khi mệt thì tắm xuống biển, tắm rồi, lo bay nữa cho đến bờ biển.
(35) Bốn đạo: Tu-đà-hườn đạo, Tư-đà-hàm đạo, A-na-hàm đạo, A-la-hán đạo. Bốn quả : Tu-đà-hườn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả.
(36) Niết-bàn có ba nghĩa: ra khỏi tam giới, dứt tuyệt ái dục, giải thoát sanh tử luân hồi.
(37) Kết mạc là kết cục của việc đã làm.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.