VI DIỆU PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
Soạn-giả Tỳ-khưu Hộ-Pháp Dhammarakkhita Bhikkhu (Aggamahāpaṇḍita)
DỤC-GIỚI TỊNH-HẢO-TÂM (KĀMĀVACARASOBHAṆACITTA)
Dục-giới tịnh-hảo-tâm (kāmāvacarasobhaṇa- citta) là tâm phần nhiều phát sinh trong cõi dục- giới, bởi vì có tịnh-hảo tâm-sở (sobhaṇacetasika) đồng sinh với dục-giới tịnh-hảo-tâm.
Dục-giới tịnh-hảo-tâm có 24 tâm chia 3 loại tâm:
1-Dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm) có 8 tâm.
2- Dục-giới quả-tâm (đại-quả-tâm) có 8 tâm.
3- Dục-giới duy-tác-tâm (đại-duy-tác-tâm) có
8 tâm.
Giảng Giải:
1-Kāmāvacarakusalacitta (Mahākusalacitta)
Kāmāvacarakusalacitta: Dục-giới thiện-tâm gọi là mahākusalacitta: đại-thiện-tâm.
Định-nghĩa kusalacitta rằng:
Kucchite pāpadhamme salayati kampeti viddhaṃsetīti kusalaṃ.
Tâm nào làm tiêu diệt ác-pháp mà chư bậc thiện-trí ghê tởm, tâm ấy gọi là thiện-tâm (kusala- citta). Thiện-tâm là tâm tốt, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, không có lỗi, cho quả an-lạc.
Kusalacitta: thiện-tâm có 5 ý nghĩa:
- Arogayattha: nghĩa là không có bệnh là không có phiền-não tham, sân, si,...làm khổ tâm.
Phiền-não tham, sân, si gọi là bệnh, bởi vì phiền- não làm khổ tâm, khổ thân đối với chúng-sinh.
- Sundarattha: nghĩa là tốt lành là sự lợi ích, sự an-lạc đối với chúng-sinh.
- Chekattha: nghĩa là khôn ngoan, người có thiện-tâm nói năng hành động đàng hoàng tử tế.
- Anavajjattha: nghĩa là không có lỗi, không đáng chê trách nào cả.
- Sukhavipāka: có quả an-lạc đáng hài lòng.
KĀMĀVACARAKUSALACITTA (MAHĀKUSALACITTA)
Dục-giới thiện-tâm (kāmāvacarakusalacitta) gọi là đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) phát sinh do nương nhờ 3 pháp là vedanā: thọ, ñāṇa: trí- tuệ, saṅkhāra: tác-động, nên đại-thiện-tâm phân chia ra có 8 loại tâm như sau:
Đại-thiện-tâm có 8 tâm:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
GIẢNG GIẢI 8 ĐẠI-THIỆN-TÂM
* Somanassasahagata: somanassa+sahagata
- somanassa: thọ hỷ
- sahagata: đồng sinh với Somanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ hỷ.
* Upekkhā sahagata:
- upekkhā: thọ xả
Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả.
* ñāṇasampayutta: ñāṇa + sampayutta
- ñāṇa: trí-tuệ
- sampayutta: hợp với ñāṇasampayuttaṃ: hợp với trí-tuệ.
* ñāṇavippayutta: ñāṇa + vippayutta
- ñāṇa: trí-tuệ
- vippayutta: không hợp với ñāṇavippayuttaṃ: không hợp với trí-tuệ.
* asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động.
* sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Nguyên-nhân dục-giới thiện-tâm (kāmavacara-kusalacitta) gọi là đại-thiện-tâm (mahākusala- citta) như sau:
Mahākusalacitta: đại-thiện-tâm có 8 tâm, có tác-ý thiện trong đại-thiện-tâm không có lỗi, cho quả an-lạc, đặc biệt có quả-tâm phát sinh nhiều hơn sức mình, nghĩa là tác-ý thiện trong 8 đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) có quả là 8 đại- quả-tâm (mahāvipākacitta) và 8 thiện-quả vô- nhân-tâm (ahetukakusalavipākacitta) gồm có 16 quả-tâm.
Đại-thiện-tâm phát sinh có khả năng biết 6 đối-tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tốt đáng hài-lòng đối với các loài chúng-sinh trong tam-giới gồm có 30 cõi-giới từ cõi địa-ngục cho đến cõi trời vô-sắc-giới Phi-tưởng phi-phi-tưởng- xứ-thiên (trừ chư phạm-thiên trong tầng trời sắc- giới Vô-tưởng-thiên) tuỳ theo khả năng của mỗi chúng-sinh trong mỗi cõi-giới.
