PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - THERAVĀDA
-----
KINH TỤNG
Soạn Giả
Trưởng Lão Hòa Thượng Hộ Tông (Vaṅsarakkhita Mahāthera)
BÀI THỈNH CHƯ THIÊN
Sagge kāme ca rūpe girisikharataṭe cantalikkhe vimāne dīpe raṭṭhe ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette bhummā cāyantu devā jalathalavisame yakkha gandhabba nāgā tiṭṭhantā santikeyaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Xin thỉnh Chư thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới,
Chư thiên ngự trên đảnh núi, núi không liền,
Hoặc nơi hư không, ngự trên cồn bãi, đất liền
Hoặc các châu quận, ngự trên cây cối rừng rậm
Hoặc ruộng vườn, Chư Dạ xoa, Càn thác bà, cùng Long vương dưới nước trên bờ
Hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây.
Lời nào là kim ngôn cao thượng của đức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tôi tụng đây,
xin các bậc hiền triết nên nghe lời ấy.
Xin các Ngài đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp bảo.
Xin các Ngài đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp bảo.
Xin các Ngài đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp bảo.
NAMASSAKĀRA ‒ PHÉP LỄ BÁI
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
‒ Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā(15) đó, Ngài là bậc Arahaṃ(16) cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)
SARAṆAGAMANA ‒ TAM QUY
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
(Tôi đem hết lòng thành kính) xin quy y Phật.
(Tôi đem hết lòng thành kính) xin quy y Pháp.
(Tôi đem hết lòng thành kính) xin quy y Tăng.
(Tôi ... kính) xin quy y Phật, lần thứ nhì.
(Tôi ... kính) xin quy y Pháp, lần thứ nhì.
(Tôi ... kính) xin quy y Tăng, lần thứ nhì.
(Tôi ... kính) xin quy y Phật, lần thứ ba.
(Tôi ... kính) xin quy y Pháp, lần thứ ba.
(Tôi ... kính) xin quy y Tăng, lần thứ ba.
SAMBUDDHE ‒ LỄ BÁI CHƯ PHẬT
Sambuddhe aṭṭhavīsañca dvādasañca sahassake pañcasatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ.
Tesaṃ dhammañca saṅghañca ādarena namāmihaṃ.
Namakārā nubhāvena hantvā sabbe upaddave anekā antarāyā pi vinassantu asesato.
Sambuddhe pañca paññāsañca catuvīsatisahassake dasasatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ.
Tesaṃ dhammañca saṅghañca ādarena namāmihaṃ.
Namakārā nubhāvena hantvā sabbe upaddave anekā antarāyā pi vinassantu asesato.
Sambuddhe navuttarasate aṭṭhacattāḷīsasahassake vīsatisatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ.
Tesaṃ dhammañca saṅghañca adarena namāmihaṃ.
Namakārānubhāvena hantvā sabbe upaddave anekā antarāyā pi vinassantu asesato.
Tôi đem hết lòng thành kính, làm lễ 28 vị Chánh Biến Tri, 12 ngàn vị Chánh Biến Tri và 500 ngàn vị Chánh Biến Tri.
Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo, của các vị Chánh Biến Tri ấy.
Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh Biến Tri, mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận.
Tôi đem hết lòng thành kính, làm lễ 55 vị Chánh Biến Tri, 24 ngàn vị Chánh Biến Tri và 1 triệu vị Chánh Biến Tri.
Tôi đem hết lòng thành kính, làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo, của các vị Chánh Biến Tri ấy.
Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh Biến Tri, mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận.
Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ 109 vị Chánh Biến Tri, 48 ngàn vị Chánh Biến Tri và 2 triệu vị Chánh Biến Tri.
Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo, của các vị Chánh Biến Tri ấy.
Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh Biến Tri, mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận.
MAṄGALASUTTĀRAMBHO ‒ TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH
Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇa byāvaṭā sabbakālaṃ.
Ete āyantu devā varakanakamaye merurāje vasanto santo.
Santo santo sahetuṃ munivaravacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ.
Sabbesu cakkavāḷesu yakkhā devā ca brahmuno yaṃ amhehi kataṃ puññaṃ sabba sampattisādhakaṃ.
Sabbe taṃ anumoditvā samaggā sāsane ratā, pamadarahitā hontu ārakkhāsu visesato.
