VI DIỆU PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
Soạn-giả Tỳ-khưu Hộ-Pháp Dhammarakkhita Bhikkhu (Aggamahāpaṇḍita)
CÕI-GIỚI CHÚNG-SINH (BHŪMI)
Cõi-giới chúng-sinh (bhūmi) là nơi tạm trú đúng theo thời gian tuổi thọ ngắn ngủi hoặc lâu dài, tuỳ theo quả của ác-nghiệp hoặc quả của thiện-nghiệp của mỗi chúng-sinh trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới.
1- Cõi dục-giới có 11 cõi-giới.
2- Cõi sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới.
3- Cõi vô-sắc-giới có 4 tầng trời vô-sắc-giới.
Trong quyển sách nhỏ này chỉ giảng giải về cõi dục-giới gồm có 11 cõi-giới mà thôi, không đề cập đến cõi sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới và cõi vô-sắc-giới có 4 tầng trời vô-sắc-giới.
Dục-giới gồm có 11 cõi chia ra 2 cõi-giới
- Apāyabhūmi: cõi ác-giới có 4 cõi.
- Kāmasugatibhūmi: cõi thiện-giới có 7 cõi.
APĀYABHŪMI CÕI ÁC-GIỚI CÓ 4 CÕI
1.1- Nirayabhūmi: cõi địa-ngục là nơi tạm trú của các loài chúng-sinh địa-ngục.
1.2- Pettivisayabhūmi: cõi ngạ-quỷ là nơi tạm trú của các loài ngạ-quỷ.
1.3- Asurabhūmi: cõi a-su-ra là nơi tạm trú của các loài a-su-ra.
1.4- Tiracchānabhūmi: cõi súc-sinh là nơi tạm trú của các loài súc-sinh.
Apāyabhūmi cõi ác-giới còn gọi là dugati- bhūmi có 4 cõi là nơi tạm trú của 4 loài chúng- sinh địa-ngục, ngạ-quỷ, a-su-ra, súc-sinh. Các chúng-sinh này gọi là dugati-ahetukapuggala: chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới là loài chúng-sinh có tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả thuộc về bất-thiện-quả vô- nhân-tâm không có nhân nào trong 6 nhân (tham, sân, si, vô-tham, vô-sân, vô-si).
NIRAYABHŪMI: CÕI ĐỊA-NGỤC
Nirayabhūmi: cõi địa-ngục là cõi hoàn toàn không có sự an-lạc, chỉ có khổ mà thôi, chúng- sinh trong cõi địa-ngục thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh luôn luôn bị hành hạ suốt ngày đêm, chết rồi hoá-sinh trở lại, phải chịu bao nỗi thống khổ cùng cực, chẳng bao giờ được ngơi nghỉ.
Ác-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục?
Người ác nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, phạm điều-giới, tạo ác-nghiệp phạm giới.
Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả khổ của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Nirayabhūmi cõi địa-ngục có bao nhiêu loại, mỗi loại có bao nhiêu cõi?
Niraya với naraka đồng nghĩa với nhau. Narakabhūmi: cõi địa-ngục có 2 loại:
- Mahānaraka: đại-địa-ngục có 8 cõi lớn.
- Ussadanaraka: tiểu-địa-ngục (cūḷanaraka) bao quanh 8 đại-địa-ngục, mỗi đại-địa-ngục có 4 cửa, mỗi cửa có 4 tiểu-địa-ngục gồm có 8 x 4 x 4=128 ussadanaraka (cūḷanaraka):tiểu-địa-ngục.
I- Mahānaraka: đại-địa-ngục có 8 cõi:
1- Sañjīvanaraka là đại-địa-ngục mà chúng- sinh địa-ngục bị giết chết, rồi hoá-sinh trở lại trong đại-địa-ngục ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục dùng khí giới giết chúng-sinh địa-ngục ấy chết, rồi hoá-sinh ngay tức khắc trở lại, và cứ tiếp diễn như vậy, gọi đại-địa-ngục này là sañjīvanaraka.
2- Kāḷasuttanaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị đánh đập bằng sợi dây đen, rồi bị chặt ngay lằn dây ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục đánh đập chúng-sinh địa-ngục bằng sợi dây màu đen, rồi dùng đao to chặt chúng-sinh địa-ngục ấy, nên gọi đại-địa-ngục này là kāḷasuttanaraka.
3- Saṅghātanaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị hòn núi bằng sắt cháy đỏ chà xát chúng-sinh địa-ngục ấy thành bột.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị hòn núi to cao bằng sắt cháy đỏ sáng rực chà xát chúng-sinh địa-ngục thành bột, nên gọi đại-địa- ngục này là saṅghātanaraka.
4- Roruvanaraka (dhūmaroruva) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là roruva- naraka. Hoặc chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là dhūmaroruva.
5- Mahāroruvanaraka (jālāroruva) là đại- địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị lửa thiêu đốt 9 môn nóng rực không chịu nổi khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này chúng-sinh khóc than lớn tiếng hơn roruvanaraka, nên gọi đại-địa-ngục này là mahāroruvanaraka. Hoặc chúng-sinh địa- ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực không sao chịu nổi, khóc than lớn tiếng nhiều, nên gọi đại-địa-ngục này là jālāroruva.
6- Tāpananaraka (cūḷatāpana) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị cắm chặt một nơi thiêu đốt nóng rực.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị cắm chặt bởi cây giáo sắt ở một chỗ, lửa thiêu đốt nóng rực, nên gọi đại-địa-ngục này là tāpananaraka.
7- Mahātāpananaraka (patāpana) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực kinh khủng, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng thêm nữa.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh độc ác bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực kinh khủng, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng dữ dội, nên gọi đại-địa-ngục này là mahātāpananaraka.
8- Avīcinaraka là đại-địa-ngục mà chúng- sinh địa-ngục độc ác bị giam giữ 4 phía sắt nóng, bị thiêu đốt suốt thời gian không ngừng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh địa-ngục độc ác bị ngọn lửa địa-ngục thiêu đốt suốt thời gian không ngừng, nên gọi đại-địa-ngục này là avīcinaraka.
Ác-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục
Ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục đó là ác-nghiệp trong sân-tâm tạo thân ác-nghiệp, khẩu ác-nghiệp, ý ác-nghiệp.
* Trong tất cả mọi ác-nghiệp chỉ có ác-nghiệp trọng-tội gọi là pañcānantariyakamma: ngũ-vô- gián ác-nghiệp trọng-tội đó là ác-nghiệp giết cha, ác-nghiệp giết mẹ, ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán, ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ- khưu-Tăng là nặng hơn cả.
Nếu người ác nào đã phạm tội 1 trong 5 ác- nghiệp vô-gián trọng-tội này, sau khi người ác ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng làm gián đoạn được, nên gọi là ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariyakamma), chúng-sinh địa-ngục ấy phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt khoảng thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới mong thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy được.
* Và người ác nào có tà-kiến cố-định chấp-thủ không thay đổi gọi là niyatamicchādiṭṭhikamma: ác-nghiệp tà-kiến cố-định, có 3 loại:
- Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến.
- Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến.
- Akiriyādiṭṭhi: vô-hành tà-kiến.
Người ác ấy hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, đúng theo sự thật, nghiệp và quả của nghiệp là có thật sự, cho nên sau khi người ác ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt khoảng thời gian không có hạn định, bởi vì chúng-sinh ấy không biết ăn năn, không chịu từ bỏ tà-kiến cố-định của mình.
Ác-nghiệp cho quả tái-sinh mỗi đại-địa-ngục
1- Trong đời, người ác nào cậy có quyền thế hành hạ, đàn áp, giết người, làm khổ người yếu thế một cách không hợp pháp, hoặc bọn cướp tàn nhẫn tràn vào xóm làng uy hiếp dân lành, cướp của cải, giết người, v.v...
Sau khi người ác ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại- địa-ngục sañjīvamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
2- Trong đời, người ác nào hành hạ, làm khổ người có giới-đức, giết hại bậc xuất gia như tỳ- khưu, sa-di, đạo-sĩ, người có giới hạnh tốt, v.v...
Sau khi người ác ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại- địa-ngục kāḷasuttamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
3- Trong đời, người ác nào hành hạ các loài gia súc như trâu, bò, voi, ngựa, v.v... không có tâm bi thương xót chúng-sinh, và những người thợ săn thú rừng, bắn chim, v.v...
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa- ngục saṅghātamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
4- Trong đời, người ác nào đốt rừng thiêu đốt các sinh vật, làm nghề bẫy chim, bẫy thú rừng, làm nghề bắt cá bằng lưới, người nuôi gia cầm để bán thịt, v.v...
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa- ngục cūḷaroruvamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
5- Trong đời, người ác nào trộm cắp của cải đồ đạc của cha mẹ, của thầy tổ, của tỳ-khưu- Tăng, sa-di, của tu-nữ, trộm cắp phẩm vật cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, v.v...
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa- ngục mahāroruvamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
6- Trong đời, người ác nào đốt nhà, đốt chỗ ở của chư tỳ-khưu, sa-di, đốt chùa, phá ngôi bảo tháp, v.v...
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa- ngục cūḷatāpanamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
7- Trong đời, người ác nào không học hỏi về nghiệp và quả của nghiệp, nên có tà-kiến thấy sai chấp lầm, như sau:
- Là người có đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) cho rằng: chết là hết, không còn gì cả, không có tái- sinh kiếp sau nào cả.
- Là người có thường-kiến (sassatadiṭṭhi) cho rằng: người nào chết, rồi trở lại sinh làm người ấy, nghĩa là người giàu chết, rồi trở lại sinh làm người giàu; người nghèo chết, rồi trở lại sinh làm người nghèo; người chết như thế nào, rồi trở lại sinh làm người như thế ấy, v.v... Con chó nào chết, rồi trở lại sinh làm con chó ấy; con mèo nào chết, rồi trở lại sinh làm con mèo ấy; con thú nào chết, rồi trở lại sinh làm con thú ấy.
- Là người không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không tin đại-thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ; chỉ biết an-lạc hoặc khổ do số mạng mà thôi, ...
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa- ngục mahātāpanamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
8- Trong đời, người ác nào đã tạo 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariya- kamma) là ác-nghiệp giết cha, ác-nghiệp giết mẹ, ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán, ác- nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, hoặc có ác- nghiệp tà-kiến-cố-định (aniyatamicchādiṭṭhi) là ác-nghiệp vô-quả tà-kiến, ác-nghiệp vô-nhân tà-kiến, ác-nghiệp vô-hành tà-kiến, chấp-thủ cố định không thay đổi, hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.
Sau khi 2 hạng người ấy chết, chắc chắn ác- nghiệp trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục avīcimahānaraka.
Đối với chúng-sinh có ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.
Còn đối với chúng-sinh có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài, không có hạn định, bởi vì chúng-sinh ấy không chịu từ bỏ tà-kiến cố-định của mình.
Nhận xét về 2 loại ác-nghiệp trọng-tội
Hai loại ác-nghiệp trọng-tội đó là ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariyakamma) là ác- nghiệp giết cha, ác-nghiệp giết mẹ, ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán, ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng và ác-nghiệp tà-kiến-cố-định là ác-nghiệp vô-quả tà-kiến, ác-nghiệp vô-nhân tà-kiến, ác-nghiệp vô-hành tà-kiến.
Trong 2 loại ác-nghiệp trọng-tội này, ác-nghiệp tà-kiến-cố-định(1) là nặng hơn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, bởi vì người có ác-nghiệp tà- kiến-cố-định là người hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết ăn năn sám hối tội lỗi, không từ bỏ ác-nghiệp tà-kiến-cố- định của mình.
Còn người nào đã lỡ phạm 1 trong 5 ác- nghiệp vô-gián trọng-tội rồi, về sau, người ấy biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, trở thành người cận-sự-nam (hoặc cận-sự-nữ), tránh xa mọi ác-nghiệp, chỉ tạo mọi đại-thiện-nghiệp và cốgắng tinh-tấn tạo mọi phước-thiện mà thôi, chắc chắn không thể tạo sắc-giới thiện-nghiệp được, bởi vì, sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián trọng-tội có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci mà thôi, không có nghiệp nào có khả năng làm gián đoạn được. Chúng-sinh địa ngục phải chịu quả khổ lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa- ngục ấy.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, hậu-kiếp của người ấy nếu có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, người ấy có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp.
* Ví như trường-hợp, tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-trưởng-lão Mahāmoggallāna đã từng đánh cha mẹ đến chết, rồi bỏ vào bụi cây, đã phạm 2 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Sau khi tiền-kiếp ấy của Ngài chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục.
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp hiện-tại của Ngài Đại-trưởng- lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng-thanh-văn có phép thần-thông đệ nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Trước khi Ngài Đại-trưởng-lão Mahāmog- gallāna tịch diệt Niết-bàn, ác-nghiệp cũ còn dư sót, nên Ngài Đại-trưởng-lão bị bọn cướp đánh đập Ngài tan xương nát thịt, chúng tưởng Ngài đã chết, nên ném xác Ngài Đại-trưởng-lão vào bụi cây.
Ngài Đại-trưởng-lão Mahāmoggallāna vận dụng phép thần thông gắn liền lại, rồi bay đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xin tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Trường-hợp tỳ-khưu Devadatta đã tạo 2 ác- nghiệp vô-gián trọng-tội là làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.
Đến khi tỳ-khưu Devadatta bị lâm bệnh nặng, trước khi chết, tỳ-khưu Devadatta biết ăn năn hối hận về tội lỗi của mình, nên truyền bảo nhóm đệ-tử khiêng giường tỳ-khưu đang nằm đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin sám hối tội lỗi của mình.
Khi đến khuôn viên chùa Jetavana, đặt giường xuống để cho tỳ-khưu Devadatta rửa mặt, tỳ- khưu Devadatta vừa chạm đôi bàn chân xuống đất, thì mặt đất nứt làm đôi, hút thân hình của tỳ- khưu Devadatta xuống sâu trong lòng đất, tỳ- khưu Devadatta sau khi chết, ác-nghiệp trọng tội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Trong bộ Chú-giải Pháp-cú giải rằng:
“So hi ito satasahassakappamattake Aṭṭhissaro nāma Paccekabuddho bhavissati.”(2)
Sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, kể từ đại-kiếp trái đất này cho đến 100 ngàn đại-kiếp trái đất sau nữa, mãn quả của ác-nghiệp ấy, thoát ra khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara.
* Trường-hợp Đức-vua Ajātasattu đã giết Đức Phụ-vương Bimbisāra là bậc Thánh Nhập-lưu, đã phạm 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Sau đó, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, nên ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, Đức-Phật thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ Đức-vua. Sau khi nghe Đức-Phật thuyết- pháp xong, Đức-vua phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy y Tam-bảo rằng:
“Esāhaṃ bhante, Bhagavantaṃ saraṇam gacchāmi dhammañca bhikkhusaṃghañca. Upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.” (3)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đem hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi chư tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn nhận biết con là người cận-sự-nam đã quy y nơi Tam-bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Khi ấy, Đức-vua Ajātasattu kính xin sám hối tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình. Kính xin Đức-Phật chứng minh nhận biết sự sám hối tội lỗi của mình.
* Trong Chú-giải giảng rằng:
Sau khi nghe bài kinh Sāmaññaphalasutta này xong, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết đức-phụ-vương thì chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu ngay tại nơi ấy, nhưng vì Đức-vua Ajātasattu đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nên không thể trở thành bậc Thánh Nhập-lưu được.
Đức-vua Ajātasattu còn là phàm-nhân có đức- tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hết lòng lo phụng sự Tam-bảo đến trọn đời.
Thật vậy, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn được 3 tháng 4 ngày, Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, gồm có 500 bậc Thánh A-ra-hán, tại động Sattapaṇṇi gần kinh- thành Rājagaha.
Đức-vua Ajātasattu hộ độ 500 bậc Thánh A- ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Trong Chú-giải này, Đức-Phật truyền dạy được tóm lược như sau:
Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức-phụ-vương lẽ ra cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci chịu quả khổ suốt trong thời gian lâu dài, nhưng nhờ đại-thiện-nghiệp quy-y Tam- bảo và các đại-thiện-nghiệp khác nhất là đại- thiện-nghiệp hộ độ chư 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng lần thứ nhất, làm giảm được tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi) từ miệng nồi chìm xuống đến đáy nồi, trong khoảng thời gian 30 ngàn năm, rồi từ đáy nồi nổi lên miệng nồi trong khoảng thời gian 30 ngàn năm gồm có 60 ngàn năm mới thoát ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục này.
Sau khi thoát ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục, do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ trở thành Đức-Phật Độc- giác có danh hiệu là Vijitāvī.(4)
Đại-địa-ngục (mahānaraka)
Đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi sắp đặt chiều sâu của mỗi cõi đại-địa-ngục theo tuần tự, có khoảng cách nhau 15 ngàn do-tuần.
Mỗi cõi đại-địa-ngục có 4 hướng, mỗi hướng có một cửa, bên ngoài mỗi cửa có 4 địa-ngục ussadanaraka (cūḷanaraka: cõi tiểu-địa-ngục) nằm quanh 4 cửa.
Như vậy, đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi, mỗi cõi có 4 cửa gồm có 32 cửa địa-ngục mà mỗi cửa có 1 chúa địa-ngục, gồm có 32 chúa địa-ngục.
II. Ussadanaraka hoặc Cūḷanaraka
Ussadanaraka (cūḷanaraka: tiểu-địa-ngục) nằm xung quanh 8 cõi đại-địa-ngục tại 4 hướng, mỗi hướng có 4 cõi tiểu-địa-ngục, mỗi cõi đại- địa-ngục có 16 cõi tiểu-địa-ngục.
Như vậy, 8 cõi đại-địa-ngục gồm có 128 cõi tiểu-địa-ngục.
Ussadanaraka: cõi tiểu-địa-ngục có 4 cõi:
Bốn cõi ussadanaraka này nằm xung quanh 4 cửa của 8 cõi đại-địa-ngục có tên gọi giống nhau, nhưng chỉ có khác nhau về tội nặng, tội nhẹ mà thôi, theo thứ tự như sau:
- Gūthanaraka: cõi địa-ngục hầm phẩn thối.
- Kukkulanaraka: cõi địa-ngục hầm tro nóng.
- Simpalivananaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai nhọn.
- Vettaraṇīnaraka: cõi địa-ngục sông nước mặn đầy gai nhọn.
1- Gūthanaraka: cõi địa-ngục hầm phẩn thối
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi đại-địa- ngục avīci rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục gūthanaraka hầm phẩn thối, chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
* Một thuở nọ, Đức-vua Bồ-tát Nimi (5) truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối toả ra, chúng-sinh địa-ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy.
Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác- nghiệp như thế nào?
Vị thiên-nam Mātali biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh ấy, nên tâu rằng:
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy khi còn trên cõi người là những người phản bạn, hại bạn, thường làm khổ những người khác, những chúng-sinh khác, không có tâm từ, tâm bi.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm những chúng-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục này, phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy. Tâu Đại-vương.
2-Kukkulanaraka: cõi địa-ngục hầm tro nóng
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục gūthanaraka hầm phẩn thối rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục kukkulanaraka hầm tro nóng, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người nào buôn bán lừa dối, lấy hàng hoá xấu trộn lẫn vào hàng hoá tốt, rồi bán giá cao theo món hàng hoá tốt, phạm điều-giới trộm-cắp, tạo ác-nghiệp trộm-cắp.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa- ngục kukkulanaraka: hầm tro nóng, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy thiêu đốt làm cho đói khát không sao chịu nổi, chúng-sinh địa-ngục chạy đến sông uống nước thì uống phải tro nóng lại càng khổ hơn nữa, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy như vậy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
3-Simbalivananaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai bén nhọn.
