NIRAYABHŪMI: CÕI ĐỊA-NGỤC
Nirayabhūmi: cõi địa-ngục là cõi hoàn toàn không có sự an-lạc, chỉ có khổ mà thôi, chúng- sinh trong cõi địa-ngục thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh luôn luôn bị hành hạ suốt ngày đêm, chết rồi hoá-sinh trở lại, phải chịu bao nỗi thống khổ cùng cực, chẳng bao giờ được ngơi nghỉ.
Ác-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau hoá- sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục?
Người ác nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, phạm điều-giới, tạo ác-nghiệp phạm giới.
Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả khổ của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Nirayabhūmi cõi địa-ngục có bao nhiêu loại, mỗi loại có bao nhiêu cõi?
Niraya với naraka đồng nghĩa với nhau. Narakabhūmi: cõi địa-ngục có 2 loại:
- Mahānaraka: đại-địa-ngục có 8 cõi lớn.
- Ussadanaraka: tiểu-địa-ngục (cūḷanaraka) bao quanh 8 đại-địa-ngục, mỗi đại-địa-ngục có 4 cửa, mỗi cửa có 4 tiểu-địa-ngục gồm có 8 x 4 x 4=128 ussadanaraka (cūḷanaraka):tiểu-địa-ngục.
I- MAHĀNARAKA: ĐẠI-ĐỊA-NGỤC CÓ 8 CÕI
1- Sañjīvanaraka là đại-địa-ngục mà chúng- sinh địa-ngục bị giết chết, rồi hoá-sinh trở lại trong đại-địa-ngục ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục dùng khí giới giết chúng-sinh địa-ngục ấy chết, rồi hoá-sinh ngay tức khắc trở lại, và cứ tiếp diễn như vậy, gọi đại-địa-ngục này là sañjīvanaraka.
2- Kāḷasuttanaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị đánh đập bằng sợi dây đen, rồi bị chặt ngay lằn dây ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục đánh đập chúng-sinh địa-ngục bằng sợi dây màu đen, rồi dùng đao to chặt chúng-sinh địa-ngục ấy, nên gọi đại-địa-ngục này là kāḷasuttanaraka.
3- Saṅghātanaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị hòn núi bằng sắt cháy đỏ chà xát chúng-sinh địa-ngục ấy thành bột.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị hòn núi to cao bằng sắt cháy đỏ sáng rực chà xát chúng-sinh địa-ngục thành bột, nên gọi đại-địa- ngục này là saṅghātanaraka.
4- Roruvanaraka (dhūmaroruva) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là roruva- naraka. Hoặc chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là dhūmaroruva.
5- Mahāroruvanaraka (jālāroruva) là đại- địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị lửa thiêu đốt 9 môn nóng rực không chịu nổi khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này chúng-sinh khóc than lớn tiếng hơn roruvanaraka, nên gọi đại-địa-ngục này là mahāroruvanaraka. Hoặc chúng-sinh địa- ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực không sao chịu nổi, khóc than lớn tiếng nhiều, nên gọi đại-địa-ngục này là jālāroruva.
6- Tāpananaraka (cūḷatāpana) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị cắm chặt một nơi thiêu đốt nóng rực.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị cắm chặt bởi cây giáo sắt ở một chỗ, lửa thiêu đốt nóng rực, nên gọi đại-địa-ngục này là tāpananaraka.
7- Mahātāpananaraka (patāpana) là đại-địa- ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực kinh khủng, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng thêm nữa.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh độc ác bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực kinh khủng, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng dữ dội, nên gọi đại-địa-ngục này là mahātāpananaraka.
8- Avīcinaraka là đại-địa-ngục mà chúng- sinh địa-ngục độc ác bị giam giữ 4 phía sắt nóng, bị thiêu đốt suốt thời gian không ngừng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh địa-ngục độc ác bị ngọn lửa địa-ngục thiêu đốt suốt thời gian không ngừng, nên gọi đại-địa-ngục này là avīcinaraka.
Đại-địa-ngục (mahānaraka)
Đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi sắp đặt chiều sâu của mỗi cõi đại-địa-ngục theo tuần tự, có khoảng cách nhau 15 ngàn do-tuần.
Mỗi cõi đại-địa-ngục có 4 hướng, mỗi hướng có một cửa, bên ngoài mỗi cửa có 4 địa-ngục ussadanaraka (cūḷanaraka: cõi tiểu-địa-ngục) nằm quanh 4 cửa.
Như vậy, đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi, mỗi cõi có 4 cửa gồm có 32 cửa địa-ngục mà mỗi cửa có 1 chúa địa-ngục, gồm có 32 chúa địa-ngục.
II. USSADANARAKA HOẶC CŪḶANARAKA
Ussadanaraka (cūḷanaraka: tiểu-địa-ngục) nằm xung quanh 8 cõi đại-địa-ngục tại 4 hướng, mỗi hướng có 4 cõi tiểu-địa-ngục, mỗi cõi đại- địa-ngục có 16 cõi tiểu-địa-ngục.
Như vậy, 8 cõi đại-địa-ngục gồm có 128 cõi tiểu-địa-ngục.
Ussadanaraka: cõi tiểu-địa-ngục có 4 cõi:
Bốn cõi ussadanaraka này nằm xung quanh 4 cửa của 8 cõi đại-địa-ngục có tên gọi giống nhau, nhưng chỉ có khác nhau về tội nặng, tội nhẹ mà thôi, theo thứ tự như sau:
- Gūthanaraka: cõi địa-ngục hầm phẩn thối.
- Kukkulanaraka: cõi địa-ngục hầm tro nóng.
- Simpalivananaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai nhọn.
- Vettaraṇīnaraka: cõi địa-ngục sông nước mặn đầy gai nhọn.
GŪTHANARAKA: CÕI ĐỊA-NGỤC HẦM PHẨN THỐI
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi đại-địa- ngục avīci rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục gūthanaraka hầm phẩn thối, chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
* Một thuở nọ, Đức-vua Bồ-tát Nimi (5) truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:
- Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối toả ra, chúng-sinh địa-ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy.
Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác- nghiệp như thế nào?
Vị thiên-nam Mātali biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh ấy, nên tâu rằng:
- Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy khi còn trên cõi người là những người phản bạn, hại bạn, thường làm khổ những người khác, những chúng-sinh khác, không có tâm từ, tâm bi.
Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm những chúng-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục này, phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy. Tâu Đại-vương.
KUKKULANARAKA: CÕI ĐỊA-NGỤC HẦM TRO NÓNG
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục gūthanaraka hầm phẩn thối rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục kukkulanaraka hầm tro nóng, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người nào buôn bán lừa dối, lấy hàng hoá xấu trộn lẫn vào hàng hoá tốt, rồi bán giá cao theo món hàng hoá tốt, phạm điều-giới trộm-cắp, tạo ác-nghiệp trộm-cắp.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa- ngục kukkulanaraka: hầm tro nóng, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy thiêu đốt làm cho đói khát không sao chịu nổi, chúng-sinh địa-ngục chạy đến sông uống nước thì uống phải tro nóng lại càng khổ hơn nữa, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy như vậy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
SIMBALIVANANARAKA: CÕI ĐỊA-NGỤC RỪNG CÂY GAI BÉN NHỌN
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục kukkulanaraka hầm tro nóng rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục simpalivananaraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người đàn bà đã có chồng rồi, đi ngoại tình với người đàn ông khác, hoặc người đàn ông đã có vợ rồi, đi ngoại tình với người đàn bà khác, phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác- nghiệp tà-dâm.
Sau khi người đàn bà hoặc người đàn ông ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa-ngục simpali- vananaraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
VETTARAṆĪNARAKA: CÕI ĐỊA-NGỤC SÔNG NƯỚC MẶN ĐẦY GAI NHỌN
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi tiểu-địa- ngục simpalivananaraka rừng cây gai nhọn rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng-tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục vettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người phụ nữ nào có tác-ý phá thai trong bụng của mình phạm điều-giới sát-sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh.