Sāsanassa ca lokassa vuḍḍhī bhavatu sabbadā sāsanaṃ pi ca lokañca devā rakkhantu sabbadā.
Saddhiṅ hontu sukhī sabbe parivārehi attano anīghā sumanā hontu saha sabbehi ñātibhi.
Yañca dvādasa vassāni cintayiṅsu sadevakā cirassaṃ cintayantāpi neva jāniṅsu maṅgalaṃ cakkavāḷasahassesu dasasu yena tattakaṃ kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ yāva brahmanivesanā.
Yaṃ lokanātho desesi sabbapāpavināsanaṃ, yaṃ sutvā sabbadukkhehi muñcantā saṅkhiyā narā evamādiguṇūpetaṃ maṅgalantam-bhaṇāma he.
Xin thỉnh tất cả Chư thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế giới này, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.
Xin thỉnh tất cả Chư thiên, ngự trên Tu Di Sơn Vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.
Xin thỉnh tất cả Chư thiên là bậc Tịnh giả đồng tụ hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của Đức Thích Ca Mâu Ni, là pháp vô thượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.
Sự phước báu mà chúng tôi đã làm; có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ xoa, Chư thiên cùng Phạm thiên, trong cả thế giới ta bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.
Tất cả Dạ xoa, Chư thiên cùng Phạm thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật Pháp.
Xin dứt lòng dể duôi và tùy phương tiện quý báu để hộ trì Phật Pháp.
Cầu xin Phật Pháp được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa.
Cầu xin tất cả Chư thiên hộ trì Phật Pháp và tiếp độ chúng sanh.
Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.
Tất cả nhơn loại cùng Chư thiên trong mười ngàn thế giới ta bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong 12 năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm thiên trong khi ấy.
Đức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và được dứt khỏi các sự thống khổ.
MAṄGALASŪTRA ‒ HẠNH PHÚC KINH
Evamme sutaṃ:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇa kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenu pasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi.
Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ brūhi maṅgalamuttamaṃ.
Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā pūjā ca pūjanīyānaṃ etammaṅgalamut-tamaṃ.
Paṭirūpadesavāso ca pubbe ca katapuññatā attasammāpaṇidhi ca etammaṅgalamut-tamaṃ
Bāhusaccaṃ ca sippañca vinayo ca susikkhito subhāsitā ca yāvācā etammaṅgalamuttamaṃ.
Mātāpitu upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho anākulā ca kammatā etammaṅgalamuttamaṃ.
Dānañca dhammacariyā ca ñātakānañca saṅgaho anavajjāni kammāni etammaṅgalamuttamaṃ.
Āratī viratī pāpā majjapānā ca saññamo appamādo ca dhammesu etammaṅgalamuttamaṃ.
Gāravo ca nivāto ca santuṭṭhī ca kataññutā kālena dhammassavanaṃ etammaṅgalamut-tamaṃ.
Khantī ca sovacassatā samaṇānañca dassanaṃ kālena dhammasākacchā etammaṅgalamuttamaṃ.
Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccāna dassanaṃ nibbānasacchikiriyā ca etammaṅgalamuttamaṃ.
Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati asokaṃ virajaṃ khemaṃ etammaṅgalamuttamaṃ.
Etāpisāni katvāna sabbatthamaparājitā sabbattha sotthiṅ gacchanti tantasaṃ maṅgalamuttaman’ti.
Tôi (tên là A-Nan-Đa) được nghe lại như vầy:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ (Sāvatthi).
Khi ấy, có vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.
Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:
Tất cả Chư thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc.
Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.
Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ.
Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ.
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng.
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia.
Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín chắn.
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: nết hạnh phụng sự mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự cha.
Ba: sự tiếp độ vợ con.
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc.
Bốn: những nghề vô tội.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi.
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu.
Ba: sự không dể duôi Phật Pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính.
Hai: nết hạnh khiêm nhượng.
Ba: tri túc đến của đã có.
Bốn: nết hạnh biết đền ơn người.
Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp.
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: sự nhịn nhục.
Hai: nết hạnh người dễ dạy.
Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-môn.
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác.
Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng.
Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu đế.
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian.
Hai: không có sự uất ức.
Ba: dứt khỏi tình dục.
