Giải về ý nghĩa tiếng Kappa

Giải về ý nghĩa tiếng Kappa

    GIẢI VỀ KIẾP
    (KAPPA KATHĀ)

    Nói về Thành kiếp, Hoại kiếp và Lửa cháy kiếp v.v...

    Hòa thượng Giới Nghiêm Thitasīlo

     

     

    Giải Về Tiếng Kappa

    Khoảng thời gian trụ rất lâu gọi là kappa (kiếp), là tên của tuổi thọ trái đất, hoặc là tên tuổi thọ cõi không gian (okāsa loka).

    Tiếng gọi là không gian ấy trong bộ kinh Visuddhi magga (Thanh-Tịnh-Đạo) giải rằng: đặc chỉ về chỗ ở của chúng sanh, hằng có sự tiêu hại là thường.

    Trong cõi không gian đó có nhiều cõi sa-bà thế giới (cakkavāla).

    Cõi sa-bà ta đang ở nầy có bề ngang và bề dọc đến một triệu hai ức ba ngàn bốn trăm năm chục do tuần (1.203.450 do tuần).

    Bề chu vi đến ba triệu sáu ức một vạn ba trăm năm chục do tuần (3.610.350 do tuần).

    Bề dài trái đất trong sa-bà thế giới nầy chừng hai ức bốn vạn do tuần (240.000 do tuần).

    - Nước nâng đỡ trái đất dày đến bốn ức tám vạn do tuần (480.000 do tuần).

    - Có quả núi gọi là Tu-Di sơn (Sineru), chân ăn sâu xuống trong biển đến tám muôn bốn ngàn do tuần (84.000 do tuần) chót núi cao lên cũng tám vạn bốn ngàn do tuần giống nhau.

    - Kế cận núi Tu-Di sơn ấy lại có Thất-Trùng sơn (Satta Paribhaṇda) nữa là:

    1. Núi Yugandhara cao 42.000 do tuần.
    2. Núi Isindhara cao 21.000 do tuần.
    3. Núi Karavīka cao 10.500 do tuần.
    4. Núi Sudassana cao 5.250 do tuần.
    5. Núi Nemindhara cao 2.625 do tuần.
    6. Núi Vinataka cao 1.312 do tuần.
    7. Núi Assakaṇṇa cao 656 do tuần.

    Cả Thất-Trùng sơn nầy toàn là núi kết thành bằng bảo vật (ratana), nhất là vàng, bạc v.v... có chân ăn sâu vào dưới biển cũng đồng như trên vậy, ở bọc quanh núi Tu-Di, cách khoảng xa nhau cũng bằng với bề cao của các núi ấy. Nơi khoảng cách những núi ấy toàn là biển gọi tên là Sīdantara.

    Cả bảy lớp núi nầy là nơi trú của Tứ-Đại Thiên-Vương:

    1. Dhata Raṭṭha.i
    2. Virūpakkha
    3. Virullahaka.
    4. Kuvera.

    Và là nơi trú, nơi đi lại của chư thiên, và dạ-xoa cả thảy. Chẳng phải trình độ của người thường đi đến và xem thấy hoặc nghĩ ngợi được đâu, chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới đi đến và xem thấy biết rõ đầy đủ.

    Núi lớn Sineru, có ba hòn núi lớn dở phía dưới, gọi là núi Trayakuṭa.

    Phía trên đỉnh núi Tu-Di sơn là địa phận của đức vua trời Đế-Thích (Sakka), gọi là cõi trời Đạo-Lợi, kế phía trên là cõi Dạ-Ma, Đâu-Suất-Đà, Hóa-Lạc, Tha-Hóa-Tự-Tại. Tất cả các cõi nầy là nơi trú của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của loài người đâu. Kế phía trên các cõi trời nữa là cõi của chư Phạm-Thiên Hữu-sắc và Phạm-Thiên Vô-sắc.

    Phạm-Thiên Hữu sắc có 16 tuần là:

    1. Phạm-Chúng thiên.
    2. Phạm-Phụ thiên.
    3. Đại-Phạm.
    4. Thiếu-Quan thiên.
    5. Vô-Lượng quang thiên.
    6. Quang-Âm thiên.
    7. Thiếu-Tịnh thiên.
    8. Vô-Lượng tịnh thiên.
    9. Biến-tịnh thiên.
    10. Quản-quả thiên.
    11. Vô-Tưởng thiên.
    12. Vô-Phiền thiên.
    13. Vô-Nhiệt thiên.
    14. Thiện-Hiện thiên.
    15. Thiện-Kiến thiên.
    16. Vô-thiểu thiên.

