NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI (SĪLĀCĀRA)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
NHẬN XÉT VỀ NGŨ-GIỚI VÀ BÁT-GIỚI ĀJĪVAṬṬHAMAKASĪLA
Ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có điều giống nhau và điều đặc biệt.
Ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là 2 loại giới chung cho tất cả mọi người tại gia trong đời, không ngoại trừ một ai cả, dù có thọ trì, dù không thọ trì 2 loại giới này, hễ người nào phạm điều-giới nào thì người ấy tạo ác-nghiệp điều-giới ấy.
Ác-nghiệp nặng hoặc ác-nghiệp nhẹ tùy theo tác-ý trong ác-tâm và đối-tượng làm cho phạm giới.
* Ngũ-giới có 5 điều-giới là thường-giới (niccasīla) của tất cả mọi người tại gia ở trong đời, không ngoại trừ một ai cả.
- Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn thì người ấy giữ gìn được nhân phẩm cao quý con người của mình, đồng thời tạo đại-thiện-nghiệp giữ giới cao quý đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
- Nếu người nào phạm điều-giới nào trong ngũ-giới, thì người ấy làm mất nhân phẩm cao quý con người của mình, tạo ác-nghiệp điều-giới ấy đem lại sự bất lợi, sự thoái hóa, sự khổ não trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
* Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới cũng là thường-giới (niccasīla) có tính chất rộng và sâu sắc đặc biệt hơn ngũ-giới.
- Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới có tính chất rộng của tất cả mọi người tại gia và những bậc xuất-gia, đặc biệt còn là giới của các hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
- Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới cao quý, bởi vì 8 điều-giới này gồm có 3 chánh là chánh-nghiệp, chánh-ngữ, chánh-mạng, thuộc về phần giới trong bát- chánh-đạo.
* Chánh-nghiệp có 3 thân hành thiện-nghiệp:
- Tránh xa sự sát-sinh.
- Tránh xa sự trộm-cắp.
- Tránh xa sự tà-dâm.
* Chánh-ngữ có 4 khẩu hành thiện-nghiệp:
- Tránh xa sự nói-dối.
- Tránh xa sự nói lời chia rẽ.
- Tránh xa sự nói lời thô tục.
- Tránh xa sự nói lời vô ích.
* Chánh-mạng là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành 3 ác-nghiệp, do khẩu hành 4 ác-nghiệp, mà chỉ sống theo chánh-mạng do thân hành 3 thiện-nghiệp, do khẩu hành 4 thiện-nghiệp mà thôi.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là chánh-kiến, chánh- tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh- tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định; đó là 8 tâm-sở chỉ đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn mà thôi. 8 chánh trong bát-chánh- đạo này chia ra làm 3 phần:
1- Phần tuệ có 2 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy.
2- Phần giới có 3 chánh là chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng.
3- Phần định có 3 chánh là chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Cho nên, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới cơ bản của tất cả mọi người nói chung, làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam- giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm.
Thật vậy,* trong siêu-tam-giới-tâm, chánh-ngữ, chánh- nghiệp, chánh-mạng đó là 3 tâm-sở cố định (niyata- ekatocetasika) chỉ đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn mà thôi.
* Trong đại-thiện-tâm, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh- mạng đó là 3 tâm-sở bất định (aniyatacetasika) thuộc loại nānākadācicetasika mỗi tâm-sở đồng sinh riêng rẽ với 8 đại-thiện-tâm có mỗi đối-tượng khác nhau.
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo gọi bát- giới ājīvaṭṭhamakasīla là ādibrahmacariyakasīla: giới ban đầu thực-hành phạm-hạnh cao thượng, cho nên hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc thực- hành pháp-hành thiền-tuệ cần phải giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có một tầm quan trọng hơn ngũ-giới. Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla này cũng là thường-giới của tất cả mọi người ở trong đời, trong cuộc sống hằng ngày đêm, không ngoại trừ một ai cả.
* Nếu người nào giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng thì người ấy được hưởng mọi sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nếu người nào phạm điều-giới nào trong 8 điều-giới ājīvaṭṭhamakasīla này, đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy thì người ấy phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy.
NHỮNG TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN PHẠM ĐIỀU-GIỚI TRONG BÁT-GIỚI ĀJĪVAṬṬHAMAKASĪLA
QUẢ XẤU CỦA NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI NÓI LỜI CHIA RẼ
TÍCH NGẠ-QUỶ SŪCILOMA
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa dạy bài kinh Sūcilomasutta (1) được tóm lược như sau:
Một buổi sáng, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa từ trên núi Gijjhakūṭa cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực.
Trên đường từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna nhìn thấy loài ngạ-quỷ có lông kim đâm thật là kỳ quái, nên Ngài Đại-Trưởng-lão mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, do nhân duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười.(2)
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trả lời rằng:
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Bây giờ tôi chưa thể trả lời được. Pháp-hữu chờ khi chúng ta cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, tôi sẽ trả lời cho pháp-hữu rõ.
Hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực. Sau khi độ vật thực xong, hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đến ngôi chùa Veḷuvana đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân-duyên nào mà pháp- huynh mỉm cười?
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trả lời rằng:
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, tôi nhìn thấy loài ngạ-quỷ có lông kim lơ lửng trên hư không, những lông kim ấy đâm từ đầu ra miệng, đâm từ miệng ra ngực, đâm từ sau ra bụng, đâm từ bụng ra 2 vế non, đâm từ 2 vế non ra 2 bắp chân, đâm từ 2 bắp chân ra 2 bàn chân. Ngạ-quỷ ấy đau đớn khóc than thảm thiết.
Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy chư tỳ-khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Như-lai là người có nhãn-thông thấy rõ loài ngạ-quỷ có lông kim ấy, đúng sự thật như vậy.
