Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng trước khi chết thấy cái này cái kia hay có những biểu hiện khác thường?

Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng trước khi chết thấy cái này cái kia hay có những biểu hiện khác thường?

    MARAṆĀSANNAVĪTHICITTA: CẬN-TỬ LỘ-TRÌNH-TÂM

    Tất cả mọi chúng-sinh trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới, trong bốn loài là thai-sinh, noãn- sinh, thấp-sinh, hóa-sinh dù nhỏ bé như con kiến, con thiêu thân, dù to lớn như chư phạm-thiên trên các tầng trời sắc-giới phạm-thiên, vô-sắc- giới phạm-thiên, đến phút giây lâm chung cuối cùng đều có cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsanna vīthicitta), là lộ-trình-tâm cuối cùng gần chết, đối với mỗi kiếp chúng-sinh còn có vô-minh và tham-ái.

    Cận-tử lộ-trình-tâm cuối cùng này rất yếu, nên tác-hành-tâm (javanacitta) chỉ có 5 sát-na- tâm đặc biệt có 2 sát-na-tâm là:

    Cuti đó là tử-tâm (cuticitta), là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm kết thúc kiếp hiện-tại cũ, liền tiếp theo sau sát-na-tâm:

    Paṭisandhi  đó  là  tái-sinh-tâm  (paṭisandhi-citta) là quả-tâm nào bắt đầu kiếp sau (kiếp hiện-tại mới bắt đầu) sinh chỉ có 1 sát-na-tâm mà thôi, liền tiếp theo sau cũng chính quả-tâm ấy chuyển biến trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến lúc lâm chung sắp chết.

    Đối-tượng của maraṇāsannavīthicitta

    Đối-tượng của cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇā-sannavīthicitta) có 1 trong 3 loại đối-tượng:

    - Kamma: Đối-tượng nghiệp đó là thiện- nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

    - Kammanimitta: Đối-tượng hiện-tượng tạo thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

    - Gatinimitta: Đối-tượng hiện-tượng sẽ dắt dẫn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới hoặc cõi ác-giới.

    GIẢNG GIẢI KAMMA, KAMMANIMITTA, GATINIMITTA

    * Đối-tượng kamma đó là đối-tượng thiện- nghiệp hoặc đối-tượng ác-nghiệp có cơ hội hiện rõ trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthi- citta) như thế nào?

    - Kamma đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika).

    - Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm gọi là thiện-nghiệp.

    - Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện- tâm (ác-tâm) gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

    Thiện-nghiệp và bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) thuộc về đối-tượng pháp (dhammārammaṇa) chỉ hiện rõ trong ý-thức-tâm mà thôi.

    Nếu người nào phát sinh đại-thiện-tâm nghĩ muốn tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền nào,… trong thời- kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy, người ấy nghĩ trong tâm với thời gian lâu, nhưng mà chưa có cơ hội tạo phước-thiện ấy, cho đến khi lâm chung gần chết, nên đối-tượng đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội hiện rõ trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta).

    Nếu người nào phát sinh ác-tâm nghĩ muốn tạo ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu, bia và các chất say nào, … trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm trước khi tạo ác-nghiệp ấy, người ấy nghĩ trong tâm với thời gian lâu, nhưng mà chưa có cơ hội tạo ác-nghiệp ấy, cho đến khi lâm chung gần chết, nên đối-tượng ác- nghiệp ấy có cơ hội hiện rõ trong cận-tử lộ- trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta).

    * Đối-tượng kammanimitta: Đối-tượng hiện tượng tạo thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp có cơ hội hiện rõ trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇā- sannavīthicitta) như thế nào?

    Kammanimitta đó là 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), là nhân có liên quan tạo thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý; nên đối-tượng kammanimitta: hiện tượng tạo thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp này hiện rõ trong 6 môn: nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn tùy theo mỗi đối-tượng.

    Như vậy, người thiện nào tạo phước-thiện bố- thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,... cùng với các pháp hỗ trợ bằng thân, bằng khẩu, bằng ý với đại-thiện-tâm.

    Hoặc người ác nào tạo ác-nghiệp sát-sinh, ác- nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm, ác-nghiệp nói-dối, ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, v.v… cùng với các pháp hỗ trợ bằng thân, bằng khẩu, bằng ý với bất-thiện-tâm.

    Nếu người ấy đến lúc lâm chung gần chết, không có nghiệp nào đặc biệt thì đối-tượng kammanimitta: hiện tượng tạo nghiệp này có cơ hội hiện rõ trong maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm.

    * Đối-tượng gatinimitta: Đối-tượng hiện- tượng sẽ dắt dẫn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới, cõi ác-giới có cơ hội hiện ra trong maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm như thế nào?