Đại-thiện-tâm có thể phát sinh đối với các chúng-sinh trong cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong 15 tầng trời sắc- giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô- tưởng-thiên) và chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Đại-thiện-tâm là tâm làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho 10 phước-thiện, cho pháp-hành giới, cho pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm; cho pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có khả năng đạt đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam- giới, và còn làm phận sự paccavekkhaṇañāṇa quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả đã chứng đắc, Niết-bàn đã chứng ngộ, phiền-não đã diệt tận rồi và phiền-não chưa diệt tận được.
Dục-giới thiện-tâm (kāmavacarakusalacitta) có khả năng đặc biệt biết rộng lớn như vậy, cho nên gọi là đại-thiện-tâm (mahākusalacitta).
Đại-thiện-tâm có 8 loại tâm do nương nhờ nơi 3 pháp là vedanā: thọ, ñāṇa: trí-tuệ, saṅkhāra: tác-động, nếu phân chia theo mỗi pháp thì có 2 loại tâm như sau:
a- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo thọ:
- 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
- 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả.
b- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo trí-tuệ:
- 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
- 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
c- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo tác-động:
- 4 đại-thiện-tâm không cần tác-động.
- 4 đại-thiện-tâm cần tác-động.
Giảng Giải
a- Đại-thiện-tâm đồng sinh với 2 thọ:
- 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
- 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ
Nếu khi người đang tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào có đức-tin (saddhā) trong sạch nhiều, vô cùng hoan-hỷ trong phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm ấy đồng sinh với thọ hỷ (somanassavedanā).
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ có nhiều năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Nhân phát sinh thọ hỷ
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ có 6 nhân:
1-Somanassapaṭisandhikatā:tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
2- Saddhābahulatā: có nhiều đức-tin.
3- Visuddhadiṭṭhitā: có chánh-kiến thanh-tịnh.
4- Ānisaṃsadassāvitā: thấy rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp ấy.
5- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng.
6- Kassacipiḷābhāvo: không gặp điều bất lợi, điều thiệt hại nào cả.
* Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả
Nếu khi người đang tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào có đức-tin (saddhā) trong sạch ít, hoan-hỷ ít trong phước-thiện ấy, thì đại-thiện- tâm ấy đồng sinh với thọ xả (upekkhāvedanā).
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
* Nhân phát sinh thọ xả
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có 6 nhân:
1- Upekkhāpaṭisandhikatā: tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ xả.
2- Appasaddhatā: có ít đức-tin.
3- Avisuddhadiṭṭhitā: có chánh-kiến không thanh-tịnh.
4- Ānisaṃsa adassāvitā: không thấy rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp ấy.
5- Majjhattārammaṇasamāyogo: tiếp xúc với đối-tượng trung bình không tốt, không xấu.
6- Kassacipiḷikatā: gặp điều bất lợi, điều thiệt hại nào đó.
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
* Sự khác nhau của thọ hỷ, thọ xả trong đại- thiện-tâm với bất-thiện-tâm (ác-tâm):
- Thọ hỷ đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm là đại- thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nhiều trong phước- thiện hoặc trong đại-thiện-nghiệp ấy, nên đại- thiện-nghiệp ấy có nhiều năng lực, có nhiều quả báu đáng hài lòng nhiều.
- Thọ hỷ đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan-hỷ trong ác-pháp hoặc trong ác-nghiệp ấy, nên ác-nghiệp ấy là nặng, có nhiều quả khổ đáng kinh sợ.
- Thọ xả đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm là đại- thiện-tâm hoan-hỷ ít trong phước-thiện hoặc trong đại-thiện-nghiệp ấy, nên đại-thiện-nghiệp ấy có ít năng lực, có ít quả báu đáng hài lòng.
- Thọ xả đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan-hỷ ít trong ác-pháp ấy hoặc trong ác- nghiệp ấy, nên ác-nghiệp ấy là nhẹ, có ít quả khổ.
b- Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ:
- 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
- 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
* Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ:
Nếu người tạo phước-thiện nào với đại-thiện- tâm nào hợp với trí-tuệ hiểu biết rõ sự thật chỉ có nghiệp là của riêng mình mà thôi, thì đại-thiện- tâm ấy hợp với trí-tuệ (ñāṇasampayutta).
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
Trí-tuệ đồng sinh với đại-thiện-tâm có 2 loại trí-tuệ là:
- Kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.
- Lokiyavipassanāñāṇa: trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới.
1- Kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình:
Bậc thiện-trí có trí-tuệ hiểu biết rõ chỉ có tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình thật sự mà thôi.
Ngoài tất cả mọi nghiệp ấy ra, còn lại những của cải tài-sản khác trong đời này đều thuộc về của chung của mọi người.
Tuy nhiên, nếu người nào đã từng tạo phước- thiện bố-thí trong kiếp quá-khứ thì kiếp hiện-tại người ấy có quyền sở hữu tạm thời của cải tài- sản ấy, được hưởng quả báu của đại-thiện- nghiệp bố-thí ấy trong khoảng thời gian lâu hoặc mau tuỳ theo quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy.
Ví dụ: đất đai thuộc về của chung, không phải là của riêng một ai cả, nhưng nếu người nào đã từng tạo phước-thiện bố-thí trong kiếp quá- khứ thì kiếp hiện-tại người ấy có quyền sở hữu tạm thời phần đất đai ấy, được hưởng quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí đó là phần đất đai ấy trong khoảng thời gian lâu hoặc mau tuỳ theo quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy, đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, thì phần đất đai ấy lại thuộc về của người khác.
Nếu người thiện-trí nào có trí-tuệ kammas- sakatāñāṇa biết sử dụng phần tiền của nào mà mình đang tạm thời có quyền sở hữu, đem ra tạo phước-thiện bố-thí thì đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy vĩnh viễn thuộc về của riêng người ấy.
Như vậy, người thiện-trí ấy biết biến đổi của cải tạm thời trở thành đại-thiện-nghiệp bố-thí quý báu vĩnh-viễn thuộc về của riêng mình.
Tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng sau khi chết, nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới nào trong 31 cõi-giới, thuộc về hạng chúng-sinh nào trong 4 loài chúng-sinh, hoàn toàn tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh.
Mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại đã từng tạo mọi đại-thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp của mỗi chúng-sinh từ kiếp này sang kiếp kia, tất cả mọi nghiệp ấy dù nặng dù nhẹ cũng đều được tích- luỹ, được lưu-trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm, không hề mất mát một mảy may nào cả.
Nếu đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm là quả của đại- thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục- giới, hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi thiện-dục-giới.
Nếu ác-nghiệp nào trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-
citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.
Người có kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình là người có chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo 10 pháp chánh-kiến:
Dasavatthusammādiṭṭhi:
1- Atthi dinnaṃ: chánh-kiến thấy đúng rằng: Phước-thiện bố-thí có quả tốt, quả an-lạc.
2- Atthi yiṭṭhaṃ: chánh-kiến thấy đúng rằng: Phước-thiện cúng-dường có quả tốt, quả an-lạc.
3- Atthi hutaṃ: chánh-kiến thấy đúng rằng: Đón rước, tiếp đãi có quả tốt, quả an-lạc.
4- Atthi sukatadukkatānam kammānaṃ phalaṃ vipāko: chánh-kiến thấy đúng rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ.
5- Atthi ayaṃ loko: chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi-giới này nghĩa là có chúng-sinh tái sinh đến cõi-giới này.
6- Atthi paro loko: chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi-giới khác nghĩa là sau khi chúng- sinh chết, nghiệp của họ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.
7- Atthi mātā: chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với mẹ có quả tốt, quả an-lạc; đối xử xấu với mẹ có quả xấu, quả khổ.
8- Atthi pitā: chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với cha có quả tốt, quả an-lạc; đối xử xấu với cha có quả xấu, quả khổ.
9- Atthi sattā opapātikā: chánh-kiến thấy đúng rằng: Có các chúng-sinh loài hoá-sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên 6 cõi trời dục- giới, chư phạm-thiên 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, ngạ-quỷ, a-su-ra.
10- Atthi loke samaṇabrāhmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: chánh-kiến thấy đúng rằng: Trong đời này, có sa-môn, bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, thấy rõ, biết rõ cõi giới này, cõi giới khác, rồi thuyết giảng cho mọi người cùng biết, đó là điều có thật.
Lokiyavipassanāñāṇa: trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới:
Trí-tuệ phát sinh có 3 cách:
1- Sutamayapaññā: trí-tuệ phát sinh do lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do học (sutamayapaññā).
2- Cintāmayapaññā: trí-tuệ phát sinh do nghe nhiều hiểu rộng, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp của bậc thiện-trí làm nền tảng, rồi trí-tuệ suy xét, tư duy sâu sắc về chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do tư duy (cintāmayapaññā).