Thật ra, trước đây, Như-Lai đã từng gặp loài ngạ-quỷ có lông kim đâm ấy, nhưng Như-lai chưa cho các con biết có loài ngạ-quỷ như vậy, bởi vì Như-Lai nói ra, nếu người nào không tin Như-Lai thì điều ấy sẽ đem lại sự bất lợi, làm họ khổ lâu dài.
- Này chư tỳ-khưu! Tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ có lông kim đâm ấy là người phạm điều-giới nói lời chia rẽ, tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ làm cho mọi người trong kinh-thành Rājagaha chia rẽ nhau, làm mất sự đoàn kết trong thời quá-khứ.
TÍCH NGẠ-QUỶ ĐẦU HEO
Một thuở nọ, Đức-Phật ngự ở tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy Đức-Phật đề cập đến loài ngạ-quỷ đầu heo trong tích sūkarapetavatthu(1) được tóm lược như sau:
Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực. Trên đường từ núi Gijjhakūṭa đi xuống, đến một nơi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna nhìn thấy loài ngạ-quỷ thật là kỳ quái, rồi Ngài mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi rằng:
- Kính thưa pháp-phuynh Mahāmoggallāna, do nhân- duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bảo rằng:
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Bây giờ tôi chưa thể trả lời được. Pháp-hữu chờ khi chúng ta cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, tôi sẽ trả lời cho pháp-hữu rõ.
Hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực. Sau khi độ vật thực xong, hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đến ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha, vào đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân-duyên nào mà pháp- huynh mỉm cười?
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trả lời rằng:
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Khi ấy tôi nhìn thấy một ngạ-quỷ thật là kỳ quái, nó cao khoảng 3 gāvuta (1) thân hình của nó giống người, cái đầu giống đầu heo, trong miệng của nó có mọc một cái đuôi, các con giòi chảy ra từ miệng. Tôi chưa từng thấy một loài ngạ-quỷ kỳ quái như vậy. Đó là nhân-duyên làm cho tôi mỉm cười.
Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Như-Lai có nhãn-thông nhìn thấy được loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái ấy, đúng sự thật như vậy.
Trước đây, chính Như-Lai cũng đã từng gặp ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái ấy, nhưng Như-lai chưa cho các con biết có loài ngạ-quỷ như vậy, bởi vì Như-Lai nói ra, nếu người nào không tin Như-Lai thì điều ấy sẽ đem lại sự bất lợi, làm họ khổ lâu dài.
Bây giờ, Moggallāna nhìn thấy ngạ-quỷ ấy nên Như- Lai truyền dạy cho các con biết rõ.
- Này chư tỳ-khưu! Moggallāna nhìn thấy và thuật lại loài ngạ-quỷ ấy có thân hình kỳ quái như vậy là hoàn toàn đúng với sự thật.
Lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, chư tỳ-khưu bạch hỏi Đức-Phật rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào mà kiếp hiện-tại này là loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái như vậy? Bạch Ngài.
* Đức-Phật truyền dạy về tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ ấy là người phạm điều-giới nói lời chia rẽ giữa hai Ngài Trưởng-lão có giới-đức trong sạch trong thời-kỳ Đức- Phật Kassapa, được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa (thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20.000 năm), hai Ngài Trưởng-lão rất thương yêu kính mến nhau, cùng sống chung trong một ngôi chùa làng. Vị Trưởng-lão lớn có 60 hạ và vị Trưởng-lão nhỏ có 56 hạ, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ hết lòng tôn kính Ngài Trưởng-lão cao hạ.
Hằng ngày, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cung kính làm mọi phận sự như đem nước uống, nước dùng, quét dọn, giặt y,... cho Ngài Trưởng-lão cao hạ.
Khi Ngài Trưởng-lão cao hạ đi khất thực, thì Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ mang y và bát theo sau ... Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ làm mọi phận sự như một vị sa-di cung kính phục vụ vị thầy của mình.
Hai Ngài Trưởng-lão sống chung hòa thuận với nhau như hai anh em ruột cùng cha mẹ sinh ra.
Một hôm, có một vị pháp-sư đến chùa, nhằm vào ngày thuyết pháp, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư thuyết pháp tế độ hai Ngài Trưởng-lão.
Sau khi lắng nghe pháp xong, hai Ngài Trưởng-lão phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ.
Ngày hôm sau, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư cùng đi vào xóm làng để khất thực. Sau khi thọ thực xong, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư thuyết pháp tế độ những thí-chủ.
Nghe pháp rất hoan hỷ, những người thí-chủ kính thỉnh vị pháp-sư mỗi ngày đi khất thực, để họ có cơ hội tốt cúng dường vật thực và nghe pháp.
Sau khi trở về chùa, vị pháp-sư nghĩ rằng: “Hai Ngài Trưởng-lão này dễ dạy, những thí-chủ nơi đây có đức- tin nơi ta, vậy ta nên tìm cách làm cho hai Ngài Trưởng- lão bỏ ngôi chùa này đi nơi khác, một mình ta ở tại ngôi chùa này, ta sẽ được nhiều lợi ích biết dường nào.”
Sau khi suy nghĩ xong, lén tìm đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão cao hạ, vị pháp-sư bịa chuyện thưa với Ngài Trưởng-lão cao hạ rằng:
- Thưa Ngài Trưởng-lão, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài nữa.
Ban đầu, Ngài Trưởng-lão cao hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.
Rồi lại lén tìm đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ, vị pháp-sư bịa chuyện thưa với vị Trưởng-lão nhỏ hạ rằng:
- Thưa Ngài Trưởng-lão, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, Ngài Trưởng-lão cao hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài nữa.
Ban đầu, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.
Vị pháp-sư cố gắng bịa chuyện nói như vậy nhiều lần, khiến gây ra sự ngờ vực giữa hai Ngài Trưởng-lão, rồi từ ngờ vực phát sinh hiểu lầm nhau, dẫn đến tin rằng: ‘Điều mà vị pháp-sư nói có lẽ là sự thật.’
Như thường ngày, đến giờ đi khất thực, Ngài Trưởng- lão nhỏ hạ đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão cao hạ xin nhận mang y bát theo sau, nhưng sáng hôm ấy Ngài Trưởng-lão cao hạ không cho Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ nhận y bát của mình, mỗi Ngài Trưởng-lão đi khất thực riêng rẽ.
Khi xảy ra sự bất bình giữa hai Ngài Trưởng-lão với nhau, cả hai Ngài Trưởng-lão đều bỏ ngôi chùa đi mỗi người mỗi hướng, một Ngài Trưởng-lão đi về hướng Đông, còn Ngài Trưởng-lão khác đi về hướng Tây.
Chỉ còn lại một mình vị pháp-sư đi vào xóm làng để khất thực, những người thí-chủ bạch hỏi đến hai Ngài Trưởng-lão ấy, vị pháp-sư nói rằng:
- Ngày hôm qua, hai Ngài Trưởng-lão ấy có chuyện bất hòa, cãi cọ với nhau, bần sư đã cố gắng hết sức khuyên bảo giải hòa nhưng không được, cho nên hai Ngài Trưởng-lão đã đi khỏi ngôi chùa, mỗi người mỗi hướng.
Ngài Trưởng-lão cao hạ nghĩ rằng: “Ác-nghiệp của vị nhỏ hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với ta.”
Và Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng nghĩ rằng: “Ác- nghiệp của vị cao hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với ta.”
Vì vậy, hai Ngài Trưởng-lão mỗi vị đi một đường suốt 100 năm, tâm của hai Ngài Trưởng-lão không được an-lạc.
Một hôm, Ngài Trưởng-lão cao hạ đến tạm trú tại một ngôi chùa. Về sau, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng ghé vào tạm trú tại ngôi chùa ấy. Ngẫu nhiên hai Ngài Trưởng-lão gặp lại nhau.
Ngài Trưởng-lão cao hạ nhận biết Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ, và Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng nhận biết vị Trưởng-lão cao hạ, hai Ngài Trưởng-lão vô cùng cảm động và đều trào nước mắt.
Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ đảnh lễ Ngài Trưởng-lão cao hạ xong, rồi bạch rằng:
- Kính bạch pháp-huynh, trong thời gian trước đây, pháp-đệ đã cung kính phục vụ pháp-huynh, nếu có phạm những lỗi nào làm phật ý pháp-huynh thì pháp-đệ xin thành tâm sám hối. Kính xin pháp-huynh có tâm từ, tâm bi tha thứ lỗi cho pháp-đệ.
Nghe Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ kính bạch như vậy, Ngài Trưởng-lão cao hạ suy xét kỹ rồi trả lời rằng:
- Này pháp-đệ! Pháp-huynh chưa từng thấy lỗi nào mà pháp-đệ đã mắc phải.
- Kính bạch pháp-huynh, nếu thật như vậy thì tại sao pháp-huynh nói xấu pháp đệ với vị pháp-sư, và khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với pháp-đệ?
Ngài Trưởng-lão cao hạ khẳng định rằng:
- Này pháp đệ! Pháp-huynh không bao giờ nói như vậy với vị pháp-sư ấy. Và chính vị pháp-sư đã nói với pháp-huynh rằng:
“Pháp-đệ nói xấu pháp-huynh với vị pháp-sư ấy, và khuyên vị pháp-sư không nên thân cận với pháp-huynh.”
Nghe Ngài Trưởng-lão cao hạ nói như vậy, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ khẳng định chắc chắn rằng:
- Kính bạch pháp-huynh, pháp-đệ không bao giờ dám nói xấu pháp-huynh với vị pháp-sư và cũng không bao giờ khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với pháp-huynh.
Ngay lúc ấy, hai Ngài Trưởng-lão mới hiểu rõ rằng:
“Vị pháp-sư có mưu đồ đen tối bịa chuyện nói lời chia rẽ, gây ra sự hiểu lầm giữa hai Ngài Trưởng-lão huynh đệ thân thiết như ruột thịt, làm cho hai Ngài Trưởng-lão giận hờn nhau bỏ đi mỗi vị một hướng, để ngôi chùa lại cho vị pháp-sư.”
Bây giờ, đã hiểu biết rõ như vậy, nên hai Ngài Trưởng-lão sám hối lẫn nhau, tình huynh đệ trở lại thương yêu kính mến nhau như xưa.
Hai Ngài Trưởng-lão cùng dẫn nhau trở về ngôi chùa cũ, vị pháp-sư giả vờ tỏ vẻ vui mừng đón rước, nhưng do đã biết rõ thái độ giả dối của vị pháp-sư, nên hai Ngài Trưởng-lão nói rằng:
- Này vị pháp-sư! Ngài không còn xứng đáng ở tại ngôi chùa này nữa, Ngài hãy đi nơi khác.
Biết âm mưu của mình đã bị bại lộ, vị pháp-sư liền đi ra khỏi chùa ngay tức thì.
Vị pháp-sư đã xuất gia suốt thời gian lâu năm trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa. Tuy vị pháp-sư thuyết pháp hay, nhưng đã phạm điều-giới nói lời chia rẽ hai Ngài Trưởng-lão có giới-đức.
Sau khi vị pháp-sư chết, khẩu ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy trong ác-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa- ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài, rồi từ cõi đại-địa-ngục đến các cõi tiểu- địa- ngục, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, cũng do ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm ngạ-quỷ có hình thù kỳ quái đầu heo như vậy.
Vị pháp-sư thuyết pháp hay, xuất gia lâu năm trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, nhưng vì phạm điều-giới nói lời chia rẽ hai Ngài Trưởng-lão có giới đức, đã tạo ác- nghiệp nặng cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa- ngục rồi đến các cõi tiểu-địa-ngục, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian vẫn chưa thoát khỏi cõi ác-giới.
NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI NÓI LỜI THÔ TỤC
TÍCH NGÀI TRƯỞNG-LÃO JAMBUKA
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy Đức-Phật đề
cập đến tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Jambuka (1) đã phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, một người thí-chủ giàu có nhiều của cải có đức-tin nơi Tam-bảo, cho xây cất một ngôi chùa xong, rồi thỉnh vị tỳ-khưu làm trụ trì tại ngôi chùa ấy và xin hộ độ 4 thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, ...
Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đến độ ngọ tại nhà thí- chủ. Một hôm, một Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là bậc Thánh A-ra-hán đi khất thực đến đứng trước cổng nhà người thí-chủ ấy, Ngài Trưởng-lão có lục căn thanh-tịnh thật đáng tôn kính.
Nhìn thấy Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, người thí- chủ liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng- lão, người thí-chủ ra tận cổng, kính thỉnh Ngài Trưởng- lão vào trong nhà, thỉnh Ngài Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng vật thực đến Ngài Trưởng-lão khách- Tăng một cách cung kính.
Nhìn thấy tấm y của Ngài Trưởng-lão đã cũ, người thí-chủ xin phép kính dâng đến Ngài Trưởng-lão tấm y mới. Thấy tóc Ngài Trưởng-lão hơi dài, người thí-chủ xin phép gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài Trưởng-lão. Người thí-chủ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão đến nghỉ tại chùa, và xin phép mang một chiếc giường đến kính dâng lên Ngài Trưởng-lão.
Vị tỳ-khưu trụ trì đang ngồi trong nhà thí-chủ, theo dõi nhìn thấy người thí-chủ hết lòng thành kính đối với Ngài Trưởng-lão khách-Tăng như vậy, phát sinh tâm ganh tỵ, nên nghĩ rằng:
“Tuy mới gặp vị khách-Tăng này nhưng người thí-chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ đến như thế. Còn ta đến đây độ ngọ mỗi ngày, mà ta đâu có được người thí- chủ tôn kính ân cần phục vụ như vậy đâu.”
Người thí-chủ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khách- Tăng đến nghỉ tại ngôi chùa, cung kính tiễn đưa Ngài Trưởng-lão khách-Tăng và vị tỳ-khưu trụ trì trở về chùa.
Người thí-chủ kính dâng một tấm y mới đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài, kính dâng đến Ngài một chiếc giường, rồi kính thỉnh Ngài sử dụng chiếc giường ấy để cho thí-chủ có được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Người thí-chủ kính thỉnh vị tỳ-khưu trụ trì và Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sáng ngày hôm sau đến nhà ông độ ngọ. Người thí-chủ cung kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão khách-Tăng và vị tỳ-khưu trụ trì, rồi xin phép trở về nhà.
Theo dõi thấy người thí-chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ chu đáo Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ không sao chịu nổi được, nên vội vàng đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão, buông lời chửi mắng Ngài Trưởng-lão là bậc Thánh A- ra-hán 4 điều là:
- Này ông khách-Tăng!
* Ông nên ăn phân hơn là độ vật thực của nhà thí-chủ.
* Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí-chủ.
* Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí-chủ.
* Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí-chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.
Nghe lời chửi mắng như vậy, Ngài Trưởng-lão khách- Tăng nguyện rằng:
“Xin cho vị tỳ-khưu trụ trì này đừng có bị tai-hại.”
Ngài Trưởng-lão khách-Tăng nghỉ lại một đêm tại ngôi chùa ấy, khi thức dậy, từ sáng sớm Ngài Trưởng- lão đã lặng lẽ đi ra khỏi chùa du hành đến nơi khác.
Sáng ngày hôm sau ấy, sau khi làm mọi công việc trong chùa xong, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ trì dùng ngón tay búng nhẹ vào cái chuông báo hiệu giờ đi khất thực, rồi một mình đi đến nhà người thí-chủ.
Người thí-chủ đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ trì xong, bèn bạch rằng:
- Kính bạch Ngài, Ngài đến đây một mình, còn Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sao chưa thấy đến. Bạch Ngài.
Vị tỳ-khưu trụ trì bảo rằng:
- Này ông thí-chủ! Xin ông đừng nhắc đến vị khách- Tăng ấy nữa. Hôm qua, sau khi ông trở về, vị khách- Tăng ấy vào phòng ngủ. Sáng nay sư thức dậy sớm làm mọi công việc quét dọn sạch sẽ bên trong, bên ngoài chùa, lấy nước uống, nước dùng... xong, đến giờ đi khất thực, sư đã đánh chuông báo hiệu, mà vẫn chưa thấy vị khách-Tăng ấy thức dậy, cho nên một mình sư đến đây.
Người thí-chủ nghĩ rằng:
“Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là Bậc có Tăng tướng thanh-tịnh, đáng tôn kính như vậy, thì chắc chắn không phải là Bậc mê ngủ như vị tỳ-khưu trụ trì đã nói.
Có lẽ vị tỳ-khưu trụ trì thấy ta hết lòng tôn kính, ân cần phục vụ chu đáo đặc bịêt Ngài Trưởng-lão khách- Tăng, cho nên vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ mà bịa chuyện nói xấu Ngài Trưởng-lão khách-Tăng ấy.”
Người thí-chủ kính dâng vật thực cơm bơ đặc biệt đến vị tỳ-khưu trụ trì độ xong, đem bát rửa sạch sẽ, rồi để vật thực cơm bơ đặc biệt ngon vào bát, mang đến kính dâng vị tỳ-khưu trụ trì và bạch rằng:
- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài hoan hỷ mang bát vật thực này về chùa dâng lại cho Ngài Trưởng-lão khách- Tăng. Bạch Ngài.
