Đây giải về 38 điều Hạnh Phúc mà Đức Thế Tôn là đấng thượng sư tự thuyết ra có ý nghĩa như vầy:
Một hôm nọ, Đức Thế Tôn an ngự tại Kỳ Viên Tự JETAVANᾹRᾹMA, là chùa của ông bá hộ Cấp Cô Độc tạo dâng, gần thành Xá Vệ. Khi ấy, có vị Trời ở dục giới hoài nghi về Hạnh Phúc thuyết, bèn lìa cõi trời bay xuống, vào đảnh lễ đấng Đại Từ, và làm cho hào quang sáng ngời rực rỡ, đi hữu nhiễu 3 vòng, rồi đứng tại chỗ phải lẽ, kính lễ hỏi về ý nghĩa hạnh phúc rằng:
KIṂ MAṄGALAṂ BHANTE BHAGAVᾹ = Ngưỡng bạch Đức Thế Tôn! Cái gì gọi là hạnh phúc sự tiến triển của tất cả chúng sanh?
Khi ấy, Đức Phật giải đáp về hạnh phúc bằng những kệ ngôn như vầy:
Điều hạnh phúc thứ 16
DHAMMACARIYĀCA: Nết hạnh ở theo Phật, Pháp, là giữ đúng theo 8 đường chánh, gọi là hạnh phúc cao thượng.
VẤN: Pháp thế nào gọi là Phật Pháp?
ĐÁP: Pháp đó nói về thập thiện là thân tam, khẩu tứ, ý tam. Cả 10 điều này là pháp cần hành cho đều đủ.
Thân tam:
- Chừa cải không giết hại loài sanh vật, bằng thân hoặc khẩu.
- Chừa cải trộm cắp sang đoạt những vật có chủ ngăn giữ, bằng thân hoặc khẩu.
- Chừa cải không tà dâm, nghĩa là không lang chạ với vợ con kẻ khác, đàn bà thì không tư tình với chồng con kẻ khác, làm cho tồi phong bại tục.
Khẩu tứ:
- Chừa cải không nói lời giả dối, là có thì nói có, không thì nói không.
- Chừa cải không nói lời đâm thọc, nghĩa là không nói hai lưỡi, làm cho chia rẽ nhau.
- Chừa cải không dùng lời ác ngữ, là không chửi, mắng bằng lời thô lỗ.
- Chừa cải không nói lời vô ích, sang đàng, nghĩa là chẳng nói những điều không đem lợi ích cho mình hoặc kẻ khác.
Ý tam:
- Chừa cải tâm tham lam mong sang đoạt của người về làm của mình.
- Chừa cải không sân hận và tính đánh đập, chém giết, hoặc cưu thù kết oán người và vật khác.
- Chừa cải không tà kiến, sái chơn lý.
VẤN: Phụ nữ mà người nam có thể phạm tà dâm đến mấy hạng?
ĐÁP: Có tới 20; nhưng đây chỉ giải 7 hạng thôi:
- Người Nữ có mẹ gìn giữ
- Người Nữ có cha chăn giữ.
- Người Nữ có anh chị gìn giữ.
- Người Nữ có em trai, em gái gìn giữ.
- Người Nữ có chồng chăn giữ.
- Người Nữ có mệnh lệnh nhà vua gìn giữ.
- Người Nữ đã nhận lễ nói, cũng gọi là có người chăn giữ.
VẤN: Khi thân, khẩu, ý, trong 3 nghiệp ấy làm tội, cái nào nặng hơn?
ĐÁP: Thân nghiệp, làm có tội nặng hơn khẩu và ý.
VẤN: Khi thân, khẩu, ý, đã tạo ác lỡ rồi, cần phải làm sao cho trở nên trong sạch?
ĐÁP: Ta đã phạm đến người nào, phải tới nơi người đó mà cầu sám hối, kẻ đó đại lượng xá tội lỗi cho thì bỏ tội nặng trở thành nhẹ, tội nhẹ mau tiêu tan.
VẤN: Làm tội ác không nhứt định, người mà ta đã quấy phạm, họ chết mất rồi, sám hối với ai?
ĐÁP: Hãy sám hối ngay trước những bậc có đức hạnh, nhứt là bậc có giới định trang nghiêm, cầu xin các ngài xá tội lỗi ấy cho.
