LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
Trích: "Chọn Đường Tu Phật"
Trùng Quang Cư Sĩ
Chương này góp nhặt những biến chuyển tồi tệ đã xảy ra sau khi Phật Gotama nhập Niết-bàn.
Phật tịch vừa bảy ngày, đã phát sanh triệu chứng suy đồi. Số là, khi Phật đi hóa độ về miền Kusinara. Đại đức Kassapa (Ca-Diếp) cũng dắt 500 đồ đệ theo về hướng ấy.
Khi đi gần đến Kusinara, trong lúc dừng chân nghỉ mát. Đại đức Kassapa được tin người đi đường cho hay rằng Phật Gotama đã nhập diệt được bảy hôm rồi. Ngày ấy là ngày đức vua Malla cử hành đại lễ trà tỳ9. Khi hay tin Phật đã tịch diệt, các thầy tỳ khưu khóc lóc, thương tiếc đức Thầy. Trong ấy có một người lão niên xuất gia, tên Subhatā, đứng ra khuyên giải: “Này chư huynh đệ, chớ nên buồn thảm làm chi, hôm nay đức Thầy Gotama đã hóa ra người thiên cổ rồi, chúng ta không còn ai la rầy và bó buộc trong chế độ nghiêm khắc quá lẽ. Chúng ta sẽ được tự do hành động, ấy là một điều hạnh phúc, các bạn thương tiếc nỗi gì mà khóc than”.
Đại đức Kassapa nghe được rất lo ngại cho tiền đồ Phật giáo. Tuy không nói ra chớ cũng lập tâm duy trì chánh pháp, không cho hư hoại, nên sau khi dự lễ trà tỳ và chia xá lợi rồi được ba tháng, ngài triệu tập các vị Thinh văn đại A- la-hán tại thành Rājagaha (Vương-Xá) để ôn cố các lời giáo huấn của đức Thế Tôn, hầu nhắc nhở tăng chúng hành theo, gọi là Hội nghị Kết tập Pháp bảo lần đầu tiên10.
Một trăm năm sau, tại xứ Vesali (Tỹ-da-lị), có một nhóm thầy tỳ khưu gọi là nhóm Vajjiputta sanh tâm sửa đổi 10 điều luật của Phật. Trong 10 điều sửa đổi ấy, có hai điều quan trọng: Phật dạy các thầy tