• Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi đang thực-hành theo pháp-hành thiền-tuệ mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là phàm-nhân.
Vì vậy, chư tỳ-khưu-Tăng phàm-nhân ấy gọi là chư phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha). Chư-Tăng có 2 hạng:
1- Paramatthasaṃgha:  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/the-nao-goi-la-chu-pham-tang/
  • Bậc Thánh Nữ Thanh Văn Giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh nữ Thanh-văn-giác có ba thứ bậc:
1- Bậc Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvikā).
2- Bậc Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvikā).
3- Bậc Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvikā).
Để  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/cac-bac-thanh-nu-thanh-van-giac-trong-phat-giao/
  • Kinh đại bát Niết Bàn - Mahāparinibbāna sutta
Tụng phẩm I
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha, trên núi Gijjhakùta. Lúc bấy giờ, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha, muốn chinh phục dân Vajjì. Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong".
2.  #kinhtrườngbộ #phậtpháp #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahaparinibbana-mahaparinibbana-sutta/
  • 1. Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trụ tại bộ lạc Kuru, ở ấp Kuru tên là Kammassadhamma. Tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahanidana-mahanidana-sutta/
  • Bậc Thánh Thanh văn giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh thanh văn giác có ba thứ bậc:  Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka).
 Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka).
 Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvaka).  Vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác như thế nào?
Để  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/bac-thanh-thanh-van-giac-trong-phat-giao/
  • Tụng phẩm I
1. Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại nước Sàvatthi rừng Jeta, vườn ông Anàthapindika, trong am thất cây Kareri. Lúc bấy giờ, số đông các Tỷ-kheo đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp lại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại thuộc về tiền thân được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây là tiền thân".
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahapadana-mahapadana-sutta/
  • 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang du hành ở Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đi đến một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Manasàkata. Tại đây, ở Manasakata, Thế Tôn trú tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata.
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-tevijja-tevijja-sutta/
  • 1. Như vậy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn đang đi du hành tại nước Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, và đến tại Sàlavatikà (một làng có dãy cây tala bao bọc). Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca ở tại Sàlavatikà, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, ngũ cốc phong phú, vốn là đất đai của vua, sau vua Pasenadi cấp cho để hưởng một phần lợi tức.
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-lohicca-lohicca-sutta/
  • Thiền Viện
  • Các Bậc Trưởng Lão
  • Tin Tức
  • Lịch Sử Phật Giáo
  • Nội Quy Website
  • Thông Tin Admins
Sunday, January 24, 2021
  • Login
  • Register
  • Phật Pháp
    • Tam Tạng PaliPháp Bảo
      • Tạng Kinh
        • Kinh Trường Bộ
        • Kinh Trung Bộ
        • Kinh Tương Ưng Bộ
        • Kinh Tăng Chi Bộ
        • Kinh Tiểu Bộ
      • Tạng Luật
        • Đại Phẩm 1
        • Đại Phẩm 2
        • Tập Yếu 1
        • Tập Yếu 2
        • Tiểu Phẩm 1
        • Tiểu Phẩm 2