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục kukkulanaraka hầm tro nóng rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục simpalivananaraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người đàn bà đã có chồng rồi, đi ngoại tình với người đàn ông khác, hoặc người đàn ông đã có vợ rồi, đi ngoại tình với người đàn bà khác, phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác- nghiệp tà-dâm.
Sau khi người đàn bà hoặc người đàn ông ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa-ngục simpali- vananaraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
4- Vettaraṇīnaraka: cõi địa-ngục sông nước mặn đầy gai nhọn.
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục simpalivananaraka rừng cây gai nhọn rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục vettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người phụ nữ nào có tác-ý phá thai trong bụng của mình phạm điều-giới sát-sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh.
Người phụ nữ ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa-ngục vettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
Yamalokanaraka
Tuy chúng-sinh đã chịu quả khổ của ác- nghiệp trong cõi đại-địa-ngục (mahānaraka) và cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm bên ngoài cách xa cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka.
Cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm quanh 4 hướng của cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka, mỗi hướng có 10 cõi địa-ngục nhỏ, gồm có 40 cõi địa-ngục yamalokanaraka.
Như vậy, cõi địa-ngục yamalokanaraka xung quanh 8 đại-địa-ngục, gồm có 320 cõi địa-ngục.
Yamalokanaraka có 10 cõi địa-ngục:
1- Lohakumbhīnaraka: cõi địa-ngục nồi đồng rất sâu và to lớn sôi sùng sục không ngừng.
2- Simbalinaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai bén nhọn có chất độc dành cho đàn bà hoặc đàn ông phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác-nghiệp tà-dâm.
3- Asinakhanaraka: cõi địa-ngục mà chúng- sinh sử dụng móng tay, móng chân bén nhọn của mình trở thành con dao bén xẻo da thịt trong thân của mình làm vật thực để ăn.
4- Tāmabodakanaraka: cõi địa-ngục nồi sắt nấu đồng sôi sùng sục không ngừng.
5- Ayoguḷanaraka: cõi địa-ngục tràn đầy những cục sắt cháy đỏ rực làm vật thực cho chúng-sinh trong cõi địa-ngục này.
6- Pissakapabbatanaraka: cõi địa-ngục có 4 hòn núi lớn ở 4 hướng di chuyển được, lăn đến chà xát các chúng-sinh địa-ngục chết, rồi hoá- sinh trở lại chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
7- Dhusanaraka: cõi địa-ngục mà chúng-sinh sống trong cõi này chịu đói khát khủng khiếp.
8- Sītalositanaraka: cõi địa-ngục có độ lạnh kinh khủng hơn hết, chúng-sinh trong cõi này chết vì lạnh, rồi hoá-sinh trở lại. Chúa địa-ngục bắt chúng-sinh ấy ném xuống cõi địa-ngục này, cứ như vậy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
9- Sunakhanaraka: cõi địa-ngục có nhiều loài chó địa-ngục cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa- ngục chết, rồi hoá-sinh trở lại như vậy.
10- Yantapāsāṇanaraka: cõi địa-ngục có hòn núi luôn luôn chạm vào nhau, chúa địa-ngục bắt chúng-sinh địa-ngục ném vào chỗ giữa 2 hòn núi chạm nhau, chúng-sinh ấy chết, rồi hoá-sinh trở lại, cứ như vậy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Lokantarikanaraka là cõi đại-địa-ngục đặc biệt nằm khoảng trống ở giữa là nơi giáp ranh của 3 cakkavāḷa (cõi vũ trụ thế-giới).
Lokantarikanaraka: cõi địa-ngục này hoàn toàn tối đen như mực, chúng-sinh trong cõi địa- ngục này có thân hình to lớn, có móng tay, móng chân cứng và dài để bám luôn luôn vào thành ranh giới vũ trụ thế-giới.
Như vậy, các cõi địa-ngục gồm có như sau:
- Mahānaraka (cõi đại-địa-ngục) có 8 cõi
- Ussadanaraka (cõi tiểu-địa-ngục) có 128 cõi
- Yamanaraka (cõi địa-ngục yama) có 320 cõi
- Lokantarika naraka (cõi địa-ngục lokantarika) có 1 cõi.
Toàn cõi địa-ngục gồm có 457 cõi.
Nhận xét về ác-nghiệp nặng
Ác-nghiệp nặng cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục mahānaraka, chúng-sinh ở trong cõi đại-địa-ngục chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Tuy đã được thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục, nhưng ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực, nên cho quả tái-sinh kiếp sau tiếp theo trong cõi tiểu-địa- ngục ussadanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy theo tuần tự qua 4 cõi tiểu-địa- ngục, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Tuy đã được thoát ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục, nhưng ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực, nên cho quả tái-sinh kiếp sau tiếp theo trong cõi địa- ngục yamalokanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Nếu ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực thì cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp cho đến mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Chúng-sinh chịu quả khổ của ác-nghiệp trong mỗi cõi địa-ngục lâu dài hoặc mau hoàn toàn tuỳ thuộc vào ác-nghiệp nặng nhiều hoặc nặng ít, cho nên tuổi thọ của chúng-sinh trong cõi địa- ngục không nhất định.
* Như trường hợp sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái- sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy từ cõi đại-địa-ngục đến cõi tiểu-địa-ngục suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện- nghiệp mới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân rồi trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara(6).
* Trường-hợp sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī, chịu khổ của ác-nghiệp ấy suốt 60 ngàn năm mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện- nghiệp mới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân rồi trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Vijitāvī.
Cho nên, khi được sinh làm người mà người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, vì dể duôi quên mình, có tác-ý trong ác-tâm tạo ác-nghiệp nặng nào, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nặng ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục, rồi từ cõi tiểu-địa-ngục này đến cõi tiểu-địa-ngục khác, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Hậu-kiếp của người ấy, để có được đại-thiện- nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, thật là một điều vô cùng khó khăn.
Như Đức-Phật dạy rằng:
“Manussattabhāvo dullabho”. (Được sinh làm người là một điều rất khó).
Chúng ta có diễm phúc được sinh làm người rồi, cần phải nên quý trọng, cố gắng giữ gìn các điều-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, đối với người tại gia, cần phải giữ gìn ngũ- giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, tránh xa mọi ác-nghiệp dù nhẹ, bởi vì ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai, và cố gắng tinh-tấn tạo mọi đại-thiện-nghiệp dù nhỏ dù lớn, bởi vì đại-thiện- nghiệp có cơ hội cho quả an-lạc trong kiếp hiện- tại và vô số kiếp vị-lai.
* Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là kiếp Đức- Bồ-tát Thái-tử Temiya(7) sinh ra được một tháng tuổi nhớ lại tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát theo tuần tự như sau:
* Tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya là vị thiên-nam trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Tiền-kiếp của vị Đức-Bồ-tát thiên nam là chúng-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp suốt 80.000 năm.
* Tiền-kiếp của chúng-sinh trong cõi tiểu- địa-ngục ussadanaraka là Đức-vua Bồ-tát Kāsi ngự tại kinh-thành Bārāṇasī trị vì đất nước Kāsi 20 năm. Đức-vua Kāsi đã tạo ác-nghiệp, sau khi Đức-vua băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 80.000 năm, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya đã nhớ lại được tiền-kiếp của mình như vậy, nên phát sinh tâm kinh sợ đến lúc trưởng thành sẽ lên ngôi làm vua. Để tránh lên ngôi làm vua, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya phát-nguyện 3 điều:
- Ta không phải là người bại liệt, ta phát nguyện làm như người bại liệt.
- Ta không phải là người điếc, ta phát nguyện làm như người điếc.
- Ta không phải là người câm, ta phát nguyện làm như người câm.
Ta quyết tâm thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo 3 điều phát nguyện này, để tránh lên ngôi làm vua.
Thật vậy, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya nghiêm chỉnh thực-hành ròng rã suốt 16 năm.
Các vị bà-la-môn tâu lên Đức-vua Kāsirājā:
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya là người xui xẻo kāḷakaṇṇī sẽ gây tai hoạ đến Đức-vua, Chánh- cung Hoàng-hậu và triều đình.
Tin theo lời các vị bà-la-môn, Đức-vua Kāsirājā truyền lệnh cho người đánh xe Sunanda chở Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya vào rừng sâu chôn sống Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya.
Khi rời khỏi kinh-thành Bārāṇasī, đến khu rừng, Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya đã thành tựu pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật bậc thượng, tránh được lên ngôi làm vua một cách hợp pháp, nên Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya xuất gia trở thành đạo-sĩ sống trong rừng thực-hành bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho đến hết tuổi thọ.
Mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này, chắc là có nhiều kiếp đã từng tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a- su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
Nếu như người nào nhớ lại được tiền-kiếp của mình đã từng chịu khổ cùng cực trong cõi địa- ngục, thì người ấy trong kiếp hiện-tại này chắc không dám phạm điều-giới nào, tạo ác-nghiệp ấy, bởi vì, chỉ có ác-nghiệp mới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới mà thôi.
Người ấy giữ-giới các điều-giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, tạo đại-thiện-nghiệp, để tránh khỏi tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.
PETTIVISAYABHŪMI: CÕI NGẠ-QUỶ
Pettivisayabhūmi: cõi ngạ-quỷ không có riêng biệt, rải rác mọi nơi trong rừng, núi, sông, suối, biển, nghĩa-địa, xóm làng, v.v... loài ngạ- quỷ thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh trong cõi ngạ-quỷ, thường chịu cảnh khổ đói khát lạnh lẽo, v.v...
Ác-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm loài ngạ-quỷ trong cõi ngạ-quỷ?
Người ác nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, phạm điều-giới, tạo ác-nghiệp phạm giới.
Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm loài ngạ-quỷ trong cõi ngạ-quỷ, chịu quả khổ đói khát, lạnh lẽo,... của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi kiếp ngạ- quỷ ấy.
Loài ngạ-quỷ thuộc về loại chúng-sinh hoá- sinh có thân hình rất vi-tế mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy, chỉ có bậc nào có thiên-nhãn-thông mới có khả năng nhìn thấy rõ các loài ngạ-quỷ được; hoặc nếu khi loài ngạ- quỷ biến hoá ra thân hình thô thì mắt thường của con người có thể nhìn thấy được.
* Loài ngạ-quỷ (petti) không có cõi riêng biệt, sống khắp mọi nơi như trong rừng, núi, sông, suối, biển, nghĩa-địa, xóm làng, v.v...
Loài ngạ-quỷ có nhiều nhóm, nhóm có thân hình nhỏ, nhóm có thân hình to lớn, nhóm có khả năng biến hoá thành người đàn ông, đàn bà, trẻ con, tỳ-khưu, sa-di, tu-nữ, v.v... hoặc biến hoá thành các con thú như con bò, con trâu, con chó, con mèo, v.v... khi thì hiện hình rõ ràng, khi thì hiện hình mờ mờ không rõ, v.v...
Tất cả mọi loài ngạ-quỷ đều phải chịu quả khổ của ác-nghiệp, thường chịu cảnh khổ đói khát, có nhóm ăn đồ dơ dáy như nước đàm, nước miếng, máu, mủ, v.v...
Nhóm ngạ-quỷ nương nhờ nơi các núi rừng không chỉ chịu cảnh khổ đói khát, lạnh lẽo,... mà còn bị hành hạ như chúng-sinh địa-ngục nữa.
Peta: Ngạ-quỷ có 4 loại
1- Paradattupajīvikapeta: loài ngạ-quỷ nuôi mạng do nương nhờ người khác hồi-hướng phần phước-thiện.
2- Khuppīpāsikapeta: loài ngạ-quỷ thường chịu cảnh đói khát, lạnh lẽo, ...
3-Nijjhāmataṇhikapeta: loài ngạ-quỷ thường bị lửa thiêu đốt làm nóng rực không chịu nổi.
4- Kālakañcikapeta: loài ngạ-quỷ trong nhóm loài a-su-ra hoặc loài ngạ-quỷ có tên giống loài a-su-ra.
Chuyện loài ngạ-quỷ Kālakañcikapeta
Ngày nọ, ngạ-quỷ kālakañcikapeta khát nước dữ dội muốn uống nước, nên đi tìm đến con sông gaṇgā, bước xuống sông để uống nước, do năng lực của ác-nghiệp nước ấy biến ra đất bốc lửa khói lên nghi ngút, nhưng ngạ-quỷ ấy vẫn nghe tiếng nước chảy mà không thấy nước đâu cả, mãi đi tìm từ chiều đến sáng ngày hôm sau.
Buổi sáng hôm ấy, nhóm 30 tỳ-khưu đi khất thực, dọc theo bờ sông nhìn thấy ngạ-quỷ kāla- kañcikapeta đang đi tìm nước.
Vị tỳ-khưu đến hỏi rằng:
- Này người kia! Ngươi đang đi tìm gì vậy? Ngạ-quỷ kālakañcikapeta thưa rằng:
- Kính bạch Ngài, con khát nước dữ dội, nên con đang đi tìm nước uống.
Chư tỳ-khưu nói với ngạ-quỷ rằng:
- Này người kia! Nước sông ở trước mặt, ngươi không nhìn thấy sao?
- Kính bạch Ngài, con không thấy nước, nhưng vẫn nghe tiếng nước chảy. Con đi tìm nước từ ngày hôm qua đến hôm nay vẫn chưa thấy nước.
Chư tỳ-khưu bảo ngạ-quỷ rằng:
- Này người kia! Ngươi hãy nằm ngửa xuống đây, chúng tôi sẽ múc nước cho ngươi uống no đủ.
Vâng lời chư tỳ-khưu, ngạ-quỷ ấy nằm há miệng ra, 30 vị tỳ-khưu mỗi vị theo tuần tự đem bát đi xuống sông múc nước đổ vào miệng ngạ- quỷ, nhưng chỉ vào được chút đỉnh mà thôi, bởi vì miệng của ngạ-quỷ ấy nhỏ như lỗ kim.
(Trích trong bộ Chú-giải Sammohavinodanī)
Loài ngạ-quỷ nào nhận được phần phước- thiện của thí-chủ?
Trong 4 loài ngạ-quỷ này, chỉ có loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta là loài ngạ-quỷ có thể nhận được phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến loài ngạ- quỷ này mà thôi, bởi vì loài ngạ-quỷ này còn có ác-nghiệp nhẹ, nên được sống gần gũi với loài người, để trông chờ nhận được phần phước- thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến cho chúng.
Khi nhóm ngạ-quỷ này biết có người bà con thân quyến hoặc các thí chủ tạo phước-thiện, rồi hồi hướng phần phước-thiện đến loài ngạ-quỷ ấy, nên chúng hiện đến chờ đợi, khi nghe người nói lên lời hồi hướng phần phước-thiện đến cho nhóm ngạ-quỷ, chúng liền phát sinh đại-thiện- tâm hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Ngay khi ấy, chúng ngạ-quỷ nhận được phần phước-thiện hoan-hỷ ấy, là đại-thiện-nghiệp hoan-hỷ cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng được mọi sự an-lạc trong cõi trời dục-giới ấy.
Nếu ngạ-quỷ nào không biết, thì ngạ-quỷ ấy không có cơ hội hưởng phần phước-thiện ấy, nên ngạ-quỷ ấy vẫn còn phải chịu cảnh khổ đói khát như vậy.
* Như trường-hợp nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra (8) trong quá-khứ xa xưa, từ thời-kỳ Đức-Phật Phussa xuất hiện trên thế gian, cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama của chúng ta, trải qua thời gian lâu dài khoảng cách 92 đại-kiếp trái đất, có 8 Đức-Phật đã tuần tự xuất hiện trên thế gian.
Nhóm người bà con thân quyến ấy vốn là những người hộ độ Đức-Phật Phussa cùng chư tỳ-khưu-Tăng, họ đã tự tiện lấy dùng những vật thực cúng dường của chư tỳ-khưu-Tăng, lại còn gây gỗ với nhau, đốt nhà bếp, phạm ác-nghiệp trộm cắp của chư tỳ-khưu-Tăng.
Sau khi họ chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục, khi ra khỏi cõi đại-địa-ngục, rồi ác-nghiệp ấy còn cho quả tái- sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục, khi ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục này, rồi ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục kia, và cứ như vậy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục ấy.
Như vậy, ác-nghiệp vẫn còn dư sót, nên cho quả hoá-sinh làm loài ngạ-quỷ.
* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Đức-Phật thuyết-pháp tế độ chúng sinh trong khắp mọi nơi. Đức-Phật ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, Đức-Phật thuyết-pháp tế độ Đức- vua Bimbisāra, các quan trong triều và dân chúng trong kinh-thành Rājagaha.
Sau khi lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật xong, Đức-vua Bimbisāra cùng với số đông các quan trong triều cùng dân chúng trong kinh- thành Bārāṇasī, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Khi ấy, Đức vua Bimbisāra đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để con tạo phước- thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Bạch Ngài.
Đức-Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời.
Hay tin Đức-vua Bimbisāra tạo phước-thiện bố-thí như vậy, nên sáng hôm sau, nhóm ngạ- quỷ đã từng là bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong tiền-kiếp hiện đến đứng chờ sẵn, để mong phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy.
Đức-Phật ngự đến cung điện của Đức-vua cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, Đức-vua Bimbisāra tự tay kính dâng các món vật thực đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng xong. Khi ấy, Đức-vua hướng tâm suy xét nên xây dựng ngôi chùa nơi nào cho thích hợp với Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên Đức-vua không hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các hàng ngạ-quỷ nào cả.
Nhóm ngạ-quỷ đã từng bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong tiền-kiếp, không nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy, nên chúng vô cùng thất vọng, khổ tâm. Ban đêm, nhóm ngạ- quỷ ấy hiện đến cung điện của Đức-vua, khóc than thảm thiết, làm cho Đức-vua Bimbisāra vô cùng kinh sợ.
Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm hôm qua, con nghe những tiếng khóc than thảm thiết, làm cho con vô cùng kinh sợ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có điều gì bất hạnh đối với con, hoặc triều đình của con hay không? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Đại-vương! Con chớ nên lo sợ, chẳng có điều gì bất hạnh đối với con cả. Đó là tiếng khóc than của nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của con trong tiền-kiếp.
Hôm qua, nhóm ngạ-quỷ ấy hay tin con tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Như-lai cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên nhóm ngạ-quỷ ấy hiện đến đứng chờ đợi con hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các hàng ngạ-quỷ, nhưng sau khi con tạo phước- thiện bố-thí cúng dường xong, con không hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các hàng ngạ-quỷ, nên nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của con trong tiền-kiếp, không nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy, nên chúng nó vô cùng thất vọng, khổ tâm.
Đêm hôm qua, nhóm ngạ-quỷ ấy hiện đến khóc than thảm thiết như vậy.
Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai con sẽ tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Thế- Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi con hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của con trong tiền-kiếp, họ sẽ nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy hay không? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Đại-vương! Nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của con trong tiền-kiếp sẽ nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy.
Đức-vua Bimbisāra kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để con tạo phước- thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Bạch Ngài.
Đức-Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời.
Đức-vua Bimbisāra chuẩn bị tạo phước-thiện bố-thí cúng dường vào ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong tiền-kiếp hiện đến đứng chờ sẵn, với hy vọng sẽ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy.
Đức-Phật ngự đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Đức-vua Bimbisāra tự tay kính dâng các món vật thực đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, rồi kính dâng bộ y đến Đức-Phật và kính dâng bộ y đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Khi ấy, Đức-vua Bimbisāra hồi hướng phần phước- thiện ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến rằng:
“Idaṃ me ñātīnaṃ hotu.”
Phước-thiện bố-thí thanh cao này, cầu mong cho được thành-tựu đến cho nhóm ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến của tôi.
Ngay khi ấy, nhóm ngạ-quỷ ấy phát sinh đại- thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong tiền-kiếp, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan- hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao là đại-thiện-nghiệp hoan-hỷ ấy liền cho quả đến nhóm ngạ-quỷ ấy đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, nhờ đại-thiện-nghiệp hoan-hỷ ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, có đầy đủ các món vật thực ngon lành, có y phục lộng lẫy của vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới.
Những tích tương tự như vậy có nhiều trong bộ Petavatthu, bộ Vimānavatthu.
* Trong bộ Lokapaññatti và bộ Chagatidīpanī trình bày ngạ-quỷ có 12 loài:
1- Vantāsapeta: loài ngạ-quỷ ăn nước miếng, đàm, đồ ói mửa.
2- Kuṇapāsapeta: loài ngạ-quỷ ăn tử thi người và thú-vật.
3- Gūthakhādakapeta: loài ngạ-quỷ ăn các loại phẩn.
4- Aggijālamukhapeta: loài ngạ-quỷ luôn luôn có ngọn lửa phát ra từ trong miệng.
5- Sūcimukhapeta: loài ngạ-quỷ có miệng bằng lỗ kim.
6- Taṇhaṭṭitapeta: loài ngạ-quỷ bị hành hạ bởi tham-ái đói ăn, khát uống luôn luôn.
7- Sunijjhāmakapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình đen thui như cội cây bị cháy.
8- Satthaṅgapeta: loài ngạ-quỷ có móng tay, móng chân dài và bén nhọn như lưỡi kiếm.
9- Pabbataṅgapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình to cao.
10- Ajagaraṅgapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình như con trăn.
11- Vemānikapeta: loài ngạ-quỷ chịu khổ ban ngày, ban đêm hưởng an-lạc trong lâu đài trên cõi trời dục-giới.
12- Mahiddhikapeta: loài ngạ-quỷ có phép biến hoá nhiều loại, là chúa của các ngạ-quỷ.
* Trong Tạng Luật Pāḷi, bộ Lakkaṇasamyutta Pāḷi trình bày ngạ-quỷ có 21 loài:
1- Aṭṭhisaṅkhasikapeta: loài ngạ-quỷ có bộ xương không có thịt.
2- Maṃsapesikapeta: loài ngạ-quỷ có từng cục thịt không có xương.
3- Maṃsapiṇḍapeta: loài ngạ-quỷ có cục thịt.
4- Nicchaviparisapeta: loài ngạ-quỷ không có da.
5- Asilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông nhọn như lưỡi kiếm.
6- Sattilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông nhọn như mũi lao.
7- Usulomapeta: loài ngạ-quỷ có lông dài như mũi tên.
8- Sūcilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông như mũi kim.
9- Dutiyasūcilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông như mũi kim dài.
10- Kumbhaṇḍapeta: loài ngạ-quỷ có tinh- hoàn (hòn dái) to lớn.
11- Gūthakūpanimuggapeta: loài ngạ-quỷ chìm trong hầm phẩn.
12- Gūthakhādakapeta: loài ngạ-quỷ ăn phẩn.
13- Nicchavitakapeta: loài nữ ngạ-quỷ không có da.
14- Duggandhapeta: loài ngạ-quỷ có mùi hôi.
15- Ogilinīpeta: loài ngạ-quỷ có thân hình như than hồng.
16- Asīsapeta: loài ngạ-quỷ không có đầu.
17- Bhikkhupeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như tỳ-khưu.
18- Bhikkhunīpeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như tỳ-khưu-ni.
19- Sikkhamānapeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sikkhamānā.
20- Sāmaṇerapeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sa-di.
21- Sāmaṇerīpeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sa-di-ni.
Nhận xét về loài ngạ-quỷ
Loài ngạ-quỷ có 4 loài, có 12 loài, có 21 loài, ngoài ra còn có loài ngạ-quỷ khác rải rác trong các bộ trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi khác, trong tất cả các loài ngạ-quỷ ấy chỉ có loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta có thể nhận được phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc những người khác hồi hướng đến cho loài ngạ- quỷ ấy mà thôi, bởi vì loài ngạ-quỷ này có ác- nghiệp đã giảm dần còn nhẹ, nên được sống gần gũi với loài người, trông chờ nhận phần phước- thiện hồi hướng của bà con thân quyến hoặc các thí-chủ khác.
Những loài ngạ-quỷ còn lại không thể nhận được phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng phần phước-thiện đến cho chúng được, bởi vì những loài ngạ-quỷ ấy có ác-nghiệp vẫn còn nặng, vả lại những loài ngạ-quỷ ấy sống cách xa loài người, nên chưa có cơ hội nhận được phần phước-thiện hồi hướng của bà con thân quyến hoặc những người khác.
* Đối với loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta sống gần gũi với loài người, vả lại ác-nghiệp của loài ngạ-quỷ này đã giảm nhẹ nhiều rồi, nếu loài ngạ-quỷ này chờ có cơ-hội nhận được phần phước-thiện hồi hướng của bà con thân quyến hoặc người người khác, thì loài ngạ-quỷ para- dattupajīvikapeta này phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời rằng: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Ngay khi ấy, loài ngạ- quỷ paradattupajīvikapeta ấy được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng sự an- lạc trên cõi trời dục-giới ấy.
Loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta có 2 nhóm
1- Tiền-kiếp của nhóm ngạ-quỷ đã từng tạo ác-nghiệp nặng, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục (mahānaraka), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi đại- địa-ngục ấy xong, nhưng năng lực của ác-nghiệp vẫn còn, nên tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau trong các cõi tiểu-địa-ngục (ussadanaraka) theo tuần tự cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi tiểu-địa-ngục ấy xong, nếu năng lực của ác- nghiệp vẫn còn thì tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục yamalokanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi địa-ngục ấy xong, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Nếu có đại-thiện-nghiệp đã tích luỹ từ những kiếp quá-khứ xa xưa của chúng-sinh địa-ngục ấy thì đại-thiện-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái- sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm chư- thiên trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.
* Nếu không có đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả thì ác-nghiệp còn dư sót ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài ngạ-quỷ paradattupa- jīvikapeta sống gần gũi với loài người chờ cơ- hội nhận phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến cho chúng. (Như nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong tiền-kiếp).
* Nếu loài ngạ-quỷ nào hay biết hiện đến chờ cơ hội phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nói lên lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì loài ngạ-quỷ ấy nhận được phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến cho họ. Ngay khi ấy, loài ngạ-quỷ ấy thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời, hưởng mọi an-lạc trong cõi trời ấy.
* Nếu loài ngạ-quỷ nào không hay tin, không hiện đến chờ thì loài ngạ-quỷ ấy không có cơ hội nhận được phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến cho họ.
2- Người nào phạm điều-giới, có tham-tâm dính mắc trong của cải tài-sản của mình.
Đến lúc lâm chung nếu người ấy lưu luyến của cải tài-sản với tham-tâm tiếc nuối, nên sau khi người ấy chết, thì ác-nghiệp trong tham-tâm ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta tại quanh ngôi nhà. Hoặc nếu người nào lúc lâm chung với tham-tâm lưu luyến ngôi nhà, con cháu, v.v...
Sau khi người ấy chết, thì ác-nghiệp trong tham-tâm ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta tại ngôi nhà ấy. Loài ngạ-quỷ ấy đôi khi báo mộng cho con cháu biết, hoặc hiện hình cho con cháu thấy mờ mờ.
* Trong trường hợp này, bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có giới đức trong sạch đến nhà tạo phước-thiện bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến loài ngạ-quỷ thân quyến của mình rằng:
“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo”
Cầu mong phần phước-thiện thanh cao này được thành tựu đến thân quyến của chúng tôi.
Cầu mong thân quyến của chúng tôi hưởng được sự an-lạc.
* Nếu loài ngạ-quỷ ấy hiểu biết về phước- thiện, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”thì nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy. Ngay khi ấy, thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ đại- thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm vị thiên-nam hoặc vị thiên- nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.
Hồi hướng phước-thiện (pattidānakusala)
Vấn: Một người thân nào đã chết, gia đình bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng có giới đức trong sạch đến nhà, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường, để hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến cho người thân quá vãng ấy có được thành-tựu hay không?
Đáp: Bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có giới đức trong sạch đến nhà làm phước thiện bố-thí, cúng dường, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến cho người thân nào đã quá vãng, người thân ấy có nhận được hay không, nên xem xét trong các trường- hợp như sau:
* Sau khi người thân ấy chết, nếu ác-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta đến chờ đợi sẵn để phát sinh đại-thiện-tâm nói lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì nhận được phần phước-thiện hồi hướng ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ ấy, ngay khi ấy, đại- thiện-nghiệp hoan-hỷ phần phước-thiện hồi hướng ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên cõi trời dục-giới ấy.
Chỉ có trường hợp kiếp sau của người thân ấy thuộc về loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta mới nhận được phần phước-thiện bố-thí của bà con thân quyến hồi hướng đến loài ngạ-quỷ ấy mà thôi. Ngoài ra, kiếp sau của người thân ấy thuộc về các loài chúng-sinh khác thì khó có thể nhận được phần phước-thiện bố-thí hồi hướng của thân quyến, với lý do như sau:
* Nếu sau khi người thân nào chết, đại-thiện- nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì người thân ấy hoàn toàn không hay biết thân quyến tạo phước-thiện bố-thí hồi hướng đến cho mình.
* Nếu sau khi người thân nào chết, ác-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, hoặc hoá-sinh làm loài a-su-ra, hoặc loài súc-sinh, hoặc loài ngạ-quỷ khác ở cách xa loài người, thì kiếp sau của người thân ấy hoàn toàn không hay biết thân quyến tạo phước-thiện bố-thí hồi hướng đến cho mình, nên không nhận được phần phước-thiện bố-thí hồi hướng của thân quyến.
* Nếu sau khi người thân nào chết, đại-thiện- nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, thì dù vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy có hay biết thân quyến tạo phước-thiện bố-thí hồi hướng đến cho mình, cũng không màng đến phước-thiện bố-thí ấy.
* Tuy nhiên trường hợp, nếu bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có giới đức trong sạch đến nhà làm phước thiện bố-thí, cúng dường, tụng kinh Pāḷi, thuyết-giảng chánh- pháp, làm pháp-thí,... tạo các phước-thiện cao- quý ấy, rồi hồi hướng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho tất cả chúng-sinh không có chỉ định riêng cho người nào cả, thì trong tất cả chúng-sinh ấy ắt có những người thân đã quá vãng, chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ cũng đều phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao ấy, bởi vì Đức-Phật dạy:
Pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi bố-thí.
Vậy, sau khi các thí-chủ tạo phước-thiện nào rồi, nên đọc câu hồi hướng đến tất cả bà con thân quyến đã quá vãng rằng:
“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo”
“Cầu mong phước-thiện này được thành-tựu đến cho tất cả mọi bà con thân quyến quá vãng của chúng con, xin cho tất cả mọi bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi khổ, hưởng được mọi sự an-lạc”.
Như vậy, trong vòng tử sinh luân-hồi từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp, cho đến kiếp hiện-tại này, chắc chắn trong số thân quyến quá vãng ấy ắt có số thân quyến thuộc về loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta đến chờ đợi sẵn để phát sinh đại-thiện-tâm nói lời hoan-hỷ rằng:
“Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” rồi thọ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy, để thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời dục-giới ấy.
Cho nên, sau khi thí-chủ tạo phước-thiện nào rồi, nên đọc câu hồi hướng đến tất cả chúng-sinh và tất cả bà con thân quyến như sau:
Imaṃ puññabhāgaṃ mātāpitu ācariya ñāti mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbe pi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phần phước-thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng- sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc- sinh, chư-thiên trong cõi trời dục-giới,... Xin quý vị hoan-hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này, cầu mong quý vị thoát khỏi mọi cảnh khổ, hưởng được mọi sự an-lạc lâu dài trong khắp mọi nơi.
* Tìm hiểu về sự-thật chúng-sinh tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài:
Cuticitta: tử-tâm (chết) là quả-tâm cuối cùng kết thúc kiếp hiện-tại diệt và liền theo paṭi- sandhicitta: tái-sinh-tâm sinh là quả-tâm bắt đầu sinh kiếp sau cùng trong cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) đối với các hạng phàm- nhân và 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập- lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai. (Ngoại trừ bậc Thánh A-ra-hán).(2)
Đồ biểu ý-môn-cận-tử-lộ-trình-tâm (Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi)
Ý-môn-cận-tử-lộ-trình-tâm
Dục-giới tác-hành-tâm trong ý-môn-cận-tử-lộ-trình- tâm (Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi) có các tâm sinh rồi diệt liên tục như sau:
1- Bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm viết tắt bha
2- Bhavaṅgacalana: hộ-kiếp-tâm rung động vt na
3- Bhavaṅgupaccheda: hộ-kiếp-tâm bị ngưng vt da
4- Manodvāravajjanacitta: ý-môn-hướng-tâm vt ma
5-9- Javanacitta: tác-hành-tâm vt ja
10- Tadālambanacitta: tiếp-đối-tượng-tâm vt ta
11- Cuticitta: tử-tâm vt cu
12- Paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm vt paṭ
13- Bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm vt bha
Giải thích:
1- Bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng cũ quá-khứ, theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt bha)
2- Bhavaṅgacalana: hộ-kiếp-tâm rung động do 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kamma- nimitta, hoặc gatinimitta, nhưng vẫn còn giữ đối- tượng cũ quá-khứ, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt na)
3- Bhavaṅgupaccheda: hộ-kiếp-tâm bị ngưng đối-tượng cũ quá-khứ, bởi vì 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kammanimitta, hoặc gatinimitta phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt da)
4- Manodvāravajjanacitta:ý-môn-hướng-tâm tiếp nhận 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma: thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, hoặc kamma- nimitta: hiện tượng của thiện-nghiệp hoặc ác- nghiệp, hoặc gatinimitta: cõi ác-giới hoặc cõi thiện-giới, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt ma)
5- Javanacitta: tác-hành-tâm là tâm làm phận sự tạo nghiệp (đại-thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp) có 1 trong 3 đối-tượng giống như ý-môn-hướng- tâm trước, phát sinh chỉ có 5 sát-na-tâm yếu ớt rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt ja)
6- Tadārammaṇacitta: tiếp-đối-tượng-tâm là tâm tiếp đối-tượng sót lại của tác-hành-tâm, phát sinh 2 sát-na tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt ta)
7- Cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng kết thúc kiếp hiện-tại có đối-tượng cũ quá-khứ, làm phận sự chuyển kiếp (chết), kết thúc kiếp hiện- tại, phát sinh 1 sát-na tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt cu)
8- Paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là quả-tâm làm phận sự tái-sinh bắt đầu của kiếp sau kế tiếp, có 1 trong 3 đối-tượng là kamma hoặc kammanimitta hoặc gatinimitta giống như ý- môn-hướng-tâm, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, làm duyên cho tâm tiếp theo. (viết tắt pat)
9- Bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng giống như tái-sinh-tâm (kiếp-hiện- tại), theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, chấm dứt ý-môn cận-tử-lộ-trình-tâm. (viết tắt bha)
Theo dục-giới tác-hành-tâm ý-môn-cận-tử lộ- trình-tâm thì cuticitta: tử-tâm cuối cùng kết thúc kiếp hiện-tại diệt và tiếp theo paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm sinh bắt đầu của kiếp sau kế-tiếp chỉ có cách nhau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có thời gian khoảng cách chờ đợi.
Như vậy, cuticitta: tử-tâm (chết) là quả-tâm cuối cùng kết thúc kiếp hiện-tại và paṭisandhi- citta: tái-sinh-tâm là quả-tâm bắt đầu của kiếp sau không có thời gian khoảng cách, nghĩa là cuticitta: tử-tâm diệt liền tiếp theo paṭisandhi- citta: tái-sinh-tâm sinh, trong cùng cận-tử-lộ- trình-tâm (maraṇāsannavīthi).
Nói nôm na là kiếp hiện-tại chết và kiếp sau sinh chỉ có cách 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có khoảng cách thời gian chờ đợi.
* Sau khi hạng phàm-nhân chết, nếu ác- nghiệp trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác- giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ của ác-nghiệp trong cõi ác-giới ấy.
Chúng-sinh trong cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài súc-sinh không hay biết đến phước-thiện bố- thí của bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ.
Trong tích Tirokuḍapetavatthu(10), Đức-Phật dạy có câu kệ rằng:
“Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”
Cầu mong phước-thiện bố-thí này được thành tựu đến bà con thân quyến là loài ngạ-quỷ của các con, xin bà con thân quyến loài ngạ-quỷ ấy được hưởng mọi sự an-lạc.
Và “Evameva ito dinnaṃ, petānaṃ upakappati.
Phước-thiện bố-thí mà thân quyến cõi người đã hồi hướng, được thành tựu đến các ngạ-quỷ như vậy.
Loài ngạ-quỷ ở đây đó là loài ngạ-quỷ para- dattupajīvikapeta bà con thân quyến của Đức- vua Bimbisāra đang chờ đợi để phát sinh đại- thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” rồi nhận phần phước-thiện bố-thí của Đức-vua Bimbisāra.
Còn lại các loài ngạ-quỷ khác không có cơ hội nhận phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng, bởi vì chúng sống cách xa loài người, nên không hay biết, vả lại chúng đang còn chịu quả khổ của ác-nghiệp.
* Sau khi hạng phàm-nhân chết, nếu đại-thiện- nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
có 9 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả đại-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người hoặc hoá- sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ 1 trong 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-dục-giới ấy cho đến hết tuổi thọ.
- Như vậy, nếu đầu-thai làm người thì người ấy không hay biết gì đến phần phước-thiện bố- thí của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng đến cho mình.
- Nếu hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới dù có biết cũng không quan tâm đến, bởi vì phần phước-thiện bố-thí ấy là tầm thường, nhưng nếu có phước- thiện nghe pháp (dhammassavanakusala) hoặc phước-thiện thuyết-pháp (dhammadesanākusala) thì chư-thiên đều vô cùng hoan-hỷ nhận phần pháp-thí ấy, bởi vì Đức-Phật dạy rằng:
“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti.”
Pháp-thí là cao quý hơn tất cả mọi phước- thiện bố-thí.
Ác-nghiệp trong 8 tham-tâm phần nhiều cho quả tái-sinh kiếp sau trong các loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra.
CÕI A-SU-RA
Asurabhūmi: cõi a-su-ra có nhiều nơi chốn theo mỗi nhóm a-su-ra riêng biệt, các nhóm a-su- ra đều thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh.
Ác-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm loài a-su-ra trong cõi a-su-ra?
Trong cõi người này, người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có quyền lực, giàu có nhưng là người thiểu trí, ít học, nên không biết phân biệt bậc thiện-trí cao thượng (paṇḍita) đáng kính trọng, và kẻ ác-nhân (bāla) đáng chê trách, nên người ấy chê trách, khinh thường bậc thiện-trí cao thượng, và ngược lại kính trọng, tán dương ca tụng kẻ ác-nhân, tạo ác-nghiệp sai lầm ấy.
Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp trong tham-tâm có tà-kiến thấy sai chấp lầm ấy có nhiều năng lực có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) hoá-sinh làm loài a-su-ra trong cõi a-su-ra, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi kiếp a-su-ra ấy.
Loài a-su-ra đều thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh có tham-tâm không an-lạc, thường sầu não, cuộc sống thiếu thốn.
Loài A-su-ra có 3 loài:
1- Deva-asura: a-su-ra thuộc loại chư-thiên.
2- Petti-asura: a-su-ra thuộc loài ngạ-quỷ.
3- Niraya-asura: a-su-ra thuộc chúng-sinh địa-ngục.
Deva-asura: chư-thiên a-su-ra có 6 vị lớn
1- Vepacitta-asura: Vepacitta a-su-ra.
2- Subali-asura: Subali a-su-ra.
3- Rāhu-asura: Rāhu a-su-ra.
4- Pahāra-asura: Pahāra a-su-ra.
5- Sambaratī-asura: Sambaratī a-su-ra.
6- Vinipātika-asura: Vinipātika a-su-ra.
A-su-ra nghịch với Đức-vua trời Sakka
A-su-ra có 5 vị đối nghịch với Đức-vua trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, 5 vị là Vepacitta a-su-ra đứng đầu và Subali a-su-ra, Rāhu a-su-ra, Pahāra a-su-ra, Sambaratī a-su- ra cùng nhóm thuộc hạ của mỗi vị trụ ở phía dưới núi Sineru, còn Đức-vua trời Sakka cùng chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trụ ở trên đỉnh núi Sineru, cho nên 5 vị A-su-ra cùng nhóm thuộc hạ cùng chung trong cõi trời Tam- thập-tam-thiên.
Nhóm quân a-su-ra đứng đầu là vị Vepacitta a-su-ra thường kéo quân lên đánh nhau với Đức-vua trời Sakka cùng chư-thiên, khi thì thất bại, khi thì chiến thắng. Cuộc chiến giữa vị Vepacitta a-su-ra với Đức-vua trời Sakka bằng cách đấu phép với nhau, nên không có thương vong, mỗi khi bên nào thua thì rút lui chạy vào thành đóng cửa lại, bên thắng không thể vào thành được, nên đành phải rút quân trở về thành của mình.
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Đức-vua trời Sakka ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Từ đó, cuộc chiến giữa vị Vepacitta a-su-ra với Đức-vua trời Sakka không còn đấu phép với nhau mà đấu bằng trí-tuệ, nên vị Vepacitta a-su- ra bị thua trí thật sự, Đức-vua trời Sakka toàn thắng thật sự, nên 2 bên không còn chiến đấu với nhau nữa.
* Còn vị Vinipātika-asura cùng nhóm thuộc hạ có thân hình nhỏ hơn và oai lực kém thua chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Nhóm Vinipātika-asura không có chỗ ở riêng biệt, nương nhờ nơi cõi người, nơi rừng núi, cây cối, chỗ trống trải ngoài trời, v.v... cho nên nhóm Vinipātika-asura trở thành thuộc hạ của bhumaṭṭhadevatā: chư-thiên trên mặt đất thuộc về chư-thiên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương.
Petti-asura: a-su-ra loài ngạ-quỷ có 3 nhóm
1- Kālakañcikapeta-asura: asura là loài ngạ-quỷ kālakañcikapeta.
2- Vemānikapeta-asura: asura là loài ngạ- quỷ vemānikapeta.
3- Āvudhikapeta-asura: asura là loài ngạ-quỷ āvudhikapeta.
* Kālakañcikapeta-asura là loài ngạ-quỷ kālakañcika thuộc về loài a-su-ra như trình bày trong loài ngạ-quỷ.
*Vemānikapeta-asura là loài ngạ-quỷ vemānika ban ngày chịu quả khổ của ác-nghiệp, nhưng đến ban đêm lại hưởng mọi sự an-lạc như chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Vì vậy, loài ngạ-quỷ vemānikapeta này gọi là loài a-su-ra.
* Āvudhikapeta-asura là loài ngạ-quỷ āvudhika sát hại lẫn nhau bằng vũ khí khác nhau, cho nên loài ngạ-quỷ āvudhika này gọi là loài a-su-ra.
Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên yêu thương, kính mến nhau, còn nhóm ngạ-quỷ āvudhika sát hại lẫn nhau bằng vũ khí.
Niraya-asura: A-su-ra là chúng-sinh địa-ngục có 1 loài ngạ-quỷ phải chịu quả khổ trong cõi địa-ngục Lokantarikanaraka.
Cõi địa-ngục Lokantarikanaraka là khoảng giữa nơi giáp ranh của 3 vũ trụ thế-giới, tất cả mọi chúng-sinh cõi địa-ngục Lokantarikanaraka này đều dính vào thành vũ trụ, như con dơi dính vào vách, trong cõi địa-ngục này tối đen như mực, phía dưới có nước lạnh kinh khủng, nếu chúng-sinh địa-ngục rơi xuống chết ngay tức thì.
Chúng-sinh trong cõi địa-ngục này bị đói khát dữ dội, chúng lần mò đi kiếm đồ ăn, nếu khi chúng gặp nhau tưởng là đồ ăn, 2 bên nhào đến cắn xé nhau, buông tay nên cả 2 bên bị rơi xuống nước lạnh đều chết, rồi hoá sinh trở lại, và cứ như vậy cho đến khi mãn quả khổ của ác-nghiệp, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
Chúng-sinh cõi địa-ngục này gọi là a-su-ra bởi vì chúng sát hại lẫn nhau.
TIRACCHĀNABHŪMI: CÕI SÚC-SINH
Tiracchānabhūmi: cõi súc-sinh nương nhờ nơi cõi người rải rác mọi nơi trong rừng, núi, sông, suối, biển, xóm làng, trong nhà, v.v... loài súc-sinh có nhiều loài khác nhau tuỳ theo ác- nghiệp và quả của ác-nghiệp của chúng.
Ác-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh?
Người ác nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, phạm điều-giới, tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân- tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi kiếp loài súc-sinh ấy.
Loài súc-sinh có nhiều loại như sau:
- Loài súc-sinh sinh ra từ trong bụng mẹ như con bò, con voi, con ngựa, v.v...
- Loài súc-sinh sinh ra từ trứng rồi từ trứng nở ra con như con gà, con chim, v.v...
- Loài súc-sinh sinh ra từ nơi ẩm thấp như con giun, v.v. ...
- Loài súc-sinh là loài hoá-sinh như Đức-long- vương, các long nam, các long nữ, v.v...
Tiracchāna: là loài chúng-sinh thường di chuyển với cột xương sống nằm ngang gọi là loài súc-sinh.
Loài súc-sinh có ý-nghĩa rộng gồm tất cả các loài sinh vật lớn nhỏ có sự sống, sự chết, có tử sinh luân-hồi trong 4 loài. Loài súc-sinh có thân hình to lớn nhất và nhỏ bé nhất, không có cõi riêng biệt, phần đông sinh sống chung trong cõi người, được phân loại có 4 nhóm loài súc-sinh như sau:
1- Apadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh không có chân như con rắn, con lươn, con cá, con trùn, v.v...
2- Dvipadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 2 chân như con chim, con gà, con vịt, v.v...
3- Catupadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 4 chân như con bò, con trâu, con voi, v.v...
4- Bahupadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có nhiều chân như con rít, con cuốn chiếu, v.v ...
Tất cả các loài súc-sinh này có chỗ ở khác nhau, có nhóm loài súc-sinh nương nhờ sinh sống trên mặt đất, có nhóm loài súc-sinh nương nhờ sinh sống dưới nước.
Đặc biệt có loài súc-sinh như nāga, kinnara, sīha, garuḍa.
* Nāga: rắn độc có 4 loài:
1- Kaṭṭhamukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì toàn thân người ấy bị cứng đờ không còn cử động được nữa, đau đớn vô cùng.
2- Pūtimukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì vết thương người ấy bị thối và nước mủ chảy ra.
3- Aggimukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì toàn thân người ấy bị nóng rực, chỗ vết thương bị cháy bỏng như bị phỏng lửa.
4- Satthamukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì người ấy như bị sét đánh.
* Sự sinh của loài Nāga có 4 cách:
1- Aṇḍaja: loài Nāga sinh ra từ trứng.
2- Jalābuja: loài Nāga sinh ra từ trong bụng.
3- Saṃsedaja: loài Nāga sinh ra từ mồ hôi chảy ra.
4- Opapātika: loài Nāga hoá-sinh ra to lớn ngay tức thì.
Đặc biệt loài Nāga gọi là loài long nam, long nữ ở cõi long cung, trong các lâu đài nguy nga tráng lệ toàn bằng vàng, bạc, các thứ ngọc, v.v... phát sinh do quả của đại-thiện-nghiệp.
Trong cõi long cung có Đức Long-vương trị vì các long nam, long nữ, tất cả loài long này đều có phép thần thông biến hoá ra thành loài người, chư-thiên, loài thú, v.v... do quả của đại- thiện-nghiệp gọi là (vipāka-iddhi) tuỳ theo khả năng của mỗi long nam, long nữ.
Mặc dù long nam, long nữ có khả năng biến hoá ra loài người già trẻ khác nhau như thế nào, khi có 1 trong 5 trường hợp xảy ra vẫn trở lại loài long như trước. Năm trường hợp(11) là:
1- Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, là loài long.
2- Trong khi lột da thay da mới, phải hoàn trở lại loài long.
3- Trong khi giao cấu với loài long khác phái, phải hoàn trở lại loài long.
4- Trong khi nằm ngủ say, tự nhiên hoàn trở lại loài long, bởi vì không có trí nhớ biết mình.
5- Trong thời-kỳ chuyển kiếp (chết), phải hoàn trở lại loài long.
Tuổi thọ của loài Nāga nhiều hoặc ít không có chắc chắn, tuỳ theo quả của nghiệp.
* Kinnara: loài kinnara đực và kinnara cái là loài thú có phần giống như người, ngựa và có phần giống như chim như sau:
- Thân hình, đầu, mặt, 2 con mắt, 2 lỗ mũi giống như người.
- Cái miệng nhô ra phía trước giống như mỏ con ngựa.
- 2 bàn tay, 2 bàn chân có móng dài giống như chân chim.
Loài kinnara có nhiều loại, thông thường rất sợ nước.
* Sīha: Sư tử có 4 loại:
1- Tiṇasīha là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu đỏ, ở trong rừng sâu ăn cỏ.
2- Kāḷasīha là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu đen, ở trong rừng sâu ăn cỏ.
3- Paṇḍusīha: là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu như lá cây vàng, ở trong rừng sâu, ăn thịt các loài thú khác.
4- Kesarasīha: là loài sư tử chúa có thân hình bằng con trâu, môi, đuôi, chân có màu đỏ, từ đầu cho đến lưng có 3 sọc màu đỏ bao quanh 2 mông, vòng cổ có lông dài, từ 2 vai đến toàn thân có màu vàng lẫn trắng, ở trong rừng Himavanta, ăn thịt các loài thú khác.
Sīha: sư tử là chúa của các loài thú.
* Garuḍa: con garuḍa có thân hình giống như loài chim, nên ghép vào loài chim. Con garuḍa là con chim lớn nhất, là vua của các loài chim, sống trong rừng sâu, ăn các loài nāga rắn, rồng (long).
Loài súc-sinh thông thường có 3 sự biết:
1- Gocarasaññā: biết kiếm ăn, ngủ, nghỉ,...
2- Kāmasaññā: biết giao cấu và truyền giống.
3- Maraṇasaññā: biết sợ chết.
Nếu Đức-Bồ-tát sinh làm loài súc-sinh thì sinh làm giống đực không nhỏ hơn con chim sẻ cũng không lớn hơn con voi, Đức-Bồ-tát loài súc-sinh đực có sự hiểu biết rất phi thường.
Nhận xét về loài súc-sinh
Thời-kỳ paṭisandhikāla và thời-kỳ pavattikāla của các loài súc-sinh.
- Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla), có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh (tiracchāna).
- Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla) kiếp hiện-tại có 7 bất-thiện-quả vô-nhân- tâm là quả của ác-nghiệp tiếp xúc với các đối- tượng xấu là quả của ác-nghiệp, đối với các loài súc-sinh.
Tuy nhiên, đặc biệt có số loài súc-sinh, tuy trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp, nhưng trong thời-kỳ sau khi đã tái- sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại số loài súc-sinh ấy trở thành con voi báu dành cho Đức-Chuyển- luân Thánh-vương, dành cho Đức-vua; ngựa báu dành cho vị anh-hùng, nên kiếp hiện-tại của số loài súc-sinh ấy được trọng dụng, được trọng đãi đặc biệt,... đó là quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp đặc biệt mà số loài súc-sinh ấy đã tạo trong tiền-kiếp của chúng. Thậm chí trong đời cũng thường thấy những con mèo, con chó, ... tinh khôn cũng được các gia đình giàu sang phú quý nuôi nấng chăm sóc đặc biệt, đó là quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp đặc biệt mà những con mèo, con chó,... tinh khôn ấy đã tạo trong những tiền-kiếp của chúng.
Tuy Đức Long-vương, các long-nam, long-nữ thuộc về loài súc-sinh nhưng có khả năng đặc biệt biến hoá ra thành người, thành chư-thiên, v.v... có nhiều phép mầu được thành tựu do quả của nghiệp gọi là vipāka-iddhi.
Dù Đức Long-vương, các long-nam, các long- nữ ấy biến hoá ra thành người có cơ hội nghe chánh-pháp của chư bậc thiện-trí, cũng không có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới nào, cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào được, bởi vì Đức Long-vương, các long-nam, các long-nữ ấy thuộc về hạng chúng-sinh duggati-ahetuka vô-nhân cõi ác-giới với tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
Chỉ có những chúng-sinh thuộc về hạng tam- nhân mới có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện- tâm, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân cao-thượng trong Phật- giáo mà thôi.
Thật vậy, chỉ có hạng tam-nhân thuộc về loài người, chư vị thiên-nam hoặc chư vị thiên- nữ trên cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, những hạng chúng-sinh tam-nhân ấy đã từng tích-luỹ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật và có đủ 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ mới có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả và Niết-bàn mà thôi.
KĀMASUGATIBHŪMI: CÕI THIỆN DỤC-GIỚI
Cõi thiện-dục-giới gồm có 7 cõi:
1- Manussabhūmi: cõi người.
2- Catumahārājikābhūmi: cõi Tứ-đại-thiên-Vương.
3- Tavatiṃsābhūmi: cõi Tam-thập-tam-thiên.
4- Yamābhūmi: cõi Dạ-ma-thiên.
5- Tusitābhūmi: cõi Đâu-suất-đà-thiên.
6- Nimmānaratibhūmi: cõi Hoá-lạc-thiên.
7- Paranimmitavasavattibhūmi: cõi Tha-hoá- tự-tại-thiên.
Kāmasahacaritā sugati: kāmasugati
Cõi thiện-dục-giới là cõi phát sinh cùng với kāmataṇhā: ái-dục gọi là kāmasugatibhūmi.
Cõi thiện-dục-giới có 7 cõi là nơi nương nhờ sinh sống của loài người và chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới liên quan đến kāmataṇhā mong muốn trong 5 đối- tượng ái-dục (kāmārammaṇa) là:
1- Rūpataṇhā: sắc-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng sắc xinh đẹp.
2- Saddataṇhā: thanh-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng âm thanh hay.
3- Gandhataṇhā: hương-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng hương thơm tho.
4- Rasataṇhā: vị-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng vị ngon lành.
5- Phoṭṭhabbataṇhā: xúc-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng xúc êm ái.
* Chúng-sinh sinh trong 7 cõi thiện-dục-giới là quả của dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi người, 6 cõi trời dục-giới.
MANUSSABHŪMI: CÕI NGƯỜI
Manussabhūmi: cõi người là nơi sinh sống của loài người (manussa).
Loài người (manussa) trong 4 châu lớn (dīpa):
1- Uttarakurudīpa: Bắc-cưu-lưu-châu.
2- Pubbavidehadīpa: Đông-thắng-thần-châu.
3- Aparagoyānadīpa: Tây-ngưu-hoá-châu.
4- Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu.
Bốn châu này nằm ở 4 hướng của núi Sineru.
1- Uttarakurudīpa: Bắc-cưu-lưu-châu nằm ở hướng Bắc của núi Sineru. Loài người ở Uttara- kurudīpa này có 3 đức tính là:
* Không chấp-thủ của cải tài-sản là của mình.
* Không chấp-thủ con trai, con gái, vợ, chồng là của mình.
* Có tuổi thọ đúng 1.000 năm.
Loài người ở Uttarakurudīpa này có ngũ-giới là thường-giới, sau khi hết tuổi thọ chết, chắc chắn dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới. Sau khi vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ chết, nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi nào tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy.
- Nếu ác-nghiệp có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (cõi địa-ngục, cõi a- su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh).
- Nếu dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.
2- Pubbavidehadīpa: Đông-thắng-thần-châu nằm ở hướng Đông của núi Sineru. Loài người ở pubbavidehadīpa này có tuổi thọ 700 năm.
3- Aparagoyānadīpa: Tây-ngưu-hoá-châu nằm ở hướng Tây của núi Sineru. Loài người ở aparagoyānadīpa này có tuổi thọ 500 năm.
4- Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu nằm ở hướng Nam của núi Sineru là trái đất mà chúng ta đang sống, con người ở cõi Jambūdīpa của chúng ta có tuổi thọ không nhất định, tuỳ theo thời-kỳ thiện-pháp tăng trưởng hoặc ác-pháp tăng trưởng.
* Nếu thời-kỳ nào loài người ở Jambūdīpa có thân hành-thiện, khẩu hành-thiện, ý hành-thiện, mọi thiện-pháp tăng trưởng, thì thời-kỳ ấy tuổi thọ của loài người tăng lên đến tột đỉnh. Khi ấy, loài người ở cõi Jambūdīpa có tuổi thọ tột đỉnh đến a-tăng-kỳ(12) năm.
* Nếu thời-kỳ nào loài người ở Jambūdīpa có thân hành-ác, khẩu hành-ác, ý hành-ác, mọi ác- pháp tăng trưởng thì thời-kỳ ấy tuổi thọ của loài người giảm xuống đến tột cùng. Khi ấy, loài người ở Jambūdīpa có tuổi thọ chỉ còn 10 năm.
Tuổi thọ của loài người trong 4 châu dựa theo bộ Chú-giải Samyuttanikāyaṭṭhakathā rằng:
“Jambūdīpavāsinaṃ āyuppamāṇam natthi, Pubbavidehānaṃ sattavassasatāyukā, Apara- goyānavāsīnaṃ pañcavassasatāyukā, Uttara- kuruvāsīnaṃ vassasahassāyukā. Tesaṃ tesaṃ parittadīpavāsīmampi tadanugatikāva.”
Loài người sống trong Bắc-cưu lưu-châu có tuổi thọ 1.000 năm, loài người sống trong Tây- ngưu-hoá-châu có tuổi thọ 500 năm, loài người sống trong Đông-thắng-thần-châu có tuổi thọ 700 năm, loài người sống trong Nam-thiện-bộ-châu có tuổi thọ không nhất định.
Loài người (manussa) trong châu này đề cập trực tiếp đến Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu, còn 3 châu chỉ là gián tiếp mà thôi.
Định nghĩa manussa
* Mano ussannaṃ etesanti: manussā.
Mọi chúng-sinh gọi là manussa: người, bởi vì có thiện-tâm cao-thượng và ác-tâm thấp hèn.
Ý nghĩa manussa này ám chỉ trực tiếp đến con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu, còn loài người trong 3 châu khác là Pubbavidehādīpa, Aparagoyānadīpa, Uttarakurudīpa chỉ là gián tiếp mà thôi.
Con người trong Jambūdīpa nam-thiện-bộ châu đặc biệt có thiện-tâm cực thiện hoặc có ác- tâm cực ác.
* Người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện-bộ-châu này đặc biệt có thiện-tâm cực thiện như thế nào?
- Người nào thuộc về hạng người tam-nhân trong cõi Jambudīpa này, hạng người ấy có khả năng đặc biệt đạt đến thiện-tâm cực thiện trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác hoặc Đức- Phật Độc-Giác hoặc bậc Thánh A-ra-hán Tối- thượng-thanh-văn-giác hoặc bậc Thánh A-ra-hán đại-thanh-văn-giác, có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, 6 phép thần-thông, hoặc trở thành Đức-vua Chuyển-luân-thánh-vương.
Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chỉ xuất hiện trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện-bộ-châu này mà thôi, không xuất hiện trong cõi-giới khác.
* Người trong cõi Jambūdīpa nam-thiện-bộ- châu này đặc biệt có thể có ác-tâm cực ác như thế nào?
- Người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện-bộ- châu này đặc biệt có thể có ác-tâm cực ác tạo pañcānantariyakamma: ngũ-ác-nghiệp vô-gián trọng-tội đó là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, mà các chúng- sinh ở trong các cõi-giới khác không thể tạo ác- nghiệp vô-gián trọng-tội này được.
Người nào đã tạo 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội nào, sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp không gián đoạn trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản được, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt bị hành hạ trong suốt thời gian lâu dài trong cõi đại-địa- ngục ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy được.
* Và người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện- bộ-châu này có thể tạo ác-nghiệp trọng-tội niyatamicchādiṭṭhikamma: ác-nghiệp tà-kiến cố- định(13) có 3 loại là vô-quả tà-kiến, vô-nhân tà- kiến, vô-hành tà-kiến hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.
Người nào đã tạo ác-nghiệp tà-kiến cố-định này, sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái- sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy không có thời gian hạn định.
* Kāraṇākaraṇaṃ manati jānātīti: manusso.
Con người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện- bộ-châu này gọi là manussa: người, bởi vì có thể hiểu biết được nhân hợp pháp và nhân không hợp pháp.
Người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân hợp pháp và nhân không hợp pháp. Trong đời này, các loài chúng-sinh sinh từ nghiệp, nên có sinh-mạng, còn loài thực vật không phải sinh từ nghiệp, nên không có sinh-mạng.
* Atthānatthaṃ manati jānātīti: manusso.
Con người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện- bộ-châu này gọi là manussa: người, bởi vì hiểu biết được điều lợi ích, điều không lợi ích.
Thông thường mọi người trong đời, khi có quả rồi, mới có tâm hài lòng, hoan-hỷ, hoặc có tâm không hài lòng, không hoan-hỷ. Cả 2 tâm trạng ấy chỉ có do từ thân hành động hoặc khẩu nói năng hoặc ý suy nghĩ mà thôi.
Nếu thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện thì có quả tốt được hài lòng, hoan-hỷ, và nếu thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác thì có quả xấu không được hài lòng, không hoan-hỷ.
Người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu hiểu biết được nếu thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện, thì tạo đại-thiện-nghiệp cho quả an-lạc đem lại sự lợi ích đáng hài lòng hoan-hỷ, và nếu thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác, thì tạo ác-nghiệp cho quả khổ đem lại sự bất lợi, không được hài lòng, không hoan-hỷ.
* Kusalākusalaṃ manati jānātīti: manusso.
Con người trong cõi Jambūdīpa Nam-thiện- bộ-châu này gọi là manussa: người, bởi vì hiểu biết được thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Thông thường mọi người trong đời chỉ có 3 việc mà thôi, đó là hành động bằng thân, nói năng bằng khẩu, suy nghĩ bằng ý, cho quả đem lại sự lợi ích an-lạc, hoặc cho quả đem lại sự bất lợi, đau khổ theo quan niệm trong đời.
Đúng theo sự-thật chân-nghĩa-pháp (para- matthadhamma) thì chỉ có 2 pháp là akusala- dhamma: bất-thiện-pháp (ác-pháp) và kusala- dhamma: thiện-pháp mà thôi.
Người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu hiểu biết được nếu thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác, thì gọi là akusaladhamma: bất- thiện-pháp (ác-pháp).
Nếu thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện, hoặc tạo mọi phước-thiện như bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ, v.v... thì gọi là kusaladhamma: thiện-pháp
Kusaladhamma: thiện-pháp có 4 loại:
- Dục-giới thiện-pháp đó là 8 dục-giới thiện- tâm (8 đại-thiện-tâm) .
- Sắc-giới thiện-pháp đó là 5 sắc-giới thiện- tâm.
- Vô-sắc-giới thiện-pháp đó là 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.
- Siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo- tâm.
Tóm lại, số người nào trong cõi Nam-thiện- bộ-châu có khả năng hiểu biết được về akusala- dhamma: bất-thiện-pháp (ác-pháp) và kusala- dhamma: thiện-pháp nhiều hay ít là do tiền-kiếp của số người ấy đã từng tạo các pháp-hạnh ba- la-mật trải qua vô số kiếp, rồi được tích-luỹ và lưu trữ ở trong tâm từ kiếp này sang kiếp kia, và nay kiếp hiện-tại của số người ấy có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe lời giáo huấn của bậc thiện-trí, nên số người ấy hiểu biết được tuỳ theo khả năng của mỗi người, cho nên, mỗi người có kiến thức hiểu biết khác nhau trong đời.
Loài người trong 4 châu, thì loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có kiến thức hiểu biết được bất-thiện-pháp (ác-pháp) và thiện-pháp đặc biệt hơn loài người trong 3 châu còn lại.
Loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có kiến thức hiểu biết đặc biệt rằng:
Karaṇākaranaṃ atthānatthaṃ kusalākusalaṃ manati jānātī’ti manusso.
Người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này gọi là manussa: người, bởi vì có thể hiểu biết được nhân hợp pháp và nhân không hợp pháp, hiểu biết được điều lợi ích, điều không lợi ích, hiểu biết được thiện-pháp, bất-thiện-pháp.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu có 3 đức tính ưu việt là:
1- Sūrabhāva là người có tâm nhiệt tình trong mọi phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, ...
2- Satimanta là người có niệm vững vàng trong ân-đức Tam-bảo: ân-đức-Phật-bảo, ân- đức-Pháp-bảo, ân-đức-Tăng-bảo, ...
3- Brahmacariyāvāsa là người thực-hành phạm-hạnh cao thượng được đó là xuất gia trở thành tỳ-khưu, thực-hành pháp-hành giới, thực- hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp- hành thiền-tuệ.
Manussa: Loài người
Bộ Chú-giải phân loại các loài người trong Nam-thiện-bộ-châu như sau:
* Manussa-manussa: người như người thật.
* Manussa-deva: người như chư-thiên.
* Manussa-tiracchāna: người như loài súc-sinh.
* Manussa-peta: người như loài ngạ-quỷ.
* Manussa-nerayika: người như chúng-sinh trong cõi địa-ngục,...
* Manussa-manussa: người như người thật như thế nào?
Người như người thật nghĩa là người ấy có thân người và tâm người.
Tâm người là đại-thiện-tâm giữ gìn ngũ-giới là thường-giới của con người được trong sạch và trọn vẹn.
- Có đại-thiện-tâm tạo thập-thiện-nghiệp là thiện-pháp của loài người đầy đủ, nên thân, khẩu, ý trong sạch.
- Có đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện (puñña- kriyāvatthu) đầy đủ.
* Ngũ-giới có 5 điều-giới là:
1- Tránh xa sự sát-sinh là không giết hại các loài chúng-sinh dù nhỏ dù lớn.
2- Tránh xa sự trộm-cắp là không trộm-cắp chiếm đoạt của cải tài sản của công lẫn của tư.
3- Tránh xa sự tà-dâm là không quan hệ tình dục bất chánh với vợ hoặc chồng của người khác.
4- Tránh xa sự nói-dối là không nói-dối trá, lừa gạt người khác.
5- Tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện- pháp, nghĩa là không uống các thứ rượu, và các chất say như thuốc phiện, ma tuý, bia, thuốc lá, v.v... là nhân sinh thất niệm dể duôi quên mình.
* Thập-thiện-nghiệp có 10 đại-thiện-nghiệp:
1- Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
2- Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
3- Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm với vợ hoặc chồng của người khác.
Đó là 3 thân đại-thiện-nghiệp, phần nhiều liên quan đến thân.
4- Đại-thiện-nghiệp không nói-dối, mà chỉ nói lời chân-thật.
5- Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà thuận.
6- Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục, mà nói lời hoà nhã.
7- Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích.
Đó là 4 khẩu đại-thiện-nghiệp phần nhiều liên quan đến khẩu.
8- Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải của người khác một cách phi pháp.
9- Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác, mà có tâm từ đối với mọi người, mọi chúng-sinh.
10- Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo thật-tánh của các pháp.
Đó là 3 ý thiện-nghiệp thuộc về ý.
Thập thiện-nghiệp này gọi là thiện-pháp của con người (manussadhamma).
* Thập phước-thiện có 10 nhân sinh phước- thiện là:
1- Phước-thiện bố-thí.
2- Phước-thiện giữ-giới.
3- Phước-thiện hành-thiền.
4- Phước-thiện cung-kính.
5- Phước-thiện hỗ-trợ mọi việc phước-thiện.
6- Phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình đến mọi người, mọi chúng-sinh.
7- Phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng;
8- Phước-thiện nghe chánh-pháp của Đức-Phật.
9- Phước-thiện thuyết chánh-pháp của Đức-Phật.
10- Phước-thiện chánh-kiến sở nghiệp.
Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới của mình trong sạch và trọn vẹn, hành thập thiện-nghiệp đầy đủ và tạo thập phước-thiện đầy đủ, thì người ấy gọi là người như người thật nghĩa là người ấy có thân người và tâm người.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
* Manussa-deva: Người như chư-thiên như thế nào?
Người như chư-thiên nghĩa là người ấy có thân người và tâm như chư-thiên.
Tâm chư-thiên có 5 pháp là:
1- Saddhā: đức-tin: Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo; tin nghiệp và quả của nghiệp, tin chỉ có nghiệp là của riêng mình thật sự mà thôi.
2- Sīla: giới-đức: Người có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn tuỳ theo địa vị của mỗi người.
3- Suta: nghe nhiều hiểu rộng: Người thường học hỏi trong chánh-pháp của Đức-Phật, thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, rồi thực-hành theo chánh-pháp của bậc thiện-trí.
4- Cāga: phước-thiện bố-thí: Người không có tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài sản của mình, bởi vì người ấy suy xét đúng đắn rằng:
“Tất cả mọi thứ của cải trong đời này không hẳn là của riêng ta, chỉ có nghiệp mới thật sự là của riêng ta mà thôi. Vì vậy, ta nên biết sử dụng phần tiền của mà ta đang tạm thời sở hữu, đem ra tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, bố-thí đến cho người khác, để trở thành đại-thiện-nghiệp bố-thí vĩnh viễn là của riêng ta trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Do suy xét như vậy, nên người ấy đem tiền của ra tạo phước-thiện bố-thí đến người khác.
5- Paññā: trí-tuệ: Người có trí-tuệ học hỏi hiểu biết rõ về pháp-học Phật-giáo, rồi thực- hành pháp-hành thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Nếu người nào có đầy đủ 5 pháp chư-thiên ấy thì người ấy được gọi là người như chư-thiên nghĩa là người ấy có thân người và tâm như chư-thiên.
Trong kiếp hiện-tại, nếu người ấy chưa chứng đắc bậc thiền nào và chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán thì sau khi người ấy chết, đại- thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới.
* Manussa-tiracchāna: người như loài súc-sinh như thế nào?
Người như loài súc-sinh nghĩa là người ấy có thân người và tâm như loài súc-sinh.
Tâm loài súc-sinh là bất-thiện-tâm (ác-tâm) không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội- lỗi. Loài súc-sinh thường hành động do năng lực của mọi phiền-não, tạo mọi ác-nghiệp. Nếu khi tham-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo tham-tâm, nếu khi sân-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo sân-tâm, nếu khi si-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo si-tâm, loài súc-sinh không biết chế ngự phiền- não, nên tạo mọi ác-nghiệp.
Người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, hành động theo năng lực của mọi phiền-não sai khiến, tạo mọi ác-nghiệp. Nếu khi tham-tâm phát sinh thì hành động theo tham- tâm, nếu khi sân-tâm phát sinh thì hành động theo sân-tâm, nếu khi si-tâm phát sinh thì hành động theo si-tâm. Người ấy không biết chế ngự được mọi phiền-não sai khiến, nên tạo mọi ác- nghiệp, tự làm khổ mình, làm khổ người, chúng- sinh khác.
Nếu người nào hành động do năng lực của mọi phiền-não, tạo mọi ác-nghiệp như vậy, thì người ấy bị gọi là người như loài súc-sinh, nghĩa là người ấy có thân người mà tâm như loài súc-sinh.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp, mới thoát ra khỏi loài súc-sinh ấy.
* Manussa-peta: người như loài ngạ-quỷ như thế nào?
Người như loài ngạ-quỷ nghĩa là người ấy có thân người mà tâm như loài ngạ-quỷ.
Tâm loài ngạ-quỷ là tham-tâm thèm muốn, khao khát, bởi vì đói khát, lạnh lẽo không sao chịu đựng nổi, không có nơi nương nhờ, v.v...
Người nào có cuộc sống đói khổ, lạnh lẽo, thiếu thốn mọi thứ, nên tham-tâm thường phát sinh thèm muốn, khao khát do ăn không được no, mặc không được ấm, không có nơi nương nhờ, v.v....
Như vậy, người ấy bị gọi là người như loài ngạ-quỷ, nghĩa là người ấy có thân người mà tâm như loài ngạ-quỷ.
Tuy nhiên nếu người nào có tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài sản của mình, không muốn đem tiền của ra tạo phước-thiện bố-thí đến cho người nghèo khổ khác, thậm chí còn phát sinh tham-tâm vơ vét của người khác đem về làm của riêng mình nữa, do năng lực của tham-tâm tham muốn không biết đủ, người ấy cũng bị gọi là người như loài ngạ-quỷ, nghĩa là người ấy có thân người mà tâm như loài ngạ-quỷ.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp, mới thoát ra khỏi kiếp ngạ- quỷ ấy.
* Manussa-nerayika: người như chúng-sinh trong cõi địa-ngục như thế nào?
Người nào có ác-tâm cướp của giết người, chiếm đoạt của cải tài-sản của công hoặc của người khác một cách phi pháp, hoặc làm những việc phạm pháp, nên người ấy bị bắt, bị đánh đập hành hạ tra khảo, cuối cùng phải chịu tội trước cơ quan pháp luật. Người ấy bị tù đày trong ngục tù, bị hành hạ khổ sai phải chịu bao nỗi khổ cực, bởi vì tội ác của mình.
Người ấy bị giam cầm trong nhà tù, bị hành hạ khổ sai, không được tự do theo ý muốn của mình như vậy, nên người ấy bị gọi là người như chúng-sinh địa-ngục nghĩa là người ấy có thân người mà tâm như chúng-sinh địa-ngục.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm chúng- sinh trong cõi địa-ngục.
Cõi Nam-thiện-bộ-châu
Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất mà chúng ta đang sống) có tuổi thọ không nhất định, trong thời-kỳ thiện-pháp tăng trưởng cao, thì con người sống trường thọ có tuổi thọ tối đa tột đỉnh là a-tăng-kỳ năm(14) và trong thời- kỳ ác-pháp tăng trưởng cao, thì con người sống yểu thọ có tuổi thọ tột cùng chỉ còn 10 năm.
Con người chết vì 4 nguyên-nhân:
1- Āyukkhaya maraṇa: chết vì hết tuổi thọ.
2- Kammakkhaya maraṇa: chết vì mãn nghiệp-hỗ-trợ.
3- Ubhayakkhaya maraṇa: chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp-hỗ-trợ cùng một lúc.
4- Upacchedaka maraṇa: chết vì nghiệp khác cắt đứt sinh-mạng, nhưng tuổi thọ và nghiệp- hỗ-trợ vẫn còn.
Ví như ngọn đèn dầu bị tắt vì 4 nguyên-nhân:
1- Ngọn đèn dầu bị tắt vì hết tim.
2- Ngọn đèn dầu bị tắt vì cạn dầu.
3- Ngọn đèn dầu bị tắt vì hết tim và cạn dầu.
4- Ngọn đèn dầu bị tắt vì gió thổi, vì bị bể...
Cũng như vậy, người chết vì 4 nguyên-nhân:
1- Người chết vì hết tuổi thọ, ví như ngọn đèn dầu bị tắt vì hết tim, nhưng còn dầu.
2- Người chết vì mãn nghiệp-hỗ-trợ, ví như ngọn đèn dầu bị tắt vì cạn dầu, nhưng còn tim.
3- Người chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp- hỗ-trợ cùng một lúc, ví như ngọn đèn dầu bị tắt vì hết tim và cạn dầu cùng một lúc.
4- Người chết vì tai nạn,vì bệnh nan y, nhưng tuổi thọ và nghiệp-hỗ-trợ vẫn còn, ví như ngọn đèn dầu bị tắt vì gió thổi hoặc vì bị vỡ bể, nhưng tim và dầu vẫn còn.
Giảng giải
- Người chết vì hết tuổi thọ (āyu): Tuổi thọ con người tuỳ theo thời đại, nếu người nào chết đúng theo tuổi thọ, thì người ấy chết hợp thời (kālamaraṇa).
- Người chết vì mãn nghiệp-hỗ-trợ (kamma). Nghiệp ở đây có 2 loại nghiệp đều mãn là:
* Janakakamma: sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp hiện-tại của người ấy.
* Upatthambhakakamma: hỗ-trợ-nghiệp(15) là nghiệp có phận sự hỗ trợ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người và có phận sự hỗ trợ cho đại-thiện-nghiệp khác trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp người ấy được tồn tại cho đến khi mãn quả của nghiệp ấy.
Như vậy, người ấy chết hợp thời (kālamaraṇa).
- Người chết vì tai nạn: Chết vì nghiệp khác phát sinh cắt đứt sinh-mạng của người ấy, dù tuổi thọ và nghiệp-hỗ-trợ vẫn còn.
Như vậy, người ấy chết không hợp thời (akālamaraṇa).
DEVABHŪMI: CÕI TRỜI DỤC-GIỚI
Cõi trời dục-giới là nơi tạm trú của chư vị thiên-nam và chư vị thiên-nữ, có 6 cõi:
1- Cātumahārājikābhūmi: cõi trời Tứ-đại- thiên-vương.
2- Tāvatiṃsābhūmi:cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
3- Yāmābhūmi: cõi trời Dạ-ma-thiên.
4- Tusitābhūmi: cõi trời Đâu-suất-đà-thiên.
5-Nimmānaratībhūmi: cõi trời Hoá-lạc-thiên.
6- Paranimmitavasavattībhūmi: cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên.
1- Cātumahārājikābhūmi: Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương
Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương là cõi thứ nhất trong 6 cõi trời dục-giới có vị trí từ khoảng giữa núi Sineru ngang bằng đỉnh núi Yugandhara xuống đến mặt đất tiếp xúc cõi người.
