Nói về giáo lý Phật Đà, tưởng cần nhắc lại đoạn lịch sử, để phân biệt tánh cách của hai giáo lý Bảo Thủ và Tân Tiến.
Chẳng ai biết được, trong 25 thế kỷ về trước, Phật Tổ Gotama giảng dạy những điều chi, bởi trong thời gian 45 năm hoằng pháp độ sanh. Ngài chỉ dùng phương pháp “khẩu khẩu tương truyền”. Thế thì tại sao hiện giờ lại có kinh sách lưu hành và chia ra hai loại khác nhau: Tam tạng Bảo Thủ và Tam tạng Tân Tiến?
Lịch sử đã cho biết rằng trong buổi đầu tiên, nhờ chư vị Thinh văn, La-hán nằm lòng Tam tạng Pháp bảo, và mỗi khi trong hàng phàm tăng mưu mô canh cải kinh luật, các ngài liền triệu tập Hội nghị Tăng chúng, để ôn cố Phật ngôn, hầu cảnh cáo phần tử trụy lạc và nhắc nhở những bậc tu hành chơn chánh.
Trong ba kỳ Kết tập đầu tiên tại Ấn Độ (lần thứ nhất tại Rajagaha, lần thứ nhì tại Vesali, lần thứ ba tại Pataliputta), chư vị Thánh tăng chỉ lập lại bằng miệng cho Hội nghị nghe các lời di giáo của Phật Tổ Gotama. Đến lúc Kết tập kỳ thứ tư tại Tích Lan (thành Malaya), vì nhận thấy số Thánh tăng suy giảm rất nhiều, chư tăng sợ không còn ai đủ trí tuệ nằm lòng Pháp bảo, nên đồng biểu quyết viết trọn bộ Tam tạng và bộ Chú giải của chư vị Thinh văn, La hán vào lá bối đa (lá buôn). Qua kỳ kết tập thứ năm tại xứ Miến Điện (thành Mandalay), vua Mindong xin phép khắc Tam tạng và bộ Chú giải vào những bia đá cẩm thạch trắng, từ năm 2414 tới nay gần một thế kỷ mà chữ khắc vẫn còn nguyên vẹn. Chưa biết kỳ kết tập lần thứ sáu hiện giờ tại Rangoon (Miến Điện). Chư tăng sẽ định bảo tồn Tam tạng lâu dài bằng cách nào.
Phái Bảo Thủ, nhờ mỗi xứ đều có tổ chức đoàn thể Tăng già và giao nhiệm vụ cho các bậc trưởng lão thông suốt Tam tạng, cai quản hàng tỳ khưu, trong khắp châu quận, cho nên vị nào phạm giới luật cùng canh cải kinh điển, đều bị đem ra Giáo hội phân xử, răn phạt hoặc bị trục xuất. Bên ngoài những cư sĩ hộ pháp được phép tố cáo những nhà sư trụy lạc, hoặc loan truyền cho tín đồ hay biết và đồng nhau tuyệt giao, không cúng dường, không hộ độ vật thực đến vị tỳ khưu phá giới nữa. Nhờ hai bên tăng, tục, dòm ngó lẫn nhau, thức tỉnh cho nhau, nên Chánh pháp mới được trường tồn. Vậy mà lâu lâu cũng có tín đồ mê tín, giấu lỗi của các nhà sư, hoặc có các tín đồ không thông hiểu kinh luật, để cho các ngài tự do hành động phi pháp, nên thỉnh thoảng các bậc cao tăng và hộ pháp phải hiệp nhau tổ chức Hội nghị Kết tập để duy trì Chánh giáo.