    Phạm-thiên vô sắc có bốn tầng là:

    1. Không vô biên xứ thiên.
    2. Thức vô biên xứ thiên.
    3. Vô-sở hữu xứ thiên.
    4. Phi-Tưởng Phi-Phi tưởng thiên.

    Cõi trời Phi-Tưởng phi phi tưởng xứ này là nơi cao nhất hơn cả của Tam-Giới, trong cõi hư không thế giới khoảng cách xa cõi cuối cùng Tam-Giới ấy xuống đến cõi người nầy không thể đếm được bao nhiêu do tuần cả.

    Trong bộ kinh Loka Dīpaka có giảng giải so sánh rằng: Sabba bhavaggo thatvaca kutāgarasamāsalā pātitā tīhi vassedhivimā māsehi ca atthahi rattindivehi v.v...

    Nghĩa là: Chư thiên có thần lực nhiều, ở trong cõi cuối cùng (của Tam-Giới) thả một tảng đá to bằng cái nhà cho rơi xuống tới cõi người mất một thời gian rất lâu chừng ba năm hai tháng tám ngày và 14 phút mới đến cõi người, cục đá ấy chỉ là chạm bởi gió, mà mòn hết chỉ còn dư lại bằng trái cam thôi.

    Kế sau đây chỉ giảng giải theo bộ kinh Visuddhi magga như vầy: Theo sự chỉ dẫn rằng: Núi Tu-Di (Sineru) ở giữa cõi Sa-bà, núi Thất-Trùng sơn bao quanh núi Sineru, phía bên ngoài núi Thất-Trùng sơn ấy, toàn là nước cả thảy, trong bốn hướng có Tứ-Đại châu cách xa hẳn với núi ấy.

    *

    Tứ Đại Châu

    1. Jambūdvīpa: Nam-Thiện-Bộ châu, ở phía Nam núi Tu-Di, có cây Jambū (cây trâm) thường trực của cõi, người trong châu ấy nuôi mạng bằng nông nghiệp, thương nghiệp v.v... phụ nữ thụ thai phải 9 hoặc 10 tháng mới sanh ra con trai, con gái.

    2. Uttara kurudvīpa: Bắc-Câu-Lư châu, ở phía bắc núi Tu-Di có cây kappa (Như-ý- thọ) thường trực của cõi. Người ở trong châu ấy khỏi bận làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... muốn vật chi, muốn ưng ăn món gì, thực phẩm cách nào thì đi đến cây kappa thì được như ý nguyện. Phụ nữ thụ thai 7 tháng thì sanh con, hài nhi trai hoặc gái sanh ra 7 ngày là biết đi biết chạy.

    3. Aparagoyānīdvīpa: Tây-Ngưu-Hóa châu ở phía tây núi Tu-Di có Kadumba (ngọc như-ý châu) thường trực của cõi. Người ở trong châu ấy không bận với nghề nghiệp nông-tang đâu, bởi vì có viên ngọc làm cho thành tựu như ý.

    4. Pubbavidehadvīpa: Đông-Thắng-Thần châu ở phía đông núi Tu-Di, có cây Sirīsa thường trực của cõi. Người ở trong châu nầy không cực nhọc phải làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... bởi vì có một cây tức là cái bảo diện kết thành bằng bảy thứ ngọc, cao 15 do tuần, làm cho thành tựu ý như tất cả ý nguyện của mọi người.

    Trong bốn châu ấy, tất cả chư Phật không khi nào giáng sanh ba châu kia, mà chỉ đản sanh trong Nam-Thiện Bộ châu thôi, bởi vì cả ba châu ấy là nơi để cho chúng sanh thọ hưởng quả thanh-hạnh pháp, không phải là nơi để tạo thanh-hạnh pháp, như Nam châu nầy đâu.

