Giải thích 4 loại nghiệp cho quả theo tuần tự

Giải thích 4 loại nghiệp cho quả theo tuần tự

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ - THERAVĀDA

    PHẬT-LỊCH 2563

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO
    (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN IV
    NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP
    (KAMMA-KAMMAPHALA)

    (Tái bản lần thứ nhì có sửa và bổ sung)

    Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
    (Dhammarakkhita Bhikkhu)
    (Aggamahāpaṇḍita)

     

    GIẢI THÍCH 4 LOẠI NGHIỆP CHO QUẢ THEO TUẦN TỰ

    II.1- GARUKAKAMMA: TRỌNG-YẾU-NGHIỆP

    Thế nào gọi là trọng-yếu-nghiệp?

    Trọng-yếu-nghiệp là loại nghiệp nặng nhất, có nhiều năng lực nhất, nên có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp mà không có nghiệp nào có thể ngăn cản được.

    Trọng-yếu-nghiệp có 2 loại:

    - Trọng-yếu ác-nghiệp (Akusala garukakamma).

    - Trọng-yếu thiện-nghiệp (Kusala garukakamma).

    II.1.1- TRỌNG-YẾU ÁC-NGHIỆP (AKUSALA GARUKAKAMMA) CÓ 2 LOẠI ÁC-NGHIỆP

    1- Niyatamicchādiṭṭhikamma: Tà-kiến cố-định ác- nghiệp là ác-nghiệp nặng nhất, có tà-kiến cố-định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham-tâm hợp với tà-kiến tạo ác- nghiệp tà-kiến cố-định (niyatamicchādiṭṭhikamma).

    2- Pañcānantariyakamma: 5 ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội là 5 ác-nghiệp nặng nhất chắc chắn cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp mà không có nghiệp nào làm gián đoạn được, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm hợp với hận tạo 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

    Giảng giải trọng-yếu ác-nghiệp có 2 loại ác-nghiệp

    1- Niyatamicchādiṭṭhi: Tà-kiến chấp-thủ cố-định

    Nếu người nào có tà-kiến chấp-thủ cố-định là tà-kiến hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, thì người ấy có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định, là ác-nghiệp trọng tội cực kỳ nặng.

    Tà-kiến chấp-thủ cố-định có 3 loại:

    - Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.

    - Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.

    - Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.

    a- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến là tà-kiến chấp-thủ cố-định rằng: “Không có quả của nghiệp.”

    Vô-quả tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.”

    Người có vô-quả tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người nào dù đã tạo ác-nghiệp rồi, người ấy cũng không có quả khổ của ác-nghiệp; dù đã tạo thiện-nghiệp rồi, người ấy cũng không có hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp.

    Tất cả mọi chúng-sinh chết rồi là hết, trở thành ‘số không’, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau.”

    Người có vô-quả tà-kiến này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.

    Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta (1),vị Đạo-sư ngoại đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả của nghiệp” 10 điều như sau:

    1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước- thiện bố-thí không có quả tốt, quả an-lạc.

    2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước- thiện cúng dường không có quả tốt, quả an-lạc.

    3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước- thiện đón rước, thỉnh mời không có quả tốt, quả an-lạc.

    4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo thiện-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp; tạo ác-nghiệp rồi, không có quả khổ của ác-nghiệp.

    5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi-giới này.

    6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới khác nghĩa là chúng-sinh chết là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.

    7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với mẹ, không có quả tốt, quả xấu.

    8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với cha, không có quả tốt, quả xấu.

    9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa-sinh lớn ngay tức thì, như chúng-sinh trong cõi địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a- su-ra, chư-thiên cõi dục-giới, phạm-thiên cõi sắc-giới.

    10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā- paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này không có Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép-thần-thông; thấy rõ, biết rõ cõi-giới này, cõi-giới khác; thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn.

    Theo tà thuyết của phái ngoại-đạo này, con người gồm có tứ đại và hơi thở, ... Cho nên, sau khi con người chết, chất đất tan rã theo đất, chất nước tan rã theo nước, chất lửa tan rã theo lửa, chất gió tan rã theo gió, hơi thở tan rã theo hư không, ...

    Tà thuyết cố-định của vị đạo-sư Ajitakesakambala là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: không có quả của nghiệp.

    Tuy người có vô-quả tà-kiến phủ nhận quả của ác- nghiệp, phủ nhận quả của thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp, vẫn có đại- thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp.

    Cho nên, người nào có vô-quả tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác- nghiệp vô-quả tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

    b- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến là tà-kiến cố-định chấp-thủ rằng: “Không có nhân nghĩa là không có nghiệp cho quả.”

    Vô-nhân tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng:

    “Không có ác-nghiệp cho quả khổ, cũng không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc. Không có ác-nghiệp hỗ trợ ác-nghiệp cho quả, cũng không có đại-thiện-nghiệp hỗ trợ đại-thiện-nghiệp cho quả.”

    Người có vô-nhân tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà- kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh tự nhiên hiện hữu trong đời này, không phải là quả của đại-thiện-nghiệp, ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh tự nhiên bị ô nhiễm, đến thời-kỳ tự nhiên được trong sạch thanh-tịnh.

    Cho nên, tất cả mọi người ác, người thiện, người ngu, người trí trải qua vòng tử sinh luân-hồi nhiều kiếp đến thời-kỳ nào đó, tự nhiên sẽ giải thoát khổ cả thảy.”

    Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta, vị Đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nhân nghĩa là không có nghiệp cho quả” như sau:

    - Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm, tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

    - Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng- sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

    - Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp riêng của người khác, ... Tất cả chúng-sinh sống hằng ngày tùy thuộc vào sự may, sự rủi, sự ngẫu nhiên, tự nhiên rồi thọ khổ, thọ lạc, ...

    - Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện, người ngu, người trí trải qua vòng tử sinh luân-hồi nhiều đời, nhiều kiếp đến thời gian nào đó, rồi cũng sẽ giải thoát khổ cả thảy, ...

    Tà thuyết cố-định của vị đạo-sư ngoại đạo Makkhali- gosāla là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nhân nghĩa là không có nghiệp.”

    Tuy người có vô-nhân tà-kiến phủ nhận ác-nghiệp, phủ nhận thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có ác- nghiệp và quả của ác-nghiệp, vẫn có thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp.

    Cho nên, người nào có vô-nhân tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác- nghiệp vô-nhân tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

    c- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến là tà-kiến thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”

    Người có vô-hành tà-kiến thuộc về ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác- nghiệp không gọi là hành ác, và người tạo thiện-nghiệp không gọi là hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện.”

    Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta, vị Đạo-sư ngoại đạo Pūraṇakassapa có tà thuyết cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:

    - Tự mình hành ác, sai khiến người khác hành ác đều không có hành ác, như:

    - Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.

    - Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp.

    - Tự mình tà-dâm, sai khiến người khác tà-dâm đều không có hành ác tà-dâm.

    - Tự mình nói-dối, sai khiến người khác nói-dối đều không có hành ác nói-dối, v.v...

    - Tự mình bố-thí, khuyên người khác bố-thí đều không có hành phước-thiện bố-thí.

    - Tự mình giữ giới, khuyên người khác giữ giới đều không có hành phước-thiện giữ giới.

    - Tự mình lễ bái cúng dường, khuyên người khác lễ bái cúng dường đều không có hành phước-thiện lễ bái cúng dường, v.v...

    Đó là tà thuyết cố-định của vị đạo-sư ngoại đạo Pūraṇa- kassapa là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”

    Tuy người có vô-hành tà-kiến phủ nhận hành ác- nghiệp, phủ nhận hành thiện-nghiệp, nhưng sự-thật vẫn có hành ác-nghiệp, có hành thiện-nghiệp.

    Cho nên, người nào có vô-hành tà-kiến là ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định cực kỳ nặng nhất trong các loại ác-nghiệp. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác- nghiệp vô-hành tà-kiến chấp-thủ cố-định này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này suốt nhiều đại-kiếp trái đất, không có hạn định.

    NHẬN XÉT VỀ BA LOẠI ÁC-NGHIỆP TÀ-KIẾN CHẤP-THỦ CỐ-ĐỊNH

    Trước thời-kỳ Đức-Phật chưa xuất hiện trên thế gian, đã có 6 nhóm ngoại đạo lớn, đứng đầu là 6 vị đạo-sư: Đạo-sư Pūraṇakassapa, Đạo-sư Makkhaligosāla, Đạo- sư Ajitakesakambala, Đạo-sư Pakudhakaccāyana, Đạo sư Nigaṇṭhanāṭaputta và Đạo-sư Sañjayabelaṭṭhaputta. Mỗi vị đạo-sư có tà thuyết riêng biệt của mình, rồi chấp- thủ cố-định vững chắc trong tà thuyết ấy.