Về phần Tân Tiến, Tăng già ra đời từ khi nhóm thầy tỳ khưu Vajjiputta tách ra khỏi hệ thống Giáo hội, vì bởi Hội nghị Kết tập Tam tạng kỳ nhì tại Vesali (Ấn Độ) bác bỏ 10 điều luật của họ canh cải như đã tường thuật trong đoạn lịch sử. Từ đó mạnh ai nấy lo mở đạo lập giáo. Ai ưa thích môn nào trong ba tạng, cứ tùy theo kiến thức mình viết ra kinh sách, làm nền tảng cho đạo giáo mình. Phần đông khinh thường giới luật và thiên về triết lý huyền học để rộng giải Phật ngôn ra thiên hình vạn trạng nối tiếp nhau phổ thông giáo lý Tân Tiến ra nhiều tông chỉ. Như ở Ấn Độ các ông: Vasubandhu (Thế Thân), Tổ sư Câu Xá tông viết ra cuốn Abhidharma-Koca Castra (A-tì-đạt-ma Câu-xá luận); Kumāralabdha (Cưu-ma-la-da), Tổ sư Thành Thật tông, nhờ học trò ông là thầy Harivarman (Ha-lỹ-bạt-ma) viết ra cuốn Satya Siddhi Castra (Thành Thật luận); Nagarjuna (Long Thọ), Tổ sư Tam Luận tông, viết ra ba quyển Madhyamika-Castra (Trung luận), Dvādaca Nikāya Castra (Thập Nhị Môn luận), Prajna Pāramitā Sutra Castra (Bát nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh); Asanga (Vô Trước), Tổ sư Duy Thức hay Dù Dà tông, viết cuốn Yogācāra-Bhumi- Castra (Dù Dà Sư Địa luận), anh ông là ông Vasubandhu (Thiên Thân) viết cuốn Vidyāmātra-Castra-Kārikā (Duy Thức luận); Acvaghosa (Mã Minh), Tổ sư Hoa Nghiêm tông, viết ra cuốn Mahāyāna Craddhatpāda Castra là một bộ luận Đại thừa trọng yếu về Phật tánh. Bên Tàu có ông Tổ sư Trí Khải, chiếc trung luận thuyết của ba tông là Tam luận, Hoa Nghiêm và Thiền na làm căn bản cho Thiên Thai tông. Bên Nhật có ông tổ sư Nichiren (Nhựt Liên) sang Tàu khảo cứu Thiên Thai tông về viết ra Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
Chúng ta sẽ có dịp biết thêm tên nhiều soạn giả các pho kinh đã được liệt vào Tam tạng Tân Tiến, dưới trào vua Kanishka. Từ đó về sau vì Tân Tiến không có đoàn thể Tăng già và vì Chánh pháp thất lạc, không ai đủ tư cách và khả năng đứng ra chỉnh đốn Tam tạng, để mặc tình tăng đồ và tín đồ hậu lai trì tụng kinh sách theo sở thích của mình, hoặc thực hành những tôn chỉ dễ thực hành.
Tới đây tưởng cũng vừa đủ cho hàng thức giả nhận định tánh cách của giáo lý Bảo Thủ và Tân Tiến; Tam tạng Pāḷī là kho Pháp bảo, gồm cả lời di huấn của Phật Tổ Gotama, Tam tạng Sanskrit là kho Luận thuyết của các vị giáo tổ. Phật Tổ Gotama là Bậc Chánh đẳng Chánh giác, các ông giáo tổ là những triết học gia, nhờ tài biện luận xuất chúng nên được phong tặng là Bồ tát Tổ sư. Nếu hiểu theo định nghĩa Tân Tiến của hai chữ Bồ tát, thì các Ngài chưa phải là bực tu chứng. Nếu tu chứng thì chẳng bao giờ các ngài ly khai với Phật giáo Nguyên Thủy, để đứng theo hàng ngũ của nhóm Vajjiputta và bài bác giáo pháp của Phật Tổ Gotama, như các ông Harivarman (Ha-lỹ-bạt-ma), Nagarjuna (Long Thọ) đã viết sách phê bình chỉ trích Phật ngôn đáo để, ông Bodhi Dharma (Bồ-Đề Đạt-Ma) đã thản nhiên thốt rằng giáo Pháp của Phật Gotama là một thứ giáo pháp chai sạn như đá, cần chi phải noi theo Thánh giáo cổ truyền 1.
Chẳng may chúng ta hấp thụ Phật giáo Trung Hoa, bị nung đúc theo kinh sách của hạng người quá ư ngã mạn, nên vô tình chúng ta hùa theo tác giả khinh thường giáo lý Bảo Thủ, là giáo lý của vị Giáo chủ mà chúng ta hết lòng sùng kính tôn thờ, thật là trớ trêu.
(1) Xem giáo lý Tân Tiến trong quyển 2.
Nhờ phong tục giải phóng nhiều dân tộc Á châu và Phật tử toàn cầu được gặp nhau trong những Hội nghị Phật giáo, mà những người lầm lạc đã bắt đầu tỉnh ngộ. Phật tử Ấn Độ và Nam Dương đã can đảm đổi chiều xu hướng, nhờ nhà cầm quyền khuyến khích ủng hộ. Chỉ người Tàu, Nhựt và Việt Nam dường như còn e lệ rụt rè, vì chưa cởi bỏ được tánh tự tôn tự đại kiêu căng và còn tiếc địa vị, tập quán. Nhưng chẳng còn bao lâu toàn thể Phật tử sẽ đoàn kết dưới ánh từ quang của Phật Tổ Gotama, một nhà cách mạng duy nhứt về tinh thần đạo đức, để chế ngự làn sóng văn minh vật chất. Sự mau chậm chỉ tùy thuộc hành động sáng suốt của các nhà lãnh đạo, các bực trí thức, biết nhòm ngó để đánh giá cái tinh thần nhất trí của các dân tộc láng giềng trong khối Phật giáo Bảo thủ.
Trích: Chọn Đường Tu Phật (Trùng Quang Cư Sĩ)