Vị tỳ-khưu trụ trì nhận lấy bát vật thực, trên đường về chùa vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:
“Nếu vị ấy có được vật thực ngon như thế này, thì sẽ ở mãi ngôi chùa của ta, không dễ gì chịu đi nơi khác.”
Nghĩ xong, vị tỳ-khưu trụ trì đem cái bát đầy vật thực ấy đổ bỏ, rồi mang cái bát không trở về chùa.
Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ trì đi vào chỗ ở không thấy Ngài Trưởng-lão khách-Tăng nữa.
Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm hối hận, nóng nảy khổ tâm, cho nên, thực-hành pháp-hành thiền- định, hoặc pháp-hành thiền-tuệ không thể phát triển được, bởi vì vị tỳ-khưu trụ trì phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến Ngài Trưởng-lão khách- Tăng là bậc Thánh A-ra-hán.
Vị tỳ-khưu trụ trì đã phạm điều-giới nói lời thô tục, đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục, nên phát sinh tâm hối hận, nóng nảy, khổ tâm, duy trì sinh-mạng đến hết tuổi thọ.
Sau khi vị trụ trì ấy chết, ác-nghiệp nói lời thô tục ấy trong ác-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục suốt thời gian lâu dài, rồi từ cõi tiểu-địa-ngục này đến các cõi tiểu địa-
ngục kia, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, sau khi hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì ấy thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nhờ đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào một gia đình khá giả ở trong kinh- thành Rājagaha.
Đứa trẻ sinh ra đời được đặt tên là Jambuka, ác- nghiệp nói lời thô tục đối với bậc Thánh A-ra-hán trong tiền-kiếp cho quả thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla), kiếp hiện-tại, bé Jambuka lớn dần nó có những tính cá biệt như:
* Nó chỉ thích ăn phân của nó mà thôi, không chịu ăn món vật thực nào khác. Cha mẹ nó tưởng rằng:
“Trẻ con còn nhỏ dại không biết nên ăn bậy.”
* Nó chỉ thích nằm dưới đất mà thôi, không chịu nằm trên giường.
* Nó chỉ thích ở truồng mà thôi, không chịu mặc quần áo gì cả (mặc dù trời lạnh hay trời nóng).
Khi trưởng thành, cậu Jambuka thích ăn phân không chịu ăn các món ăn khác; thích ở truồng không chịu mặc quần áo; vẫn thích nằm trên mặt đất không chịu nằm trên giường.
Cha mẹ của cậu bàn bạc với nhau rằng:
“Jambuka đã lớn rồi, nhưng không biết hổ-thẹn, không biết mắc cở, nó thích ở truồng, không chịu mặc quần áo. Chúng ta nên cho Jambuka xuất gia theo phái tu-sĩ đạo lõa thể, thì sẽ thích hợp với nó hơn là sống tại gia với chúng ta.”
Cha mẹ dẫn cậu Jambuka đến phái tu-sĩ đạo lõa thể, xin cho cậu Jambuka được xuất gia theo phái này.
Phái tu-sĩ đạo lõa thể đồng ý chấp thuận cho cậu Jambuka xuất gia trở thành tu-sĩ trong phái họ với điều kiện bắt buộc Jambuka phải nhổ tóc cho sạch, không được cạo tóc.
Chấp nhận điều kiện ấy, cậu Jambuka tự nhổ sạch tóc, rồi được xuất gia trở thành tu-sĩ lõa thể.
Cha mẹ của tu-sĩ Jambuka mời tất cả tu-sĩ lõa thể đến nhà để dùng cơm vào ngày hôm sau.
Sáng ngày hôm sau, tất cả nhóm tu-sĩ đều đến nhà cha mẹ của Jambuka,nhưng tu-sĩ Jambuka xin phép ở lại tu viện một mình.
Thấy tất cả nhóm tu-sĩ vừa đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đến hầm cầu dùng 2 bàn tay hốt phân ăn no đủ. Khi nhóm tu-sĩ trở về có mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng Jambuka không thọ nhận mà thưa rằng:
- Con đã dùng vật thực no đủ rồi.
Và những ngày kế tiếp... Jambuka vẫn xin phép ở lại tu viện một mình ăn phân no đủ. Nhóm tu-sĩ mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng lần nào Jambuka cũng không nhận phần ăn ấy mà thưa rằng:
- Con đã dùng vật thực no đủ rồi.
Nhóm tu-sĩ phát sinh tâm hoài-nghi rằng:
“Tại sao tu-sĩ Jambuka không dùng vật thực mà chúng ta đem về? Vật thực mà Jambuka dùng mấy hôm vừa qua có từ đâu? Chúng ta nên cho người dò xét xem để biết sự thật.”
Cũng như mọi ngày, tất cả nhóm tu-sĩ lõa thể ra khỏi tu viện đi khất thực, nhưng đặc biệt hôm ấy còn hai vị tu-sĩ lõa thể ở lại ẩn vào một chỗ kín đáo làm phận sự theo dõi tu-sĩ Jambuka có vật thực từ đâu.
Thấy tất cả tu-sĩ lõa thể đã đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đi đến hầm cầu dùng 2 tay hốt phân ăn no đủ rồi đi ra, không hề hay biết có người đang theo dõi mình.
Khi nhóm tu-sĩ đi khất thực trở về, hai vị tu-sĩ làm phận sự theo dõi tu-sĩ Jambuka trình bày sự thật mà họ đã tận mắt nhìn thấy cho mọi người cùng nghe.
Nghe xong như vậy, nhóm tu-sĩ lõa thể bàn bạc với nhau rằng:
“Nếu chúng ta để Jambuka ở lại nơi đây, không sớm thì muộn đệ-tử của Sa-môn Gotama hay biết, chắc chắn chúng ta sẽ mất uy tín, tiếng xấu sẽ lan tỏa ra khắp mọi nơi. Vậy chúng ta nên đuổi Jambuka ra khỏi tu viện.”