    Trong châu Jambu có núi Hy-Mã-Lạp-Sơn (Himalaya) cao 500 do tuần, bề ngang và bề dọc tới 3.000 do tuần;

    Bề cao, to của Đại-Thọ thường trực bốn châu và các cõi như vầy:

    - Cây Jambū (cây trâm) trong Nam-Thiện-Bộ Châu.
    - Cây Kappa (cây như ý thọ) trong Bắc-Câu-Lư châu.
    - Cây Kadamba trong Tây-Ngưu-Hóa châu.
    - Cây Sirīsa trong Đông-Thắng-Thần châu.
    - Cây Paricchitta trên cõi Đạo-Lợi Thiên.
    - Cây Pātalī của nhóm A-Tu-La.
    - Cây Simbalī (cây chông) của Đại Bàng (Garuda).

    Tất cả cây đó toàn là đại thọ chúa của loài cây, vẫn sống trọn một kappa (kiếp của trái đất).

    Sự to và cao bằng nhau cả, là thân cây chung quanh chừng 15 do tuần, bề dài của cây và bề dài của nhánh chừng 50 do tuần, thế là toàn cây từ gốc đến ngọn 100 do tuần.

    Chu vi của bốn châu như vầy:

    - Nam-Thiện-Bộ châu, cõi trời Đao-Lợi, cõi A-Tu-La, cõi địa ngục A-Tỳ, chu vi một vạn do tuần giống nhau.

    - Tây-Ngưu-Hóa châu và Đông-Thắng-Thần châu, chu vi hai ngàn do tuần.

    - Bắc-Câu-Lư châu, chu vi tám ngàn do tuần.

    Cả Tứ-Đại châu nầy mỗi cái đều có 5 trăm châu nhỏ phụ tùng, chung ở trong một cõi sa-bà thế giới. Chung quanh cõi sa-bà có núi lớn dài bao bọc. Núi ấy mọc chân sâu vào trong biển cả, đến tám vạn hai ngàn do tuần. Cao lên trên cũng 8 vạn 2 ngày do tuần vậy.

    Giải rõ tiếng Lokadhātu (Thế-giới) và tiếng Cakkavāla (Sa-bà) là tiếng chỉ khác nghĩa đó thôi nhưng có thể gọi chung là thế giới sa-bà.

    Trong mỗi một cõi thế giới sa-bà, có Tứ-Đại châu và 500 châu nhỏ, có một quả núi Tu-Di, có Thất-Trùng sơn, có 6 tầng trời Dục-giới, có 16 tầng Phạm-thiên hữu-sắc và 4 tầng Phạm-thiên vô-sắc, có cõi người và cõi địa ngục, ngạ-quỉ, súc sanh, A-tu-la, có mặt trời và mặt trăng.

    Mặt trời chu vi 50 do tuần, mặt trăng chu vi 49 do tuần, là bảo điện của vị trời Suriya và vị trời Canda. Pháp hành thế gian cấu tạo lên để soi sáng cho cõi đời, theo thường lệ là đi quanh núi Tu-Di. Mặt trời trong một ngày một đêm đi quanh một vòng giáp núi Tu-Di. Mặt trăng đi một tháng mới giáp một vòng núi Tu-Di sơn.

    Gồm các vật phụ tùng như đã kể, gọi là một cõi Lokadhātu hoặc Cakkavāla thế giới sa-bà ấy có nhiều vô số chẳng phải chỉ có một cõi đâu.

    Gồm tất cả cõi thế hoặc sa-bà thế giới, gọi là hư-không thế giới (Okāsaloka).

    Hư không thế giới sẽ chia theo quốc độ của Phật thấu triệt nữa như sau đây.

    Buddhakkhetta Phật quốc độ có 3 là:

    1) Jātikhetta: Sanh quốc độ, nghĩa là một vị Bồ-Tát sắp thành Phật trong kiếp chót, khi giáng sanh vào lòng mẹ, hoặc giờ phút đản sanh ra đời v.v... sẽ do phước đức phi thường của Ngài, khiến cho một vạn cõi sa-bà thế giới thảy đều rung động.