3- Bhāvanāmayapaññā: trí-tuệ phát sinh do thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến phát sinh từ trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpa- paricchedañāṇa: trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phân tích rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, v.v... mà chỉ là sắc-pháp, danh-pháp mà thôi, và các trí-tuệ thiền-tuệ tuần tự phát sinh tiếp theo đến
Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là uddayabbayā- nupassanāñāṇa: trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp danh-pháp hiện- tại do nhân-duyên sinh, do nhân-duyên diệt, nên thấy rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại, v.v... cho đến Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa: trí-tuệ thiền-tuệ có khả năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, với đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên vẫn còn lokiya- vipassanāñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
* Nhân hợp với trí-tuệ (1)
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 4 nhân:
1- Paññāsaṃvattanikakammupanissayatā: khi tái-sinh đầu thai làm người với đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.
2- Abyāpajjalokupapattiyā: kiếp tái-sinh không có phiền muộn, tâm mong mỏi trong thiện-pháp.
3- Kilesadūratā: tránh xa mọi phiền-não.
4- Indriyaparipākatā: có 5 tuệ-chủ đầy đủ.
* Nhân hợp với trí-tuệ (2)
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 7 nhân:
1- Paripucchakatā: thường tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp.
2- Vatthuvisuddhakariyatā: thân tâm trong sạch lẫn các thứ vật dụng sạch sẽ.
3- Indriyasamattapaṭipādanatā: giữ gìn 5 pháp- chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) đều đặn với nhau.
4- Duppaññapuggalaparivajjanā: tránh xa hạng người thiểu trí.
5- Paññāvantapuggalasevanā: thường hay gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.
6- Gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā: ham thích suy xét, tư-duy các chánh-pháp sâu sắc.
7- Tadadhimuttatā: thường hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp, để phát sinh trí-tuệ.
* Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ:
Nếu người tạo phước-thiện nào với đại-thiện- tâm nào chỉ có đức-tin (saddhā) mà không hợp với trí-tuệ, không có kammassakatāñāṇa, thì đại-thiện-tâm ấy không hợp với trí-tuệ (ñāṇa- vippayutta).
Như trường hợp người tạo phước-thiện bố-thí theo truyền thống của gia-đình, nên chỉ có đức- tin mà không có trí-tuệ đồng sinh với đại-thiện- tâm ấy; hoặc khi có bạn thân đến tác-động, khuyến khích tạo phước-thiện bố-thí, người ấy phát sinh đức-tin tạo phước-thiện bố-thí theo bạn thân mà không hiểu biết về kammassakatāñāṇa, nên đại-thiện-tâm ấy không hợp với trí-tuệ.
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
* Nhân không hợp với trí-tuệ (1)
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 nhân:
1- Paññā asaṃvattanikakammupanissayatā: khi tái-sinh đầu thai làm người với đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.
2- Sabyāpajjalokupapattiyā: kiếp tái-sinh có phiền muộn, không mong mỏi trong thiện-pháp.
3- Kilesādūratā: không tránh xa mọi phiền-não.
4- Indriya aparipākatā: có 5 pháp-chủ kém.
* Nhân không hợp với trí-tuệ (2)
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có 7 nhân:
1- Aparipucchakatā: không thích tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp.
2- Vatthu avisuddhakariyatā: thân tâm không trong sạch lẫn các thứ vật dụng không sạch sẽ.
3- Indriya asamattapaṭipādanatā: có 5 pháp- chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) không đều đặn.
4- Duppaññapuggalasevanā: thường hay gần gũi thân cận với hạng người thiểu-trí.
5- Paññāvantapuggalaparivajjanā: không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.
6- Gambhīrañāṇacariya apaccavekkhaṇā: không thích suy xét các chánh-pháp sâu sắc.
7- Atadadhimuttatā: không hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp.
c- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo tác-động
- 4 đại-thiện-tâm không cần tác-động.
- 4 đại-thiện-tâm cần tác-động.
* Đại-thiện-tâm không cần tác-động
Nếu người tạo phước-thiện nào với sự hiểu biết trong chánh-pháp, rồi tự tác-động bằng thân, khẩu, ý tạo phước-thiện ấy, không có người khác tác-động thì đại-thiện-tâm ấy phát sinh không cần tác-động (asaṅkhārikaṃ).
Đại-thiện-tâm không cần tác-động có nhiều năng lực hơn đại-thiện-tâm cần tác-động.
* Nhân phát sinh không cần tác-động
Đại-thiện-tâm phát sinh không cần tác-động có 6 nhân:
1- Asaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: tái-sinh-tâm phát sinh từ đại-thiện-nghiệp không cần tác-động.
