NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN II
QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
QUYỂN II: QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)
Quyển II: Quy-Y Tam-Bảo (Tisaraṇa) gồm có 2 chương là chương III và chương IV.
CHƯƠNG III: ÂN-ĐỨC TAM-BẢO (RATANATTAYAGUṆA)
- Ân-đức Phật-bảo (Buddhaguṇa) có 9 ân-đức-Phật.
- Ân-đức Pháp-bảo (Dhammaguṇa) có 6 ân-đức-Pháp.
- Ân-đức Tăng-bảo (Saṃghaguṇa) có 9 ân-đức-Tăng.
9 Ân-đức-Phật, 6 ân-đức-Pháp, 9 ân-đức-Tăng là đối- tượng dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, mà đức-tin là pháp dẫn đầu mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng nhất.
Cho nên, các hàng thanh-văn cần phải học hỏi, hiểu biết rõ đầy đủ 9 ân-đức-Phật, 6 ân-đức-Pháp, 9 ân-đức- Tăng, bởi vì ân-đức Tam-bảo là đối-tượng dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.
Ân-đức Tam-bảo có tầm quan trọng trong Phật-giáo.
* Ân-đức Tam-bảo là đề-mục của thiền-định
Trong 40 đề-mục thiền-định, có 10 đề-mục niệm-niệm (ānussati) có 3 đề-mục đầu là:
- Đề-mục niệm-niệm ân-đức-Phật đó là niệm-niệm 9 ân-đức-Phật.
- Đề-mục niệm-niệm ân-đức-Pháp đó là niệm-niệm 6 ân-đức-Pháp.
- Đề-mục niệm-niệm ân-Đức-Tăng đó là niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng.
Như vậy:
- 9 ân-đức-Phật là đối-tượng-thiền-định của đề-mục niệm-niệm 9 Ân-đức-Phật.
- 6 ân-đức-Pháp là đối-tượng-thiền-định của đề-mục niệm-niệm 6 ân-đức-Pháp.
- 9 ân-đức-Tăng là đối-tượng-thiền-định của đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng.
3 đề-mục niệm-niệm ân-đức Tam-bảo: niệm-niệm Ân- đức Phật-bảo, niệm-niệm ân-đức Pháp-bảo, niệm-niệm ân-đức Tăng-bảo này chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, không có ngoài Phật-giáo. Còn lại các đề-mục thiền- định khác, có trong Phật-giáo và ngoài Phật-giáo.
* Ân-đức Tam-bảo là đối-tượng của phép quy-y Tam-bảo
Phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới (lokiyasaraṇa- gamana) được thành tựu là do nhờ đối-tượng ân-đức Tam-bảo
* Khi thọ phép quy-y Phật-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng là 9 Ân-đức-Phật.
* Khi thọ phép quy-y Pháp-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng là 6 ân-đức-Pháp.
* Khi thọ phép quy-y Tăng-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng là 9 ân-đức-Tăng.
Như vậy, đối với hạng phàm-nhân, ân-đức Tam-bảo thật là tối ư quan trọng, bởi vì ân-đức Tam-bảo là đối- tượng chính hỗ trợ cho phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới được thành tựu.
* Nếu là người nam phàm-nhân tại gia, thì người ấy trở thành cận-sự-nam (upāsaka) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
* Nếu là người nữ phàm-nhân tại gia, thì người ấy trở thành cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.
* Nếu là giới-tử xuất gia, thì giới-tử ấy trở thành vị sa-di (sāmaṇera) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Do đó, chương III Ân-đức Tam-bảo là đối-tượng của chương IV Quy-y Tam-bảo.
CHƯƠNG IV: QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)
- Quy-y Phật-bảo (Buddhasaraṇa).
- Quy-y Pháp-bảo (Dhammasaraṇa).
- Quy-y Tăng-bảo (Saṃghasaraṇa).
Quy-y Phật-bảo, quy-y Pháp-bảo, quy-y Tăng-bảo là một phép gọi là phép quy-y Tam-bảo, để trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama.
Phép quy-y Tam-bảo có 2 phép:
1- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).
2- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (Lokiyasaraṇagamana).
Phép quy-y Tam-bảo theo pháp-siêu-tam-giới như thế nào?
Một người đến hầu Đức-Phật, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo. Ngay khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, đồng thời bậc Thánh-nhân ấy đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana).
Tuy đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp- siêu-tam-giới ở trong tâm rồi, nhưng bậc Thánh-nhân tại gia ấy vẫn còn phải thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới, trước sự hiện diện của Đức-Phật, hoặc bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật; kính xin Ngài (quý Ngài) chứng minh và công nhận bậc Thánh-nhân tại gia ấy là người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự- nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Khi ấy, bậc Thánh-nhân tại gia ấy mới được chính thức gọi là người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận- sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới như thế nào?
Những hạng phàm-nhân tại gia là bậc thiện-trí có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt học hỏi hiểu rõ 9 ân-đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức- Tăng, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng; có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) (hoặc người cận-sự-nữ) (upāsikā) trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama.
Người ấy đến hầu Đức-Phật, hoặc bậc thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật, thành kính xin làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
* Khi thọ phép quy-y Phật-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức-Phật.
* Khi thọ phép quy-y Pháp-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-Đức-Pháp.
* Khi thọ phép quy-y Tăng-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-Đức-Tăng.
Hạng phàm-nhân ấy thọ phép quy-y Tam-bảo với đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo, đồng thời diệt bằng cách chế ngự được phiền-não. Ngay khi ấy, hạng phàm-nhân ấy thành tựu phép quy-y Tam- bảo theo pháp-tam-giới (lokiyasaranagamana), trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Như vậy, phép quy-y Tam-bảo này không chỉ đối với các hàng phàm-nhân tại gia mà còn đối với các bậc Thánh-nhân tại gia nữa.
Các bậc Thánh-nhân tại gia được thành tựu 2 phép quy-y Tam-bảo: phép quy-y Tam-bảo theo pháp-siêu- tam-giới và phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới.
Còn các hạng phàm-nhân tại gia chỉ thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới mà thôi, chưa thành tựu được phép quy-y Tam-bảo theo pháp-siêu-tam-giới.
Nếu khi nào hạng phàm-nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-nhân thì khi ấy vị Thánh-nhân ấy mới thành tựu được phép quy-y Tam-bảo theo pháp-siêu-tam-giới.
* Đối với các hạng phàm-nhân tại gia, nếu muốn thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới, để trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận- sự-nữ (upāsikā) thật sự trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, trước tiên, người ấy cần phải có đức-tin nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, học hỏi, hiểu rõ 9 ân- đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng; bởi vì, những ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng chính của đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ trong phép quy-y Tam-bảo.
* Khi thọ phép quy-y Phật-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức-Phật.
* Khi thọ phép quy-y Pháp-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-Đức-Pháp.
* Khi thọ phép quy-y Tăng-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-Đức-Tăng.
Khi đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có ân-đức Tam-bảo làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo, trước sự hiện diện của Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn hoặc bậc phàm thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, người ấy kính xin Ngài (hoặc quý Ngài) chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự- nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ lúc đó cho đến trọn đời, trọn kiếp.
* Trong đời có số người quan niệm rằng: “Trong gia đình có thờ tượng Đức-Phật, ta là người có đức-tin nơi Tam-bảo, hằng ngày thường lễ bái cúng dường Tam- bảo, đến chùa làm mọi phước-thiện như bố-thí, cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, v.v...
Như vậy, đương nhiên ta là người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong Phật- giáo rồi!”
Nhưng thật ra, dù những người ấy đã tạo những phước-thiện như vậy, vẫn chưa đủ tiêu chuẩn để chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Những người ấy chỉ có thể gọi là người có đại- thiện-tâm tín ngưỡng trong Phật-giáo, hoặc là người có đức-tin nơi Tam-bảo mà thôi.
Để chính thức trở thành một người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) thật sự trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, những hạng phàm- nhân tại gia ấy cần phải thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp-tam-giới, nhờ có sự hiện diện của bậc thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật, kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Khi ấy, người ấy mới chính thức được trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận- sự-nữ (upāsikā), là một trong tứ chúng đệ-tử của Đức- Phật Gotama.
Trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama có tứ chúng đệ-tử là tỳ-khưu (bhikkhu), tỳ-khưu-ni (bhikkhuni), cận- sự-nam (upāsaka), cận-sự-nữ (upāsikā).
Khi một người đã trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) là có một địa vị cao quý trong Phật-giáo. Cho nên, mỗi người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo rồi, trở thành một trong tứ chúng đệ-tử trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người ấy được gần gũi thân cận nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, có quyền thừa hưởng Pháp-bảo cao-thượng của Đức-Phật, có bổn phận hộ trì Tam-bảo, giữ gìn duy trì Pháp-bảo cao thượng cho được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng đó là 4 Thánh-đạo- tâm có quả là 4 Thánh-quả-tâm và Niết-bàn.