    2) Ānākhetta: Oai lực quốc độ, nghĩa là một vị Phật Chánh-Đẳng Chánh-Giác thuyết về lời cầu nguyện Ratana paritta, Khandha paritta, Dhayagga paritta, Ātānatiya paritta và Mara paritta... do năng lực kinh Paritta sẽ có phước đức phi thường tức là lời cầu nguyện của Đức Phật khiến cho một ức koti thế giới sa-bà (100 ngàn koti cõi sa-bà), thảy đều rung động.

    3) Visayakhetta: Trình độ quốc độ, nghĩa là năng lực về trí tuệ của một vị Phật Toàn-Giác sẽ chiếu khắp đến vô số sa-bà thế giới luôn cả vô hư không thế giới, tuệ-giác của Ngài thông suốt chẳng có nơi cùng tận, cần rõ điều gì, nguyên nhân nào, thì hiểu trọn vẹn y như ý nguyện, không bị một vật chi ngăn ngại.

    Trong ba Phật quốc độ nầy trừ điều trình độ quốc độ ra bởi vì theo thường lệ với cái trình độ tuệ-giác của mỗi vị Phật tổ.

    Riêng về sinh quốc độ và oai lực quốc độ thì có một ức koti cõi sa-bà thế giới ấy, là quốc độ của một vị Phật toàn-giác, bởi Ngài sẽ hóa độ chúng sanh trong đó.

    Cả một ức koti sa-bà thế giới ấy, pháp hành của vũ trụ (Sankhāra loka) cấu tạo lên một thời kỳ, an trụ cũng giống nhau, tiến hóa cũng đồng thời với nhau, như có giải trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo ở đoạn Abhinnaniddesa rằng:

    Evametesu tisu Buddhakkhattesu ekam anakhettam vinassati. Tasmiṃ pana vinassente jatikke tampi vīnaṭṭha-meva hotu. Vinassantañca ekatevavinassanti saṇthahantam-pīikato va santhahati. Tassavaṃ vināse ca saṇthahanañca veditabbaṃ.

    Nghĩa là trong cả ba Phật quốc độ đó, thì oai lực quốc độ bị hoại, hễ khi oai lực quốc độ bị hoại, thì sanh quốc độ cũng bị hư hoại giống nhau vậy.

    Sinh quốc độ, khi hoại cũng đồng hoại với oai lực quốc độ, khi trụ cũng giống như oai lực quốc độ vậy.

    Thế là sự trụ kiếp hoặc sự trụ kiếp của jāti khetta và anākhetta, các thức giả nên hiểu như thế ấy.

    Ngay nơi Duddhakkhetta nầy, phần nhiều có ý hiểu khác nhau.

    Có kẻ hiểu rằng: Trong cõi hư không thế giới mà có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, chỉ có một ức koti cõi sa-bà thế giới thôi. Lâu lâu mới có vị Phật tổ ra đời, không có luôn luôn mỗi ngày mỗi tháng, mỗi năm đâu, bởi vì không có cõi sa-bà thế giới, nhiều hơn con số một ức koti ấy nữa đâu.

    Có kẻ khác hiểu rằng: Trong cõi hư không thế giới có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, không phải chỉ có một ức koti cõi sa-bà thế giới thôi, nghĩa là có vô số ức koti cõi, kể không hết, có Phật đắc đạo hằng ngày không hở, là nếu trong một ức koti cõi thế nầy, Đức Phật Niếp-Bàn, thì có một ức koti cõi thế nọ có Đức Phật đang giác ngộ, một ức koti cõi thế kia có Bồ-Tát đang đầu thai (gần thành Phật) hoặc nhiều ức koti cõi thế khác, có các vị Phật đang đắc đạo, đang độ sanh, đang nhập Niết-Bàn v.v... lại cũng có một ức koti cõi thế khác đang tiêu hoại, hoặc có một ức koti cõi thế khác đang thời tiến hóa.

    Cả hai lẽ hiểu nầy khỏi phải phân biệt bên nào trúng bên nào trật, chỉ là đem đủ nhân và quả chỉ dẫn giúp cho tri kiến, rồi tùy nơi Phật tử khi xem qua quyển kinh nầy tự phân biệt lấy, nếu thấy bên nào nói đúng nhân quả hơn thì bên ấy đúng chắc chắn.

    *

    Giúp Cho Tri Kiến

    Phật quốc độ có ba là: Jātikhetta, Ānākhetta, Visaya-khetta.