    Ba loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định liên quan đến ba tà thuyết của ba vị đạo-sư như sau:

    * Vị đạo-sư Ajitakesakambala có tà thuyết “natthika- diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả của nghiệp.”

    * Vị đạo-sư Makkhaligosāla có tà thuyết “ahetuka- diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nhân, không có nghiệp.”

    * Vị đạo-sư Pūraṇakassapa có tà thuyết “akiriya- diṭṭhi” tà-kiến chấp-thủ cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”

    Tuy ba tà thuyết của ba vị đạo-sư có khác nhau về quan điểm, nhưng chung quy đều giống nhau là phủ nhận quả của nghiệp, phủ nhận nghiệp, phủ nhận nghiệp và quả của nghiệp.

    Người có tà-kiến chấp-thủ cố-định này là người hoàn toàn không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.

    Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-kiến cố- định là ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định này cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.

    2- Pañcānantariyakamma: 5 ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội là 5 loại ác-nghiệp cực kỳ nặng

    - Ác-nghiệp giết cha.

    - Ác-nghiệp giết mẹ.

    - Ác-nghiệp giết bậc Thánh A-ra-hán.

    - Ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.

    - Ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.

    Người nào đã phạm 1 trong 5 ác-nghiệp cực kỳ nặng này, sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cực kỳ nặng này có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội mà không có nghiệp nào làm gián đoạn được, chúng-sinh ấy phải chịu quả khổ bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

    Cho nên, 5 ác-nghiệp cực kỳ nặng này gọi là 5 ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội.

    TÍNH-CHẤT CỦA 5 ÁC-NGHIỆP VÔ-GIÁN-TRỌNG-TỘI

    Người phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội đó là ác- nghiệp giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ tỳ-khưu-Tăng không hẳn là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, mà chỉ là người hành động do năng lực của sân-tâm, trong khi hành ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy.

    Nếu người phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy không phải là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định thì sau khi đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, rồi người ấy biết ăn năn hối lỗi, biết sám hối tội lỗi của mình.

    Người nào đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội rồi sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, nên chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục ấy bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

    * Như trường hợp tỳ-khưu Devadatta trước kia đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, đã chứng đắc phép- thần-thông.

    Về sau, tỳ-khưu Devadatta đã phạm ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội, đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu Tăng và ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, nên các bậc thiền sắc-giới đều bị mất.

    Khi bị lâm bệnh trầm trọng, tỳ-khưu Devadatta biết ăn năn sám hối tội ác của mình trước lúc chết. Tỳ-khưu Devadatta nằm trên giường, bảo nhóm đệ tử khiêng đến ngôi chùa Jetavana để hầu đảnh lễ sám hối Đức-Phật, và kính xin nương nhờ nơi Đức-Phật.

    Đến ngôi chùa Jetavana, nhóm đệ tử đặt cái giường xuống nghỉ cạnh cái hồ để tắm rửa tỳ-khưu Devadatta cho sạch sẽ trước khi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật.

    Tỳ-khưu Devadatta vừa bước xuống giường, đôi bàn chân vừa chạm mặt đất, ngay khi ấy mặt đất nứt ra làm đôi, rồi hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Tỳ- khưu Devadatta liền chắp hai tay đưa lên quá đầu xin sám hối Đức-Thế-Tôn, và kính xin nương nhờ nơi Đức- Thế-Tôn.

    Sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, ác-nghiệp vô-gián chia rẽ tỳ-khưu-Tăng ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy, suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

    Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:

    “Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu Đức-Phật Độc- Giác Aṭṭhissara.(2)”

    Người nào đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội rồi, sau đó, người ấy biết ăn năn sám hối tội ác của mình, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, từ bỏ mọi ác- nghiệp, mà chỉ có thể cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới thiện-nghiệp mà thôi, chắc chắn không thể tạo sắc-giới thiện-nghiệp, bởi vì ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ngăn cản cho đến lúc lâm chung.

    Sau khi người ấy chết, đáng lẽ ra ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp suốt nhiều đại-kiếp trái đất, nhưng nhờ mọi dục-giới thiện-nghiệp ấy làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian ngắn hơn trong cõi đại-địa-ngục Avīci.

    * Như trường hợp Đức-vua Ajātasattu đã nghe lời khuyên dụ của tỳ-khưu Devadatta, Đức-vua đã giết Phụ- hoàng Bimbisāra là bậc Thánh Nhập-lưu.

    Về sau, Đức-vua Ajātasattu phát sinh tâm hoảng sợ, biết ăn năn hối lỗi.

    Nhờ vị quan ngự y Jīvaka thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế- Tôn thuyết bài kinh Samaññaphalasutta tế độ Đức-vua Ajātasattu. Sau khi lắng nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có, nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo. Đức-vua kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối với Đức-Thế-Tôn về tội giết Đức Phụ-vương của mình. Đức-Thế-Tôn chứng minh lời sám hối của Đức-vua Ajātasattu.

    Khi ấy, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương thì sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp, Đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu ngay tại nơi ấy. Nhưng vì Đức-vua đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha, cho nên không thể trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự- nam có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hết lòng lo phụng sự Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo cho đến trọn đời.

    Thật vậy, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, gồm có 500 bậc Thánh A-ra-hán tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha, suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

    Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 bậc Thánh A-ra- hán trong suốt kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này.

    Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ra ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt nhiều đại-kiếp trái đất, nhưng nhờ có các đại-thiện-nghiệp nhất là đại-thiện- nghiệp quy-y Tam-bảo và hộ độ 500 bậc Thánh A-ra- hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất ấy làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi nước đồng sôi), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong cõi tiểu- địa-ngục nồi đồng sôi suốt 60.000 năm.

    Đức-Phật đã truyền dạy và thọ ký rằng:

    “Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương chỉ có cho quả tái- sinh trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī từ miệng nồi chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy.

    Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trở lại làm người, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī. (3)”

    Thật ra, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội là ác-nghiệp cực kỳ nặng, nếu người nào phạm phải ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội, sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô- gián trọng-tội cực kỳ nặng ấy cho quả tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy suốt nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

    Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nếu có đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người thì người ấy có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp tùy theo khả năng của mình, từ dục-giới thiện-nghiệp, sắc-giới thiện- nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho đến siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.

    Thật vậy, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggallāna là người con trai chí hiếu đối với mẹ cha bị mù đôi mắt. Hằng ngày, sáng sớm người con lo cơm nước cho cha mẹ ăn, giặt giũ quần áo, v.v... xong mọi công việc trong nhà, rồi mới đi ra ngoài lo công việc đồng áng.

    Chiều về, người con lo tắm rửa cho mẹ cha, ... Mẹ cha thấy con vất vả như vậy nên muốn tìm cho con một người vợ để lo giúp đỡ công việc trong nhà, nhưng người con trai một mực từ chối. Mẹ cha cứ khuyên bảo như vậy nhiều lần, nếu không vâng lời mẹ cha thì sợ mẹ cha sẽ buồn, cho nên bất đắc dĩ, người con phải chịu lấy vợ cho mẹ cha hài lòng.

    Người vợ lo phục vụ cho mẹ cha chồng được một thời gian ngắn, sau đó, nàng bịa đặt chuyện nói xấu mẹ cha chồng. Người vợ than vãn với người chồng rằng:

    - Này anh yêu quý! Em chịu đựng không nổi với mẹ cha của anh. Em không thể sống chung cùng với mẹ cha của anh được nữa, ...

    Mặc dù người chồng khuyên lơn, năn nỉ vợ, nhưng người vợ vẫn khăng khăng cự tuyệt không chịu sống chung với mẹ cha của mình.

    Để chiều theo ý vợ, người con lừa dối mẹ cha rằng:

    - Kính thưa mẹ cha, từ lâu rồi, mẹ cha chưa đi thăm người bà con ở xóm nhà bên kia, xin mẹ cha lên ngồi trên chiếc xe bò, con sẽ đưa mẹ cha đến thăm người bà con bên xóm nhà ấy.