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu 1
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu 2
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni
        • Giới Bổn Patimokkha Tỳ Khưu Ni
      • Tạng Vi Diệu Pháp
        • Bộ Ngữ Tông
        • Bộ Nguyên Chất Ngữ
        • Bộ Nhân Chế Định
        • Bộ Phân Tích
        • Bộ Pháp Tụ
        • Bộ Song Đối
        • Bộ Vị Trí 1
        • Bộ Vị Trí 2
        • Bộ Vị Trí 3
        • Bộ Vị Trí 4
        • Bộ Vị Trí 5
        • Bộ Vị Trí 6
    • Nền Tảng Phật Giáo
      • Tam Bảo
      • Quy Y Tam Bảo
      • Pháp Hành Giới
      • Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
      • Phước Thiện
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 1
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 2
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 3
      • Pháp Hành Thiền Định
      • Pháp Hành Thiền Tuệ
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Hộ Tông
      • Cư Sĩ Vấn Đáp
      • Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã
      • Vi Diệu Pháp Vấn Đáp
      • Luật Xuất Gia (Q1)
    • Soan Giả Tỳ Khưu Giới Nghiêm
      • Giải Về Bạn
      • Hạnh Phúc Kinh
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Bửu Chơn
      • Tà Kiến Và Chánh Kiến
      • Nhân Quả Liên Quan
    • Dịch Giả Thiền Sư Khánh Hỷ
      • Phật Pháp Căn Bản
    • Soạn Giả Cư Sĩ Trùng Quang
      • Chọn Đường Tu Phật
  • Sách Thiền
    • Chân Đế Và Tục Đế
    • Đại Niệm Xứ
    • Ngay Trong Kiếp Sống Này
  • Kinh PhậtTam Tạng Kinh Pali
  • Sách Online
  • Thiền VipassanaThiền Tứ Niệm Xứ
  • Nghe Pháp
  • Thiền ViệnNên Thử
  • Vấn – Đáp
  • Phật Pháp
    • Tam Tạng PaliPháp Bảo
      • Tạng Kinh
        • Kinh Trường Bộ
        • Kinh Trung Bộ
        • Kinh Tương Ưng Bộ
        • Kinh Tăng Chi Bộ
        • Kinh Tiểu Bộ
      • Tạng Luật
        • Đại Phẩm 1
        • Đại Phẩm 2
        • Tập Yếu 1
        • Tập Yếu 2
        • Tiểu Phẩm 1
        • Tiểu Phẩm 2
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu 1
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu 2
        • Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni
        • Giới Bổn Patimokkha Tỳ Khưu Ni
      • Tạng Vi Diệu Pháp
        • Bộ Ngữ Tông
        • Bộ Nguyên Chất Ngữ
        • Bộ Nhân Chế Định
        • Bộ Phân Tích
        • Bộ Pháp Tụ
        • Bộ Song Đối
        • Bộ Vị Trí 1
        • Bộ Vị Trí 2
        • Bộ Vị Trí 3
        • Bộ Vị Trí 4
        • Bộ Vị Trí 5
        • Bộ Vị Trí 6
    • Nền Tảng Phật Giáo
      • Tam Bảo
      • Quy Y Tam Bảo
      • Pháp Hành Giới
      • Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
      • Phước Thiện
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 1
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 2
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 3
      • Pháp Hành Thiền Định
      • Pháp Hành Thiền Tuệ
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Hộ Tông
      • Cư Sĩ Vấn Đáp
      • Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã
      • Vi Diệu Pháp Vấn Đáp
      • Luật Xuất Gia (Q1)
    • Soan Giả Tỳ Khưu Giới Nghiêm
      • Giải Về Bạn
      • Hạnh Phúc Kinh
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Bửu Chơn
      • Tà Kiến Và Chánh Kiến
      • Nhân Quả Liên Quan
    • Dịch Giả Thiền Sư Khánh Hỷ
      • Phật Pháp Căn Bản
    • Soạn Giả Cư Sĩ Trùng Quang
      • Chọn Đường Tu Phật
  • Sách Thiền
    • Chân Đế Và Tục Đế
    • Đại Niệm Xứ
    • Ngay Trong Kiếp Sống Này
  • Kinh PhậtTam Tạng Kinh Pali
  • Sách Online
  • Thiền VipassanaThiền Tứ Niệm Xứ
  • Nghe Pháp
  • Thiền ViệnNên Thử
  • Vấn – Đáp
No Result
View All Result
Theravāda
No Result
View All Result
Trang Chủ Phật Pháp Tam Tạng Pali Tạng Kinh Kinh Trường Bộ