    Khetta là tiếng Magadha, nghĩa là: ruộng, tỉnh, vị trí, biên cương, quốc độ, nghĩa là phần cõi đất, phần cõi thế, mà người ta phân chia từng khoảng, có biên giới do ấn định quốc độ hoặc do ấn định thế giới, để phân biệt đừng cho lẫn lộn nhau, bởi vì có nhiều chứ không phải chỉ một cõi.

    - Phật quốc độ thứ nhất là Jātikhetta chỉ có nhất định một vạn cõi thế. Khi Đức Phật mới đản sanh, thành đạo v.v... ngay trong cõi thế gian nào, thì trọn một vạn cõi gần đây thảy đều rung động mà thôi, không rung động đến các thế giới khác ngoài số ấy.

    - Phật quốc độ thứ hai là Ānākhetta, chỉ có nhứt định ức koti cõi thế. Đức Phật thuyết kinh cầu an về Ratana paritta và Khandha parita v.v... trong thế giới nào, thì trọn một ức koti những cõi ấy thảy đều rung động mà thôi, không rung động đến các thế giới khác ngoài số ấy.

    Bởi thế nào cho nên Phật quốc độ thứ hai là Ānākhetta có sự nhất định vị trí một ức koti cõi như thế, có nhiều cõi thế hơn số ấy nữa sao? Hay là không có? Nếu không có thì tại sao lại có số nhất định, có biên cương (khetta) mà không nói cả thảy đi một cái cho khỏe. Bởi cớ Ānākhetta nầy nói ngay về những cõi thế giới hiện tại, chẳng phải nói đến các thế giới đã qua đâu.

    Okāsa loka: Hư không thế giới, cái bầu không khí to rộng thênh thang vô cùng vô tận, kiếm chỗ cuối cùng không thấy. Dù cho Phật tuệ cũng không thấy vậy. Nếu đã to rộng như thế nầy thì nhiều ức koti thế giới cũng không chật bầu không khí kia được. Cả ba điều nầy là giúp cho tri kiến, hãy nhận định theo cách nầy đi.

    Sự diễn giải đến đây là phân tách cho thấy rõ tiếng kappa (kiếp) bởi tiếng kiếp nầy là tên của tuổi thọ quả đất, tên của tuổi thọ cõi sa-bà thế giới hoặc của hư không thế giới. Mỗi ức koti cõi sa-bà thế giới là quốc độ của mỗi vị Phật tổ, Sankhāra cấu tạo lên trong một thời với nhau, bị tiêu hoại cũng đồng thời với nhau, nếu tính từ khi cấu sanh lên cho đến khi tiêu hoại thì nhiều năm lắm, đến một, mười, một trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, luôn đến A-tăng-kỳ cũng không hết, bởi vì cõi sa-bà thế giới nầy có tuổi thọ dài lắm, cho nên các hạng trí tuệ, nhất là Đức Phật định danh là kiếp (kappa) nghĩa là cõi sa-bà có tuổi thọ một kappa mới tiêu hoại.

    Trong bộ Samyutta nikāya ngay nơi phẩm Tina kattha có ý nghĩa dạy rằng: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự gần thành Savatthī, có một vị Tỳ khưu vào hầu và phục bạch hỏi như vầy: Bạch Đức Thế Tôn, Kappa có thời gian bao lâu?

    Đức Thế Tôn đáp rằng: Dīgho kho bhikkhu kappa so na sukaro sankhatuṃ ettakani vassani iti vā ettakani vassatani iti va ettakani vassasahassāni iti va ettakani vassasatasahassāhi iti:

    Nầy Tỳ khưu, kappa có thời hạn lâu lắm. Kappa không dễ gì đếm rằng: bao nhiêu năm, bao nhiên ngàn năm, hoặc bao nhiêu ức năm, bao nhiêu triệu năm v.v... được đâu.

    Thầy Tỳ khưu bạch hỏi nữa rằng: vậy Đức Thế Tôn ví dụ được không?