Cũng như vua A Xà Thế giết cha, rồi do quả ác đó làm cho nóng nảy quá lẽ, ăn không ngon ngủ không đặng, tâm trí vẩn vơ, điên đảo bứt rứt, không thể ngự yên trên long sàng, bèn vào chùa đảnh lễ đức Thế Tôn mà tố trần tội lỗi của mình, đặng ai cầu sám hối. Đức Phật xá tội lỗi cho, thì tội ác ấy nhẹ dần dần, tâm của đức vua được vui vẻ. Sau khi thăng hà đọa xuống địa ngục đồng sôi, khỏi chịu khổ trong cõi vô gián địa ngục, là do nhờ mãnh lực của sự sám hối.
VẤN: Thác rồi đọa địa ngục, hoặc thăng Thiên Đàng, chớ cái gì đi?
ĐÁP: Bảy pháp DHAMMADHĀTU đi.
VẤN: Cái gì dẫn đi sanh?
ĐÁP: Quả của tội, phước nó dẫn đi; hễ làm tội thì quả ấy dẫn vào địa ngục, làm phước thì quả ấy dẫn đi sanh thiên đàng.
VẤN: Khi nó đi thì đi bằng cách nào?
ĐÁP: Tất cả chúng sanh sẵn có cái thức để thọ sanh, như là làm người chẳng hạn, trước khi gần chết có 3 hiện tượng, phát khởi vào ở trong tâm, do quả của điều lành hoặc dữ nó phát hiện tia sáng ở trong tâm cho thấy rõ. 3 hiện tượng là:
- KAMMA: Nghiệp lành hay dữ mà ta đã tạo trữ trong những đời trước và đời này tự nhớ, hoặc có người khác nhắc rồi sực nhớ ngay nơi giờ hấp hối.
- KAMMONIMITTA: Nghiệp hiện tượng lành hoặc dữ ta đã làm, nó hiện lên rõ rệt cho tâm thức thấy, y như việc đã làm trải qua.
- GATINIMITTA: Lộ trình hiện tượng: Về nghiệp lành thì nó hiện cho ta thấy cõi an vui, như thấy lâu đài bằng vàng ngọc quý báu, về nghiệp ác thì nó hiện cho thấy cõi khổ như thấy gươm dao hoặc lửa hừng đáng ghê sợ v.v.
Khi đã thấy hiện tượng ấy rồi, tâm thọ (SAMPATICCHANNA) bèn thọ nhận cảnh giới ấy. Tâm sát (SANTIRANA) bèn quan sát cảnh giới, đó là thiện ác trợ duyên nghiệp, dẫn thức đi thọ sanh, nghĩa là nhờ duyên thủ (UPĀDĀNA) níu khắn vào nơi thai bào để gá sanh (hữu). Khi đủ cả 7 đều DHAMMADHĀTU, mới lìa bờ cõi cũ đi gá vào cõi mới. Chết bằng cách lìa rời ra, (MARAṆĀ SANNAJAVANA) hay là níu khắn vào nơi cảnh giới ngay khi ấy, (TADĀLAMBANA) hoặc chết nơi phút cuối cùng của chỗ mà tâm nương gá (CHAVANIGA), chết và đi đầu thai có hai là: sắc thân sanh trưởng do nhờ nghiệp (KAMMAJJARŪPA) và sanh trưởng không nhờ nghiệp là gá sanh do cái quả của tâm thôi, nghĩa là cái quả của tâm ưa mến đi gá vào cảnh giới chỗ sanh là nơi cuối cùng, vả lại có vô minh thùy miên và ái dục thùy miên, cả 2 pháp này là món phụ giúp cho sanh tử thức. Cái thức trong khi chết và khi gá sanh, để ủng hộ 7 pháp DHAMMADHĀTU khiến cho tham, sân, si, càng gia tăng nhiều lên trong những kiếp sau, vì thế cho nên Đức Phật ngài tinh tấn tham thiền về minh sát tuệ, đặng diệt vô minh và ái dục vậy.
VẤN: Bảy DHAMMADHĀTU là những gì?
ĐÁP:
- Chỗ sanh BHAVAṄGA.
- Tâm: gọi là danh pháp đi nương tựa vào Sắc pháp (mano).
- Ý: gọi là danh pháp để cho nghĩ ngợi đến cảnh giới (CITTAṂ).
- Tưởng: gọi là danh pháp để nhớ biết cảnh giới (SAÑÑAṂ).
- Thức: là danh pháp để cho biết rõ rệt cảnh giới (VIÑÑĀṆAṂ).
- Hành: là danh pháp để cấu tạo (SAṄKHĀRA).
- Thọ: là danh pháp để lãnh nạp lấy cảnh giới vui khổ và vô ký (VEDANAṂ).
Cả bảy pháp này gọi là DHAMMADHĀTU đều là danh pháp nương với sắc pháp.
VẤN: Đoạn trước nói tà kiến, vậy chớ thấy sao, mới gọi tà kiến.