Kinh Tevijja (Tevijja sutta)

Trường Bộ Kinh Digha Nikaya - Tỳ Khưu Minh Châu Dịch

Ariyā Dhamma Bởi Ariyā Dhamma
02/01/2021
Trong Kinh Trường Bộ, Tam Tạng Pali, Tạng Kinh
Reading Time:2Phút Đọc
0
pham thien
Chia Sẻ Lên FacebookChia Sẻ Lên TwitterGởi Mail

1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang du hành ở Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đi đến một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Manasàkata. Tại đây, ở Manasakata, Thế Tôn trú tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata.

2. Lúc bấy giờ, nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào ở tại Manasàkata như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tàrukkha, Bà-la-môn Pokkharasàti, Bà-la-môn Jànussoni, Bà-la-môn Todeyya và nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào khác.

3. Lúc bấy giờ, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa Vàsettha và Bhàradvàja trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng, vừa đi vừa suy nghĩ tư duy.

4. Thanh niên Bà-la-môn Vàsettha nói:

– Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Ðó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy;

5. Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói:

– Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy.

6. Thanh niên Bà-la-môn Vàsettha không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja và thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja, cũng không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Vàsettha.

7. Khi ấy thanh niên Bà-la-môn Vàsettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja:

– Này Bhàradvàja, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay trú ở Manasàkata, tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: “Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Này Bhàradvàja, hãy đến Sa-môn Gotama và hỏi Sa-môn Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.

– Tôn giả, xin vâng!

Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja trả lời với thanh niên Bà-la-môn Vàsettha.

8. Lúc bấy giờ hai thanh niên Bà-la-môn Vàsettha và Bhàradvàja đến Thế Tôn, khi đã đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn và ngồi xuống một bên, khi ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch Thế Tôn:

– Tôn giả Gotama, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa hai chúng tôi trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng vừa đi vừa suy nghĩ, tư duy. Tôi nói như vầy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy”. Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói như vầy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy”. Tôn giả Gotama , đó là sự tranh luận, sự luận chấp, đó là sự bất đồng ý kiến.

9. Này Vàsettha, Ngươi nói như vầy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Ðó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy”. Còn thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói như vầy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng , dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy”. Này Vàsettha, ở nơi đây tranh biện về vấn đề gì, luận chấp về vấn đề gì và bất đồng ý kiến về vấn đề gì?

10. – Tôn giả Gotama, về vấn đề chánh đạo và tà đạo. Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều con đường sai khác như các vị Bà-la-môn Addhàriyà, các vị Bà-la-môn Tittiriyà, và các vị Bà-la-môn Chandokà, các vị Bà-la-môn Chandavà, các vị Bà-la-môn Bràhmacariyà – tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Tôn giả Gotama, như gần làng hay gần thị trấn có nhiều con đường sai khác, nhưng tất cả con đường này đều dẫn đến làng. Cũng vậy, Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều con đường sai khác – như các Bà-la-môn Addhariyà, các vị Bà-la-môn Tittiriyà, các vị Bà-la-môn Chandokà, các vị Bà-la-môn Chandàvà, các vị Bà-la-môn Bràhmacariyà. Tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo.

– Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: “Chúng dẫn đến?”

– Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: “Chúng dẫn đến”.

– Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: “Chúng dẫn đến”.

– Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: “Chúng dẫn đến”.

– Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: “Chúng dẫn đến”.

– Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: “Chúng dẫn dến”.

12. – Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào trong những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà tận mặt đã thấy Phạm thiên?

– Tôn giả Gotama, không có vị nào.

– Thế nào Vàsettha? Có tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên?

– Tôn giả Gotama, không có vị nào.

– Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt nhìn thấy Phạm thiên?

– Tôn giả Gotama, không có vị nào.

13. – Thế nào, này Vàsettha. Những vị tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và ngâm giảng như các vị Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, những vị này có nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy chỗ ở Phạm thiên, chỗ đến Phạm thiên, chỗ đi Phạm thiên?”

– Tôn giả Gotama, không có vị nào.

14. – Này Vàsettha, như vậy Ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên – không có một tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Veda và đã tận mặt thấy Phạm thiên – không có một Bà-la-môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm thiên, trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmita, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”.

Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?

– Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.

15. – Này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”, thật không thể có sự kiện ấy. Này Vàsettha, ví như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Như vậy, này Vàsettha lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, người đầu không thấy, giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy, giống như lời nói mù quáng. Lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng.

16. – Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác – có thể thấy mặt trăng, mặt trời không?, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn?

– Thưa vâng, Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác có thể thấy mặt trăng, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn.

17. – Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà – như phần đông nhiều người khác thấy mặt trăng, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng mặt trời mọc và lặn, những vị này có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với mặt trăng mặt trời không? Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với mặt trăng, mặt trời cho những ai thực hành theo?

– Tôn giả Gotama, không thể được!

18. – Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác, thấy mặt trăng, mặt trời trong khi các vị này cầu khẩn tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn, những vị này không có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với mặt trăng mặt trời: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với mặt trăng, mặt trời cho những ai thực hành theo”. Ngươi cũng nói các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên. Ngươi cũng nói trong những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy – như các vị Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Anigirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?”

– Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy, thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.

– Lành thay, này Vàsettha! Những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Thật không có sự kiện ấy.