    Đối-tượng gatinimitta đó là 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sẽ dắt dẫn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới, cõi ác-giới, người ấy sẽ nhận biết và sẽ thụ hưởng trong kiếp kế-tiếp, nên đối-tượng gatinimitta này sẽ hiện rõ trong 6 môn. Nhưng thật ra, đối-tượng gati- nimitta này phần nhiều hiện rõ trong nhãn-môn và ý-môn, trong nhãn-môn cận-tử lộ-trình-tâm và trong ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm.

    Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền nào, … trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm- sở đồng sinh với đại-thiện-tâm có nhiều năng lực đang khi tạo phước-thiện ấy.

    Người ác nào tạo ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu, bia và các chất say nào, … trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm có nhiều năng lực đang khi tạo ác-nghiệp ấy.

    Đối với người ấy đến lúc lâm chung, đối- tượng gatinimitta có cơ hội hiện rõ trong cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta).

    Hoặc người nào tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền nào,… trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy, và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy, người ấy thường niệm tưởng đến phước-thiện ấy, phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy.

    Hoặc người nào tạo ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói-dối, uống rượu, bia và các chất say,… trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm trước khi tạo ác-nghiệp ấy, và trong thời-kỳ aparacetanā: tác- ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm sau khi đã tạo ác-nghiệp ấy, người ấy mỗi khi nhớ đến ác- nghiệp ấy, phát sinh sân-tâm làm khổ tâm hối hận, bởi vì không tạo đại-thiện-nghiệp mà tạo ác-nghiệp ấy.

    Đối-tượng gatinimitta: Đối-tượng hiện-tượng chỉ hiện rõ đối với riêng người ấy trong lúc lâm chung mà thôi, như người nằm ngủ thấy trong mộng mà người ấy có cảm giác như thật.

    Đối-tượng hiện-tượng gatinimitta này hiện rõ đối với số người trước 1-2 phút trước khi chết, hoặc 1-2 giờ trước khi chết, thậm chí có số người 1-2 ngày trước khi chết.

    Đối-tượng gatinimitta có cơ hội hiện rõ trong maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm cuối cùng đối với người lúc lâm chung gần chết.

    Như vậy, đối với tất cả chúng-sinh gồm có chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su- ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), loài người, chư vị thiên- nam, vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ chư phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên), trên 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên thuộc về phàm-nhân, thậm chí cả 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, đến lúc lâm chung đều có maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm, có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta, bởi vì những hạng chúng-sinh ấy còn tái-sinh kiếp sau.

    Tuy nhiên đối với chư bậc Thánh A-ra-hán đến lúc lâm chung, cũng có cận-tử lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta), nhưng mà không có 1 trong 3 đối-tượng (kamma, kammanimitta, gati- nimitta), bởi vì chư bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi vô-minh, mọi tham-ái, mọi phiền- não không còn dư sót, kiếp này là kiếp chót. Cho nên, chư bậc Thánh A-ra-hán đến lúc lâm chung, dù có maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình- tâm vẫn có 1 trong 6 đối-tượng tùy theo mỗi bậc Thánh A-ra-hán, các tâm tuần tự sinh rồi diệt đến cuti đó là cuticitta là quả-tâm cuối cùng của bậc Thánh A-ra-hán có 1 trong 3 đối-tượng cũ (kamma, kammanimitta, gatinimitta) kiếp trước diệt gọi là khandhaparinibbāna: ngũ-uẩn Niết- bàn nghĩa là ngũ-uẩn tịch diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào khác sinh nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

     

    ĐỐI-TƯỢNG GATINIMITTA

    Gatinimitta là 6 đối-tượng được thụ hưởng trong kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì) (sau  khi kết thúc kiếp hiện-tại), nên đối-tượng gatinimitta có 6 loại không phải là đối-tượng trong kiếp hiện- tại. Thật ra, 6 loại đối-tượng này sẽ được biết, sẽ được thụ hưởng trong kiếp kế-tiếp mà thôi.

    Đối-tượng gatinimitta có 2 loại:

    - Upalabhitabbagatinimitta là 6 đối-tượng của kiếp kế-tiếp được biết.

    - Upabhogabhūtagatinimitta là 6 đối-tượng của kiếp kế-tiếp được thụ-hưởng.

    Cho nên, 6 đối-tượng gatinimitta của kiếp kế- tiếp được biết, được thụ hưởng, phân tích 6 đối- tượng theo upalabhitabbagatinimitta, upabhoga- bhūtagatinimitta như sau:

    Nếu những chúng-sinh nào sẽ tái-sinh kiếp sau làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục thì đến lúc lâm chung gần chết maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, chúng-sinh ấy thấy các dụng cụ hành phạt tội nhân, chúa địa- ngục hung dữ, chó dữ, quạ, diều hâu, các chúng- sinh địa-ngục, các cõi địa-ngục, v.v… gọi là upalabhitabbagatinimitta.