ĐÁP: Tà kiến là thấy quấy hay là hiểu quấy, nghĩa là hiểu sái chơn lý của vũ trụ, mà Phật đã đề xướng để dạy dỗ chúng sanh, là hiểu trong tâm như vầy.
- Bố thí không kết quả NAṬṬHIDINNAṂ.
- Cúng dường không kết quả NATTHIYITTHAṂ.
- Quả của phước và tội không có NATTHIVIPĀKAṂ.
- Thường kiến, là thấy rằng chúng sanh không thay đổi, đã sanh làm người thì sanh nữa cũng vẫn làm người, quen làm thú thì sanh nữa cũng làm thú, không biến chuyển làm vật khác đâu SASSTADIṬṬHI.
- Đoạn kiến, là thấy rằng chúng sanh chết thì mất, không còn thọ sanh làm gì nữa cả UCCHEDADIṬṬHI.
- Vô năng nhân tà kiến, là thấy rằng sát sanh không tội, nghĩa là làm các tội lỗi ấy, nó chẳng làm nhân cho kiếp sau phải chịu khổ AHETUKADIṬṬHI.
- Vô sở nhân tà kiến, là hiểu rằng hết thảy chúng sanh, đẹp đẽ đầy đủ ngũ quan hay xấu xa hèn hạ, tật nguyền, ấy chẳng do quả phước, quả tội hóa ra AKIRIYA DIṬṬHI.
- Vô sở hữu tà kiến, là thấy rằng không có cái gì gọi là phước, là tội, thiện ác, hay là ơn đức cha mẹ cũng không, ơn đức của Phật, Pháp, Tăng cũng chẳng có, và quả của sự tu hành, bố thí, trì giới, niệm Phật, tham thiền hết thảy đều không có lợi ích NATTHIKADIṬṬHI.
Lối tà kiến như đã giải đó toàn là nguyên nhân dẫn chúng sanh vào bốn đường dữ cả.
VẤN: Người giữ đúng theo thập thiện như đã giải thì thọ quả báo thế nào?
ĐÁP: Được quả báo sống lâu đến trăm tuổi như sự tích rằng:
“Thuở nọ đức Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca, sanh làm con nhà Bà La Môn, giòng đó tu hành gìn giữ thập thiện một cách hòa nhã giống nhau, đều được trường thọ đến trăm tuổi, nếu chưa tới số trăm thì chưa chết. Lúc Bồ Tát đến tuổi học tập, thì cha mẹ bèn cho đi học với một thầy cao cấp ở xứ TAKKASITĀ, ít lâu, thấy con của ông thầy đang còn nhỏ mà chết, thì cả thảy gia quyến đều khóc lóc, riêng Bồ Tát thấy vậy lại cười. Bao nhiêu người đều ngạc nhiên hỏi rằng: “Sao mà cười? Con của thầy mình chết mà ngồi cười là ý nghĩa gì? Học trò đối với thầy như vậy phải lắm sao?”
Bồ Tát đáp rằng: “Tôi cười mấy người khóc lóc than tiếc đối với người đầu xanh tuổi trẻ mà đã chết, ở xứ tôi đúng trăm tuổi mới chết, chớ không từng chết yểu như vậy, vả khi chết cũng chẳng có khóc lóc như thế nữa.”
Ông thầy nghe liền hỏi: “Tại sao mà không chết yểu”. Bồ Tát đáp: Do quả báo của sự gìn giữ thập thiện cho nên không chết yểu. Ông thầy không đủ tin, mới tính dọ hỏi quả như vậy hay không? Ông ta vừa đi khỏi xóm, thì thấy một con dê chết, bèn đốt xương dê gói đem theo, tới nơi liền đem gói xương mở ra mà nói, và tỏ vẻ sầu thảm, thì cha mẹ của Bồ Tát hỏi duyên cớ chi, thầy vừa đến nhà chúng tôi lại khóc?
Ông thầy nói rằng: “Con của ông bà cho đến học với tôi, bây giờ nó chết rồi, tôi thiêu xong, đem xương cho ông bà”.
Song thân của Bồ Tát nghe xong bèn cười mà bảo rằng: “Hết thảy gia quyến trong giòng chúng tôi không từng chết đang tuổi thanh niên như vậy đâu, đúng trăm tuổi mới chết, chúng tôi không tin lời thầy đâu”. Ông thầy nghe xong bèn tin chắc rằng quả thật, rồi xin thọ trì thập thiện, xong trở về quê cũ.
Trích: Hạnh Phúc Kinh (Tỳ Khưu Giới Nghiêm)