19. Này Vàsettha, như có người nói: “Tôi yêu và ái luyến một cô gái đẹp trong nước này”. Có người hỏi: “Này bạn, cô gái đẹp mà Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết là người giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?” Khi được hỏi, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: “Này bạn, cô gái đẹp Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết tên gì, họ gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẩm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, ấp nào, hay thành phố nào?” Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: “Này bạn, như vậy có phải Ông đã yêu và đã ái luyến một người Ông không biết, không thấy?” Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý?

– Vâng phải, Tôn giả Gotama. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia không chánh xác, hợp lý.

20. – Cũng vậy, này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, không thể tận mắt thấy được Phạm thiên. Ngươi cũng nói những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia các thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, cũng trì tụng và giảng dạy như các vị Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú với Phạm thiên nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?

– Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.

– Lành thay, Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”, thật không có sự kiện ấy.

21. Này Vàsettha, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: “Này bạn, Ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy Ông có biết lầu ấy là về hướng Ðông, hay về hướng Tây, hay về hướng Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?”. Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời không biết. Có người hỏi: “Này bạn, như vậy có phải Ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà Ông không biết, không thấy?”. Hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói người kia không chánh xác, hợp lý?

– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy thời lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý.

22. – Cũng vậy, này Vàsettha. Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên. Ngươi cũng nói trong những ẩn sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được bình tán và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy – như các vị Atthaka, Vamaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu, không có một vị nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu?” Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú với Phạm thiên nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?

– Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chính xác hợp lý.

23. – Lành thay, Vàsettha. Những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: “Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Thật không có sự kiện ấy.

24. Này Vàsettha, như sông Aciravati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến do có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người đứng bờ bên này kêu bờ bên kia và nói: “Bờ bên kia, hãy lại đây! Bờ bên kia, hãy lại đây”. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?

– Tôn giả Gotama, không thể vậy.

25. – Cũng vậy, này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, những vị này đã nói: “Chúng tôi cầu khẩn Indra. chúng tôi cầu khẩn Soma, chúng tôi cầu khẩn Vanena, chúng tôi cầu khẩn Isàna, chúng tôi cầu khẩn Pajàpati, chúng tôi cầu khẩn Brahmà (Phạm thiên), chúng tôi cầu khẩn Mahiddhi, chúng tôi cầu khẩn Yama (Dạ-ma). Này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà ấy, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn – vì kêu gọi, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán, sau khi thân hoại mạng chung, những vị ấy sẽ cộng trú với Phạm thiên – Thật không có sự kiện ấy.

26. – Này Vàsettha, như sông Aciravati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến do có sự việc bên bờ bên kia, tiến đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia, và muốn lội qua bờ bên kia. Người này đứng bên bờ này kêu bờ bên kia và nói: “Bờ bên kia hãy lại đây! Bờ bên kia hãy lại đây!” Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?

– Tôn giả Gotama, không thể vậy.

27. – Cũng vậy, này Vàsettha, có năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh. Năm pháp này được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục, ái lạc; những tiếng do tai cảm nhận… những hương do mũi cảm nhận… những vị do lưỡi cảm nhận.. những xúc do thân cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc. Này Vàsettha, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Này Vàsettha, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, đã tận hưởng năm pháp ấy.

28. – Này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, tận hưởng chúng, bị trói buộc bởi sự trói buộc của dục lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên, thật không có sự kiện ấy.

29. – Này Vàsettha, như sông Acivarati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến do có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người này ở bên bờ này trùm đầu và nằm ngủ. Này Vàsettha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Người ấy có thể từ bên này của sông Aciravati đến bờ bên kia không?

– Tôn giả Gotama, không có thể được.

30. – Cũng vậy, này Vàsettha, có năm triền cái được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Dục cái, sân cái, hôn trầm thụy miên cái, trạo hối cái, nghi cái. Này Vàsettha, năm triền cái này được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược. Này Vàsettha, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái này, Này Vàsettha, thật vậy, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ cộng trú với Phạm thiên – Thật không thể có sự kiện ấy.

31. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe những Bà-la-môn niên cao lạp trưởng, tôn sư và đại tôn sư cùng nhau nói chuyện không? Phạm thiên có dục ái hay không dục ái?

– Tôn giả Gotama, không có dục ái.

– Có hận tâm hay không hận tâm?

– Tôn giả Gotama, không có hận tâm.

– Có sân tâm hay không sân tâm?

– Tôn giả Gotama, không có sân tâm.

– Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?

– Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm.