2- Kallakāyacittatā: có thân tâm an-lạc.
3- Sītuṇhādīnaṃ khamanabahulatā: có đức- tính nhẫn-nại chịu đựng thời tiết nóng, lạnh, v.v...
4- Kattabbakammesu diṭṭhānisaṃsasatā: hiểu biết rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp sẽ làm.
5- Kammesu ciṇṇavasitā: có tính chuyên môn trong đại-thiện-nghiệp mà mình làm.
6- Utubhojanādīsappāyalābho: được thời tiết tốt, vật thực đầy đủ, v.v...
Nếu trường-hợp có bạn thân đến tác-động, khuyến khích tạo phước-thiện thì người ấy nên suy xét thế nào, để cho đại-thiện-tâm trở thành không cần tác-động?
Nếu khi nghe bạn thân đến tác-động, khuyến khích làm phước thiện nào thì người ấy nên suy xét rằng:
Phước-thiện ấy là phước-thiện nên làm. Đây là cơ hội tốt của ta, ta nên tạo phước-thiện ấy.
Nếu khi suy xét như vậy thì người ấy đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, rồi tạo phước- thiện ấy với đại-thiện-tâm không cần tác-động.
Ví như trường hợp Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đang an hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời Tusita (Đâu-suất đà-thiên). Khi ấy, các Đức-vua trời trong 6 cõi trời dục-giới cùng chư-thiên, chư Đức phạm-thiên trên các cõi trời sắc-giới ngự đến hầu, chắp tay cung kính thỉnh Đức-Bồ-tát Setaketu xuống tái-sinh đầu thai làm người, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thuyết- pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Khi nghe lời thỉnh cầu của chư-thiên, chư phạm-thiên như vậy, Đức-Bồ-tát chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Đức-Bồ-tát suy xét trong thời quá-khứ rằng:
Đức-Bồ-tát kiếp chót tái-sinh đầu thai xuống làm người để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác đã xem xét như thế nào?
Theo lệ thường, chư Đức-Bồ-tát kiếp chót xuống tái-sinh đầu thai làm người, thường xem xét 5 điều:
1- Xem xét về thời-kỳ tuổi thọ con người.
2- Xem xét về châu đến tái-sinh.
3- Xem xét về xứ sở đến tái-sinh.
4- Xem xét về dòng họ nơi tái-sinh.
5- Xem xét về mẫu-hậu để tái-sinh đầu thai.(1)
Sau khi xem xét đầy đủ 5 điều rồi, Đức-Bồ- tát Setaketu quyết định xuống tái-sinh đầu thai làm người, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, nên Đức-Bồ-tát truyền dạy rằng:
- Này chư-thiên, chư phạm-thiên! Ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Ta sẽ xuống tái-sinh đầu thai làm người trong cõi Nam-thiện bộ-châu, tại Trung-xứ, kinh-thành Kapilavatthu, trong dòng dõi Sakya, Đức-vua Suddhodana là Đức Phụ-vương, Chánh-cung hoàng-hậu Mahā- mayādevī là mẫu-hậu của Ta.
Nghe Đức-Bồ-tát Setaketu truyền dạy như vậy, tất cả chư-thiên, phạm-thiên vô cùng hoan- hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát, rồi chắp tay cung kính xin phép trở về cõi-giới của mỗi vị.
Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu quyết định chuyển-kiếp (cuti: chết) từ cõi trời Tusita, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau
(paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác- động gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh đầu thai vào lòng bà Chánh-cung hoàng-hậu Mahāmayādevī vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm lịch).
* Đại-thiện-tâm cần tác-động
Nếu người tạo phước-thiện nào do nhờ người khác đến tác-động bằng thân, bằng khẩu, khuyến khích tạo phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm ấy phát sinh cần tác-động (sasaṅkhārikaṃ).
Đại-thiện-tâm cần tác-động có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm không cần tác-động.
* Nhân phát sinh cần tác-động
Đại-thiện-tâm phát sinh cần tác-động có 6 nhân:
1- Sasaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: khi tái-sinh đầu thai làm người với đại-thiện- nghiệp cần tác-động.
2- Akallakāyacittatā: thân tâm không có an-lạc.
3- Sītuṇhādīnaṃ akhamanabahulatā: không có đức-tính nhẫn-nại chịu đựng thời tiết nóng, lạnh.
4- Kattabbakammesu adiṭṭhānisaṃsasatā: không biết rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp mà mình làm.
5- Kammesu aciṇṇavasitā: không có tính chuyên môn trong đại-thiện-nghiệp mà mình làm.
