PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA
-----
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
(DHAMMACAKKAPPAVATTANA SUTTA)
Phỏng dịch theo bài Pháp của Đại đức Nārada Mahā Thera.
Bhikkhu Nāga Mahā Thera - Tỳ khưu Bửu Chơn
---
Dl. 1961 – Pl.2505
PHI LỘ
Đại đức Nārada Mahā Thera viếng xứ Việt Nam lần này (ngày 23-5-1961) có mang theo nhiều kinh sách với mục đích giúp cho Phật Pháp được truyền bá sâu rộng trong dân gian.
Ngài đem rất nhiều bộ kinh nhưng chỉ có bộ “Kinh Chuyển Pháp Luân” là quan trọng nhất. Vì chính kinh ấy là một nền tảng vững chắc của Phật giáo, nó không vì thời gian mà thay đổi, dầu ở quá khứ, vị lai hay hiện tại.
Kinh này đã được Đức Phật thuyết lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như, tại vườn Lộc Giả gần thành Ba-La-Nại (Benares).
Đại đức Nārada Mahā Thera yêu cầu bần tăng phiên dịch từ Anh văn ra Việt văn, mặc dầu bần tăng rất bận nhiều công việc về Phật sự. Nhưng bần tăng nhận lời Ngài, ráng nhín đôi chút thì giờ làm cả ngày lẫn đêm mỗi khi rảnh việc. Xong dâng lên Ngài để phát hành và ấn tống cho kịp ngày rằm tháng sáu, là ngày mà Đức Phật đã chuyển Pháp luân cách đây 2550 năm.
Do quả phúc thanh cao này, bần tăng mong cầu cho tất cả chúng sinh được mau lĩnh hội lý tứ đế và đắc đạo quả niết- bàn.
Rất mong thay! Vạn vật thái bình!
Bhikkhu Nāga Mahā Thera ‒ Tỳ khưu Bửu Chơn
---
LỜI NÓI ĐẦU
Hạnh phúc thay lời giáo huấn của “Giáo lý cao cả” cổ Ấn có ghi chép lại những bậc triết học uyên thâm và các vị giáo chủ đã phát biểu nhiều “kiến thức” khác nhau có liên quan đến đời sống và mục tiêu của họ.
Bộ kinh Brahmajāla sutta (trường Ahàm) có nêu 62 luận thuyết của các nhà triết học và tư tưởng gia đồng thời với Đức Phật. Một chủ nghĩa kỳ quái trái ngược với tôn chỉ của các đạo giáo đương thời là “thuyết hư vô” của phái duy vật gọi là chủ nghĩa Cārvāka (tên của vị sáng lập). Theo Cổ duy vật luận, trong Pāli và Sanscrit thường gọi là “Lokāyata”, thì con người sau khi chết là hết và chỉ còn để lại những gì do sức lực của họ đã tạo ra. Chết là chấm dứt tất cả. Chỉ có đời sống hiện tại là thật tế thôi. Vậy thì ăn, uống, vui chơi đặng cho sự chết đến, đó là quan niệm của họ. Họ nói “đạo đức” là một điều lầm lạc. Tôn giáo là một sự cuồng tín hay là cái bịnh của tinh thần và là một sự ngờ vực cho mọi điều lành, cho sự cao cả, trong sạch và trắc ẩn; chỉ có vui thích là một điều thật sự. Học thuyết của họ căn cứ trên tình cảm ích kỷ mà họ quả quyết công bố một cách chắc chắn. Họ không cần kiểm điểm lòng tham lam ái dục và bản năng của họ, kể từ khi họ được sự truyền thống của bản tính tự nhiên của con người.
Một kiến thức kỳ dị khác là: muốn được sự giải thoát thì con người chỉ có thể đoạt được bằng cách tu “khổ hạnh” gắt gao. Đó là giáo lý kiên nhẫn khổ hạnh bền chí của các nhà đạo sĩ phái cao siêu. Năm thầy Kiều Trần Như theo phụng sự Bồ tát Sidhatta trong khi còn đang hành khổ hạnh để giác ngộ, cũng cố chấp sự tin tưởng này.
Đức Phật cũng thế, trước khi giác ngộ, Ngài cũng thực hành đủ điều khổ hạnh ép xác ấy. Sau sáu năm cực kỳ khổ hạnh, Ngài không thâu được kết quả lợi ích chi cả. Khi ấy, Ngài thay đổi chí hướng và áp dụng con đường “Trung dung”. Năm đệ tử yêu mến thấy thế nản chí và mất tín nhiệm đối với Ngài, rồi bỏ đi và nói rằng: “Thầy đạo sĩ Gotama xa lìa khổ hạnh mà trở lại cảnh xa hoa của cuộc đời sung sướng”. Sự từ bỏ bất ngờ của năm đệ tử làm cho Bồ tát thiếu thốn nhiều về phương diện vật chất. Tuy nhiên, Ngài không chán nản, sự nguyện vọng sắt đá của Ngài, mà trái lại Ngài cảm thấy hạnh phúc nhiều trong khi ở một mình.
Nhờ sự an vui và bình phục sức lực lại, Ngài cố gắng đoạt cho được mục đích của đời Ngài là đến nơi “hoàn toàn giác ngộ”. Đúng hai tháng sau khi hành đạo là tháng Asadha (tháng 7 dương lịch), ngày rằm, Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên để độ năm thầy Kiều Trần Như đã dày công giúp đỡ Ngài trong khi khổ hạnh.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.