Theo trong bộ kinh Brahmajala Sutta, Đức Phật chia kiến thức đến 62 thứ nữa như vầy: Này các thầy tỳ khưu, có một nhóm sa-môn và bà-la-môn nhớ đặng ngũ uẩn kiếp quá khứ, thường thường thấy ngũ uẩn quá khứ, rồi do nơi sự thấy ngũ uẩn quá khứ ấy mà tuyên bố nhiều kiến thức theo mười tám nguyên nhân sau đây. Mười tám nguyên nhân ấy là thế nào?
1. Này các thầy tỳ khưu, có một nhóm sa-môn và bà-la- môn là người ‘thường kiến’ thường công bố ‘cái bản ngã (ta) và vũ trụ là trường tồn’, do bốn nguyên nhân (chia ra trong 18 nguyên nhân trước).
– Này các thầy tỳ khưu, trong cõi thế gian này có ít người sa-môn hoặc bà-la-môn do nhờ sự tinh tấn thiêu đốt phiền não, do tâm an trụ, do nhờ sự tinh tấn luôn luôn, do sự không dể duôi, do sự chú tâm tốt đẹp mà được đắc thiền theo như ý muốn của hành giả. Khi tâm được an trụ vững vàng, trong sạch không tuỳ phiền não, nên nhớ được những tiền kiếp quá khứ, là nhớ được 1, 2, 3, 4, 5, 10, 50, 100, 1000. 100000 kiếp như vầy: ‘Ta đã sanh trong cảnh giới đó, tên họ như thế này, màu da như thế này, vật thực như thế này, hưởng lấy sự vui, khổ và tuổi thọ như thế này, khi ta xa lìa kiếp ấy lại tái sanh ra chỗ đó cũng biết rõ tên họ màu da v.v… khi hết tuổi thọ ở cảnh giới đó lại sanh ra trong cảnh giới này’.
Nhớ rõ những kiếp đã sanh trong quá khứ luôn cả mỗi cơ thể và chi tiết như thế ấy, người ấy mới nói như vầy: ‘Rõ ràng bản ngã của ta và vũ trụ có trạng thái trường tồn, cũng không có giống (nhân) không có quả của giống nối tiếp (1), thường trụ vững như núi non, như thạch trụ’.
Vì những chúng sanh ấy bằng phiêu lưu luân chuyển tới lui trong vòng sanh diệt, trường tồn cũng như vật trong vũ trụ (2).Trong vấn đề này, tại sao vậy?
(1) Chú giải: người ấy chỉ thấy được tiền kiếp thôi, chứ không thể thấy luôn nhân quả nào mà được sanh lại mãi mãi như thế, cũng không cho rằng: do nhờ các quả lành nhất là thiền định có thể sanh về sắc giới, vì không tin có quả chi nối tiếp, ví cũng như người không con hay cây không trái vậy.
(2) Như vật trong vũ trụ là: núi Tu Di, mặt nhựt, mặt nguyệt đều là vật thường trụ vì con người sanh lên lúc nào cũng thấy (đây là do sự so sánh của tà kiến vậy thôi), có nhựt, nguyệt luôn luôn.
Vì chính ta nhờ sự cố gắng mà đắc thiền nên thấy những tiền kiếp, mọi cơ thể và chi tiết của mỗi kiếp, bởi vì do nhờ túc mạng minh này mà ta mới biết được những ngũ uẩn trong kiếp quá khứ. Bản ngã và vũ trụ là vật trường tồn, không có giống, không có quả của giống nối tiếp, thường trụ vững chắc như núi non, như thạch trụ. Này các thầy tỳ khưu đây là nguyên nhân thứ nhất của thường kiến vậy.