Cõi trời này có 4 Đức-thiên-vương trị vì tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời này, nên gọi cātumahārājikābhūmi: cõi trời Tứ-đại-thiên-vương có 4 Đức-thiên-vương trị vì:
1- Đức-thiên-vương Dhataraṭṭha trụ ở hướng Đông của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Gandhabba.
2- Đức-thiên-vương Viruḷhaka trụ ở hướng Nam của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Kumbhaṇḍa.
3- Đức-thiên-vương Virūpakkha trụ ở hướng Tây của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Nāga.
4- Đức-thiên-vương Kuvera hoặc Vessavaṇa trụ ở hướng Bắc của núi Sineru trị vì nhóm chư- thiên Yakkha.
Tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương đều là thuộc hạ của 4 Đức-thiên-vương, có nhiều nhóm:
* Pabbataṭṭhadevatā: chư-thiên trú ở núi.
* Ākāsaṭṭhadevatā: chư-thiên ở trên hư không.
* Khiḍḍāpadosikadevatā: chư-thiên ham chơi quên ăn chết.
* Manopadosikadevatā: chư-thiên chết vì sân.
* Sītavalāhakadevatā: chư-thiên làm khí lạnh.
* Uṇhavalāhakadevatā: chư-thiên làm khí nóng.
* Candimādevaputtadevatā: chư-thiên ở trên mặt trăng.
* Suriyadevaputtadevatā: chư-thiên ở trên mặt trời...
Chư-thiên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương nương nhờ 3 nơi gọi là:
- Bhummaṭṭhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên mặt đất.
- Rukkhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên cây
- Ākāsaṭṭhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên hư không.
* Bhummaṭṭhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên mặt đất như thế nào?
Chư-thiên là chư vị thiên-nam, chư vị thiên- nữ nương nhờ ở trên mặt đất như núi, sông, biển, xung quanh chùa, ngôi tháp, cội đại Bồ-đề, nhà nghỉ mát, nhà ở, v.v... nếu chư-thiên nương nhờ ở nơi nào thì nơi ấy là chỗ ở của mình.
* Rukkhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên cây như thế nào?
Chư-thiên nương nhờ ở trên cây có 2 nhóm:
- Nhóm chư-thiên có lâu đài đặt trên ngọn cây.
- Nhóm chư-thiên có lâu đài đặt trên các cành cây xung quanh.
* Ākāsaṭṭhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên hư không như thế nào?
Chư-thiên là chư vị thiên-nam, chư vị thiên- nữ nương nhờ ở trên hư không, lâu đài lớn hoặc nhỏ của mỗi vị phát sinh bằng 7 loại báu do năng lực quả-báu của đại-thiện-nghiệp của mỗi vị thiên-nam, vị thiên-nữ.
Tuy nhiên, có những lâu đài phát sinh bằng 6 loại báu, hoặc 5 loại báu, thậm chí chỉ có 1 hoặc 2 loại báu, tất cả lâu đài ấy đều phát sinh do năng lực quả-báu của đại-thiện-nghiệp của mỗi vị thiên-nam, vị thiên-nữ.
4 Đức-thiên-vương mỗi vị có mỗi lâu đài to lớn bằng thất báu nguy nga lộng lẫy.
Tứ-đại-thiên-vương là 4 Đức-vua-trời hộ trì cõi người, nên gọi là Catulokapāla.
Chư-thiên ác cõi Tứ-đại-thiên-vương
Chư-thiên ác cõi Tứ-đại-thiên-vương có 4 nhóm:
- Yakkha, yakkhinī là nam dạ-xoa, nữ dạ-xoa.
- Gandhabba, gandhabbī là nam gandhabba, nữ gandhabbī.
- Kumbhaṇḍa, kumbhaṇḍī là nam kumbhaṇḍa, nữ kumbhaṇḍī.
- Nāga, nāgī là long-nam, long-nữ.
1- Yakkhadevatā: chư-thiên yakkha (dạ-xoa) có 2 nhóm:
- Yakkhadevatā là loài dạ-xoa có thân hình xinh đẹp có hào quang như chư-thiên.
- Yakkhatiracchāna là loài dạ-xoa có thân hình xấu xí không có hào quang như loài súc-sinh.
Chư-thiên yakkha này nếu khi phát sinh ác- tâm muốn hành hạ chúng-sinh địa-ngục thì hoá ra chúa địa-ngục hiện xuống cõi địa-ngục, hành hạ chúng-sinh địa-ngục, nếu muốn ăn thịt chúng-sinh địa-ngục thì hoá ra con kên kên, con quạ, con chó bắt chúng-sinh địa-ngục để ăn thịt.
Yakkha (dạ-xoa) thích ăn xác chết làm vật thực.
Nhóm yakkha (nam dạ-xoa), yakkhinī (nữ dạ- xoa) này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Kuvera hoặc Vessavaṇa.
2- Gandhabbadevatā (Chư-thiên gandhabba) có 2 nhóm :
- Nhóm chư-thiên gandhabba nương nhờ sinh trên cây có mùi thơm, rồi vĩnh viễn trú tại nơi cây ấy mãi mãi, dù cho cây ấy bị ngã hoặc bị chết vẫn không dời sang cây khác. Nếu người nào chặt cây ấy đem về làm nhà, đóng tủ, bàn ghế, v.v... làm bất cứ dụng cụ nào thì vị chư- thiên gandhabba ấy vẫn đi theo nương nhờ nơi vật dụng ấy.
Vì vậy, đôi khi chư-thiên gandhabba ấy hiện hình ra để chủ nhân nhìn thấy; đôi khi chư-thiên gandhabba ấy không hài lòng làm quấy nhiễu trong gia đình với nhiều cách như làm cho người trong nhà bị bệnh hoạn ốm đau, làm cho của cải tài sản hư hao không rõ nguyên-nhân, v.v...
Chư-thiên gandhabba có tính chất khác với vị chư-thiên rukkhadevatā là vị chư-thiên cũng nương nhờ sinh trên cây, nhưng khi cây ấy chết hoặc bị người ta chặt cây ấy, vị chư-thiên rukkha- devatā sẽ dời sang nương nhờ nơi cây khác.
- Nhóm chư-thiên gandhabba nương nhờ nơi thân người, người ta thường gọi là người bị phi nhân nhập, hoặc người có người âm nhập.
Người nào khi bị chư-thiên gandhabba nhập vào rồi, người ấy không còn tự chủ nữa, không biết mình, cho đến khi chư-thiên gandhabba xuất ra, thì người ấy mới trở lại bình thường như trước.
Nhóm chư-thiên nam gandhabba, nữ gandhabbī này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Dhataraṭṭha.
3- Kumbhaṇḍadevatā (chư-thiên kumbhaṇḍa) có thân hình to lớn, mắt lồi màu đỏ, có 2 nhóm:
- Nhóm chư-thiên kumbhaṇḍa ở trong cõi người có phận sự giữ gìn các kho báu, những viên ngọc quý báu, ngọc maṇi trên núi cao, ngôi bảo tháp, rừng rậm, cây cao to lớn, hồ nước lớn tự nhiên, các con sông sâu, v.v... những nơi nào mà Đức-thiên-vương truyền lệnh cho vị chư- thiên kumbhaṇḍa nào có phận sự giữ gìn, nếu người nào xâm nhập vào nơi ấy thì vị chư-thiên kumbhaṇḍa ấy trừng phạt người ấy.
- Nhóm chư-thiên kumbhaṇḍa ở trong cõi địa- ngục, làm phận sự chúa địa-ngục, chư-thiên kumbhaṇḍa hoá ra kên kên kumbhaṇḍa, quạ kumbhaṇḍa, chó kumbhaṇḍa hành hạ chúng-sinh địa-ngục, hoặc bắt chúng-sinh địa-ngục để ăn thịt.
- Nhóm chư-thiên nam kumbhaṇḍa, nữ kum-bhaṇḍī này ở trong sự cai quản của Đức-vua trời Viruḷhaka.
4- Nāgadevatā (chư-thiên nāga: long) ở dưới mặt đất và ở dưới núi gọi là paṭhavīdevatā.
Nāgadevatā có phép biến hoá do quả của nghiệp (vipāka-iddhi) có khả năng hóa ra thành người, chư-thiên, con cọp, sư tử, v.v... Nāga- devatā phát sinh ác-tâm thích hành hạ chúng- sinh địa-ngục giống như yakkhadevatā, kumbhaṇḍadevatā.
Nhóm chư-thiên nam nāga (long nam), nữ nāgī (long nữ) này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Virūpakkha.
Chư-thiên trong cõi Tứ-đại-thiên-vương có ác-tâm hung dữ, 4 nhóm này không những thích hành hạ các chúng-sinh khác, mà còn hành hạ đồng loại với nhau nữa.
Vì vậy, mỗi Đức-thiên-vương cai quản, trừng phạt mỗi nhóm.
Tóm lại chư-thiên trong cõi Tứ-đại-thiên-vương có nhiều nhóm, có nhóm chư-thiên thiện, có nhóm chư-thiên ác, có nhóm có chánh-kiến, có nhóm có tà-kiến, có nhóm có đức-tin nơi Tam-bảo, có nhóm không có đức-tin nơi Tam- bảo, có nhóm hộ trì loài người, có nhóm quấy nhiễu loài người, v.v...
* Chư-thiên trong cõi Tứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ 500 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 50 năm cõi người.
2- Tāvatiṃsābhūmi: Cõi trời Tam-thập-tam-thiên
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên là cõi trời thứ nhì trong 6 cõi trời dục-giới có vị trí nằm trên đỉnh núi Sineru.
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên này có sự tích được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, một xóm nhà tên gọi là Macalagāma, có nhóm người sahapuññakārī (nhóm cùng tạo phước-thiện với nhau) gồm có 33 người đàn ông, người đứng đầu tên là Māghamānava.
Nhóm 33 người này cùng nhau làm vệ sinh xung quanh xóm làng, các đường sá, các ngõ hẻm đều sạch sẽ, để thuận tiện cho mọi người qua lại. Trên các con đường, rải rác làm chỗ đặt nồi nước sạch, để cho mọi người qua lại uống nước, xây dựng trại nghỉ chân dọc đường, để cho những người qua lại có chỗ nghỉ chân.
Nhóm 33 người này đồng tâm nhất trí với nhau tạo mọi phước-thiện, cho nên sau khi nhóm 33 người này chết, dục-giới thiện-nghiệp (đại- thiện-nghiệp) ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới thứ nhì, tiền- kiếp của Māghamānava trở thành Đức-vua-trời Inda hoặc Đức-vua-trời Sakka và tiền-kiếp của 32 người bạn thân trở thành 32 vị chư-thiên bậc cao trên cõi trời dục-giới thứ nhì.
Vì vậy, cõi trời dục-giới thứ nhì gọi là Tāvatiṃsābhūmi: cõi trời Tam-thập-tam-thiên (cõi trời 33 vị chư-thiên).
Vấn: Ngoài cõi tam-giới gồm có 31 cõi-giới này ra, còn các cõi tam-giới khác, cõi trời dục- giới thứ nhì có tên gọi là cõi trời Tam-thập- tam-thiên hay không?
Đáp: Các cõi tam-giới gồm có 31 cõi-giới khác, cõi trời dục-giới thứ nhì cũng bắt chước tên gọi là cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Vị trí của 6 cõi trời dục-giới
1- Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương nằm vị trí ở khoảng giữa núi Sineru, cách mặt đất loài người khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
2- Cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm vị trí ở trên đỉnh núi Sineru, cách cõi trời Tứ-đại-thiên- vương khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
3- Cõi trời Dạ-ma-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
4- Cõi trời Đâu-suất-đà-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Dạ-ma-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
5- Cõi trời Hoá-lạc-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Đâu-suất-đà-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
6- Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Hoá-lạc-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm vị trí ở trên đỉnh núi Sineru có bề mặt diện tích hình vuông mỗi cạnh khoảng 42.000 do-tuần (yojana), ngay trung tâm có kinh thành Sudassana bề rộng mỗi cạnh 10.000 do-tuần, tất cả mặt bằng trên đỉnh núi Sineru được thành tựu bằng thất báu.
Toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tam-thập- tam-thiên có 2 nhóm: nhóm bhummaṭṭhadevatā và nhóm ākāsaṭṭhadevatā.
* Nhóm bhummaṭṭhadevatā có Đức-vua-trời Inda (Sakka) và 32 vị thiên-nam cao quý cùng với nhóm chư-thiên thuộc hạ và 5 nhóm chư- thiên a-su-ra trú ngụ dưới núi Sineru cũng ở trong nhóm lớn bhummaṭṭhadevatā.
* Nhóm ākāsaṭṭhadevatā có những lâu đài nổi trong hư không phía trên đỉnh núi Sineru.
Trung tâm kinh-thành Sudassana có đại lâu đài Vejayanta là nơi ngự của Đức-vua-trời Sakka.
* Hướng Đông của kinh-thành Sudassana có khu vườn Nandavana rộng 1000 do-tuần, trong vườn có 2 hồ nước: hồ lớn Mahānanda và hồ Cūḷananda, xung quanh hồ nước lát đá quý, để ngồi nghỉ ngơi.
* Hướng Tây của kinh-thành Sudassana có khu vườn Cittaladā rộng 500 do-tuần, có 2 hồ nước: hồ lớn Vicitta và hồ Cūḷacitta.
* Hướng Bắc của kinh-thành Sudassana có khu vườn Missakavana rộng 500 do-tuần, có 2 hồ nước: hồ Dhammā và hồ Sudhammā.
* Hướng Nam của kinh-thành Sudassana có khu vườn Phārusakavana rộng 700 do-tuần, có 2 hồ nước: hồ Bhaddā và hồ Subhaddā.
Khu vườn 4 hướng này là nơi du ngoạn tiêu khiển của chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Hướng Đông Bắc của kinh-thành Sudassana có 2 khu vườn: khu vườn Puṇḍarika không rõ bề rộng và khu vườn Mahāvana rộng 700 do-tuần.
Cūḷāmaṇi Cetiya Và Sudhammasabhā
* Khu vườn Puṇḍarika có cây pārichatta hoặc parijāta cao 100 do-tuần có cành vươn rộng ra 50 do-tuần, khi đến mùa trổ hoa có mùi thơm toả ra xa 100 do-tuần.
Phía dưới tàng cây pārichatta có tấm đá quý làm chỗ ngồi gọi là Paṇḍukambalasilā bề ngang 50 do-tuần, bề dọc 60 do-tuần, bề dày 15 do-tuần có màu đỏ hồng như màu hoa.
* Ngôi bảo-tháp Cūḷāmaṇicetiya nơi tôn thờ Xá-lợi Răng nhọn bên phải của Đức-Phật Gotama và nắm tóc của Đức-Bồ-tát Siddhattha. Khi Đức-Bồ-tát đi xuất gia, cắt tóc ném lên hư không, khi ấy, Đức-vua-trời Sakka hiện xuống, hứng đón nhận nắm tóc, đem về tôn thờ trên ngôi bảo-tháp Cūḷāmaṇi này.
* Hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ tụ hội nghe pháp hoặc đàm đạo pháp tại cõi trời Tam-thập- tam-thiên.
* Khu vườn Mahāvana có hồ nước rộng tên gọi là Sunandā và có lâu đài nguy nga tráng lệ là nơi du ngoạn tiêu khiển của Đức-vua-trời Sakka.
Tính chất cõi trời Tam-thập-tam-thiên
Chư-thiên là chư vị thiên-nam, chư vị thiên- nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có những tính chất đặc biệt như sau:
* Nếu là vị thiên-nam thì có thân hình dáng dấp trẻ trung trong độ tuổi 20, và nếu là vị thiên-nữ thì có thân hình trẻ đẹp trong độ tuổi 16. Tất cả mọi thiên-nam, mọi thiên-nữ vẫn duy trì độ tuổi ấy cho đến khi hết tuổi thọ 1.000 năm tuổi trời, so với thời gian trong cõi người là 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời Tam- thập-tam-thiên bằng 100 năm trong cõi người.
Tất cả mọi thiên-nam, mọi thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên không có già, bệnh, tóc bạc, răng rụng, da nhăn, v.v... vẫn duy trì sự trẻ trung, xinh đẹp cho đến hết tuổi thọ (chết) biến mất không có thi thể.
* Vật thực, nước uống của tất cả mọi thiên-nam, mọi thiên-nữ là vô cùng vi-tế, cho nên trong thân thể không có thải ra các chất cặn bã, nghĩa là không có tiểu tiện, đại tiện. Các thiên nữ không có kinh nguyệt, không có thai, bởi vì vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời Tam- thập-tam-thiên đều hoá-sinh.
(Tuy nhiên cũng có số ít vị thiên-nữ trong cõi bhūmmaṭṭhadevatā giống như người nữ trong cõi người).
Theo lệ thường, chư-thiên trong cõi trời Tam- thập-tam-thiên này:
* Nếu vị thiên-nam, vị thiên-nữ là con thì hoá-sinh tại nơi vế của vị chư-thiên.
* Nếu vị thiên-nữ là vợ thì hoá-sinh tại chỗ nằm của vị thiên-nam. Mỗi vị thiên-nam có 500, 700, 1.000, v.v... vị thiên-nữ làm vợ.
* Nếu vị thiên-nam, vị thiên-nữ là vị hầu hạ thì hoá-sinh xung quanh chỗ nằm của vị chư-thiên ấy.
* Nếu vị thiên-nam, vị thiên-nữ là vị giúp công việc thì hoá-sinh trong lâu đài, hoặc trong phạm vi lâu đài của vị chư-thiên ấy.
* Nếu vị thiên-nam, vị thiên-nữ hoá-sinh ở bên ngoài khoảng giữa 2 lâu đài của 2 vị thiên-nam, nếu có sự tranh chấp giữa 2 vị thiên-nam muốn vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy là thuộc hạ của mình thì dẫn nhau đến hầu Đức-vua-trời Sakka phán xét.
Đức-vua-trời phán xét rằng:
“Nếu vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ nào xuất hiện gần với lâu đài của vị chư-thiên nào thì vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ thuộc về vị chư- thiên ấy.”
“Vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ nào xuất hiện ngay khoảng giữa 2 lâu đài của 2 vị chư-thiên- nam, nếu vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ nhìn về hướng lâu đài vị chư-thiên nào thì thuộc về vị chư-thiên ấy.”
“Vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ nào xuất hiện ngay chính khoảng giữa 2 lâu đài của 2 vị chư- thiên, nếu vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ nhìn thẳng, không hướng về lâu đài của vị chư-thiên nào thì vị thiên-nam, vị thiên-nữ ấy thuộc về của Đức-vua-trời Sakka.”
Các vị thiên-nam, các vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có hào quang toả ra rộng lớn khác nhau, có những đồ trang sức, các loại châu báu quý giá khác nhau, có lâu đài to lớn nguy nga tráng lệ khác nhau, có thân hình xinh đẹp khác nhau, v.v... tiếp xúc với các đối-tượng tốt đáng hài lòng khác nhau, đó là do quả báu của các phước-thiện khác nhau, khác với loài người có thân hình ô-trọc.
Cho nên, chư-thiên nếu tiếp xúc với mùi của loài người thì dù cách xa 100 do-tuần vẫn không thể chịu đựng nổi.
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên có toàn những đối-tượng tốt thật vô cùng hoan-hỷ mà trong cõi người không sao sánh được, nhất là khu vườn Nandavana là nơi thật vô cùng hoan-hỷ bậc nhất trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Thật vậy, vị thiên-nam, vị thiên-nữ nào có nỗi khổ tâm vì lo sợ chết, nếu vị thiên-nam, vị thiên- nữ ấy đi đến du ngoạn tiêu khiển trong khu vườn Nandavana thì cảm nhận vô cùng hoan-hỷ, nên không còn khổ tâm nữa.