Tu-sĩ Jambuka bị đuổi ra khỏi tu viện, đi đến trú ở một nơi gần tảng đá, chỗ để cho mọi người đi đại tiện.
Buổi tối, tu-sĩ lõa thể Jambuka lén đến nơi đó lấy phân ăn, còn ban ngày y đứng một chân, một chân kia chống vào đầu gối và một tay vịn vào tảng đá há miệng ngửa mặt nhìn trời.
Một số đông người qua lại gặp tu-sĩ lõa thể Jambuka thực-hành hạnh lạ thường nên đến gặp tu-sĩ lõa thể Jambuka bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Ngài! Tại sao hằng ngày Ngài đứng há miệng như vậy?
Tu-sĩ Jambuka đáp rằng:
- Này quý vị! Ta là người dùng vật thực bằng gió, chỉ có gió là vật thực của ta mà thôi. Ngoài vật thực gió ra ta không dùng một thứ vật thực nào khác.
- Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng một chân, còn một chân kia chống vào đầu gối như vậy?
- Này quý vị! Ta là người thực-hành hạnh cao thượng, hạnh này có nhiều thần-lực. Nếu ta đứng cả 2 chân trên mặt đất thì sẽ làm cho mặt đất này rung chuyển. Vì vậy, ta chỉ đứng một chân mà thôi, còn chân kia chống vào đầu gối, suốt ngày đêm không ngồi, không nằm.
Một số đông người thiểu trí, mê tín tin theo lời của tu- sĩ Jambuka, họ tán dương ca tụng, cho đó là hạnh phi thường chưa từng thấy bao giờ.
Một số đông dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem nhiều phẩm vật đến cúng dường, nhưng tu-sĩ Jambuka không nhận một thứ nào cả.
Tu-sĩ Jambuka ở truồng, ăn phân, nằm trên mặt đất, nhổ tóc trải qua suốt 55 năm ròng rã.
Đức-Phật ngự đến tế độ tu-sĩ Jambuka
Vào canh chót đêm ấy, sau khi xả đại-bi định, Đức- Phật suy xét với tâm đại-bi xem chúng-sinh nào có duyên lành nên tế độ. Đức-Phật thấy tu-sĩ Jambuka hiện rõ trong màng lưới trí-tuệ của Đức-Phật. Tu-sĩ Jambuka có duyên lành trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ phân-tích, đồng thời có 84.000 chúng-sinh cũng được chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn cùng với tu-sĩ lõa thể Jambuka.
Sáng hôm ấy, Đức-Phật ngự vào kinh-thành Rājagaha cùng chư tỳ-khưu-Tăng để khất thực, khi trở về Đức- Phật gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda dạy rằng:
- Này Ānanda! Như-Lai sẽ ngự đi một mình đến tế độ tu-sĩ Jambuka.
Chư-thiên biết Đức-Phật sẽ ngự đến chỗ ở dơ bẩn của tu-sĩ Jambuka, cho nên, chư-thiên làm một trận mưa lớn
để rửa sạch nơi ấy, làm cho các loại cây đều trổ hoa tạo một phong cảnh sạch mát, xinh đẹp.
Buổi chiều hôm ấy, Đức-Phật ngự đến gặp tu-sĩ Jambuka xin nghỉ trọ một đêm. Tu-sĩ Jambuka một mực khước từ, y nói rằng:
- Thưa Sa-môn, nơi đây không có chỗ cho Sa-môn nghỉ trọ một đêm đâu, xin Sa-môn hãy đi đến nơi khác.
Đức-Phật bèn hỏi Jambuka rằng:
- Này Jambuka! Ngươi có phải là tu-sĩ lõa thể không?
Tu-sĩ Jambuka khẳng định trả lời rằng:
- Thưa Sa-môn, tôi là tu-sĩ đạo lõa thể.
- Này Jambuka! Những thứ vật dụng của tu-sĩ đạo lõa thể của ngươi để đâu mà Như-lai không thấy?
Nghe Đức-Thế-Tôn hỏi như vậy, tu-sĩ Jambuka nổi giận, nói như xua đuổi rằng:
- Này Sa-môn! Nơi đây không có chỗ để Sa-môn nghỉ trọ đâu.
- Này Jambuka! Xin đừng nổi giận, xin ngươi chỉ cho Như-Lai một chỗ ở.
- Này Sa-môn! Sa-môn tự tìm lấy chỗ ở.
Đức-Phật ngự đến một nơi không xa chỗ ở của tu-sĩ Jambuka, Đức-Phật trải tọa cụ ngồi nhập thiền.
Canh đầu đêm, Tứ-đại-Thiên-vương từ 4 hướng cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, ánh sáng hào quang của Tứ-đại-thiên-vương tỏa ra khắp một vùng trời. Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:
“Ánh sáng hào quang gì vậy, 4 vị chư-thiên ấy là vị nào mà đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
Canh giữa đêm, Đức-vua trời Sakka cõi Tam-thập- Tam-thiên ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, ánh sáng hào quang tỏa ra khắp vùng rộng lớn hơn canh đầu đêm.
Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:
“Ánh sáng hào quang này lớn hơn lần trước, vị chư- thiên ấy là vị nào có oai lực hơn 4 vị chư-thiên trước đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
Vào canh chót đêm, một vị Đại-Phạm-thiên có ánh sáng hào quang gấp bội hơn hai lần trước, làm sáng tỏa cả khu rừng rộng lớn, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật. Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:
“Vị chư-thiên ấy là vị nào mà có ánh hào quang gấp bội hơn hai lần trước, đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy, chắc chắn vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
Sáng hôm sau, tu-sĩ Jambuka đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn bèn bạch rằng:
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh đầu đêm hôm qua, 4 vị chư-thiên nào từ 4 hướng đến hầu đảnh lễ Ngài, 4 vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng như vậy? Bạch Ngài.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Jambuka! 4 vị ấy là Tứ-đại-Thiên-vương từ 4 hướng của cõi trời Tứ-đại-thiên-vương.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả Tứ-đại-thiên-vương.
- Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn Tứ- đại-Thiên-vương, cho nên, Tứ-đại-Thiên-vương đến hầu hạ Như-Lai.
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh giữa đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
- Này Jambuka! Vị ấy là Đức-vua trời Sakka trị vì cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn Đức-vua trời Sakka.
- Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn Đức- vua trời Sakka, cho nên, Đức-vua trời Sakka như người nuôi bệnh của Như-Lai, hay như một sa-di nhỏ hầu hạ Như-Lai.
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh chót đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa khắp một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
- Này Jambuka! Vị ấy là vị Đại-Phạm-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả vị Đại-Phạm-thiên.
- Này Jambuka! Như-Lai là bậc cao thượng hơn cả vị Đại-Phạm-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, Ngài là Bậc cao thượng. Tôi thực-hành hạnh cao thượng, chỉ đứng một chân, còn chân bên kia chống vào đầu gối, không ngồi, không nằm, ngửa mặt lên trời dùng gió làm vật thực trải qua 55 năm rồi, mà không có một chư-thiên nào đến hầu hạ tôi cả.
Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy tu-sĩ Jambuka rằng:
- Này Jambuka! Ngươi lừa dối được những người mê tín nhưng ngươi không thể lừa dối được Như-Lai đâu!
- Này Jambuka! Có phải trải qua suốt 55 năm, hằng ngày ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc. Thế mà ngươi đã lừa dối những người mê tín rằng:
“Ngươi ăn vật thực bằng gió, đứng một chân, không ngồi, không nằm.”
Nay, ngươi còn muốn lừa dối cả Như-Lai nữa hay sao?
Trong tiền-kiếp của ngươi đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán, nên kiếp hiện-tại này ngươi phải chịu quả khổ của khẩu ác- nghiệp ấy còn dư sót, cho nên, ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc.
Bây giờ ngươi còn chấp thủ do tà-kiến thấp hèn như vậy được nữa hay sao?
Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, tu-sĩ Jambuka kính thỉnh Đức-Thế-Tôn rằng:
- Kính bạch Đại Sa-môn, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục nào mà con đã tạo trong tiền-kiếp quá khứ của con? Bạch Ngài.
Đức-Phật thuyết giảng về tiền-kiếp của tu-sĩ Jambuka được tóm lược như sau:
Tiền-kiếp của tu-sĩ Jambuka đã từng là vị tỳ-khưu trụ trì một ngôi chùa đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục, mắng nhiếc bậc Thánh-A-ra-hán trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa rằng:
* Ông nên ăn phân hơn là độ vật thực của nhà thí-chủ.
* Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí-chủ.
* Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí-chủ.
* Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí-chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.
Lắng nghe về khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán của mình như vậy, tu-sĩ Jambuka phát sinh động tâm và vô cùng hổ-thẹn tội-lỗi của mình, liền ngồi chồm hổm xuống.
Đức-Phật trao cho một tấm vải choàng tắm đến tu-sĩ Jambuka, tu-sĩ cung kính nhận tấm vải rồi mặc vào, đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.
Đức-Phật thuyết pháp tế độ Jambuka. Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, tu-sĩ Jambuka liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán, cùng với tứ-tuệ phân-tích, lục-thông.
Đặc biệt đồng thời ngay khi ấy, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cũng đã mãn quả của ác-nghiệp ấy, hết hiệu lực cho quả xấu nữa.
Tu-sĩ Jambuka kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tu-sĩ Jambuka có đủ phước- thiện đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ, nhất là kiếp tỳ-khưu trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa suốt 20.000 năm, có lời phát nguyện, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh như thần thông, nên Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ, rồi truyền dạy rằng:
“Ehi bhikkhu! cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”(1)
- Này Jambuka! Con hãy đến đây, con được trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Con nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng dẫn đến tận cùng của sự khổ sinh.
Sau khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt, tướng mạo của tu-sĩ Jambuka liền biến mất. Và ngay khi ấy, Jambuka trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, và có tăng tướng trang nghiêm như một Ngài Trưởng- lão có 60 hạ.
Như mọi ngày, dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem những lễ vật đến cúng dường tu-sĩ Jambuka.
Hôm ấy, mọi người đến gặp Đức-Phật tại nơi ấy, nên họ nghĩ rằng:
“Không biết Sa-môn Gotama cao thượng hơn tu-sĩ Jambuka, hay tu-sĩ Jambuka vị thầy của chúng ta cao thượng hơn Sa-môn Gotama?”
Biết được sự hoài-nghi của người dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha tại nơi ấy, Ngài Trưởng-lão Jambuka xin Đức-Phật cho phép Ngài Trưởng-lão nhập đệ tứ thiền, biến hóa phép-thần-thông bay lên hư không cao khoảng một cây thốt nốt, rồi kính bạch rằng:
“Satthā me Bhante Bhagavā, Sāvakohamasmi.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là vị Tôn-sư của con, và con là hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn.
Khi bạch xong, Ngài Trưởng-lão Jambuka đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Phật.
Một lần nữa, Ngài Trưởng-lão Jambuka bay lên cao khoảng 2 cây thốt nốt, 3 cây thốt nốt, ..., 7 cây thốt nốt, ... rồi bạch như lần trước xong, đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Phật.
Mọi người đã thấy và nghe rõ lời của Ngài Trưởng-lão Jambuka cho nên không còn hoài-nghi nữa. Mọi người đồng tán dương ca tụng ân-Đức-Phật thật là phi thường.