– Có tự tại hay không có tự tại?

– Tôn giả Gotama, có tự tại.

32. – Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà có dục ái hay không dục ái?

– Tôn giả Gotama, có dục ái.

– Có hận tâm hay không hận tâm?

– Tôn giả Gotama, có hận tâm.

– Có sân tâm hay không có sân tâm?

– Tôn giả Gotama, có sân tâm.

– Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?

– Tôn giả Gotama, có nhiễm tâm.

– Có tự tại hay không có tự tại?

– Tôn giả Gotama, không có tự tại.

33. – Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là có tham ái, Phạm thiên không có tham ái. Giữa các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là có tham ái với Phạm thiên không có tham ái, có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?

– Tôn giả Gotama, không thể có được.

34. – Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà có dục ái ấy sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên – Thật không thể có sự kiện ấy.

35. – Này Vàsettha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà có hận tâm, Phạm thiên không có hận tâm… các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là có sân tâm, Phạm thiên không có sân tâm… các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là có nhiễm tâm, Phạm thiên không có nhiễm tâm… các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không có tự tại, Phạm thiên có tự tại.

Giữa các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, không có tự tại với Phạm thiên có tự tại có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?

– Tôn giả Gotama, không thể có được.

36. – Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên – Thật không thể có sự kiện ấy.

Này Vàsettha, ở đời các Bà-la-môn dầu có tinh thông ba tập Vedà, khi các vị này ngồi (với sự tự tín), thật sự đang chìm (trong bùn lầy), và khi đang chìm (trong bùn lầy) phải sống trong thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối với những Bà-la-môn tinh thông Vedà sự tinh thông ấy được gọi là bãi sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy cũng được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh.

37. Khi nghe vậy, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch Thế Tôn:

– Tôn giả Gotama, tôi có nghe nói Sa-môn Gotama biết con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

– Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có người sinh trưởng ở Manasàkata, nhưng chưa bao giờ rời khỏi chỗ này. Có người hỏi con đường đưa đến Manasàkata. Này Vàsettha, đối với người ấy đã sinh trưởng ở Manasàkata, chắc không có gì nghi ngờ hay khó khăn thì phải?

– Tôn giả Gotama, thật không có gì nghi ngờ hay khó khăn. Vì cớ sao? Tôn giả Gotama, người ấy sinh trưởng ở Manasàkata đều biết rõ tất cả con đường đưa đến Manasàkata.

38. – Này Vàsettha, đối với người ấy đã sinh trưởng ở Manasàkata, còn có thể nghi ngờ và có khó khăn hỏi đến con đường đưa đến Manasàkata nhưng đối với Như Lai thì không có nghi ngờ hay khó khăn gì khi hỏi đến Phạm thiên giới hay con đường đưa đến Phạm thiên giới! Này Vàsettha, Ta biết đến Phạm thiên, Phạm thiên giới và con đường đưa đến Phạm thiên giới.

39. Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Vàsettha bạch Thế Tôn:

– Tôn giả Gotama, tôi đã nghe: “Sa-môn Gotama, giảng dạy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên”. Lành thay, nếu Sa-môn Gotama thuyết dạy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên! Mong Tôn giả Gotama tế độ chúng Bà-la-môn!

– Này Vàsettha, vậy hãy lóng nghe và khéo tác ý kỹ? Ta sẽ nói:

40. Này Vàsettha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.

41. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sinh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tin ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: “Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình”. Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

42. Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp, thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.

43. Này Vàsettha, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc?

Ở đây, này Vàsettha, Tỷ-kheo từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh… do lạc thọ, tâm được định tĩnh… chứng và trú thiền thứ nhất, … (như kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 43-75).

76. Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

77. Này Vàsettha, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vàsettha, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, câu hữu với từ. Này Vàsettha, đó là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

78. Lại nữa, này Vàsettha, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ… biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

79. Này Vàsettha, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vàsettha, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, cùng khởi với xả. Này Vàsettha, đó là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.

80. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Tỷ-kheo an trú như vậy là có dục ái hay không dục ái?

– Tôn giả Gotama, không có dục ái.

– Có hận tâm hay không có hận tâm?

– Tôn giả Gotama, không có hận tâm.

– Có sân tâm hay không có sân tâm?

– Tôn giả Gotama, không có sân tâm.

– Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?

– Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm.

– Có tự tại hay không có tự tại?

– Tôn giả Gomata, có tự tại.