    Hai ông bà đui mù tin lời của người con lên xe, người con đưa mẹ cha đến khu rừng, rồi thưa với cha mẹ rằng:

    - Kính thưa mẹ cha, khoảng khu rừng này thường có nhiều bọn cướp đón đường cướp của giết người, xin mẹ cha ngồi trên xe để con xuống đi thăm dò đường.

    Người con xuống xe, một lát sau quay trở lại giả làm tên cướp đến đánh đập mẹ cha già đui mù đến chết, rồi bỏ xác ở trong rừng.

    Người con trước kia vốn là người con chí hiếu đối với mẹ cha, nhưng về sau, vì chiều theo ý vợ,nên người con đã phạm phải ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ, giết cha.(4)

    Sau đó người con biết ăn năn về tội ác của mình, vô cùng hối hận khổ tâm rồi lâm bệnh chết. Sau khi người con chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp cho quả càng nặng thêm, nên chịu quả khổ bị thiêu đốt suốt nhiều đại-kiếp trái đất trong cõi đại-địa-ngục, rồi từ cõi đại-địa-ngục này sang các cõi tiểu-địa-ngục kia cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

    Sau khi mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nhờ đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong những kiếp quá- khứ cho quả tái-sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị đánh đập tan xương nát thịt mà chết.

    Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của con trai giả làm tên cướp đến đánh đập mẹ cha già đui mù đến chết, rồi bỏ xác ở trong rừng, trong tiền-kiếp quá-khứ xa xưa ấy. Nay kiếp hiện- tại này chính là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn có phép- thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật Gotama.

    NHẬN XÉT VỀ TÍCH TỲ-KHƯU DEVADATTA VÀ TÍCH ĐỨC-VUA AJĀTASATTU

    Tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu đều đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nhưng mỗi người sau khi chết, do nhân nào mà ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục khác nhau như vậy?

    * Tỳ-khưu Devadatta

    Tỳ-khưu Devadatta đã tạo 2 ác-nghiệp vô-gián-trọng- tội là chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật. Đó là 2 loại ác-nghiệp vô-gián-

    trọng-tội nặng bậc nhất và bậc nhì.

    Đến khi bị lâm bệnh nặng gần chết, tỳ-khưu Devadatta mới biết ăn năn hối lỗi, muốn đến ngôi chùa Jetavana để đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin sám hối tội lỗi của mình trước khi chết.

    Tỳ-khưu Devadatta đến ngôi chùa Jetavana, nhưng chưa đến hầu Đức-Thế-Tôn thì mặt đất nứt ra làm 2 hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Khi ấy, tỳ-khưu Devadatta còn kịp thốt lên một bài kệ:

    “Imehi aṭṭhīhi tamaggapuggalaṃ, Devātidevaṃ naradammasārathiṃ. Samantacakkhuṃ satapuññalakkhanaṃ, Pāṇehi Buddhaṃ saraṇaṃ upemi.”(5)

    Phút cuối cùng con hết lòng thành kính, Xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật, Là Bậc Vô-Thượng nhất trong nhân-loại, Bậc Phạm-thiên cao nhất trong Phạm-thiên, Bậc Vô-Thượng giáo hóa mọi chúng-sinh, Bậc có tuệ nhãn toàn tri tuyệt vời, Bậc có đầy đủ hằng trăm phước tướng. Con thành kính cúng dường bằng sinh-mạng, Bằng bộ xương gầy còn lại của con.

    Thốt xong bài kệ tán dương ân-Đức-Phật với tấm lòng tôn kính sâu sắc và xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật xong, cùng trong lúc ấy, tỳ-khưu Devadatta bị hút sâu vào lòng đất.

    Đức-Phật thọ ký được tóm lược như sau:

    Do nhờ đại-thiện-tâm trong sạch xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật trong lúc lâm chung ấy, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa- ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

    Sau khi mãn hạn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, trong thời vị-lai, nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật trong vô số kiếp quá-khứ sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, trong thời-kỳ không có Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian và cũng không có giáo-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

    Hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là “Đức-Phật Độc-Giác Aṭṭhissara” rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    * Đức-vua Ajātasattu

    Trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, Đức-vua Ajāta- sattu đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ- vương Bimbisāra là bậc Thánh Nhập-lưu (6), đó là một trong 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

    Sau đó, Đức-vua Ajātasattu phát sinh khổ tâm, biết ăn năn hối lỗi. Khi ấy, vị quan ngự y Jīvaka thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật. Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Sāmaññaphalasutta tế độ Đức-vua Ajātasattu. Sau khi lắng nghe bài kinh ấy, nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội thì trở thành bậc Thánh Nhập-lưu ngay tại nơi ấy, nhưng vì Đức-vua Ajātasattu đã phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nên không thể trở thành bậc Thánh Nhập-lưu được.

    Sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp, Đức-vua Ajāta- sattu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có, nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời, rồi Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình. Kính xin Đức-Phật chứng minh lời sám hối tội lỗi của Đức-vua.

    Từ dó về sau, Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hết lòng phụng sự Tam- bảo cho đến trọn đời.

    Cho nên, sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ các đại-thiện- nghiệp đặc biệt ấy nhất là đại-thiện-nghiệp thọ phép quy-y Tam-bảo và hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán suốt 7 tháng trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong khoảng thời gian 60.000 năm.

    Sau khi mãn quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, do nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật đã tích lũy từ vô số kiếp quá-khứ, cho quả tái-sinh làm người trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.

    Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ xuất gia, rồi trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī (7) rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Như vậy, tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu cùng tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nhưng tính chất ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội của mỗi người khác nhau, thời gian biết ăn năn sám hối tội lỗi khác nhau, thời gian tạo đại-thiện-nghiệp khác nhau, cho nên ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục khác nhau, chịu quả khổ của ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội ấy với thời gian khác nhau như vậy.

    Vấn: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội thì ác-nghiệp nào sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci?

    Đáp: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, thì chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định mới có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Bởi vì, ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng hơn ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng- tội trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng thêm gấp bội phần.

    * Nếu người con đã phạm 2 ác-nghiệp vô-gián-trọng- tội là giết mẹ, giết cha thì xét như sau:

    - Nếu người mẹ có giới đức, còn người cha không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái- sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ- nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp giết mẹ càng nặng thêm.

    - Nếu người cha có giới đức, còn người mẹ không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái- sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết mẹ trở thành hỗ-trợ- nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp giết cha càng nặng thêm.

    - Nếu cả người mẹ và người cha đều có giới đức, hoặc đều không có giới đức, thì ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác- nghiệp vô-gián-trọng tội giết mẹ càng nặng thêm.

    Vấn: Tại sao ác-nghiệp tà-kiến cố-định tạo ác-nghiệp nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội?

    Đáp: Bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên họ vẫn tiếp tục tạo mọi ác-nghiệp.

    Còn người đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội do năng lực phiền-não. Về sau, họ biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình, bởi vì họ tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, nên họ quyết tâm tránh xa mọi ác-nghiệp và cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới thiện-nghiệp cho đến hết tuổi thọ.

    Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa- ngục Avīci. Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

    Nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người. Người ấy có thể tạo mọi thiện-nghiệp từ dục-giới thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp, cho đến siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm, tùy theo khả năng của người ấy.

    II.1.2- TRỌNG-YẾU THIỆN-NGHIỆP (KUSALA GARUKAKAMMA)

    Trọng-yếu thiện-nghiệp có 2 loại:

    - Sắc-giới thiện-nghiệp (Rūpāvacarakusalakamma).

    - Vô-sắc-giới thiện-nghiệp (Arūpāvacarakusalakamma).

    1- SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP (RŪPĀVACARAKUSALAKAMMA)

    Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm như sau:

    Thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

    1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 5 pháp- chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục (kāmacchanda), sân-hận (byāpada), buồn-chán - buồn-ngủ (thīna-middha), phóng-tâm - hối-hận (uddhacca-kukkucca), hoài-nghi (vicikicchā).

    2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan- sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền hướng-tâm (vitakka).

    3- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền quan-sát (vicāra).

    4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được chi-thiền hỷ.

    5- Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc (sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).

    Đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hành-giả thuộc về hạng người mandapuggala có trí-tuệ trung- bình thực-hành pháp-hành thiền-định.