    Phật phán rằng: Có thể ví dụ được, rồi Ngài thuyết kệ ngôn như vầy:

    Seyyathāpi bhikkhu mahāseho pabbato yojanaṃ, āyā-mena yojanaṃ vithārena yojanaṃ ubbedhena, acchiddo asusiro ekaghano tamenaṃ puriso, vassasatassa, vassasa-tassa accayena kasikena, va’thena sakiṃ sakiṃ parimajjeyya khippataraṃ khoso, bhikkhu mahāseso pabbato imina upakkamena parikkhayaṃ, payādānaṃgaccheyya na tveva kappo evaṃ dīgho kho bhikkhu kappo.

    Nầy Tỳ khưu! Ví như một tảng đá to bề dọc một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao một do tuần, không lủng, không bộng, là đá đặc ruột, trải qua mỗi một trăm năm, có một người cầm vải Kasika (mỏng) lại lau cái núi đá một lần: nầy Tỳ khưu! Hòn núi đá lớn kia, mãi cho đến khi mòn hết, do sự cố gắng nầy, còn mau hơn, song kiếp (kappa) vẫn chưa hết. Nầy Tỳ khưu, kappa có thời gian lâu như thế đó.

    Trong khoảng thời gian sau có một vị Tỳ khưu vào hầu và bạch hỏi như trước nữa.

    Đức Thế Tôn đáp như vầy:

    Seyyathāpi bhikkhu āyasaṃ nagaraṃ, yojanaṃ āyā-mena yojanaṃ vittharena yojanaṃ ubbedhena puṇṇaṃ, sāsapānaṃ gulikā bandhaṃ tato puriso vassasatassa, vassa-satassa accayena ekametaṃ sasapaṃ uddhareyya khippa-taraṃ kho so bhikkhu mahāsāsaparāsi iminā, upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya na tveva, evaṃ dīgho kho bhikkhu kappo.

    Nầy Tỳ khưu! Ví dường như cái thành trì, bao bằng thành lủy, bề dài một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao cũng một do tuần, đựng đầy những hột cải, là cái thành trì mà họ đậy bằng đất sét, trải qua mỗi một trăm năm, có một người đến lấy bỏ ra một hột cải khỏi đống ấy, nầy Tỳ khưu, cái đống hột cải kia mãi cho đến khi hết sạch, do sự cố gắng này còn mau hơn, song kappa vẫn chưa hết, nầy Tỳ khưu, kappa có một thời gian lâu như thế đó.

    Kappa nầy chia ra làm nhiều cách nữa, như chia làm hai, làm ba, làm bốn, làm sáu.

    Chia làm hai là:

    - Saṃvaṭṭa kappa: Hoại kiếp.

    - Vivaṭṭa kappa: Kiếp trước hóa thành.

    Chia làm bốn là:

    - Tejo saṃvaṭṭa kappa: Kiếp hoại do lửa.

    - Antarā kappa: Nhất định theo tuổi thọ tăng và giảm của nhân loại, nghĩa là tuổi thọ tăng lên một A-tăng-kỳ, rồi giảm xuống còn 10 tuổi là thượng thọ. Xuống rồi tăng lên mỗi lần như thế gọi là một Antarā kiếp.

    - Asaṃ kheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp, là nhất định lấy 64 kiếp Antara gọi là một A-tăng-kỳ kiếp.

    - Mahā kappa: Đại kiếp, nhất định dùng một kiếp A-tăng-kỳ gọi là một đại kiếp.

    Chia làm bốn nữa là:

    - Saṃ vaṭṭa kappa: Hoại kiếp, là tính từ khi trái đất bị hoại cho đến ngày tiêu hết.

    - Saṃ vaṭṭatthāyi kappa: Không kiếp là bắt đầu từ khi tiêu hoại hết, cho đến khi cơ cấu lại nữa.

    - Vivaṭṭa kappa: Thành kiếp, là kể từ khi kiếp sanh lên cho đến khi có mặt trời, mặt trăng:

    - Vivaṭṭatthayi kappa: Trụ kiếp, kể từ khi có mặt trời, mặt trăng phát hiện cho đến khi bắt đầu bị tiêu hoại.

    Chia làm sáu là:

    - Sāra kappa: Kiếp có một vị Phật tổ giác ngộ.

    - Maṇḍa kappa: Kiếp có hai vị Phật tổ giác ngộ.

    - Vara kappa: Kiếp có ba vị Phật tổ giác ngộ.

    - Sāramaṃda kappa: Kiếp có bốn vị Phật tổ giác ngộ.