Đức-vua-trời Sakka
Đức-vua-trời Sakka là Đức-vua cao cả nhất trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên và cõi trời Tứ-đại-thiên-vương. Đức-vua-trời Sakka ngự tại lâu đài bằng vàng gọi là Vejayanta trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Lâu đài Vejayanta cao 1000 do-tuần có những cây cột cờ cao 300 do- tuần cẩn bằng thất báu cắm xung quanh lâu đài.
* Đức-vua-trời Sakka có chiếc xe cũng có tên Vejayanta, phía trước xe là chỗ ngồi của vị thiên-nam lái xe Mātali dài 50 do-tuần, phần giữa xe là chỗ ngồi của Đức-vua-trời Sakka dài 50 do-tuần, phía sau xe dài 50 do-tuần, chiếc xe Vejayanta gồm có chiều dài 150 do-tuần, bề rộng 50 do-tuần. Chiếc ngai của Đức-vua-trời Sakka trên chiếc xe thành tựu bằng thất báu có chiều cao 1 do-tuần, bề rộng 1 do-tuần, phía trên có chiếc lọng lớn 3 do-tuần, có 1.000 con ngựa báu trang hoàng những đồ trang sức quý giá để kéo chiếc xe Vejayanta. (1.000 con ngựa báu không phải là loài súc-sinh mà chính là vị thiên- nam trên cõi trời biến hoá ra con ngựa báu).
* Nếu khi Đức-vua-trời Sakka muốn cỡi voi thì có con voi báu Erāvaṇa to lớn 150 do-tuần được trang hoàng lộng lẫy, voi báu Erāvaṇa này không phải là loài súc-sinh mà chính là vị thiên- nam biến hoá ra voi báu,...
Để trở thành Đức-vua-trời Sakka cần phải thực-hành 7 pháp:
1- Nuôi dưỡng cha mẹ một cách cung-kính và chu đáo.
2- Tôn kính bậc trưởng lão trong dòng họ và người trong đời.
3-Nói năng dịu dàng lễ phép đối với mọi người.
4- Không nói lời chia rẽ mà nói lời hoà thuận.
5- Không có tính keo kiệt trong của cải tài sản của mình mà hoan-hỷ tạo phước-thiện bố-thí.
6- Có tính chân thật với mình và mọi người.
7- Chế ngự được tính sân hận.
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên có kinh-thành Sudassana, 4 khu vườn giải trí công cộng, đặc biệt có 2 khu vườn Puṇḍarika và Mahāvana.
- Khu vườn Mahāvana là nơi mà Đức-vua- trời Sakka đến du lãm giải trí.
- Khu vườn Puṇḍarika là nơi đặc biệt quan trọng hơn các nơi khác, bởi vì có ngôi bảo-tháp Cūḷāmaṇicetiya, nơi tôn thờ Xá-lợi của Đức- Phật Gotama, có tảng đá Paṇḍukambalasilā dưới tàn cây Parichatta mà Đức-Phật Gotama đã từng ngự đến ngồi thuyết Abhidhamma- piṭaka: Tạng Vi-Diệu-Pháp gồm có 7 bộ, trong mùa hạ thứ 7 của Đức-Phật tại cung trời Tam- thập-tam-thiên và hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà tất cả chư-thiên tụ hội nghe pháp hoặc đàm đạo pháp.
Hội-Trường Sudhammasabhā
Hội-trường Sudhammasabhā nằm gần cây Parichatta. Cây Parichatta mỗi năm trổ hoa một lần, khi đến thời-kỳ trổ hoa, lá cây trở thành màu vàng, nhìn thấy lá màu vàng như vậy, chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ vui mừng hoan-hỷ sẽ được nhìn thấy hoa parichatta, đến khi gần trổ hoa, tất cả lá vàng đều rụng cả, tiếp theo toàn cây parichatta trổ hoa màu đỏ toả ra ánh sáng xung quanh 500 do-tuần, mùi thơm của hoa theo chiều gió 100 do-tuần.
Hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà các vị thiên-nam, vị thiên-nữ hoan-hỷ tụ hội lắng nghe thuyết-pháp hoặc đàm đạo pháp có Đức-vua-trời Sakka chủ trì.
* Hội-trường Sudhammasabhā được thành tựu bằng thất báu, có chiều cao 500 do-tuần, rộng 300 do-tuần, nền lát bằng ngọc quý, cột bằng vàng, v.v... tất cả đều thành-tựu bằng 7 thứ báu.
Bên trong hội-trường, phía trên ngay ở giữa có một pháp-toà thành-tựu bằng thất báu quý giá cao 3 do-tuần, để vị Pháp-sư ngồi thuyết pháp.
Phía dưới có chỗ ngồi của Đức-vua-trời Sakka, kế tiếp 32 chỗ ngồi của 32 vị thiên-nam cấp cao quý và tiếp theo các vị thiên-nam, vị thiên-nữ theo thứ tự từ cao đến thấp.
Khi đến thời-kỳ nghe pháp tại hội trường Sudhammasabhā, Đức-vua-trời Sakka thổi tù-và bằng vỏ ốc gọi là vijayuttara dài 140 cùi tay, tiếng tù-và vang xa trong kinh-thành Sudassana, ngoài kinh-thành, và thổi tù-và chỉ một lần, âm thanh kéo dài lâu 4 tháng của cõi người.
Tất cả vị thiên-nam, vị thiên-nữ ở trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên này nghe tiếng tù-và báo hiệu, tất cả vị thiên-nam, vị thiên-nữ khắp mọi nơi đều đến hội-trường Sudhammasabhā.
Đức-vua-trời Sakka ra khỏi lâu đài Vejayanta cùng với 4 Chánh-cung hoàng-hậu là Nandā, Cittā, Sudhammā, Sujā lên voi báu Eravaṇa dẫn đầu tất cả vị thiên-nam, vị thiên-nữ ngự đến hội-trường Sudhammasabhā.
Pháp-sư là vị phạm-thiên Sunaṅkumāra từ cõi phạm-thiên hiện xuống thuyết-pháp, nếu khi vị phạm-thiên không hiện xuống thì Đức-vua- trời Sakka sẽ thay thế thuyết-pháp hoặc vị thiên nam nào có trí-tuệ sáng suốt hiểu biết chánh- pháp có khả năng cũng thuyết-pháp được.
Đức-vua-trời Sakka tủi thân
Đức-vua-trời Sakka có uy quyền bậc nhất trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên tư duy rằng:
“Ta là Đức-vua-trời là do nhờ quả báu của mọi phước-thiện mà tiền-kiếp của ta đã tạo trong thời-kỳ không có Phật-giáo, nên hào quang cùng những món đồ trang sức, lâu đài,... của ta không thể sánh với các vị thiên-nam mà tiền- kiếp của họ đã tạo mọi phước-thiện trong thời- kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, nên các vị thiên-nam ấy có hào quang sáng choang cả hội trường, có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài nguy nga tráng lệ hơn ta gấp bội.
Vậy, ta nên tìm cơ hội để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến các Ngài đại-trưởng-lão có giới-đức cao thượng.”
Với thiên-nhãn đặc biệt hơn toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-vua-trời Sakka thấy rõ, biết rõ Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa nhập diệt-thọ-tưởng (nirodha- samāpatti) suốt 7 ngày đêm, Ngài đại-trưởng- lão vừa xả diệt-thọ-tưởng.
Theo lệ thường, sau khi xả diệt-thọ-tưởng, Ngài đại-trưởng-lão đi khất thực đến tế độ người nghèo khổ, để cho họ có được vô-lượng phước- thiện bố-thí và có được vô-lượng quả báu cao quý.
Sau khi thấy rõ, biết rõ như vậy, nên Đức-vua- trời Sakka truyền gọi Chánh-cung hoàng-hậu Sujā cùng nhau xuất hiện xuống cõi người, hoá thân thành hai ông bà lão thợ dệt nghèo khổ trong một căn nhà lá trên con đường mà Ngài đại-trưởng- lão Mahākassapa sẽ đi khất thực ngang qua.
Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa đi đến nhìn thấy căn nhà lá nghĩ rằng: “Hai ông bà thợ dệt này già cả như thế mà còn phải làm việc, chắc hẳn là người nghèo khổ nên tế độ”.
Nhìn thấy Ngài đại-trưởng-lão đứng trước cổng nhà, ông lão đi ra đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi xin nhận cái bát.
Ngài đại-trưởng-lão trao cái bát với tâm bi, ông lão cung-kính đón nhận cái bát vào nhà, bỏ đầy vật thực ngon lành có vị trời, hai ông bà lão cùng nhau đem ra kính dâng lên Ngài đại- trưởng-lão Mahākassapa, cái bát bốc lên mùi thơm tho của vật thực toả ra khắp kinh-thành Rājagaha.
Khi nhận cái bát, Ngài đại-trưởng-lão suy xét rằng: “Hai ông bà lão này là ai mà có món vật thực như vật thực của Đức-vua-trời vậy!”
Ngài đại-trưởng-lão biết ngay hai ông bà lão này chính là Đức-vua-trời Sakka và Chánh-cung hoàng-hậu Sujā hoá thân thành hai ông bà lão nghèo khổ như vậy. Ngài đại-trưởng-lão quở trách rằng:
- Này Đức-vua-trời Sakka! Đức-vua đã giành cơ hội của người nghèo khổ, đã làm việc không nên làm đối với địa vị cao cả như Đức-vua-trời!
Nghe Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa quở trách như vậy, Đức-vua-trời Sakka kính bạch rằng:
- Kính bạch Ngài đại-trưởng-lão, chúng con cũng là phận nghèo nàn trên cõi trời Tam-thập- tam-thiên. Tuy con là Đức-vua-trời, nhưng hào quang, đồ trang sức, lâu đài,... không thể sánh với các vị thiên-nam mà tiền-kiếp của họ đã tạo mọi phước-thiện trong thời-kỳ có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, nên các vị thiên-nam ấy có hào quang sáng choang cả hội trường, có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài nguy nga tráng lệ hơn chúng con gấp bội.
Cho nên, chúng con cũng là phận nghèo nàn. Bạch Ngài.
Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa dạy rằng:
- Này Đức-vua-trời Sakka! Từ nay Đức-vua không nên lừa cúng dường lão Tăng như vậy nữa.
- Kính bạch Ngài đại-trưởng-lão, nếu chúng con lừa cúng dường lên Ngài đại-trưởng-lão như vậy thì chúng con có được phước-thiện hay không? Bạch Ngài.
- Này Đức-vua-trời Sakka! Đức-vua vẫn có được phước-thiện vậy.
Đức-vua-trời Sakka và Chánh-cung-hoàng-hậu Sujā vô cùng hoan-hỷ, thành kính đảnh lễ Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa, rồi xin phép hồi cung trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Đức- vua-trời Sakka và Chánh-cung-hoàng-hậu Sujā bay lên hư không thốt lên lời hoan-hỷ 3 lần rằng:
“- Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supaṭiṭ- ṭhitaṃ!
- Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supaṭiṭ- ṭhitaṃ!
- Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supatiṭ- ṭhitaṃ!”.(16)
“A! hạnh phúc quá! Phước-thiện mà chúng ta đã tạo do nương nhờ nơi Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa thật là phước-thiện bố-thí cao quý nhất, vững chắc nhất.” (3 lần)
Do nhờ năng lực của phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa, từ đó, Đức-vua-trời Sakka có hào quang sáng ngời, có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài cũng nguy nga tráng lệ không thua kém vị thiên-nam nào trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-vua-trời Sakka trở thành bậc Thánh Nhập-lưu
Một thuở nọ Đức-Thế-Tôn ngự tại động núi Veriyaka, miền bắc của xóm làng Ambasaṇḍa, hướng Bắc của kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, Đức-vua-trời Sakka thấy 5 hiện tượng gần chết của chư-thiên, nên phát sinh tâm sợ chết, Đức- vua-trời Sakka ngự xuống cõi người cùng với vị thiên-nam Pañcasikha đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, bạch hỏi 14 câu hỏi.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy giải đáp xong 14 câu hỏi(17). Khi ấy, Đức-vua-trời Sakka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Ngay tại nơi ấy, Đức-vua-trời Sakka chuyển kiếp (cuti: chết), rồi hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trở lại là Đức-vua-trời Sakka (kiếp mới).
Đức-vua-trời Sakka thành kính đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, xin phép hồi cung trở về cõi trời Tam- thập-tam-thiên.
Kiếp vị-lai của Đức-vua-trời Sakka
* Trong thời vị-lai, khi Đức-vua-trời Sakka hết tuổi thọ ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), rồi tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) xuống làm người trong cõi người, sẽ trở thành Đức-vua chuyển-luân-thánh-vương, sẽ trở thành bậc Thánh Nhất-lai tại cõi người.
* Khi Đức-vua chuyển-luân-thánh-vương hết tuổi thọ tại cõi người sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), rồi hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, làm vị thiên-nam, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau đó sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho quả hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) lên 5 tầng trời sắc-giới Suddhāvāsa: Tịnh-cư-thiên, hết tuổi thọ ở tầng trời bậc thấp hoá-sinh kiếp sau lên tầng trời bậc cao theo tuần tự, từ tầng trời Avihā, tầng trời Atappā, tầng trời Sudassā, tầng trời Sudassī, cho đến tầng trời Akaniṭṭhā cuối cùng.
* Trong tầng trời sắc-giới Akaniṭṭhā, hậu- kiếp của Đức-vua-trời Sakka sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc-giới này, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
(Theo Chú-giải bộ Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Sakkapañhāsuttavaṇṇanā).
Tích vị thiên-nam Rāhu-Asurinda
Trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có vị thiên- nam tên Rāhu-asurinda(18) có thân hình to lớn nhất trong 6 cõi trời dục-giới.
Thân hình của vị thiên-nam Rāhu-asurinda có chiều cao 4.800 do-tuần, 2 vai rộng 112 do-tuần, chiều rộng vòng quanh thân hình có 600 do- tuần, 2 bàn tay, 2 bàn chân mỗi bàn lớn 200 do- tuần, ngón tay dài 50 do-tuần, cái đầu to 900 do- tuần, trán rộng 30 do-tuần, 2 con mắt khoảng cách 50 do-tuần, lỗ mũi dài 300 do-tuần, miệng rộng 300 do-tuần.
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda có thân hình to lớn là vị phó-vương trong cung điện của loài a-su-ra-kā-ya ở phía dưới núi Sineru. Khi nghe các chư-thiên tán dương ca tụng ân-đức của Đức-Phật Gotama, vị thiên-nam Rāhu-asurinda cũng muốn hiện xuống cõi người đến hầu Đức- Phật Gotama, nhưng suy nghĩ rằng:
“Ta có thân hình to lớn như thế này, nếu hiện xuống hầu Đức-Phật Gotama với thân hình nhỏ bé thì ta không thể cúi mặt nhìn thấy Đức-Phật được”.
Do suy nghĩ như vậy, nên không đến hầu Đức-Phật.
Một thời gian sau, nghe toàn thể chư-thiên đều tán dương ca tụng ân-đức của Đức-Phật Gotama vô lượng, nên vị thiên-nam Rāhu- asurinda suy nghĩ rằng:
“Đức-Phật Gotama có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có ân-đức vô thượng như thế nào? Vả lại Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là điều khó, rất hy hữu. Vậy, ta cũng nên cố gắng đến hầu Đức-Phật Gotama một lần cho biết”.
Khi ấy, biết rõ điều suy xét của thiên-nam Rāhu-asurinda, Đức-Phật nghĩ rằng:
Khi thiên-nam Rāhu-asurinda đến hầu, Như- lai nên ở trong oai nghi nào trong 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Con người đứng hoặc ngồi dù thấp cũng như cao. Vậy, Như-lai nên ở trong oai nghi nằm nghiêng bên phải (Tathāgataseyyā), để vị thiên-nam Rāhu-asurinda nhìn thấy Như-lai trong oai nghi nằm nghiêng bên phải ấy.
Sau khi nghĩ như vậy, Đức-Phật truyền bảo Ngài Đại-đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Con nên đặt chiếc giường nằm của Như-lai bên ngoài gần trước cửa cốc gandhakuṭi này, Như-lai sẽ nằm ở chỗ ấy.
Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đặt chiếc giường gần trước cửa cốc gandhakuṭi xong, Đức-Thế-Tôn ngự đến nằm nghiêng bên phải, tay phải chống cái đầu.
Khi ấy, vị thiên-nam Rāhu-asurinda từ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên hiện xuống hầu Đức-Thế-Tôn, đứng ngửa mặt lên chắp 2 tay trên trán nhìn Đức-Phật, như đứa bé ngửa mặt nhìn lên mặt trăng trên hư không. Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:
- Này Rāhu-asurinda! Ngươi đứng nhìn thấy Như-lai như thế nào?
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda bạch với Đức- Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không biết Đức-Thế-Tôn có nhiều oai lực vô thượng phi thường như thế này, thế mà con tưởng rằng: con không thể cúi mặt mình nhìn thấy được, nên trước đây con không đến hầu Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Rāhu-asurinda! Khi tạo tất cả mọi pháp-hạnh ba-la-mật, Như-lai không hề cúi mặt rụt rè tạo các pháp-hạnh ba-la-mật, không hề thoái chí nản lòng, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la- mật cho được đầy đủ trọn vẹn. Vì vậy, những chúng-sinh có ý muốn nhìn thấy Như-lai, không cần phải cúi mặt xuống nhìn thấy Như-lai, như ngươi suy nghĩ.
Thấy rõ, biết rõ như vậy, vị thiên-nam Rāhu- asurinda phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức- Thế-Tôn, nên Đức-Phật thuyết-pháp tế độ vị thiên-nam Rāhu-asurinda.
* Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp xong, vị thiên-nam Rāhu-asurinda phát sinh đức-tin trong sạch kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, Đức-Pháp-bảo, chư tỳ-khưu- Tăng-bảo đến trọn kiếp.
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda kính lễ Đức-Phật, xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Chư-thiên trong cõi trời Tam-thập-tam- thiên có tuổi thọ 1.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 100 năm cõi người.
3- Yāmābhūmi: Cõi trời Dạ-ma-thiên
Cõi trời Dạ-ma-thiên là cõi trời thứ ba nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Tam-thập-tam- thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời này không có khổ, chỉ có sự an-lạc mà thôi, nên gọi cõi trời này là Yāmābhūmi: cõi trời Dạ-ma-thiên.
Đức-vua-trời Suyāma hoặc Đức-vua-trời Yāma trị vì toàn thể chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Dạ-ma-thiên.
Tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Dạ-ma-thiên này không có nhóm bhummaṭṭhadevatā mà chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư vị thiên- nam, chư vị thiên-nữ có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v... hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời này vi-tế hơn cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ 2.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 200 năm cõi người.
4- Tusitābhūmi: Cõi trời Đâu-suất-đà-thiên
Cõi trời Đâu-suất-đà-thiên là cõi trời thứ tư nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Dạ-ma- thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên có tâm hoan-hỷ và luôn luôn vui tươi an-lạc trong cõi trời này, nghĩa là chư-thiên không có khổ tâm, chỉ có tâm thường an-lạc mà thôi.
Vì vậy, cõi trời này gọi là Tusitābhūmi: cõi trời Đâu-suất-đà-thiên rất cao quý.
Thật vậy, tất cả chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác khi đã hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy kiếp áp chót đều hoá-sinh làm vị thiên-nam Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trên cõi trời Đâu-suất-đà- thiên này chờ đợi đến thời-kỳ đúng lúc, hợp thời sẽ tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Trong kiếp trái đất này gọi là Bhaddakappa thật vô cùng diễm phúc gồm có 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.