    * Đối với hành-giả thuộc về hạng người tikkha- puggala có trí-tuệ sắc bén, nhanh nhẹn thực-hành pháp- hành thiền-định, thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

    * Bậc thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc (8)

    1- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 5 pháp- chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục (kāmacchanda), sân-hận (byāpada), buồn-chán - buồn-ngủ (thīna-middha), phóng-tâm - hối-hận (uddhacca-kukkucca), hoài-nghi (vicikicchā).

    2- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 2 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka) và quan-sát (vicāra) cùng một lúc.

    3- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc và nhất-tâm do chế-ngự được chi-thiền hỷ.

    4- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc (sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).

    Đó là 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hành-giả thuộc về hạng người tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén, nhanh nhẹn. Bởi vì, sau khi chứng đắc đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả là hạng người tikkha- puggala có khả năng biết rõ trạng-thái thô của 2 chi- thiền là hướng-tâm (vitakka) và quan-sát (vicāra), nên khi chứng đắc đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 3 chi-thiền là hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế-ngự được 2 chi-thiền hướng-tâm (vitakka) và quan- sát (vicāra) cùng một lúc, nên đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 3 chi-thiền mà thôi.

    Vì vậy, bậc thiền sắc-giới thiện-tâm chỉ có 4 bậc thiền mà thôi.

    Quả của 5 sắc-giới thiện-nghiệp

    Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm đối với hạng người mandapuggala có trí-tuệ trung bình, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 5 bậc thiền sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc- giới Vô-tưởng-thiên).

    * Nếu hành-giả nào thuộc về hạng người manda- puggala có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm, có khả năng giữ gìn và duy trì đủ 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy cho đến lúc lâm chung.

    Sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc- giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 7 tầng trời sắc-giới phạm-thiên tùy theo hạng người và tùy theo năng lực của đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm như sau:

    - Nếu hành-giả ấy là hạng phàm-nhân, bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm ấy làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới Quảng-quả-thiên (Vehapphala), vị phạm-thiên trong tầng trời sắc- giới phạm-thiên này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu hành-giả nào là hạng phàm-nhân, khi đã chứng đắc đến đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có tâm nhàm chán trong 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn thức-uẩn), chỉ muốn có sắc-uẩn mà thôi, thì sau khi hành-giả ấy chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có nhóm sắc- pháp gọi là jīvitanavakakalāpa (nhóm sắc-pháp có sắc- mạng-chủ là thứ 9) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn mà thôi, với một trong ba tư thế: tư thế ngồi hoặc tư thế đứng hoặc tư thế nằm, trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng- thiên (asaññasattā). Vị phạm-thiên trong tầng trời sắc- giới Vô-tưởng-thiên này chỉ có thân mà không có tâm, có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

    Còn sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại là đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

    - Nếu hành-giả là bậc Thánh Bất-lai nào đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi bậc Thánh Bất-lai ấy chết, thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện- nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ- ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm- thiên Tịnh-cư-thiên (Suddhāvāsa), có 5 tầng trời tùy theo năng lực của 5 pháp-chủ (indriya) là tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp- chủ của bậc Thánh Bất-lai ấy từ thấp đến cao như sau:

    - Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy có tín-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Vô-phiền-thiên (Avihā), có tuổi thọ 1.000 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu bậc Thánh Bất-lai có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-nhiệt-thiên (Atappā), có tuổi thọ 2.000 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu bậc Thánh Bất-lai có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Thiện-hiện-thiên (Sudassā), có tuổi thọ 4.000 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu bậc Thánh Bất-lai có định-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Thiện-kiến-thiên (Sudassī), có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu bậc Thánh Bất-lai có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực thì sau khi chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Sắc-cứu-cánh-thiên (Akaniṭṭhā), có tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái đất.

    Còn sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả- nghiệp không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ- thiền sắc-giới thiện-tâm, mỗi bậc thiền sắc-giới thiện- tâm có ba bậc là paritta: bậc thấp, majjhima: bậc trung, paṇīta: bậc cao do năng lực của 5 pháp thuần-thục.

    Vasībhāva: Pháp thuần-thục có 5 loại:

    1- Āvajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi-thiền với ý-môn hướng-tâm.

    2- Samāpajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục nhập bậc thiền ấy.

    3- Adhiṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục phát nguyện thời gian nhập bậc thiền ấy.

    4- Vuṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần- thục ấn định thời gian xả bậc thiền ấy.

    5- Paccavekkhana vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi-thiền với tác-hành-tâm.

    - Nếu hành-giả không thường thực tập 5 pháp thuần- thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy thuộc bậc thấp.

    - Nếu hành-giả thỉnh thoảng thực tập 5 pháp thuần- thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy thuộc bậc trung.

    - Nếu hành-giả thường thực tập 5 pháp thuần-thục trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thì bậc thiền sắc- giới thiện-tâm ấy thuộc bậc thượng.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo năng lực của đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc như sau:

    - Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiểu-tịnh-thiên (Parittasubhā), có tuổi thọ 16 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Vô-lượng-tịnh-thiên (Appamāṇa- subhā), có tuổi thọ 32 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu đệ-tứ-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Biến-tịnh-thiên (Subhakiṇhā), có tuổi thọ 64 đại-kiếp trái đất.

    Sắc-giới thiện-nghiệp trong 3 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 3 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện- tâm, đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ-tam-thiền sắc- giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ- nhị-thiền sắc-giới quả-tâm và đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm- thiên, tùy theo năng lực của đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc- giới quả-tâm, có 3 bậc:

    - Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thiểu-quang-thiên (Parittabhā), có tuổi thọ 2 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-lượng-quang-thiên (Appamāṇābhā), có tuổi thọ 4 đại-kiếp trái đất.

    - Nếu đệ nhị, đệ-tam-thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quang-âm-thiên (Ābhassarā), có tuổi thọ 8 đại-kiếp trái đất.

    Sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc đệ- nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo năng lực của đệ- nhất-thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc như sau:

    - Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc thấp làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Phạm-chúng-thiên (Brahma- pārisajjā), có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

    - Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Phạm-sư-thiên (Brahmapurohitā), có tuổi thọ 1⁄2 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

    - Nếu đệ-nhất-thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp thì hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Đại-phạm-thiên (Mahābrahmā), có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

    2- VÔ-SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP (ARŪPĀVACARAKUSALAKAMMA)

    Hành-giả sau khi đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

    Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm đó là 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm. Mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đối-tượng thiền-định riêng biệt khác nhau. 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm như sau:

    Thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc:

    1- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không- vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    2- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô- biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    3- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở- hữu-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    4- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng- phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    Đó là 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm đều có 2 chi- thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) giống nhau, mà mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đối-tượng thiền-định riêng biệt khác nhau.

    Quả của 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp

    Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm cho quả tương xứng có 4 bậc thiền vô- sắc-giới quả-tâm.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ-tứ- thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền quả-tâm là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm- thiên tột đỉnh gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên. Vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất.

    Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 3 bậc thiền vô- sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại là đệ-nhất-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm, đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô- biên-xứ-thiền thiện-tâm, đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện- tâm gọi là vô-sở hữu-xứ-thiền thiện-tâm đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ-tam-thiền vô-sắc- giới thiện-nghiệp trong đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện- tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ-tam- thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất.

    Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm và đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp, không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc 2 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm và đệ- nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ- thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có đệ- nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhị-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm là vô-sắc-giới tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là Thức-vô-biên-xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất.

    Còn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm còn lại trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    * Nếu hành-giả nào có khả năng đã chứng đắc đệ- nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên- xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì đệ-nhất- thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-nhất-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới quả-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm là vô-sắc-giới tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc- giới phạm-thiên gọi là Không-vô-biên-xứ-thiên, vị phạm thiên ấy có tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất.

    Chư vị phạm-thiên trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm- thiên chỉ có tâm gồm có 4 danh-uẩn là thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn mà thôi, không có thân (không có sắc-uẩn).

    Sự khác biệt giữa trọng-yếu ác-nghiệp và trọng-yếu thiện-nghiệp

    * Trọng-yếu ác-nghiệp có hai loại là ác-nghiệp tà- kiến cố-định và 5 ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

    Trong hai loại trọng-yếu ác-nghiệp này, nếu người nào đã tạo 1 hay nhiều loại trọng-yếu ác-nghiệp này, sau khi người ấy chết, thì chỉ có trọng-yếu ác-nghiệp cực kỳ nặng nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Các trọng-yếu ác-nghiệp còn lại đều trở thành hỗ-trợ-nghiệp (upatthambhakakamma), có phận sự hỗ trợ cho trọng-yếu ác-nghiệp đã có cơ hội cho quả rồi càng nặng thêm gấp bội phần.