Bốn: lòng tự tại.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Tất cả Chư thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi.
Chư thiên này! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.
RATANASUTTĀRAMBHO ‒ TỤNG BỐ CÁO KINH TAM BẢO
Paṇidhānato paṭṭhāya tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo pañca mahāpariccāge tisso cariyā pacchimabbhave gabbhāvakkantiṃ jātiṃ abhinikkhamanaṃ padhānacariyaṃ bodhipallaṅke māravicayaṃ.
Sabbaññutaññāṇappaṭivedhaṃ nava lokuttaradhammeti sabbe pime buddhaguṇe āvajjitvā vesāliyā tīsu pākārantaresu tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā ānandatthero viya kāruññacittaṃ upaṭṭhapetvā.
Koṭisatasahassesu cakkavāḷesu devatā yassānampaṭiggaṇhanti yañca vesāliyaṃ pure rogā manussadubbhikkhasambhūtan tividhaṃ bhayaṃ khippamantaradhāpesi parittantam bhaṇāma he.
Chúng ta nên đem lòng từ thiện, (đối với tất cả chúng sanh) như Đại đức Ānanda, đã suy tưởng đều đủ các công đức của Phật, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, là tu 10 phép pāramī,(17)
10 phép upapāramī,(18)
10 phép paramatthapāramī,(19)
5 phép đại thí,(20)
3 phép hành.(21)
Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót.
Tư cách ra đời.
Tư cách xuất gia.
Tư cách tu khổ hạnh.
Tư cách cảm thắng Ma vương.
Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ-đoàn.
Chín Phép Thánh.
Suy tưởng xong rồi;
Đại đức Ānanda tụng kinh paritta(22) cả đêm, trọn đủ 3 canh, tại trong 3 vòng thành Vesālī.
Tất cả Chư thiên trong mười muôn triệu thế giới ta bà, đều được thọ lãnh oai lực kinh paritta.
Kinh paritta đã làm cho 3 điều kinh sợ phát sanh, là: bịnh tật, phi nhơn và sự đói khát trong thành Vesālī được mau tiêu diệt.
Chư thiên này, nay chúng tôi tụng kinh paritta ấy.
RATANASŪTRA ‒ KINH TAM BẢO
Yānīdha bhūtāni samāgatāni bhummāni vā yāniva antalikkhe.
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu atho pi sakkaccasuṇantubhāsitaṃ.
Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe mettaṃ karotha mānusiyā pajāya divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Tasmā hi ne rakkhatha apamattā yaṃkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ nano samaṃ atthi tathāgatena.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ yadajjagā sakyamunī samāhito.
Na tena dhammena sam atthi kiñci.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Yaṃ Buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ.
Samādhim ānantarikaññamāhu.
Samādhinā te nasamo na vijjati.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā cattāri etāni yugāni honti te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā.
Etesu dinnāni mahapphalāni.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye suppayuttā manasā daḷhena nikkāmino gotama sāsanamhi.
Te pattipattā amataṃ vigayha laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Yathindakhīlo paṭhaviṅsito siyā catubbhi vātebhi asampakampiyo.
Tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi yo ariyasaccāni aveccapassati.
Idampi sanghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye ariyasaccāni vibhāvayanti.
Gambhīrapaññena sudesitāni kiñcāpi te honti bhusappamattā na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Sahāvassa dassanasampadāya tayassu dhammā jahitā bhavanti sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci.
Catūhapāyehi ca vippamutto cha cābhiṭhānāni abhabbo kātuṃ.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ kāyena vācā uda cetasā vā abhabbo so tassa paṭicchadāya.
Abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Vanappagumbe yathā phussitagge gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi nibbānagāmiṅ paramaṃ hitāya.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Varo varaññū varado varāharo.
Anuttaro dhammavaraṃ adesayi.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Etena saccena suvatthi hotu.
Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ.
Virattacittā āyatike bhavasmiṃ te khīṇabījā avirūḷhichandā.
Nibbanti dhīrā yathā yampadīpo.
Idampi saṅghe ratanaṃ pa ṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.
Yānīdha bhūtāni samāgatāni bhummāni vāyāni va antalikkhe tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.
Yanīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vāyāni va antalikkhe, tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
Yānīdha bhūtāni sāmāgatāni bhummāni vāyāni va antalikkhe tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta là Chư thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta là Chư thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây.
Cầu xin tất cả hạng Bhūta ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính mà nghe Phật ngôn.
Tất cả chư bhūta được nghe kinh paritta rồi, nên mở lòng bác ái đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí đêm ngày không dứt.
Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy.
Tài sản trong thế gian này, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên Thiên thượng.
Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.
Đức Phật này như trân châu quý báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Đức Giáo chủ Sakyamuni là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là Pháp bất diệt, là Pháp cao thượng.
Chẳng có chi sánh bằng Pháp ấy.
Pháp bảo này như trân châu quý báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi pháp thiền định (samādhi) là Pháp trong sạch.
Các bậc trí tuệ, đã giảng giải về pháp chánh định là pháp sanh quả theo thứ tự.
Thiền định khác chẳng thể sánh bằng.
Pháp bảo này như trân châu quý báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức đã ngợi khen, các bậc ấy đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức Sugato,(23) các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí, của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.
Những sự bố thí đến các bậc (dakkhiṇeyya puggalā)(24), là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Các bậc Thánh nhơn trong giáo Pháp của Đức Chánh Biến Tri hiệu Gotama(25), đã hành theo lẽ chánh rồi có lòng bền chắc, chẳng còn ái dục.
Các bậc Thánh nhơn ấy đã chứng quả A-la -hán, đã nhập Niết-bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo quả rồi.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió 4 phương cũng không lay động, thế nào.
Người hay suy xét thấy các pháp diệu đế, Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí thức, hạng không tham nhiễm các pháp thế gian, ví như cột cừ kia vậy.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Các bậc Thánh nhơn thấy rõ các pháp diệu đế.
Mà Đức Như Lai có trí tuệ thậm thâm đã giảng dạy đứng đắn.
Các bậc Thánh nhơn ấy dầu có dể duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi quá 7 kiếp.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Bậc được chứng đạo quả Tu-đà-huờn, thì đã dứt khỏi 3 phép chướng ngại thường có là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.
Bậc Tu-đà-huờn đã thoát khỏi cả 4 đường dữ, không còn phạm 6 điều ác, là 5 tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại đạo.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Nếu bậc Tu-đà-huờn vô tâm phạm điều tội lỗi do thân, khẩu, ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm.
Nết hạnh của bậc đã thấy đạo quả Niết-bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà Đức Phật đã giảng dạy rồi.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Pháp cao thượng mà đức Chánh Biến Tri đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết-bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạn.
Đức Phật này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Đức Chánh Biến Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông Pháp cao thượng, Ngài thí Pháp cao thượng, Ngài đem đến Pháp cao thượng.
Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng.
Đức Phật này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Nghiệp cũ của các bậc Thánh nhơn đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh.
Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nản trong việc thoát sanh.
Hạt giống đã đoạn tận, lòng dục không tăng trưởng.
Là bậc có trí tuệ thường được viên tịch cũng như ngọn đèn tắt vậy.
Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo chủ đã được chứng quả giống nhau, mà Chư thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
Hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp đã có giống nhau, mà Chư thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
Hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Tăng đã có giống nhau, mà Chư thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
KARAṆĪYAMETTASUTRARAMBHO ‒ BỐ CÁO BÁC ÁI KINH
Yassānubhāvato yakkhā nevadassenti bhiñsanaṃ yamhi cevānuyuñjañto rattiṅ divamatandito sukhaṃ supati sutto ca pāpaṃ kiñci na passati evamā diguṇūpetaṅ parittantam bhaṇāmahe.
Do nhờ oai lực Kinh paritta, mà các hạng Dạ xoa không dám hiện hình đáng sợ, lại nữa những ai ngày và đêm không lười biếng, siêng năng đọc tụng kinh paritta, đương khi ngủ hoặc đã ngủ cũng đều được an vui, không nằm mộng thấy sự xấu xa chút ít. Nay ta tụng kinh paritta có những oai đức, nhứt là như vầy:
KARAṆĪYAMETTASUTTRA ‒ BÁC ÁI KINH
Karaṇīya matthakusalena yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca sakko ujū ca suhujū ca suvaco cassa mudu anatimānī.