Người phụ nữ ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi tiểu-địa-ngục vettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
YAMALOKANARAKA
Tuy chúng-sinh đã chịu quả khổ của ác- nghiệp trong cõi đại-địa-ngục (mahānaraka) và cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm bên ngoài cách xa cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka.
Cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm quanh 4 hướng của cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka, mỗi hướng có 10 cõi địa-ngục nhỏ, gồm có 40 cõi địa-ngục yamalokanaraka.
Như vậy, cõi địa-ngục yamalokanaraka xung quanh 8 đại-địa-ngục, gồm có 320 cõi địa-ngục.
Yamalokanaraka có 10 cõi địa-ngục:
1- Lohakumbhīnaraka: cõi địa-ngục nồi đồng rất sâu và to lớn sôi sùng sục không ngừng.
2- Simbalinaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai bén nhọn có chất độc dành cho đàn bà hoặc đàn ông phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác-nghiệp tà-dâm.
3- Asinakhanaraka: cõi địa-ngục mà chúng- sinh sử dụng móng tay, móng chân bén nhọn của mình trở thành con dao bén xẻo da thịt trong thân của mình làm vật thực để ăn.
4- Tāmabodakanaraka: cõi địa-ngục nồi sắt nấu đồng sôi sùng sục không ngừng.
5- Ayoguḷanaraka: cõi địa-ngục tràn đầy những cục sắt cháy đỏ rực làm vật thực cho chúng-sinh trong cõi địa-ngục này.
6- Pissakapabbatanaraka: cõi địa-ngục có 4 hòn núi lớn ở 4 hướng di chuyển được, lăn đến chà xát các chúng-sinh địa-ngục chết, rồi hoá- sinh trở lại chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
7- Dhusanaraka: cõi địa-ngục mà chúng-sinh sống trong cõi này chịu đói khát khủng khiếp.
8- Sītalositanaraka: cõi địa-ngục có độ lạnh kinh khủng hơn hết, chúng-sinh trong cõi này chết vì lạnh, rồi hoá-sinh trở lại. Chúa địa-ngục bắt chúng-sinh ấy ném xuống cõi địa-ngục này, cứ như vậy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
9- Sunakhanaraka: cõi địa-ngục có nhiều loài chó địa-ngục cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa- ngục chết, rồi hoá-sinh trở lại như vậy.
10- Yantapāsāṇanaraka: cõi địa-ngục có hòn núi luôn luôn chạm vào nhau, chúa địa-ngục bắt chúng-sinh địa-ngục ném vào chỗ giữa 2 hòn núi chạm nhau, chúng-sinh ấy chết, rồi hoá-sinh trở lại, cứ như vậy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Lokantarikanaraka là cõi đại-địa-ngục đặc biệt nằm khoảng trống ở giữa là nơi giáp ranh của 3 cakkavāḷa (cõi vũ trụ thế-giới).
Lokantarikanaraka: cõi địa-ngục này hoàn toàn tối đen như mực, chúng-sinh trong cõi địa- ngục này có thân hình to lớn, có móng tay, móng chân cứng và dài để bám luôn luôn vào thành ranh giới vũ trụ thế-giới.
Như vậy, các cõi địa-ngục gồm có như sau:
- Mahānaraka (cõi đại-địa-ngục) có 8 cõi
- Ussadanaraka (cõi tiểu-địa-ngục) có 128 cõi
- Yamanaraka (cõi địa-ngục yama) có 320 cõi
- Lokantarika naraka (cõi địa-ngục lokantarika) có 1 cõi.
Toàn cõi địa-ngục gồm có 457 cõi.
Trích Cõi Giới Chúng sinh (Bhūmi), Quyển Vi Diệu Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống, Soạn giả Tỳ Khưu Hộ Pháp
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.