    * Trọng-yếu thiện-nghiệp có hai loại là 5 sắc-giới thiện-nghiệp và 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

    Trong hai loại trọng-yếu thiện-nghiệp này, nếu hành- giả nào có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, thì chỉ có trọng-yếu thiện- nghiệp nào cao trong bậc thiền thiện-tâm bậc cao ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền quả-tâm bậc cao ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời phạm-thiên tương xứng với bậc thiền quả- tâm bậc cao của hành-giả ấy.

    Còn bậc thiền thiện-nghiệp trong các bậc thiền bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    Đó là sự khác biệt giữa trọng-yếu ác-nghiệp với trọng-yếu thiện-nghiệp.

    Trong 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma) thì loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) phát sinh trong lúc lâm chung có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả của nghiệp trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    II.2- ĀSANNAKAMMA: CẬN-TỬ-NGHIỆP THẾ NÀO GỌI LÀ CẬN-TỬ-NGHIỆP?

    Nghiệp nào phát sinh lúc gần lâm chung, nghiệp ấy gọi là cận-tử-nghiệp (āsannakamma), đó là 12 bất- thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

    Cận-tử-nghiệp có 2 loại:

    II.2.1- Bất-thiện cận-tử-nghiệp (akusala āsannakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm).

    II.2.2- Đại-thiện cận-tử-nghiệp (kusala āsannakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

    Cận-tử-nghiệp phát sinh lúc gần lâm chung có hai trường-hợp:

    1- Trường-hợp thứ nhất: Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm hoặc ác-nghiệp trong 12 ác-tâm được nhớ lại trong lúc gần lâm chung.

    Āsanne anussaritaṃ āsannaṃ: Đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm nào hoặc ác-nghiệp trong ác-tâm nào mà người bệnh nhớ lại trong lúc gần lâm chung.

    Sau đó không lâu người ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm ấy hoặc ác-nghiệp trong ác-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla), tùy theo quả của nghiệp ấy.

    * Nhớ đến đại-thiện-nghiệp lúc gần lâm chung

    Một người đã từng tạo đại-thiện-nghiệp nào trong kiếp hiện-tại đã từ lâu không còn nhớ, đến lúc lâm chung, tự mình hồi tưởng nhớ đến phước-thiện ấy, hoặc có người thân bên cạnh nhắc nhở để nhớ đến phước- thiện ấy. Phước-thiện ấy gọi là đại-thiện-nghiệp được nhớ lại lúc lâm chung.

    Sau đó người bệnh ấy chết, chính đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người hoặc cõi trời dục-giới) hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trong cõi thiện-dục-giới ấy cho đến hết tuổi thọ.

    Ví dụ: Ông A đã từng cùng chung với các thí-chủ khác tạo phước-thiện lễ dâng y kathina đến chư tỳ-khưu- Tăng tại một ngôi chùa. Thời gian đã trải qua nhiều năm, ông A không còn nhớ phước-thiện lễ dâng y kathina ấy.

    Nghe tin ông A đang lâm bệnh nặng trầm trọng, ông B vốn là người bạn thân thiết đến thăm ông A, cũng là người đã cùng chung với ông A tạo phước-thiện lễ dâng y kathina năm xưa. Nhân dịp này, ông B nhắc lại cho ông A nhớ lại phước-thiện lễ dâng y kathina đến chư tỳ- khưu-Tăng năm xưa tại ngôi chùa ấy.

    Lắng nghe ông B nhắc đến phước-thiện ấy, ông A liền phát sinh đại-thiện-tâm hồi tưởng nhớ lại phước-thiện của buổi lễ dâng y kathina ấy, nên phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy.

    Sau đó không lâu ông A từ trần. Sau khi ông A chết,

    chính đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm mà ông A nhớ lại lúc lâm chung ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

    Đó là trường-hợp người bệnh nhớ lại đại-thiện-nghiệp lúc lâm chung.

    * Nhớ đến ác-nghiệp lúc gần lâm chung

    Tích Erakapattanāgarājāvatthu (9)

    Tích Erakapattanāgarājāvatthu được tóm lược như sau:

    Vị tỳ-khưu trẻ trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, một hôm đi thuyền trên dòng sông Gangā, nước chảy xiết, vị tỳ-khưu trẻ nắm lấy lá cỏ bên bờ sông làm đứt lá cỏ (nếu phạm điều-giới thì phạm điều-giới nhẹ).

    Sau đó, vị tỳ-khưu ấy không có cơ hội gặp một vị tỳ- khưu khác để sám hối āpatti.

    Về sau, vị tỳ-khưu ấy không còn nhớ đến việc làm đứt lá cỏ ấy nữa.

    Suốt cuộc đời xuất gia hành phạm-hạnh của vị tỳ-khưu ấy, thời gian trải qua rất nhiều năm, trong thời-kỳ Đức- Phật Kassapa.

    Đến lúc lâm chung, hiện tượng hình ảnh lá cỏ bị đứt năm xưa hiện ra trong tâm, vị tỳ-khưu nhớ lại trong thời-kỳ quá khứ xa xưa ấy đã từng làm đứt lá cỏ bên bờ sông mà chưa có cơ hội sám hối āpatti.

    Ngay lúc ấy, vị tỳ-khưu ấy muốn sám hối āpatti ấy, nhưng không có vị tỳ-khưu nào tại đó. Cho nên vị tỳ- khưu ăn năn hối hận về lỗi của mình, tự nghĩ mình là người có giới không trong sạch.

    Vì vậy, sau khi vị tỳ-khưu tịch, ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị Long-vương có tên là Erakapattanāga- rājā: (Long-vương Erakapatta (lá cỏ), từ thời-kỳ Đức- Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, vẫn chưa thoát khỏi kiếp Long vương.

    Đó là trường-hợp vị tỳ-khưu bệnh nhớ lại ác-nghiệp của mình lúc lâm chung.

    2- Trường hợp thứ nhì: Đại-thiện-nghiệp hoặc ác- nghiệp được tạo trong lúc lâm chung.

    Āsanne kataṃ āsannaṃ: Đại-thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào mà người bệnh tạo trong lúc lâm chung, đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), tùy theo quả của nghiệp ấy.

    * Đại-thiện-nghiệp được tạo trong lúc lâm chung

    Ví dụ: Tích sư phụ của Ngài Trưởng-lão Soṇa (10)

    Ngài Trưởng-lão Soṇa ở tại ngôi chùa Acelavihāra dưới chân núi Soṇagiri. Thân phụ của Ngài Trưởng-lão hành nghề săn bắn thú rừng để nuôi mạng. Ngài Trưởng-lão đã khuyên thân phụ từ bỏ nghề săn bắn thú rừng rồi hành nghề lương thiện khác nuôi mạng, nhưng thân phụ của Ngài Trưởng-lão đã quen với nghề này vả lại không biết nghề khác, cho nên ông vẫn tiếp tục hành nghề ấy nuôi mạng.

    Đến lúc tuổi già sức yếu, thân phụ của Ngài Trưởng- lão Soṇa không thể hành nghề săn bắn thú rừng được nữa. Ngài Trưởng-lão Soṇa khuyên thân phụ xuất gia trở thành tỳ-khưu.

    Sau khi trở thành tỳ-khưu, sư phụ của Ngài Trưởng- lão vì tuổi già sức yếu, khi thực-hành pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ tâm vẫn chưa được ổn định.

    Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, trước lúc lâm chung, sư phụ của Ngài Trưởng-lão thấy những hiện tượng ác- nghiệp sát-sinh trong thời quá khứ hiện ra trong tâm, làm cho sư phụ của Ngài Trưởng-lão kinh hoàng kêu la, nhờ Ngài Trưởng-lão Soṇa xua đuổi.

    Ngài Trưởng-lão Soṇa nghĩ rằng: “Nếu sư phụ tịch (chết) trong lúc này, chắc chắn ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì khó tránh khỏi tái-sinh trong cõi địa-ngục, ta phải tìm cách hóa giải đối-tượng xấu của ác-nghiệp ấy.”