81. Này Vàsettha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có dục ái, Phạm thiên không có dục ái. Giữa Tỷ-kheo không có dục ái với Phạm thiên không có dục ái, có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?

– Tôn giả Gotama, có thể có được.

– Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi tâm thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy.

Này Vàsettha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có hận tâm, Phạm thiên không có hận tâm… Tỷ-kheo không có nhiễm tâm, Phạm thiên không có nhiễm tâm. Tỷ-kheo có tự tại, Phạm Thiên có tự tại. Giữa Tỷ-kheo có tự tại với Phạm thiên có tự tại, có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?

– Tôn giả Gotama, có thể có được.

– Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú với Phạm thiên. Sự kiện ấy thật có thể có.

82. Khi nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vàsettha và Bharadvàja bạch Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.

Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

0 0 Bình chọn
Article Rating
Từ Khóa: kinh trường bộtam tạng palitạng kinh
Chia Sẻ1020Tweet638Gởi
Ariyā Dhamma

Ariyā Dhamma

--> Não cá vàng - Goldfish Brain ^^

Bài Viết_Liên Quan

kinh truong bo

Kinh Mahāparinibbāna (Mahāparinibbāna sutta)

17/01/2021
2.5k
truong bo kinh

Kinh Mahānidāna (Mahānidāna Sutta)

10/01/2021
2.5k

Kinh Mahāpadāna (Mahāpadāna sutta)

03/01/2021
2.5k

Kinh Lohicca (Lohicca sutta)

01/01/2021
2.5k

Kinh Kevaddha (Kevaddha sutta)

30/12/2020
2.5k

Kinh Subha (Subha sutta)

20/12/2020
2.5k
Theo dõi
Kết nối với
Tôi cho phép tạo một tài khoản
When you login first time using a Social Login button, we collect your account public profile information shared by Social Login provider, based on your privacy settings. We also get your email address to automatically create an account for you in our website. Once your account is created, you'll be logged-in to this account.
Không đồng ýĐồng ý
Thông báo của
guest
Kết nối với
Tôi cho phép tạo một tài khoản
When you login first time using a Social Login button, we collect your account public profile information shared by Social Login provider, based on your privacy settings. We also get your email address to automatically create an account for you in our website. Once your account is created, you'll be logged-in to this account.
Không đồng ýĐồng ý
guest
0 Bình luận
Inline Feedbacks
View all comments

Hỏi - Đáp Phật Pháp

  • Như thế nào là Chánh Kiến (Samma Diṭṭhi) và Chánh Kiến ấy ra sao ? asked by Ariyā Dhamma
  • Nguyên nhân phát sanh lên kiến thức gồm những nguyên nhân nào? asked by Ariyā Dhamma
  • Nguyên nhân nào mà phát sanh các tầng lớp giai cấp? asked by Ariyā Dhamma
  • Có bao nhiêu tên gọi kiếp trái đất (Kappa)? asked by Ariyā Dhamma
  • Buddha (Đức Phật) có nghĩa là gì? asked by Ariyā Dhamma