6- Utubhojanādī asappāyalābho: gặp thời tiết xấu, vật thực thiếu thốn, v.v...
Đại-thiện-tâm chia theo thiện-nhân
- Thiện-nhân (kusalahetu) có 3 nhân là vô- tham (lobhahetu), vô-sân (dosahetu), vô-si (moha- hetu) (trí-tuệ).
Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo nhân (hetu) có 2 loại:
1- Tihetukakusalacitta: 4 đại-thiện-tâm có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
2- Dvihetukakusalacitta: 4 đại-thiện-tâm chỉ có nhị-nhân là vô-tham, vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
Nếu khi đang tạo phước-thiện bố-thí, phước- thiện giữ giới, phước-thiện hành-thiền,v.v... với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, thì gọi là tihetuka- kusalacitta: 4 đại-thiện-tâm có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
Nếu khi đang tạo phước-thiện bố-thí, phước- thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, v.v... với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammas- sakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, thì gọi là dvihetukakusalacitta: 4 đại-thiện-tâm chỉ có nhị- nhân là vô-tham, vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP
Đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở (cetanā- cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo đại- thiện-nghiệp.
Đại-thiện-nghiệp phát sinh có 2 cách:
- Đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn tạo 10 đại- thiện-nghiệp (mahākusalakamma).
- Đại-thiện-nghiệp phát sinh do tạo 10 phước-thiện (puññakriyāvatthu).
* Đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ 3 môn
Đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ thân-môn gọi là thân đại-thiện-nghiệp, có 3 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
- Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
- Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.
* Đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ khẩu-môn gọi là khẩu đại-thiện-nghiệp, có 4 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không nói-dối.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.
* Đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ ý-môn gọi là ý đại-thiện-nghiệp, có 3 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải người khác.
- Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.
- Đại-thiện-nghiệp có chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng theo thật-tánh của các pháp.
* Đại-thiện-nghiệp phát sinh do tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu):
Đại-thiện-nghiệp phát sinh do tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu):
1- Dānakusala: phước-thiện bố-thí.
2- Sīlakusala: phước-thiện giữ-giới.
3- Bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền là hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
4- Apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính những bậc tôn kính.
5-Veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ trong việc tạo mọi phước-thiện.
6- Pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình đến cho những chúng-sinh khác.
7- Pattānumodanakusala: phước-thiện hoan- hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi- hướng, hoặc chia sẻ.
8- Dhammasavanakusala: phước-thiện nghe chánh-pháp của Đức-Phật.
9- Dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết- pháp là thuyết giảng chánh-pháp của Đức-Phật.
10- Diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh- kiến đó là kammassakatāsammādiṭṭhi: chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng nghiệp là của riêng mình.
Puññakriyāvatthu có 10 pháp đều thuộc về ý- thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm có đối-tượng theo mỗi phước-thiện ấy.
10 phước-thiện này được gom lại thành 3 nhóm:
1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 pháp:
- Phước-thiện bố-thí.
- Phước-thiện hồi-hướng.
- Phước-thiện hoan-hỷ.
2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 pháp:
- Phước-thiện giữ-giới.
- Phước-thiện cung-kính.
- Phước-thiện hỗ-trợ.
3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 pháp:
- Phước-thiện hành-thiền.
- Phước-thiện nghe pháp.
- Phước-thiện thuyết-pháp.
- Phước-thiện chánh-kiến.
Tuy nhiên, phước-thiện chánh-kiến rất cần cho cả 3 nhóm, để hỗ trợ cho mỗi phước-thiện có nhiều năng lực trở thành tam-nhân đại-thiện- nghiệp.
Nhân phát sinh đại-thiện-tâm
Đại-thiện-tâm phát sinh do nương nhờ nơi ‘yonisomanasikāra’ trí-tuệ biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
Để có yonisomanasikāra, cần phải nương nhờ cả nhân quá-khứ lẫn nhân hiện-tại, có 5 điều:
1- Pubbekatapuññatā: đã từng tạo phước- thiện tích luỹ từ những kiếp quá-khứ.
2- Paṭirūpadesavāsa: sinh sống ở nơi thuận lợi có Phật-giáo.
3- Sappurisupanissaya: được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo.
4- Saddhammassavana: lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật.
5- Attasammāpaṇidhi: tâm biết đúng trong chánh-pháp.
Yonisomanasikāra phát sinh cần phải có đủ 5 điều, nhân đầu tiên là do nương nhờ phước-thiện đã từng tích luỹ từ những kiếp quá-khứ, còn lại 4 nhân sau do nương nhờ trong kiếp hiện-tại, người thiện cần phải hội đủ 5 nhân để cho yoniso- manasikāra phát sinh.