    Ngài Trưởng-lão Soṇa bảo vị sa-di đem lại cho Ngài một ít cành hoa và nhờ người khiêng sư phụ nằm trên chiếc gường đem lên đặt trên nền ngôi Bảo-tháp, rồi Ngài Trưởng-lão trao những cành hoa để cho sư phụ cúng dường đến ngôi Bảo Tháp và hướng dẫn sư phụ đem hết lòng thành kính bạch rằng:

    -“Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đây là những cành hoa, lễ vật mọn của con, con đem hết lòng thành kính dâng cúng dường lên ngôi Bảo Tháp thờ Đức-Thế-Tôn.”

    Sư phụ đã làm theo sự hướng dẫn của Ngài Trưởng- lão. Thật phi thường! Ngay khi ấy, đối-tượng xấu của ác-nghiệp kia biến mất, thay bằng đối-tượng những cảnh đẹp ở trên cõi trời, lâu đài nguy nga, những thiên-nữ hiện ra hầu hạ.

    Sư phụ của Ngài Trưởng-lão phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ thốt lên rằng:

    “Các cô thiên-nữ đã đến rồi!”

    Nghe vậy, Ngài Trưởng-lão Soṇa nghĩ rằng: “Cõi trời dục-giới đã hiện ra với sư phụ rồi.”

    Sau khi sư phụ của Ngài Trưởng-lão tịch, nhờ đại- thiện-nghiệp cúng dường ấy trong đại-thiện-tâm phát sinh trong lúc lâm chung có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

    Đó là trường hợp bệnh nhân tạo đại-thiện-nghiệp trong lúc lâm chung.

    * Ác-nghiệp được tạo lúc lâm chung

    Ví dụ: Ông A để tâm hận thù ông B từ lâu. Một hôm, ông A gặp ông B, hai người cãi lộn, gây gỗ lẫn nhau. Ông A tức giận đánh ông B, ông B lấy dao đâm ông A bị thương nặng rồi chết.

    Sau khi ông A chết, ác-nghiệp hận thù trong sân-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả ác-nghiệp trong sân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ cho đến lúc mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

    Đó là trường hợp ác-nghiệp hận thù được tạo trong lúc lâm chung.

    Hoặc những người đang uống rượu, bia và các chất say, hoặc đang say mê với tham-tâm trong sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc thỏa thích, ...

    Ngay khi ấy bị xảy ra tai nạn rồi chết đột ngột. Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a- su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến lúc mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

    Đó là trường hợp ác-nghiệp tham muốn được tạo trong lúc lâm chung.

    Trong 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma) và cũng không có loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) thì loại thường-hành-nghiệp (āciṇṇakamma) có quyền ưu tiên, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    II.3- ĀCIṆṆAKAMMA: THƯỜNG-HÀNH-NGHIỆP THẾ NÀO GỌI LÀ THƯỜNG-HÀNH-NGHIỆP?

    Ācīyati punappunaṃ karīyatīti āciṇṇaṃ: Nghiệp nào mà người thường hành hằng ngày, đêm, trở thành thói quen, thường được tích lũy hằng ngày, đêm; nghiệp ấy gọi là thường-hành-nghiệp, đó là 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) và 8 dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện- nghiệp).

    * Thường-hành-nghiệp có 2 loại:

    II.3.1- Thường-hành ác-nghiệp (Akusala āciṇṇa- kamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm.

    II.3.2- Thường-hành đại-thiện-nghiệp (Kusala āciṇṇakamma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục- giới thiện-tâm (8 đại-thiện-tâm).

    II.3.1- THƯỜNG-HÀNH ÁC-NGHIỆP

    Người thường tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý hằng ngày để nuôi mạng hoặc không phải để nuôi mạng, ác-nghiệp ấy gọi là thường-hành ác-nghiệp.

    Ví dụ: Người dân chài làm nghề đánh cá, người làm nghề giết gà, giết vịt, giết heo, giết bò, ... để bán thịt, người buôn bán rượu, bia và các chất say, người buôn bán các loại thuốc sát hại sinh vật, v.v... đều là những người hằng ngày thường tạo ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Đó là thường-hành ác-nghiệp.

    * Hay một trường hợp đặc biệt khác: Người nào đã tạo ác-nghiệp nào đó, tuy chỉ có một lần, nhưng ác- nghiệp cứ ám ảnh trong tâm của người ấy, làm cho tâm của người ấy luôn luôn hối hận, nóng nảy, khổ tâm.

    Đó cũng là thường-hành ác-nghiệp.

    Nếu người nào không có trọng-yếu ác-nghiệp trọng- tội, cũng không có cận-tử ác-nghiệp lúc lâm chung, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn thường-hành ác- nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

    II.3.2- THƯỜNG-HÀNH ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP

    * Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ là những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên thường hay tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu-Tăng, chư sa-di, những người nghèo khổ khác, giữ gìn ngũ-giới, bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, v.v...

    Hằng ngày, họ tụng kinh paritta Pāḷi, thường thực- hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc được bậc thiền nào, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp, và hoan hỷ tạo mọi thiện- nghiệp khác. Đó là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

    * Vị sa-di giữ gìn giới của sa-di trong sạch và trọn vẹn, thực-hành đầy đủ 14 pháp-hành của sa-di, thường thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc bậc thiền nào, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp. Đó là thường-hành đại- thiện-nghiệp.

    * Vị tỳ-khưu giữ gìn giới của tỳ-khưu trong sạch và trọn vẹn, thực-hành 14 pháp-hành của tỳ-khưu, thường thực-hành pháp-hành thiền-định mà chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên tâm vẫn còn thuộc về đại-thiện-nghiệp. Đó là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

    * Hay một trường hợp đặc biệt khác: Người nào đã tạo phước-thiện nào đó thuộc về đại-thiện-nghiệp, dù chỉ có một lần, đặc biệt vẫn thường niệm tưởng đến phước- thiện ấy. Mỗi khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy thì đại- thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy. Đó cũng là thường-hành đại-thiện-nghiệp.

    Nếu một người không có trọng-yếu thiện-nghiệp và không có cận-tử đại-thiện-nghiệp lúc lâm chung, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn thường-hành đại-thiện- nghiệp trong đại-thiện-tâm có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người hoặc cõi trời dục-giới), hưởng được quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện- nghiệp ấy mới rời khỏi cõi thiện-dục-giới ấy.

    NHẬN XÉT VỀ CẬN-TỬ-NGHIỆP VÀ THƯỜNG-HÀNH-NGHIỆP

    Nếu xét về năng lực của nghiệp thì cận-tử-nghiệp không thể có nhiều năng lực hơn thường-hành-nghiệp, bởi vì cận-tử-nghiệp được phát sinh trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc lâm chung, còn thường-hành-nghiệp đã được tích lũy, được lưu trữ trong tâm suốt khoảng thời gian lâu dài trong kiếp hiện-tại.

    Vì vậy, thường-hành-nghiệp có nhiều năng lực hơn cận-tử-nghiệp.

    Tuy cận-tử-nghiệp có ít năng lực hơn thường-hành- nghiệp, nhưng cận-tử-nghiệp này phát sinh lúc lâm chung có khả năng làm phát sinh 1 trong 3 đối-tượng hiện-tượng là nghiệp (kamma) hoặc hiện-tượng của nghiệp (kammanimitta) hoặc hiện-tượng cõi-giới tái-sinh (gatinimitta) làm đối tượng trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), nên cận-tử-nghiệp này có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    Ví dụ: Trong chuồng bò, nếu có con bò yếu đứng gần cổng chuồng, khi người chăn bò mở cổng chuồng thì con bò yếu đi ra cổng trước các con bò lực lưỡng khác.

    Cũng như vậy, cận-tử-nghiệp tuy có ít năng lực hơn thường-hành-nghiệp nhưng cận-tử-nghiệp được phát sinh trong lúc gần lâm chung. Cho nên, sau khi chết, cận-tử- nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    Vì vậy, trong bộ Abhidhammasaṅgaha: Vi-Diệu- Pháp Yếu-Nghĩa, giải về nghiệp theo tuần tự cho quả, Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha sắp đặt cận-tử-nghiệp trước, thường-hành-nghiệp sau.

    Trong bốn loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định, nếu chúng-sinh nào không có loại trọng-yếu-nghiệp (garukakamma), cũng không có loại cận-tử-nghiệp (āsannakamma) và cũng không có loại thường-hành- nghiệp (āciṇṇakamma), thì sau khi chúng-sinh ấy chết bình-thường-nghiệp (kaṭattākamma) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    II.4- KAṬATTĀKAMMA: BÌNH-THƯỜNG-NGHIỆP THẾ NÀO GỌI LÀ BÌNH-THƯỜNG-NGHIỆP ?