Quyển sách “Quy-Y Tam-Bảo” này, bần sư đã dày công sưu tầm, gom nhặt mọi phép quy-y Tam-bảo, bắt đầu từ phép quy-y Nhị-Bảo đầu tiên của hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika, tại cội cây Rājayatana gần cội Đại-Bồ-đề, sau khi Đức-Phật Gotama đã an hưởng pháp vị giải thoát suốt 7 tuần lễ tại 7 nơi gồm 49 ngày, xung quanh cội Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama.
Tiếp theo sau là phép quy-y Tam-bảo đầu tiên của thân phụ và thân mẫu của Ngài Trưởng-lão Yasa, và các phép quy-y Tam-bảo khác nhau từ thời xưa cho đến phép quy-y Tam-bảo phổ thông thời nay, hiện đang lưu truyền trong các nước Phật-giáo Theravāda như: Nước Srilankā (Tích-lan), nước Myanmar (Miến-Điện), nước Thái-Lan, nước Campuchia, nước Lào, Phật-giáo Nguyên-thủy tại Việt Nam, v.v...
Trong quyển sách “Quy-Y Tam-Bảo” này, bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, gom nhặt những nguồn tài liệu có liên quan đến quy-y Tam-bảo, từ Tam- Tạng Pāḷi và các Chú-giải Pāḷi chỉ được bấy nhiêu thôi!
Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về phép quy-y Tam-bảo, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.
Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện-trí có tâm từ chỉ giáo, góp ý chân tình.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an-lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện-trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.
Quyển sách “Quy-Y Tam-Bảo” tái bản lần thứ ba này có sửa và bổ sung được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp đỡ như Dhammavara Sāmaṇera xem bản thảo Dhammanandā upāsikā đã tận tâm xem kỹ lại bản thảo, dàn trang, làm thành quyển sách và đã được Nhà xuất bản Tôn-giáo cho phép ấn hành.
Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.
Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (tỳ- khưu Hộ-Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Hộ-Tông, Vaṃsa- rakkhitamahāthera là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Thiện-Luật, Ngài Đại-Trưởng- Lão Bửu-Chơn, Ngài Đại-Trưởng-Lão Giới-Nghiêm, Ngài Trưởng-lão Hộ-Giác (chùa Từ Quang), Ngài Trưởng lão Hộ-Nhẫn (chùa Thiền Lâm, Huế) cùng chư Trưởng-Lão, chư Đại-đức khác đã dày công đem Phật- giáo Nguyên-thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng phần phước- thiện thanh cao này đến chư Đại-Trưởng-Lão ở nước Thái-Lan, nước Myanmar (Miến-Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp-học và pháp-hành.
Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả bà con thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện-tại cho đến vô lượng kiếp trong quá-khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này để thoát khỏi cảnh khổ, được an-lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti- mittānañ ceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phần phước- thiện pháp-thí thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng-sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư- thiên trong các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới, ... Xin tất cả quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi cảnh khổ, hưởng được mọi sự an-lạc lâu dài trong khắp mọi nơi.
Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền- não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não trầm-luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tử sinh luân-hồi, thì do năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này ngăn cản mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh; và cũng do năng lực phước- thiện thanh cao này chỉ hỗ trợ thiện-nghiệp cho quả tái- sinh trong cõi thiện-giới: cõi người, các cõi trời dục- giới... mà thôi.
Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con đều là người có chánh-kiến, có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh- pháp của bậc thiện-trí, có đức-tin trong sạch nơi bậc thiện-trí, cố gắng tinh-tấn thực-hành theo lời giáo-huấn của bậc thiện-trí, không ngừng tạo mọi pháp-hạnh ba- la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, mong diệt-đoạn- tuyệt mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A- ra-hán.
Trong kiếp tử sinh luân-hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh đại-thiện- tâm hỷ lạc, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, Đức- Pháp, Đức-Tăng, quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài, lắng nghe chánh-pháp, cố gắng tinh-tấn thực- hành theo chánh-pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Nay, chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo: quy-y nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nơi Đức- Pháp-bảo, quy-y nơi Đức-Tăng-bảo và thành tâm hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Do nhờ năng lực phước-thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có duyên lành, tạo được nhân tốt sâu sắc trong Phật-giáo.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này theo hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con trong mỗi kiếp, dù khi được thành tựu quả-báu ở cõi người (manussasampatti) hưởng được mọi sự an-lạc đầy đủ trong cõi người như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc dù khi được thành tựu quả-báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được mọi an-lạc đầy đủ trong cõi trời như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời.
Thật ra, mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con chỉ có cầu mong sớm thành tựu quả-báu chứng ngộ Niết-bàn (Nibbānasampatti) mà thôi, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ, Khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
PL. 2563 / DL. 2019 Rừng Núi Viên Không xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.