    Chúng-sinh ấy cảm nhận rằng: Mình đang bị hành hạ đau khổ, bị chó dữ cắn xé, bị xiềng xích gông cùm, bị thiêu đốt nóng nảy, v.v… gọi là upabhogabhūtagatinimitta.

    Nếu những chúng-sinh nào sẽ tái-sinh kiếp sau làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra thì đến lúc lâm chung gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, chúng-sinh ấy thấy rừng sâu, núi non hiểm trở, vực sâu, biển, con sông lớn, nơi hẻo lánh đáng ghê sợ, nơi ở của loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra, v.v… gọi là upalabhitabbagatinimitta.

    Chúng-sinh ấy cảm nhận rằng: Mình đang ở nơi rừng sâu, núi non hiểm trở, đang chịu cảnh đói khát đi tìm vật thực, hoặc có thân hình kỳ dị đáng ghê sợ, v.v… gọi là upabhogabhūta- gatinimitta.

    Nếu những chúng-sinh nào sẽ tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh thì đến lúc lâm chung gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, chúng-sinh ấy thấy các loài súc-sinh khác nhau như chó, mèo, trâu, bò, chim, chỗ sinh sống của các loài súc-sinh, v.v… gọi là upalabhitabbagatinimitta.

    Chúng-sinh ấy cảm nhận rằng: Mình đang là loài súc-sinh nào trong các loài súc-sinh, hoặc đang chơi với loài súc-sinh ấy, v.v … gọi là upabhogabhūtagatinimitta.

    Nếu những chúng-sinh nào sẽ tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì đến lúc lâm chung gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ- trình-tâm phát sinh, chúng-sinh ấy thấy bụng mẹ, nhà cửa, xã, huyện, tỉnh, thành phố, xứ sở,… gọi là upalabhitabbagatinimitta.

    Chúng-sinh ấy cảm nhận rằng: Mình đang đi dạo chơi một nơi, hoặc đang ở một nơi, hoặc đang chuyện trò thân mật với người nào, hoặc đang được đầu thai vào trong lòng mẹ, v.v ... gọi là upabhogabhūtagatinimitta.

    Nếu những chúng-sinh nào sẽ hóa-sinh lên cõi trời dục-giới, thì đến lúc lâm chung  gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, chúng-sinh ấy thấy chiếc xe trời đến rước, lâu đài, chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ, đồ trang sức của chư-thiên, vườn hoa trời, v.v… gọi là upalabhitabbagatinimitta.

    Chúng-sinh ấy cảm nhận rằng: Mình đang ngồi trong chiếc xe trời, đang đi du ngoạn thưởng thức cảnh đẹp trong vườn hoa trời, v.v… gọi là upabhogabhūtagatinimitta.

    Tuy nhiên, nếu những hành-giả nào đã chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm sẽ hóa-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, thì đến lúc lâm chung gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh không có 2 loại đối-tượng gatinimitta ấy, mà chỉ có đối-tượng paññattikammanimitta: hiện-tượng của nghiệp chế-định-pháp mà thôi.

    Nếu những hành-giả nào đã chứng đắc đến bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm sẽ hóa-sinh lên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, thì đến lúc lâm chung gần chết, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh không có 2 loại đối-tượng gatinimitta ấy, mà chỉ có đối-tượng paññatti- kammanimitta: hiện-tượng của nghiệp chế-định- pháp hoặc đối-tượng mahaggatakammanimitta: hiện-tượng của nghiệp thiền vô-sắc-giới-tâm.

    Tóm lại, maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình- tâm có 1 trong 3 đối-tượng là đối-tượng kamma, đối-tượng kammanimitta, đối-tượng gatinimitta.

    Đối-tượng kamma đó là thiện-nghiệp, ác- nghiệp thuộc về đối-tượng pháp hiện rõ trong ý- thức-tâm trong manodvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm.

    Đối-tượng kammanimitta đó là 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) làm nhân tạo thiện- nghiệp, ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hiện rõ trong pañcadvāramaraṇāsannavīthicitta: ngũ- môn cận-tử lộ-trình-tâm.

    Tuy đối-tượng gatinimitta có 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) hiện ra trong maraṇāsannavīthicitta: lục-môn cận-tử lộ-trình- tâm sẽ dắt dẫn tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi- giới; nhưng mà thật ra, phần nhiều đối-tượng gatinimitta này thường có đối-tượng sắc và đối- tượng pháp hiện rõ trong nhãn-môn cận-tử lộ- trình-tâm và ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm.

    Đối-tượng gatinimitta có khi hiện ra trước khi chết 1-2 phút, 1-2 giờ, thậm chí 1-2 ngày tùy theo mỗi chúng-sinh.

    Trích: Vòng Tử Sinh Luân Hồi (Saṃsāravaṭṭa), Soạn giả Tỳ Khưu Hộ Pháp

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.