Khi ấy, Đức-Phật thuyết một bài kệ, vừa chấm dứt bài kệ, 84.000 chúng-sinh đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín- pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
NGHỆ SĨ CHUYÊN NGHIỆP SẼ CÓ HẬU QUẢ NHƯ THẾ NÀO?
Những nghệ sĩ chuyên nghiệp ca hát, nhảy múa, đánh đàn, v.v... những tài tử là diễn viên trên sân khấu, những nghệ sĩ biểu diễn xiếc, v.v... Những người này sống nuôi mạng sống bằng nghệ thuật ấy.
- Có phải là chánh-ngữ hay không?
- Có phải là chánh-nghiệp hay không?
- Có phải là chánh-mạng hay không?
- Hậu quả của họ như thế nào?
NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ
Để hiểu rõ những vấn đề này, nên tìm hiểu bài kinh Tālapuṭasutta (1) Đức-Phật truyền dạy ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy, một nghệ sĩ nhảy múa ca hát tên Tālapuṭa Naṭagāmaṇi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xong ngồi một nơi hợp lẽ bèn bạch hỏi Đức-Phật rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đã từng nghe lời dạy của nghệ sĩ tài hoa, giỏi về tài nghệ nhảy múa ca hát, những người ấy là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối nói rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, về điều này, Đức-Thế-Tôn truyền dạy như thế nào? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Gāmaṇi! Con không nên hỏi Như-Lai về điều ấy.
Lần thứ nhì..., lần thứ ba, ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi cũng bạch hỏi như trước rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan-hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này Gāmaṇi! Như-Lai đã dạy bảo con rằng: “Con không nên hỏi Như-Lai về điều ấy.”
Nếu con muốn biết thì Như-Lai sẽ trả lời cho con biết rõ rằng:
- Này Gāmaṇi! Những người chưa diệt được tâm tham, bị phiền-não tham dục chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài nghệ trình diễn, nhảy múa, ca hát, ... là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm tham say mê trong những đối tượng ấy.
Những người chưa diệt được tâm sân, bị phiền-não sân hận chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài nghệ trình diễn,... là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm sân trong đối tượng ấy.
Những người chưa diệt được tâm si, bị phiền-não si mê chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài trình diễn,... là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, nghe phát sinh tâm si lầm lạc trong đối tượng ấy.
Chính người nghệ sĩ tài nghệ ấy cũng say mê, dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp. Cho nên, sau khi người nghệ sĩ ấy chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục gọi là cõi địa ngục Pahāsa (pahāso nāma nirayo).
- Này Gāmaṇi! Nếu người nào hiểu rằng: “những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ)” thì đó là sự sai lầm của người ấy.
- Này Gāmaṇi! Như-Lai truyền dạy rằng:
Đối với người hiểu sai lầm ấy, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 2 cõi ác- giới: sinh làm chúng sinh trong cõi địa-ngục hoặc sinh làm loài súc-sinh.
Khi nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, nhà nghệ sĩ có tài nhảy múa ca hát tên là Tālapuṭa Naṭagāmaṇi nước mắt trào ra, khóc tức tưởi.
Ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi cung kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không phải khóc do điều mà Đức-Thế-Tôn đã dạy con, mà con đã khóc tức tưởi, bởi vì những nghệ sĩ có tài nghệ nhảy múa, ca hát,... là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối đã lừa con từ lâu rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá!
- Kính bạch Đức Thế Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá!
Đức-Thế-Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang đi lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, nơi Đức- Pháp và chư tỳ-khưu Tăng.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được xuất gia sa-di và tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Thế-Tôn.
Sau đó ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi được xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Tālapuṭa một mình ở nơi thanh vắng tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Vấn: Các nghệ sĩ tài giỏi ưu tú đã phạm điều-giới nào, đã tạo ác-nghiệp nào mà sau khi họ chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục hoặc sinh làm loài súc-sinh như vậy ?
Đáp: 8 điều-giới trong bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, các nghệ sĩ có tài nghệ ưu tú sống trong tài nghệ điêu luyện nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú, v.v... nếu phạm điều- giới trong bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla thì phạm điều-giới nói lời vô ích.
Thật vậy, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú có tác-ý làm cho thính giả, khán giả nghe, xem say mê thích thú với tài nghệ điêu luyện của mình; và thính giả, khán giả nghe, xem bị thu hút vào màn trình diễn của các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú ấy, mua vui chốc lát, rồi họ không được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nào trong sự nghe, sự xem ấy, chỉ có tâm tham phát sinh trong vai diễn viên, có tài hát hay, diễn nhập vai như thật, làm cho người xem, người nghe say mê, thích thú; hoặc tâm sân phát sinh trong vai diễn viên đóng vai ác nhập vai như thật, làm cho người xem, người nghe tưởng như thật, nên phát sinh tâm sân không vui trong vai diễn ấy.
Cho nên, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú làm cho khán giả, thính giả mê hồn trong vai diễn của mình, không đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nào cả. Vì vậy, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú đã phạm điều-giới nói lời vô ích, tạo ác-nghiệp nói lời vô ích.
-oo0oo-
(1) Bộ Saṃyuttanikāya, phần Nidānavagga, kinh Sūcilomasutta.
(2) Bậc Thánh A-ra-hán nhìn thấy ngạ-quỷ kỳ quái bằng nhãn thông, không phải bằng mắt thường. Ngài mỉm cười bởi vì Ngài tự biết rõ chắc chắn Ngài đã thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ như vậy. Và Ngài biết rõ chỉ có Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng-sinh mà thôi.
---
(1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Maggavagga, Tích Sūkarapetavatthu.
(1) 1 gāvuta = 5.120, 64 mét.
---
(1) Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Jambukattheravatthu.
---
(1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Jambukattheravatthu.
---
(1) Saṃyuttanikāya, phần Sālāyatanavagga, kinh Tālapuṭasutta.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.