Instagram Phật Giáo Nguyên Thuỷ

Theo Dõi

  • Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi đang thực-hành theo pháp-hành thiền-tuệ mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là phàm-nhân.
Vì vậy, chư tỳ-khưu-Tăng phàm-nhân ấy gọi là chư phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha). Chư-Tăng có 2 hạng:
1- Paramatthasaṃgha:  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/the-nao-goi-la-chu-pham-tang/
  • Bậc Thánh Nữ Thanh Văn Giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh nữ Thanh-văn-giác có ba thứ bậc:
1- Bậc Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvikā).
2- Bậc Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvikā).
3- Bậc Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvikā).
Để  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/cac-bac-thanh-nu-thanh-van-giac-trong-phat-giao/
  • Kinh đại bát Niết Bàn - Mahāparinibbāna sutta
Tụng phẩm I
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha, trên núi Gijjhakùta. Lúc bấy giờ, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha, muốn chinh phục dân Vajjì. Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong".
2.  #kinhtrườngbộ #phậtpháp #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahaparinibbana-mahaparinibbana-sutta/
  • 1. Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trụ tại bộ lạc Kuru, ở ấp Kuru tên là Kammassadhamma. Tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahanidana-mahanidana-sutta/
  • Bậc Thánh Thanh văn giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh thanh văn giác có ba thứ bậc:  Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka).
 Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka).
 Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvaka).  Vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác như thế nào?
Để  #nềntảngphậtgiáo #tambảo #tỳkhưuhộpháp  https://phatgiaonguyenthuy.org/bac-thanh-thanh-van-giac-trong-phat-giao/
  • Tụng phẩm I
1. Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại nước Sàvatthi rừng Jeta, vườn ông Anàthapindika, trong am thất cây Kareri. Lúc bấy giờ, số đông các Tỷ-kheo đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp lại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại thuộc về tiền thân được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây là tiền thân".
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-mahapadana-mahapadana-sutta/
  • 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang du hành ở Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đi đến một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Manasàkata. Tại đây, ở Manasakata, Thế Tôn trú tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata.
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-tevijja-tevijja-sutta/
  • 1. Như vậy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn đang đi du hành tại nước Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, và đến tại Sàlavatikà (một làng có dãy cây tala bao bọc). Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca ở tại Sàlavatikà, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, ngũ cốc phong phú, vốn là đất đai của vua, sau vua Pasenadi cấp cho để hưởng một phần lợi tức.
2.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-lohicca-lohicca-sutta/
  • 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Nalandà trong vườn Pavàrikampa. Lúc bấy giờ cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn.  #kinhtrườngbộ #tamtạngpali #tạngkinh  https://phatgiaonguyenthuy.org/kinh-kevaddha-kevaddha-sutta/

Fanpage Phật Giáo Nguyên ThuỷLike Fanpage

Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda

© 2019 THERAVĀDA

Danh Mục Khác

  • Thông Tin Admins
  • Đặt Câu Hỏi
  • Vấn – Đáp
  • Thiền Viện
  • Cư Sĩ Vấn Đáp

Theo Dõi Trên

No Result
View All Result
  • Nội Quy Website
  • Kinh Phật
  • Thiền Vipassana
  • Phật Pháp
    • Tam Tạng Pali
      • Tạng Kinh
      • Tạng Luật
      • Tạng Vi Diệu Pháp
    • Giải Về Bạn
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Hộ Tông
      • Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã
      • Cư Sĩ Vấn Đáp
      • Vi Diệu Pháp Vấn Đáp
      • Luật Xuất Gia (Q1)
    • Soạn Giả Tỳ Khưu Bửu Chơn
      • Tà Kiến Và Chánh Kiến
      • Nhân Quả Liên Quan
    • Soan Giả Tỳ Khưu Giới Nghiêm
      • Giải Về Bạn
      • Hạnh Phúc Kinh
    • Dịch Giả Thiền Sư Khánh Hỷ
      • Phật Pháp Căn Bản
    • Soạn Giả Cư Sĩ Trùng Quang
      • Chọn Đường Tu Phật
    • Nền Tảng Phật Giáo
      • Tam Bảo
      • Quy Y Tam Bảo
      • Pháp Hành Giới
      • Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
      • Phước Thiện
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 1
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 2
      • Pháp Hạnh Ba La Mật 3
      • Pháp Hành Thiền Định
      • Pháp Hành Thiền Tuệ
  • Sách Thiền
    • Chân Đế Và Tục Đế
    • Đại Niệm Xứ
    • Ngay Trong Kiếp Sống Này
  • Đặt Câu Hỏi
  • Sách Online
  • Nghe Pháp
  • Thiền Viện
  • Thông Tin Admins
  • Vấn – Đáp
  • Phật Giáo Và Khoa Học
  • Phật Giáo Và Xã Hội
  • Tích Truyện
    • Tích Truyện Về Đức Phật
    • Tích Truyện Thánh Tăng
    • Tích Truyện Cư Sĩ
  • Các Bậc Trưởng Lão
  • Tin Tức

© 2019 THERAVĀDA

Welcome Back!

Sign In with Facebook
Sign In with Google
OR

Login to your account below

Forgotten Password? Sign Up

Create New Account!

Sign Up with Facebook
Sign Up with Google
OR

Fill the forms bellow to register

*Tôi đồng ý Nội Quy Website.
All fields are required. Log In

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.

Log In
wpDiscuz
0
0
Bạn có thể để lại bình luận bài viết tại đây!x
()
x
| Reply
Website sẽ sử dụng bộ nhớ đệm trình duyệt của bạn lưu trữ thông tin, để lần sau bạn có thể lướt Web nhanh hơn.
Go to mobile version