– Này các thầy tỳ khưu, có những người sa-môn và bà-la- môn trong thế gian này, do nhờ sự cố gắng thiêu đốt phiền não, do tâm an trụ, do nhờ sự tinh tấn luôn luôn, do nhờ sự không dể duôi, do sự chú tâm tốt đẹp mà được đắc thiền như ý muốn của hành giả. Khi tâm được an trụ như thế, có thể nhớ được nhiều ngũ uẩn trong tiền kiếp là nhờ được ngũ uẩn đã sanh ra trong 1, 2, 3, 4, 5, 10 kiếp thành, kiếp hoại (3) như vầy: ‘Ta đã sanh trong cảnh giới đó, màu da như thế này, vật thực như thế này, hưởng sự vui, khổ và tuổi thọ như thế này; khi ta xa lìa kiếp ấy lại tái sanh ở nơi cảnh giới đó đó cũng biết rõ tên họ màu sắc v.v… khi mãn tuổi thọ trong cảnh giới đó, tái sanh lại cảnh giới này’.
(3) Kiếp có bốn là: thành, trụ, hoại, không. Bốn tiểu kiếp thành một đại kiếp (tuổi của một quả địa cầu).
Nhớ rõ những ngũ uẩn đã sanh ra trong kiếp quá khứ luôn cả cơ thể và chi tiết như thế ấy, người ấy mới công bố như vầy: ‘Rõ ràng bản ngã của ta và vũ trụ có trạng thái trường tồn, không có giống (nhân) cũng không có quả để nối tiếp, thường trụ vững chắc như núi non, như thạch trụ’.
Vì những chúng sanh ấy hằng phiêu lưu, luân chuyển tới lui trong vòng sanh diệt được trường tồn cũng như vật trong vũ trụ. Trong vấn đề này, tại sao vậy? Vì chính ta nhờ sự cố gắng mà đắc thiền nên thấy rõ mỗi tiền kiếp nào cơ thể và chi tiết, cũng do nhờ túc mạng minh mà ta biết được những kiếp trong quá khứ. Bản ngã và vũ trụ là vật trường tồn, không có giống, không có quả của giống nối tiếp, thường trụ vững chắc như núi non, như thạch trụ. Này các thầy tỳ khưu, đây là nguyên nhân thứ nhì của thường kiến vậy.
– Nguyên nhân thứ ba của thường kiến cũng giống như cách giải của thứ nhất thứ nhì, chỉ có thấy khác chỗ thấy được nhiều kiếp hơn, là thấy từ 10, 20, 30, 40 kiếp thành và kiếp hoại.
– Này các thầy tỳ khưu, trong cõi thế gian này, có một nhóm sa-môn và bà-la-môn là người thường hay tư tưởng, suy xét. Người ấy bèn công bố lên những tư tưởng đã thâu thập do nhờ sự suy nghĩ, quán tưởng phát sanh lên do nơi trí hoá của mình rồi cho rằng: ‘Rõ ràng bản ngã và vũ trụ có trạng thái trường tồn, không có giống (để sanh), không có quả của giống để nối tiếp; nhưng thường trụ như núi non, như thạch trụ’.
Vì những chúng sanh ấy phiêu lưu, luân chuyển tới lui trong vòng sanh diệt thường tồn cũng như những vật trong vũ trụ. Này các thầy tỳ khưu, đây là nguyên nhân thứ tư của nhóm thường kiến vậy.
Này các thầy tỳ khưu, thật ra dẫu cho nhóm sa-môn và bà- la-môn nào khi công bố về thường kiến cũng chỉ công bố theo bốn cách kiến thức trên đây vậy thôi chớ không ngoài bốn cách ấy.
Này các thầy tỳ khưu, Như Lai cũng biết rõ bốn nguyên nhân kiến thức ấy mà con người ưa thích như thế này, có chấp như thế này, có cảnh giới như thế này trong kiếp vị lai. Như Lai biết rõ kiến thức ấy nhưng còn biết ân đức cao thượng hơn đó nữa là (giới, định, tuệ) nên Như Lai mới không có sự cố chấp sai lầm.
Hơn nữa, khi Như Lai không cố chấp sai lầm mới thấy rõ được Níp-bàn là pháp để diệt tắt sự cố chấp lửa phiền não. Đồng thời, cũng biết rõ nguyên nhân để phát sanh lên cái thọ (vedana) sự diệt tắt, sự ưa thích, sự tội lỗi, sự giải thoát cái thọ đúng theo chân lý.
Trích: Tà Kiến Và Chánh Kiến (Tỳ Khưu Bửu Chơn)