2-Kāmāvacaravipākacitta(Mahāvipākacitta)
Kāmāvacaravipākacitta: dục-giới quả-tâm gọi là mahāvipākacitta: đại-quả-tâm có 8 tâm là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm, nên mỗi đại-quả-tâm đều tương xứng với mỗi đại-thiện-tâm do nương nhờ 3 pháp là vedanā: thọ, ñāṇa: trí-tuệ, saṅkhāra: tác-động có 8 loại tâm như sau:
Mahāvipākacitta: Đại-quả-tâm có 8 tâm:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
PHẬN SỰ CỦA 8 ĐẠI-QUẢ-TÂM
Đại-quả-tâm có 8 tâm là quả của đại-thiện- nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-quả-tâm làm 4 phận sự như sau:
1- Paṭisandhikicca: phận sự tái-sinh kiếp sau.
2- Bhavaṅgakicca: phận sự hộ kiếp hiện-tại.
3- Cutikicca: phận sự kết thúc kiếp hiện-tại.
4- Tadārammaṇakicca: phận sự tiếp nhận đối-tượng từ tác-hành-tâm (javanacitta) 2 sát-na-tâm.
GIẢNG GIẢI
- 8 đại-quả-tâm làm 3 phận sự tái-sinh kiếp sau, phận sự hộ kiếp hiện-tại, phận sự kết thúc kiếp hiện-tại như thế nào?
Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê- sợ tội-lỗi, tránh xa mọi ác-nghiệp, tạo 10 đại- thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý hoặc tạo 10 phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước- thiện hành-thiền, ...
Sau khi người thiện ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 8 đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) có 1 trong 8 đại-quả-tâm nào cùng với 3 sắc-pháp là sắc- thân (kāyarūpa), sắc nam-tính (hoặc sắc nữ-tính) (bhāvarūpa), ý-sắc-căn (hadayavatthurūpa) phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu thai làm người, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ, giữ gìn kiếp người ấy cho đến hết tuổi thọ phút giây cuối cùng, cũng chính đại-quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự kết thúc kiếp hiện-tại (cutikicca) của kiếp người ấy.
* Hoặc hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trẻ trung không già, không bệnh trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời dục-giới ấy.
- 8 đại-quả-tâm làm phận sự tadārammaṇa- kicca tiếp nhận đối tượng từ tác-hành-tâm (javanacitta) có 2 sát-na-tâm như thế nào?
Mỗi ngũ môn dục-giới lộ-trình-tâm đầy đủ có các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự trải qua 17 sát- na-tâm theo tuổi thọ của đối-tượng dục-giới, kể từ sát-na-tâm hộ-kiếp-tâm quá-khứ cho đến 7 sát-na-tâm javanacitta: tác-hành-tâm, tiếp theo 2 sát-na-tâm tadālambanacitta: tiếp đối-tượng tâm, còn 2 sát-na-tâm nữa đủ 17 sát-na-tâm, chấm dứt ngũ môn dục-giới lộ-trình-tâm ấy.
KRIYACITTA: DUY-TÁC-TÂM
Kriyacitta: duy-tác-tâm là tâm không phải là thiện-tâm, cũng không phải là bất-thiện-tâm, cũng không phải là quả-tâm, mà chỉ là tâm làm phận sự biết đối-tượng qua 6 môn mà thôi.
Kriyacitta: duy-tác-tâm có 2 loại:
1- Ahetukakriyacitta: vô-nhân duy-tác-tâm có 3 tâm thuộc về vô-nhân-tâm(2), không phải là thiện- tâm, bất-thiện-tâm, quả-tâm, chỉ là tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng qua 6 môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) mà thôi.
2- Sahetukakriyacitta: hữu-nhân duy-tác-tâm gồm có 17 tâm là tâm hợp với thiện-nhân của bậc Thánh A-ra-hán không còn vô-minh và tham-ái, nên 17 duy-tác-tâm này cốt để hành- động bằng thân, nói-năng bằng khẩu, suy-nghĩ bằng ý của bậc Thánh A-ra-hán, không tạo nghiệp, nên không cho quả trong kiếp vị-lai.
Kriyacitta: duy-tác-tâm gồm có 20 tâm:
- Vô-nhân duy-tác-tâm có 3 tâm.
- Dục-giới duy-tác-tâm có 8 tâm.
- Sắc-giới duy-tác-tâm có 5 tâm.
- Vô-sắc-giới duy-tác-tâm có 4 tâm.