    - Bhadda kappa: Kiếp có năm vị Phật tổ giác ngộ.

    - Suñña kappa: Kiếp không có Phật tổ giác ngộ.

    Giảng giải về kiếp hoại:

    Kiếp hoại theo ba cách là:

    1) Hoại bằng lửa cháy. Khi cả một ức koti cõi sa-bà thế giới đủ tuổi một kiếp rồi, thì lửa cháy tiêu hoại tất cả thế giới ấy.

    Trước khi lửa cháy có mưa to rơi xuống, trong khắp một ức koti thế giới, tất cả mọi người rủ nhau vải, gieo các thứ giống, đến khi mọc lên chừng bò ăn được thì không sa mưa xuống nữa, cả hằng nhiều vạn năm, chúng sanh có nghiệp nhẹ nhàng, chết rồi được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên cả thảy, chỉ còn chúng sanh nào có ác nghiệp thì vẫn bị đọa đày, đến một thời gian lâu, các chỗ nước đọng cũng khô hết, mọi loài như cá, tôm, cua, rùa đều chết sạch. Chúng sanh địa ngục (chúng sanh địa ngục chết trong khi 7 mặt trời mọc lên) và loài bàn-sanh hoặc loài người, sau khi chết, được sanh lên cõi trời Dục-Giới, cố tinh tấn tham-thiền trong cõi trời cho đắc định, khi chết được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên Sắc-Giới cả.

    Thật ra một ức năm trước khi lửa bắt đầu cháy, có một vị trời tên Loka Byūhā, từ cung trời giáng xuống, biến thành ra người mặc y phục đỏ, thả tóc xả, cái mặt tràn trề cả nước mắt, lau nước mắt và đi theo các nẽo đường phố cáo rằng: các người chỉ còn một ức năm nữa cõi trời sẽ bị tiêu hoại, nước biển sẽ khô, quả đất, núi Tu-Di, cõi trời, cõi Phạm-Thiên (thấp) đều phải tiêu hoại. Các ngươi hãy cố tham-thiền, rãi tâm từ-bi và cố gắng hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ bằng cách cung kính.

    Trong khi ấy các người thiện trí thức nghe lời chư thiên rồi thì phát sanh kinh cảm trước, vội vã cố tinh tấn lo làm phước bố thí, phụng dưỡng cha mẹ, không dám dễ duôi, khi chết đều được sanh lên cõi trời, rán tham thiền trong cõi trời đắc định, đến khi chết được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên, khỏi thọ khổ lâu dài như các người Phi-tịnh giả.

    Trong bộ Visuddhi magga dạy rằng:

    Vassupacchedate pana uddhaṃ dīghassa addhuno accayena dutiyo suriyo pātu bhavati...

    Nghĩa: Kể từ khi dứt mưa, trải qua một thời gian lâu, có mặt trời thứ hai mọc lên rõ rệt. Khi trong thế gian có hai mặt trời thì ngày và đêm không phân biệt. Một mặt trời mọc thì mặt kia lặng, trong thế gian có sự nóng nãy do mặt trời luôn khi.

    Trong thời kỳ trước khi mặt trời chưa làm cho kappa tiêu hoại đó, vị trời Suriya hằng ở trong cái bảo điện, đến khi mặt trời làm cho cõi thế bị tiêu hoại, thí cái bảo điện ấy không có chư thiên ở nữa.

    Mặt trời mới, mọc có sắc nóng thái quá, mây mù gì trên hư không đều tiêu mất hết, nên hư-không chẳng có chi ngăn ngại.

    Khi cả hai mặt trời đua nhau mọc thì nước ở trong các ngòi, rãnh nhỏ đều khô hết.

    Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ ba mọc lên thì nước trong các sông khô hết.

    Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ tư mọc lên thì nước trong cả hồ lớn, nhất là hồ Anotattā cũng khô hết.

    Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ năm mọc lên thì nước ở trong đại-hãi cũng khô hết, trong cả toàn cõi thế-gian không có một nhiễu nước.

    Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ sáu mọc lên, cả một ức koti cõi sa-bà có bụi trần phải phủi lên và có nhựa của trái đất chảy ra.

    Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ bảy mọc lên, cả một ức koti trong cõi sa-bà có một ngọn lửa cháy hỏa-hào, cháy tiêu các núi bề cao chừng một do tuần, rồi lần đến núi Tu-Di làm cho tiêu hoại mất hết. Ngọn lửa ấy nhập lại cháy cõi Tứ-Đại-Thiên-Vương, cõi trời Đao-Lợi, cõi Dạ-Ma, cõi Đâu-Suất-Đà, cõi Hóa-Lạc, cõi Tha-Hóa-Tự-Tại và cháy các tầng trời Phạm-Thiên dưới, đến cõi Quan-Âm thiên (Abhassata).

    Sa yava aṇu mattampi saṅkhāragataṃ atthi tāvana nibbā yati: Ngọn lửa ấy nếu các vật bị cháy hãy còn thì cũng chưa tắt, cháy cho đến không còn dư tro, bụi mới tắt, ví như lửa cháy dầu ở phía dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau cả thành một khối tối thênh thang mờ mịt.

    2) Tiêu hoại do nước. Khi Lokadhātu hoặc là sa-bà thế giới, đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu hoại bằng nước, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như thế nầy: Bầu trời làm cho mưa toàn thủy, rơi xuống trong cả một ức koti cõi sa-bà thế giới, các vật liệu như núi, đồi v.v... khi đụng phải nước rồi, thì bị rả tan cả, nước toan ấy có gió thổi nâng đở chung quanh, làm tan rả các núi đồi ở dưới xong rồi, làm tan sáu tầng trời Dục-Giới, và nhiều tầng trời Phạm-Thiên nữa, đến cõi gọi là Biến-Tịnh-Thiên (Subhakinhā).

    Nước toan ấy khô đi, các vật liệu như núi rừng bị tiêu tan theo nước... cũng ví như muối mà người ta bỏ vào nước vậy. Tiêu mất không còn dư chút ít gì cả.

    Ở dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau, thành một khối tối mênh mông.

    3) Tiêu hoại do gió. Khi Lokathātu trong cõi thế giới sa-bà đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu hoại bằng gió, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như thế nầy: Bầu trời làm cho gió bảo lớn phát khỏi lên, thổi bụi lên cho bay lên hư-không mất cả, rồi thổi bưng cả cát, đất, sạn, sỏi, đá, cây, núi va chạm nhau và bay lên trên không hư hoại cả, không dư sót một món gì, kế thổi tan quả đất, cõi trời Dục-Giới, cõi trời Phạm-Thiên, luôn đến tầng gọi là Quản-Quả Thiên (Vehapphalā), làm cho tiêu tan hết, chẳng còn dư sót tí nào cả. Gió hết trơn rồi ở dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau, thành một khối thênh thang.

    Kiếp hoại do ba thể cách như đã giãi đây, cả ba thể cách nầy không phải thay đổi nhau mà tiêu hoại mỗi lần một món đâu, nghĩa là hoại bằng cách thức như vầy:

    Hoại do lửa 7 lần, hoại do nước một lần, hoại do lửa và nước như thế nầy đến 63 lần mới hoại do gió một lần.

    Đây là lệ thường của sự hoại kiếp.

    Trong bộ Visuddhi magga có nói về nhân khiến cho hoại như vầy Akusala Mūlesu hi ussannesu evaṃ loko vinassati.

    So ca kho rāge ussannatare agginā vinassati dose ussannatare udakena vinassanti. Keci pana dese ussan-natare. Āgginā rāge ussanatare udākenāti vadanti. Mohe ussannatare vatena vinassati.

    Nghĩa là: Kế khi cả ba ác căn là: Tham-luyến, sân-hận, si-mê dày (nhiều) lên rồi, thì cõi thế sẽ hoại bằng ba cách trên: cõi thế gian nào có sự tham luyến dày hơn, thì bị hoại bằng lửa, nếu sân hận dày hơn, thì bị hoại bằng nước, nếu ai si-mê dày hơn, thì bị hoại bằng gió.

    Riêng về Keci Ākāriya giải rằng: Nếu có sân nhiều hơn thì bị hoại bằng lửa, nếu có tham luyến nhiều hơn thì hoại bằng nước, nếu có ai si-mê nhiều hơn, thì bị hoại bằng gió.

    Dứt kiếp hoại vắn tắt.

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.