Santussako ca subharo ca appakicco ca sallahukavutti santindriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho.
Na ca khuddaṃ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṃ sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
Ye keci pāṇabhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā dīghā vā ye mahantā vā majjhimā rassakāṇukathūlā.
Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
Na paro paraṃ nikubbetha nātimaññetha katthacinaṃ kiñci byārosanā paṭighasaññā nāñña maññassa dukkha miccheyya.
Mātā yathā niyaṃ puttaṃ āyusā ekaputtamanurakkhe evampi sabbabhūtesu mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
Mettañca sabba lokasmiṃ mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ uddhaṃ adho ca tiriyañca asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.
Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā sayāno vā yāvatassa vigatamiddho etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya brahmametaṃ vihāraṃ idha māhu.
Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā dassanena sampanno kāmesu vineyya gedhaṃ na hi jātu gabbhaseyyaṃ puna retīti.
Do sự nào mà bậc Thánh nhơn được giác ngộ các pháp yên lặng là Niết-bàn, người rõ biết trong việc hữu ích nên hành sự ấy, người ấy là bậc dõng cảm thân khẩu ý chân chánh và trong sạch, là người dễ dạy, có tánh nết nhu thuận, không ngã mạn thái quá.
Là người tri túc dễ nuôi, là người ít bận việc, và thân tâm nhẹ nhàng, là người có lục căn thanh tịnh, có nhiều trí tuệ, là người có liêm sĩ, không quyến luyến theo thân bằng quyến thuộc.
Các bậc thiện trí thức hằng chê bai các chúng sanh tạo những nghiệp không nên làm, là nghiệp xấu xa hèn hạ dầu là nhỏ nhen chút ít và nên rải lòng bác ái đến các hạng chúng sanh như vầy:
Cầu cho tất cả chúng sanh đều được an vui thong thả, thân tâm được nhiều hạnh phúc, tất cả chúng sanh không dư sót, dầu là chúng sanh có sự kinh sợ, là còn lòng ham muốn, hoặc là bậc hiền triết đã dứt lòng ham muốn.
Chúng sanh nào có thân hình dài hoặc lớn, có thân hình bậc trung hoặc vắn, có thân hình gầy hoặc béo, chúng sanh mà ta đã thấy hoặc không thấy được, chúng sanh ngụ nơi gần hoặc xa, đã sanh ra rồi hoặc còn đang tìm nơi thọ sanh.
Chúng sanh chẳng nên dọa dẫm làm khổ chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ chút ít kẻ khác trong nơi nào cả, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.
Người mẹ thà liều chết để bảo dưỡng con đẻ là con một, là dám bỏ sanh mạng trong sự bảo dưỡng con thế nào, người nên niệm lòng bác ái vô lượng vô biên để rải đến tất cả chúng sanh cũng như thế ấy.
Người nên niệm tâm bác ái vô lượng vô biên, là pháp không nóng giận, không bất bình, không thù oán, không bạn nghịch, để rải trong tất cả thế giới, là rải bên trên, bên dưới, bên ngang và khoảng giữa.
Người niệm lòng bác ái ấy dầu đứng, đi, ngồi hoặc nằm, là Người đã dứt bỏ sự hôn trầm, là người chẳng còn ngủ mê, đến đâu nên thành tâm thường niệm lòng bác ái đến đó, các bậc trí thức gọi những tư cách ấy, là pháp vô lượng tâm trong Phật Pháp.
Người có vô lượng tâm bác ái, không tà kiến, là người có trì giới, có chánh kiến, là người đắc Tu-đà-huờn đạo, đã dứt bỏ sự say mê theo ngũ trần rồi.
-oo0oo-
(15) Tàu dịch: Thế Tôn.
(16) Ứng Cúng.
(17) Bến bờ kia.
(18) Bến bờ trên.
(19) Bến bờ cao thượng.
(20) Thí con, thí vợ, thí của, thí chi thể, thí sanh mạng.
(21) Hành cho lợi kỷ, cho lợi thân quyến, cho lợi chúng sinh.
(22) Kinh cầu an.
(23) Thiện Thệ.
(24) Người đáng thọ lãnh của người tin lý nhân quả dâng cúng.
(25) Tàu âm là Cồ Đàm.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.