    Kaṭattā eva kammanti kaṭattākammaṃ: Nghiệp nào mà người chỉ tạo một cách bình thường mà thôi, không quan tâm, không chú ý nhiều trong việc ấy, nghiệp ấy không thuộc về 3 loại nghiệp trên gọi là bình-thường- nghiệp (kaṭattākamma), đó là 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) và 8 đại-thiện-nghiệp.

    Bình-thường-nghiệp gồm tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp nào mà người đã tạo nghiệp ấy có ít năng lực nên không thuộc về loại trọng-yếu-nghiệp, cũng không phải là nghiệp phát sinh lúc lâm chung nên không thuộc về cận-tử-nghiệp, cũng không phải là nghiệp thường hành hằng ngày nên không thuộc về loại thường-hành-nghiệp.

    Trong kiếp hiện-tại, bình-thường-nghiệp này không thuộc về ba loại nghiệp trên, nên sau khi chúng-sinh chết, nếu trường hợp không có ba loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

    Trong những kiếp quá-khứ, bình-thường-nghiệp này là tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp đã từng được lưu trữ ở trong tâm của mỗi chúng-sinh trải qua vô số kiếp quá-khứ. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh trong mọi cõi-giới đều có bình-thường-nghiệp này.

    Bình-thường-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong những trường hợp như sau:

    * Những thai-nhi bị chết trong bụng mẹ, những đứa trẻ sơ sinh vừa mới sinh ra đời rồi bị chết, những đứa bé còn nhỏ dại chưa biết gì rồi bị chết, v.v... những trường hợp như vậy, những thai-nhi, những trẻ sơ sinh, những đứa bé còn nhỏ dại, v.v... trong kiếp hiện-tại, chúng nó chưa tạo ác-nghiệp nào, cũng chưa tạo đại-thiện-nghiệp nào cả. Cho nên, sau khi những thai-nhi, những trẻ sơ sinh, những đứa bé còn nhỏ dại ấy chết, bình-thường- nghiệp đó là ác-nghiệp nào hoặc đại-thiện-nghiệp nào của mỗi đứa trẻ được tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp quá-khứ mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có quả-tâm ấy gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau thuộc về loài chúng-sinh nào, trong cõi-giới nào, hoàn toàn tùy thuộc vào quả của bình-thường-nghiệp ấy.

    Hoặc vị Phạm-thiên ở tầng trời sắc-giới Vô-tưởng- thiên, khi hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất, rồi phải tái- sinh kiếp sau với kusala kaṭattākamma: bình-thường- đại-thiện-nghiệp mà vị phạm-thiên ấy đã được lưu trữ ở trong tâm trong tiền-kiếp quá-khứ, kể từ tiền-kiếp thứ ba trở về trước của vị phạm-thiên ấy, bởi vì vị phạm-thiên ở cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên thuộc về loại chúng-sinh chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn mà thôi (không có 4 danh-uẩn), nghĩa là vị phạm-thiên ấy chỉ có thân mà không có tâm.

    Như vậy, kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ở tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên này không có tâm, nên hoàn toàn không tạo thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp nào cả, chỉ hưởng quả của đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp suốt thời gian 500 đại-kiếp trái đất mà thôi.

    Và tiền-kiếp thứ nhì của vị phạm-thiên ấy là hành-giả có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả là đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả- tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên xong rồi, còn các bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp không còn có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được nữa.

    Vì vậy, khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất tại cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên rồi, chỉ có bình-thường đại-thiện-nghiệp mà vị phạm-thiên ấy đã được lưu trữ từ tiền-kiếp thứ 3 trở về trước có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới (cõi người, cõi trời dục-giới).

    Tính chất 4 loại nghiệp cho quả theo tuần tự

    Nghiệp cho quả theo tuần tự có 4 loại:

    1- Trọng-yếu-nghiệp (Garukakamma).

    2- Cận-tử-nghiệp (Āsannakamma).

    3- Thường-hành-nghiệp (Āciṇṇakamma).

    4- Bình-thường-nghiệp (Kaṭattākamma).

    Mỗi loại nghiệp có 2 loại: ác-nghiệp và đại-thiện-nghiệp

    * 4 loại ác-nghiệp cho quả theo tuần tự

    1- Trọng-yếu ác-nghiệp có 2 loại:

    - Ác-nghiệp tà-kiến cố-định.

    - Ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

    2- Cận-tử ác-nghiệp.

    3- Thường-hành ác-nghiệp.

    4- Bình-thường ác-nghiệp.

    Trong 4 loại ác-nghiệp này, chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định là ác-nghiệp cực kỳ nặng nhất mà thôi, các ác- nghiệp còn lại từ nặng xuống nhẹ giảm dần theo tuần tự.

    - Nếu người nào có đủ 4 ác-nghiệp này, sau khi người ấy chết thì chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định có quyền ưu tiên hàng đầu, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi đại- địa-ngục Avīci mà thôi. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác- nghiệp tà-kiến cố-định càng thêm nặng gấp bội phần, khó thoát ra khỏi cõi địa-ngục, bởi vì chúng-sinh ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp.

    - Nếu người nào không có ác-nghiệp tà-kiến cố-định mà có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, sau khi người ấy chết thì chỉ có ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác- nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội càng nặng thêm lên, chịu quả khổ từ cõi đại-địa-ngục này sang các cõi tiểu-địa-ngục kia, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới mong thoát ra khỏi cõi địa-ngục được.

    - Nếu người nào không có 2 loại trọng yếu ác-nghiệp mà có cận-tử ác-nghiệp đặc biệt phát sinh trong lúc lâm chung, thì sau khi người ấy chết, cận-tử ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy. Các ác-nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của cận-tử ác-nghiệp càng nặng thêm lên, rồi chịu khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

    - Nếu người nào không có 2 loại trọng yếu ác-nghiệp và không có cận-tử ác-nghiệp mà có thường-hành ác- nghiệp, sau khi người ấy chết thì thường-hành ác- nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc- sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy, các ác- nghiệp còn lại trở thành hỗ-trợ ác-nghiệp có phận sự hỗ trợ cho quả của thường-hành ác-nghiệp ấy càng nặng thêm, rồi chịu khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

    - Nếu người nào không có 2 loại trọng-yếu ác-nghiệp cũng không có cận-tử ác-nghiệp và thường-hành ác- nghiệp, sau khi người ấy chết thì chắc chắn có bình- thường ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), tùy theo năng lực quả của ác-nghiệp ấy, rồi chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

    * 4 loại thiện-nghiệp cho quả theo tuần tự

    1- Trọng-yếu thiện-nghiệp có 2 loại:

    - Vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

    - Sắc-giới thiện-nghiệp.

    2- Cận-tử thiện-nghiệp.

    3- Thường-hành thiện-nghiệp.

    4- Bình-thường thiện-nghiệp.

    - Nếu hành-giả nào thuộc hạng phàm-nhân có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp cao nhất gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp cao nhất trong phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện- tâm cao nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có phi- tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm cao nhất gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc- giới phạm-thiên tột đỉnh gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng- xứ-thiên, vị phạm-thiên ấy có tuổi thọ lâu nhất là 84.000 đại-kiếp trái đất.

    Còn 5 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều trở thành vô-hiệu- quả-nghiệp, không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    - Nếu hành-giả nào thuộc hạng phàm-nhân có khả năng đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp cao nhất trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện- tâm cao nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) có đệ-ngũ-thiền sắc-giới quả-tâm cao nhất gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quảng-quả- thiên (Vehapphala), có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

    Còn bốn bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    - Nếu người nào không có bậc thiền nào, mà chỉ có cận-tử đại-thiện-nghiệp phát sinh lúc lâm chung, sau khi người ấy chết thì chính cận-tử đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm phát sinh trong lúc lâm chung có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, tùy theo năng lực của đại-quả-tâm ấy, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

    - Nếu người nào không có cận-tử đại-thiện-nghiệp, mà chỉ có thường-hành đại-thiện-nghiệp, sau khi người ấy chết thì chính thường-hành đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

    - Nếu người nào không có thường-hành thiện-nghiệp, nhưng chắc chắn có bình-thường đại-thiện-nghiệp, sau khi người ấy chết thì chính bình-thường đại-thiện- nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm mới có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc cho đến mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

    Nghiệp theo tuần tự cho quả theo bộ Visuddhimagga và bộ Chú-giải Aṅguttaranikāya

    Trong bộ Visuddhimagga (Thanh-Tịnh-Đạo) và bộ Chú-giải Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā (Chú-giải Chi-bộ- kinh) trình bày sắp đặt về bốn nghiệp theo tuần tự cho quả như sau:

    1- Trọng-yếu-nghiệp (garukakamma).