Trong thời quá-khứ đã có 3 Đức-Phật đã xuất hiện là Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana, Đức-Phật Kassapa; trong thời hiện-tại Đức-Phật Gotama đã xuất hiện, giáo-pháp của Đức-Phật vẫn đang còn lưu truyền, và trong thời vị-lai Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này.
Vấn: Trong thời vị-lai, đến thời-kỳ nào Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này?
Đáp: Trong thời hiện-tại Phật-lịch 2561 năm, giáo-pháp của Đức-Phật Gotama đang còn lưu truyền trên thế gian cho đến Phật-lịch 5000 năm, giáo-pháp của Đức-Phật hoàn toàn bị tiêu hoại, bởi vì không còn các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong cõi người này, không còn một ai biết đến Phật-giáo nữa.
Từ đó, ác-pháp càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện-pháp càng ngày càng suy giảm, nên tuổi thọ của con người càng ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ của loài người chỉ còn 10 năm mà thôi.
Khi ấy, một thảm họa khủng khiếp sẽ xảy ra, loài người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, bà con thân quyến, một số người hoảng sợ chạy trốn vào rừng núi thoát thân.
Biết nạn chém giết không còn nữa, số người còn sống sót ấy gặp lại nhau cam kết không sát hại nhau nữa. Từ đó, con người biết hổ-thẹn tội- lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nên thiện-pháp bắt đầu càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại ác-pháp càng ngày càng suy giảm, tuổi thọ của con người càng ngày càng tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ(19)năm.
Trong thời-kỳ ấy con người bắt đầu sống thất niệm dể duôi, nên ác-pháp phát sinh. Vì vậy, tuổi thọ con người lại bắt đầu giảm dần, giảm dần cho đến khi thời đại con người có tuổi thọ còn khoảng 80.000 năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Metteyya, chuyển kiếp (cuti: chết) từ cõi trời Đâu-suất-đà- thiên, tái-sinh kiếp chót (paṭisandhi) đầu thai làm người trong cõi người này, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Metteyya.
Chư Đức-Bồ-tát mỗi bậc khi đã tạo đầy đủ trọn vẹn các pháp-hạnh ba-la-mật của mình xong rồi, kiếp áp chót đều sinh trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên này. Cho nên, cõi trời Đâu- suất-đà-thiên là cõi trời cao quý hơn các cõi trời dục-giới khác.
Đức-vua-trời Santussita trị vì toàn thể chư- thiên trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên này chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư vị thiên- nam, chư vị thiên-nữ có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v... hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời này vi-tế hơn cõi trời Dạ-ma-thiên.
* Chư-thiên trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên có tuổi thọ 4.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 400 năm cõi người.
5- Nimmānaratībhūmi: Cõi trời Hoá-lạc-thiên
Cõi trời Hoá-lạc-thiên là cõi trời thứ năm nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Đâu-suất- đà-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời này có khả năng tự hoá ra 5 đối- tượng ngũ-dục theo ý muốn của mình, rồi hưởng sự an-lạc trong các đối-tượng ấy.
Vì vậy, cõi này gọi là Nimmānaratībhūmi: cõi trời Hoá-lạc-thiên.
Trong 6 cõi trời dục-giới, từ cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, Tam-thập-tam-thiên, Dạ-ma-thiên, Đâu-suất-đà-thiên chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ đều có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị, nhưng cõi trời Hoá-lạc-thiên và cõi trời Tha- hoá-tự-tai-thiên không có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị thiên-nam.
Vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời Hoá-lạc-thiên nếu khi nào muốn hưởng an-lạc trong đối-tượng ngũ-dục thì khi ấy vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ tự mình hoá ra vị thiên-nữ hoặc vị thiên-nam khác phái theo ý muốn của mình, để hưởng sự an-lạc trong đối-tượng ngũ-dục ấy xong, rồi cho biến mất.
Đức-vua-trời Sunimmita hoặc Đức-vua-trời Nimmita trị vì toàn thể chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā trong cõi trời Hoá-lạc-thiên mà thôi.
Tất cả chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v... hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời này vi- tế hơn cõi trời Đâu-suất-đà-thiên.
* Chư-thiên trong cõi trời Hoá-lạc-thiên có tuổi thọ 8.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 800 năm cõi người.
6- Paranimmitavasavattībhūmi: Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên
Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên là cõi trời thứ sáu cao nhất trong 6 cõi trời dục-giới nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Hoá-lạc-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên muốn hưởng an-lạc trong đối-tượng ngũ-dục đều do vị chư- thiên thuộc hạ biết rõ sự ham muốn ấy nên hoá ra đối-tượng ấy theo ý muốn.
Vì vậy, cõi này gọi là Paranimmitavasavattī- bhūmi: cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên.
Vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời Tha- hoá-tự-tại-thiên giống như vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời Hoá-lạc-thiên đều không có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị.
Đức-vua-trời Paranimmita hoặc Đức-vua- trời Vasavattī trị vì toàn thể chư vị thiên-nam,chư vị thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên.
Tất cả chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên này chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư- thiên có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v... hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời này vi-tế hơn cõi trời Hoá-lạc-thiên.
* Chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên có tuổi thọ 16.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 1.600 năm cõi người.
* Đức-vua-trời Vasavattī không chỉ trị vì cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, mà còn có oai lực cai quản cả 6 cõi trời dục-giới nữa.
Ác-ma-thiên (devaputtamāra)
* Ác-ma-thiên (devaputtamāra) có nhiều oai lực tại cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, Ác-ma-thiên có ác-tâm không muốn chúng-sinh nào thoát ra khỏi quyền năng của mình.
Thật vậy, khi biết Đức-Bồ-tát Siddhattha đi xuất gia, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác thuyết-pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, thì Ác- ma-thiên từ cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên liền hiện xuống, ngăn cản Đức-Bồ-tát Siddhattha, nhưng y bất lực, đành trở về cõi trời.
Đến khi Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi trên bồ-đoàn quý báu, vào buổi chiều ngày rằm tháng tư (âm-lịch), để trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng-Giác. Khi ấy, Ác-ma-thiên cầm đầu thiên- ma-binh, thiên-ma-tướng từ cõi trời Tha-hóa-tự- tại-thiên xuất hiện đến cội Đại-Bồ-đề nơi Đức-Bồ-tát Siddhattha đang ngự trên bồ-đoàn quý báu, Ác-ma-thiên sử dụng mọi phép mầu cực kỳ lợi hại, cốt để đuổi Đức-Bồ-tát rời khỏi cội đại- Bồ-đề, giành ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, để Đức- Bồ-tát Siddhattha không thể chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nhưng Ác-ma- thiên hoàn toàn bất lực, đành phải chịu thất bại, nên Ác-ma-thiên cùng thiên-ma-binh, thiên-ma tướng bỏ chạy trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên.
Đêm rằm tháng tư ấy, Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm- luân, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama độc nhất vô nhị trong toàn cõi giới chúng-sinh, vào canh chót đêm rằm tháng tư ấy.
Sau khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ác-ma-thiên đến kính thỉnh Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, bởi vì y không muốn chúng-sinh nào được nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trở thành bậc Thánh A-ra-hán y theo Đức-Phật, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, thoát ra khỏi quyền năng của y, nhưng Đức-Phật không chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Ác-ma-thiên.
Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng- sinh suốt 45 năm sau, Ác-ma-thiên hiện xuống kính thỉnh Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn. Lần này Đức-Phật Gotama nhận lời thỉnh cầu của Ác-ma-thiên.
* Hiện-tượng của chư-thiên trước khi chết
Mỗi vị thiên-nam, vị thiên-nữ sắp hết tuổi thọ tại cõi trời dục-giới ấy, thường có pubbanimitta(20) 5 hiện-tượng báo trước phát sinh là:
1- Mālā milāyanti: những vòng hoa héo.
2- Vatthāni kilissanti: những y phục phai màu.
3- Kacchehi sedā muccanti: mồ hôi chảy ra từ 2 bên nách.
4- Kāye dubbaṇṇiyaṃ okkamati: sắc thân không còn xinh đẹp.
5- Devo devāsane nābhiramati: chư-thiên không còn hài lòng cõi trời dục-giới đang sống.
Vị thiên-nam, vị thiên-nữ nào nếu có 5 triệu-chứng báo trước phát sinh thì vị thiên-nam, vị thiên-nữ sắp hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, phải cuti: chuyển kiếp (chết), rồi sẽ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong cõi-giới khác, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy.
- Nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người hoặc hoá- sinh làm vị thiên-nam, hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời dục-giới cao hơn hoặc cõi trời dục-giới thấp hơn hoặc cõi trời dục-giới ngang bằng với kiếp trước.
- Nếu ác-nghiệp có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a- su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, tuỳ theo năng lực của quả ác-nghiệp ấy.
Lựa chọn sinh trong 6 cõi trời dục-giới
Đối với hạng người nào đến lúc lâm chung có khả năng lựa chọn tái-sinh cõi trời dục-giới nào trong 6 cõi trời dục-giới đúng theo ý muốn lựa chọn của mình được?
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy
Trong Chú-giải bài kinh Sakkapañhāsutta, có đoạn đề cập đến người có giới, người giữ gìn các điều-giới của mình trong sạch và trọn vẹn rằng:
“Parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yatthicchanti, tattha nibbattanti.”(21)
Những người thiện nào giữ gìn các điều-giới của mình trong sạch trọn vẹn, đến lúc lâm chung có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt, muốn lựa chọn cõi trời dục-giới nào trong 6 cõi trời dục- giới, rồi sau khi người thiện ấy chết, đại-thiện- nghiệp giữ-giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy đúng theo ý muốn lựa chọn của mình, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời dục-giới ấy, cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời dục-giới ấy.
Thật vậy, Đức-Phật dạy có 5 quả-báu của người thiện có giới, người thiện giữ gìn các điều-giới của mình trong sạch và trọn vẹn, có điều quả-báu thứ 4 và điều quả-báu thứ 5 rằng:
- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn lúc lâm chung có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt.
Đó là quả-báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
- Này các người tại gia! Sau khi người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới (cõi người, hoặc 6 cõi trời dục giới), hưởng mọi sự an-lạc trong cõi ấy.
Đó là quả-báu thứ năm của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.(22)
Như vậy, người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết giữ gìn các điều-giới của mình trong sạch trọn vẹn, đến lúc lâm chung, người thiện ấy có đại-thiện-tâm giữ-giới tỉnh táo sáng suốt, có khả năng lựa chọn cõi trời dục-giới nào trong 6 cõi trời dục-giới. Sau khi người thiện ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ-giới trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục- giới ấy theo ý muốn lựa chọn của mình, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời dục-giới ấy, cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời dục-giới ấy.
Tích Dhammika upāsakavatthu(23) được tóm lược như sau:
Một thuở nọ Đức-Thế-Tôn ngư tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthī, đề cập đến cận-sự-nam Dhammika.
Cận-sự-nam Dhammika đang lâm bệnh nặng đến lúc lâm chung, khi ấy, có 6 chiếc xe trời được trang hoàng lộng lẫy, với 1.000 con ngựa báu từ 6 cõi trời dục-giới hiện xuống đều thỉnh mời cận-sự-nam Dhammika tái-sinh kiếp sau hoá-sinh trên cõi trời dục-giới của mình.
Khi ấy, cận-sự-nam Dhammika suy xét nên lựa chọn tái-sinh kiếp sau hoá-sinh lên cõi trời nào trong 6 cõi trời dục-giới. Sau khi suy xét xong, cận-sự-nam Dhammika lựa chọn cõi trời Tusita: cõi trời Đâu-suất-đà thiên. Sau khi cận- sự-nam Dhammika chết, đại-thiện-nghiệp trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại- quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Đâu- suất-đà thiên đúng theo ý lựa chọn của mình.
Quả-báu của phước-thiện giữ-giới là như vậy, còn phước-thiện bố-thí như thế nào?
Đối với người thí-chủ nào đã tạo nhiều phước thiện đại-bố-thí, người thí-chủ ấy đến lúc lâm chung có khả năng lựa chọn cõi trời dục-giới nào trong 6 cõi trời dục-giới theo ý muốn của mình được hay không?
Sau khi người thí-chủ ấy chết, đại-thiện- nghiệp bố-thí trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy theo ý muốn lựa chọn của mình được hay không?
Nên tìm hiểu bài kinh Dānūpapattisutta(24) có một đoạn Đức-Phật dạy như sau:
“- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, tạo phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn, ... đến Sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả-báu của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
Chư vị thiên-nam, chư vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ sống lâu (1.000 năm cõi trời, nếu so với số năm cõi người thì bằng 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời, sự an-lạc vi-tế,... nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý hoá biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu mong phước-thiện bố-thí này cho quả tái- sinh kiếp sau làm vị thiên-nam (vị thiên-nữ) trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên ấy.”
Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam (vị thiên-nữ) trên cõi trời Tam-thập- tam-thiên ấy.
Như-lai dạy rằng: Kiếp sau của thí-chủ được Thành tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có các điều-giới của mình trong sạch trọn vẹn, thí- chủ không phải là người phạm điều-giới, không có giới (tañca kho sīlavato vadāmi, no dussīlassa).
- Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có các điều-giới trong sạch trọn vẹn thì cầu mong được thành tựu như ý, nhờ đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh”(ijjhati bhikkhave! Sīlavato ceto- paṇidhi visuddhatā).
Như vậy, dù thí-chủ nào có tạo phước-thiện đại-bố-thí nhiều bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu thí- chủ phạm điều-giới nào, tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, sau khi thí-chủ ấy chết, thì không thể ngăn cản được ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
Thật vậy, Đức-Phật dạy có 5 quả xấu, quả khổ của người phạm điều-giới, và 5 quả-báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn như sau:
*Quả khổ của người phạm giới (Dussīla ādīnava)(25)
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi làng Pāṭaligāma, dân làng Pāṭali đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy dân làng Pāṭali rằng:
- Này các người tại gia! Có 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới, người không có giới. 5 quả xấu, quả khổ ấy là:
- Này các người tại gia! Trong đời này, người phạm giới, người không có giới làm tiêu hao của cải tài sản lớn lao, do nhân dể duôi.
Đó là quả xấu thứ nhất của người phạm giới, người không có giới.
- Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có tiếng xấu bị lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả xấu thứ nhì của người phạm giới, người không có giới.
- Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có bất-thiện-tâm e ngại, sợ sệt khi đi vào nơi hội đoàn hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Sa-môn, hội đoàn Bà-la-môn...
Đó là quả xấu thứ ba của người phạm giới, người không có giới.
- Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.
Đó là quả xấu thứ tư của người phạm giới, người không có giới.
- Này các người tại gia! Sau khi người phạm giới, người không có giới chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
Đó là quả xấu, quả khổ thứ năm của người phạm giới, người không có giới.
- Này các người tại gia! Đó là 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới, người không có giới.
* Quả báu của người có giới (Sīlavanta ānisaṃsa)(26)
- Này các người tại gia! Có 5 quả-báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn. 5 quả-báu ấy là:
1- Này các người tại gia! Trong đời này, người có giới, người giữ gìn giới được trong sạch và trọn vẹn có nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi (có trí-nhớ biết mình).
Đó là quả-báu thứ nhất của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
2- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có danh thơm tiếng tốt được lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả-báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
3- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại- thiện-tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Sa-môn, hội đoàn Bà-la-môn...
Đó là quả-báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
4- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện- tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung.
Đó là quả-báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
5- Này các người tại gia! Sau khi người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới (cõi người, hoặc 6 cõi trời dục giới).
Đó là quả-báu thứ năm của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
- Này các người tại gia! Đó là 5 quả-báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn như vậy.
Như vậy, đối với người phạm điều-giới, người không có giới có quả xấu thứ tư, có ác- tâm mê muội lúc lâm chung và quả xấu thứ năm, sau khi người phạm giới, người không có giới chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
* Đối với người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có quả-báu thứ tư, có đại- thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung và quả-báu thứ năm, sau khi người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại- thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới (cõi người, hoặc 6 cõi trời dục giới).
Thật vậy, Chú-giải bài kinh Sakkapañhasutta, những người có giới trong sạch có thể lựa chọn cõi-giới tái-sinh kiếp sau 1 trong 6 cõi trời dục- giới theo ý muốn của mình như sau:
“Parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yatthicchanti, tattha nibbattanti.”(27)
Những người nào có giới trong sạch trọn vẹn, lúc lâm chung có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt muốn tái-sinh trên cõi trời nào trong 6 cõi trời dục-giới, thì sau khi những người ấy chết, dục-giới thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi trời dục-giới ấy theo ý muốn của mình, và hưởng được mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Như Đức-Phât dạy về 5 quả-báu của người thiện giữ gìn giới của mình trong sạch và trọn vẹn. Trong quả báu thứ 4 lúc lâm chung có đại- thiện-tâm tỉnh táo chọn lựa được cõi trời dục- giới nào mình muốn tái-sinh, và quả báu thứ 5, sau khi chết được tái-sinh cõi trời mình đã chọn.
-oo0oo-
(1) Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV: “Nghiệp Và Quả Của Nghiệp”, cùng soạn giả.
(2) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, Devadattavatthu.
(3) Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
(4) Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
(5) Bộ Jātakaṭṭhakathā, tích Nimijātaka.
(6) Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, Devadattavatthu.
(7) Xem đầy đủ trong Bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển VI: Pháp Hạnh Ba-La-Mật, tập 3, tích Temiya jātaka, cùng soạn giả.
(8) Xem đầy đủ trong bộ Nền Tảng Phật-Giáo, quyển V: “Phước Thiện” phần phước-thiện hoan-hỷ, cùng soạn giả.
(9) Bậc Thánh A-ra-hán không còn tham-ái, đến khi chết gọi là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
(10) Bộ Petavatthu, tích Tirokuḍapetavatthu.
(11) Trong Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Erakapattanāgarāja, Samyuttanikāya aṭṭhakathā, Vi. Mahāvaggaṭṭhakathā, ...
(12) A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) là đơn vị số lượng: số 1 đứng trước 140 số 0, viết tắt 10140.
(13) Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.
(14) Asaṅkhyeyya tính theo số lượng thì số 1 trước 140 số 0 sau.
(15) Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng Phật-Giáo, quyển IV Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.
(16) Chú-giải Dhammapada, Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu.
(17) Bộ Dī. Mahāvagga, Sakkapañhāsutta, và Aṭṭhakathā.
(18) Dī. theo Sīlakkhandhavagg aṭṭhakathā, Soṇadaṇḍasuttavaṇṇanā.
(19) Asaṅkhyeyya: a-tăng-kỳ là đơn vị số lượng số 1 trước 140 số 0.
(20) Khu. Itivuttakapāḷi, Pañcapubbanimittasutta.
(21) Dī.Aṭṭhakathā, Mahāvaggaṭṭhakathā. Sakkapañhasuttavaṇṇanā.
(22) DĪ, Mahāvagga, Mahāparinibbānasutta, ph. Sīlavanta ānisṃsa
(23) Dha. aṭṭhakathā, Yamakavagga, Dhammika upāsakavatthu.
(24) Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, Dānūpapattisutta.
(25) Dī. Mahāvagga, Mahāparinibbānasutta, đoạn Dussīla ādīnava.
(26) Dī. Mahāvagga, Mahāparinibbānasutta, Sīlavanta ānisaṃsa.
(27) Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Sakkapañhasuttavaṇṇanā.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.