* Trong quyển sách nhỏ này chỉ giảng giải về 8 dục-giới duy-tác-tâm và 3 vô-nhân duy-tác- tâm gồm có 11 duy-tác-tâm mà thôi.
DỤC-GIỚI DUY-TÁC-TÂM
Sahetukakāmavacarakriyacitta: hữu-nhân dục-giới duy-tác-tâm hoặc gọi là mahākriya- citta: đại-duy-tác-tâm có 8 tâm chỉ thuộc về tâm của bậc Thánh A-ra-hán mà thôi, không phải là tâm của các hạng phàm-nhân và chư bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai.
Đại-duy-tác-tâm phát sinh trong 7 cõi thiện- dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới, 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc- giới Vô-tưởng-thiên) và 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Đại-duy-tác-tâm có 8 tâm này hầu hết tương tự như 8 đại-thiện-tâm, nhưng chỉ có khác nhau là 8 đại-duy-tác-tâm chỉ phát sinh đối với chư bậc Thánh A-ra-hán mà thôi, còn 8 đại-thiện- tâm phát sinh đối với nhiều hạng chúng-sinh nhất là hạng thiện-trí phàm-nhân và 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai.
Đại-duy-tác-tâm nương nhờ 3 pháp: đồng sinh với thọ (vedanā), hợp với trí-tuệ (ñāṇa), tác-động (saṅkhārika), nên phân chia có 8 tâm:
Đại-duy-tác-tâm có 8 tâm:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Đại-duy-tác-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, cần tác-động.
Giảng Giải
Bậc Thánh A-ra-hán và 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, các hạng thiện-trí phàm-nhân đều có khả năng tạo mọi phước-thiện với các đại-thiện-tâm ví như:
“Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ...”.
“Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động...”.
Thật ra, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm phát sinh do vô-minh làm duyên, như trong paṭiccasamuppāda trình bày rằng:
“Avijjāpaccayā saṅkhārā sambhavanti...”.
Mọi pháp-hành đó là bất-thiện-nghiệp, dục- giới thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc- giới thiện-nghiệp đều phát sinh do vô-minh làm duyên.
Như vậy, đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi vô-minh (avijjā) và mọi tham-ái (taṇhā) không còn dư sót, nên khi tạo mọi phước-thiện không trở thành đại-thiện-nghiệp. Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán tạo mọi phước- thiện gọi là mahākriyacitta: đại-duy-tác-tâm là tâm tạo phước-thiện mà không có quả của phước-thiện trong kiếp vị-lai, bởi vì bậc Thánh A-ra-hán kiếp này là kiếp chót, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Đối với 3 bậc Thánh-nhân vẫn còn ít vô- minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), nên khi tạo phước-thiện nào thì có đại-thiện-nghiệp ấy, chắc
chắn có quả của đại-thiện-nghiệp ấy cả trong kiếp hiện-tại lẫn kiếp vị-lai, bởi vì 3 bậc Thánh- nhân vẫn còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới, 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, có giới hạn tuỳ theo mỗi bậc Thánh-nhân, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Mahākriyacitta: đại-duy-tác-tâm có 8 tâm: 4 tâm hợp với trí-tuệ và 4 tâm không hợp với trí-tuệ.
Như vậy, bậc Thánh A-ra-hán có 4 đại-duy- tác-tâm hợp với trí-tuệ, đó là điều dễ hiểu, còn trong trường-hợp nào bậc Thánh A-ra-hán có 4 đại-duy-tác-tâm không hợp với trí-tuệ?
Trong trường-hợp bậc Thánh-A-ra-hán sử dụng những oai nghi bình thường theo thói quen như đi, đứng, ngồi, nằm, co tay vào, duỗi tay ra, co chân vào, duỗi chân ra, đại tiện, tiểu tiện, v.v... chỉ cần có saticetasika: niệm tâm-sở cũng đủ, nên đại-duy-tác-tâm không hợp với trí-tuệ.
* Đối với các hạng thiện-trí phàm-nhân và các hạng chúng-sinh khác vẫn còn đầy đủ vô- minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), khi tạo mọi phước-thiện nào thì có đại-thiện-nghiệp ấy, có quả của đại-thiện-nghiệp ấy cả trong kiếp hiện- tại lẫn vô số kiếp vị-lai không có giới hạn.
-oo0oo-
(1) Tìm hiểu bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển I Tam-Bảo, giảng giải đầy đủ trong phần thỉnh Đức-Bồ-tát giáng thế, cùng soạn giả.
(2) Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với 6 nhân:3 ác-nhân, 3 thiện-nhân.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.