    2- Nghiệp được tạo nhiều lần (bahulakamma).

    3- Cận-tử-nghiệp (āsannakamma).

    4- Bình-thường-nghiệp (kaṭattākamma).

    Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo và bộ Chú-giải Chi-bộ- kinh giải thích rằng:

    Tuy cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh lúc lâm chung, nhưng không phải lúc nào cũng có khả năng, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được.

    Ví dụ: Trường hợp cận-tử-nghiệp có năng lực quá yếu, không có khả năng làm cho phát sinh 1 trong 3 đối- tượng là kamma: nghiệp, hoặc kammanimitta: hiện- tượng của nghiệp, hoặc gatinimitta: hiện-tượng cõi-giới tái-sinh làm đối-tượng trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), thì cận-tử-nghiệp ấy không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau được. Khi ấy nghiệp được tạo nhiều lần (thường-hành-nghiệp) có nhiều năng lực, có khả năng làm cho phát sinh 1 trong 3 đối-tượng là kamma: nghiệp, hoặc kamma- nimitta: hiện-tượng của nghiệp, hoặc gatinimitta: hiện- tượng cõi-giới tái-sinh làm đối-tượng trong cận-tử lộ- trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), nên sau khi chết, nghiệp được tạo nhiều lần (thường-hành-nghiệp) ấy cócơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới nào tùy theo năng lực quả của nghiệp ấy.

    Vì vậy, bộ Chú-giải Thanh-Tịnh-Đạo và Chi-bộ-kinh sắp đặt nghiệp được tạo nhiều lần (bahulakamma) tương đương với thường-hành-nghiệp (āciṇṇakamma) trước cận-tử-nghiệp theo tuần tự cho quả của nghiệp.

    (Xong phần 4 loại nghiệp cho ủa theo tuần tự)

    III- PĀKAKĀLACATUKKA: PHẦN NGHIỆP PHÂN CHIA THEO NGHIỆP CHO QUẢ THEO THỜI GIAN, CÓ 4 LOẠI NGHIỆP

    3.1- Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp quả- nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

    3.2- Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

    3.3- Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả- nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A- ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

    3.4- Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

    Mỗi loại nghiệp có 2 loại là bất-thiện-nghiệp (ác- nghiệp) và đại-thiện-nghiệp.

    Đức-Phật dạy:

    “Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.” (11)

    - Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Vì vậy, Như-Lai dạy “tác-ý gọi là nghiệp.”

    Muốn tạo nghiệp nào, người ta có tác-ý phát sinh trước rồi mới tạo nghiệp ấy bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

    - Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng thân gọi là thân- nghiệp (kāyakamma).

    - Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng khẩu gọi là khẩu-nghiệp (vacīkamma).

    - Tác-ý phát sinh rồi tạo nghiệp bằng ý gọi là ý- nghiệp (manokamma).

    Do đó, nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

    Tác-ý (cetanā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) là 1 trong 52 tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.

    * Tác-ý tâm-sở nào gọi là nghiệp?

    Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất- thiện-tâm (12) (12 ác-tâm) và 21 hoặc 37 thiện-tâm, tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp như sau:

    - Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất- thiện-tâm (12 ác-tâm) gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) do nương nhờ 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

    - Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm gọi là đại-thiện-nghiệp do nương nhờ nơi 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn.

    - Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 5 sắc- giới thiện-tâm gọi là sắc-giới thiện-nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

    - Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 4 vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sắc-giới thiện-nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

    - Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm gọi là 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện- nghiệp do nương nhờ nơi ý-môn.

    * Tác-ý tâm-sở nào không gọi là nghiệp?

    - Nếu tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 36 hoặc 52 quả-tâm (13) và 20 duy-tác-tâm (14) thì tác-ý tâm- sở ấy không gọi là nghiệp.

    Thật ra, tác-ý tâm-sở gọi là ác-nghiệp hoặc thiện- nghiệp khi tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm, 21 hoặc 37 thiện-tâm làm phận sự tác-hành-tâm (javana- kicca) trong 6 lộ-trình-tâm (vīthicitta).

    Lộ-trình-tâm (vīthicitta) có 6 loại:

    1- Nhãn-môn lộ-trình-tâm (Cakkhudvāravīthi).

    2- Nhĩ-môn lộ-trình-tâm (Sotadvāravīthi).

    3- Tỷ-môn lộ-trình-tâm (Ghānadvāravīthi).

    4- Thiệt-môn lộ-trình-tâm (Jivhādvāravīthi).

    5- Thân-môn lộ-trình-tâm (Kāyadvāravīthi).

    6- Ý-môn lộ-trình-tâm (Manodvāravīthi).

    Nếu mỗi loại lộ-trình-tâm gồm có các loại tâm sinh rồi diệt liên tục và đầy đủ thì chắc chắn có đủ 7 sát-na- tâm của tác-hành-tâm (javanacitta).

    7 sát-na-tâm của tác-hành-tâm (javanacitta) liên quan trực tiếp đến 4 loại nghiệp có cơ hội cho quả theo thời gian trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất), trong kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) và từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

    Dục-giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) chỉ có 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 8 đại-thiện-tâm mà thôi. (Không có 1 tâm mỉm cười của bậc Thánh A-ra-hán và 8 đại-duy-tác-tâm của bậc Thánh A-ra-hán).

    Mỗi dục-giới lộ-trình-tâm có dục-giới tác-hành- tâm đầy đủ 7 sát-na tâm cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục trong mỗi dục-giới lộ-trình-tâm ấy, gồm có 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian trong kiếp hiện-tại, trong kiếp kế-tiếp và trong những kiếp sau sau nữa, ...

    Ví dụ: Đồ biểu dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm.

    Dục-giới lộ-trình-tâm có 7 sát-na-tâm của dục-giới tác-hành-tâm (Kāmajavanacitta)

    Mỗi dục-giới lộ-trình-tâm nếu có 7 sát-na-tâm của dục- giới tác-hành-tâm (kāmajavanacitta) thì gồm có 3 loại nghiệp cho quả theo thời gian được phân định như sau:

    1- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ nhất gọi là diṭṭhadhammavedanīyakamma: hiện-kiếp- quả-nghiệp là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).

    2- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tác-hành-tâm thứ 7 gọi là upapajjavedanīyakamma: hậu-kiếp-quả-nghiệp là nghiệp cho quả ngay kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

    3- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 tác-hành-tâm thứ 2 đến thứ 6 gọi là aparāpariyavedanīyakamma: kiếp- kiếp-quả-nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn (nếu nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả của nghiệp).

    Trong 3 loại nghiệp kể trên, nếu loại nghiệp nào không có cơ hội cho quả của nghiệp đúng theo thời gian quy định thì nghiệp ấy trở thành ahosikamma: vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

    -oo0oo-

    (1) Dī. Sīlakkhandhavagga. Kinh Sāmaññaphalasutta.
    (2) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, tích Devadattavatthu.
    (3) Bộ Chú-giải Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
    (4) Dham, Aṭṭhakathā, Daṇḍavagga, tich Mahāmoggallānattheravatthu.
    (5) Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, tích Devadattavatthu.
    (6) Dī. Aṭṭhakathā, Sīlakkhandhavagga, trong kinh Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
    (7) Dī, Aṭṭhakathā, Sīlakkhandhavagga, trong kinh Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
    (8) Tìm hiểu phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định, trong bộ Nền- Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn giả.
    (9) Dhammapadaṭṭhakathā, Buddhavagga, tích Erakapattanāgarājāvatthu.
    (10) Maj. Uparipaṇṇāsa. Bahudhātukasuttavaṇṇanā.
    (11) Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta.
    (12) 12 bất-thiện-tâm đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm.
    (13) 36 hoặc 52 quả-tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 thiện-quả vô- nhân-tâm + 8 dục-giới quả-tâm + 5 sắc-giới quả-tâm + 4 vô-sắc-giới quả- tâm + 4 hoặc 20 Thánh quả-tâm.
    (14) 20 duy-tác-tâm đó là 3 duy-tác vô-nhân-tâm + 8 dục-giới duy-tác-tâm + 5 săc-giới duy-tác-tâm + 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.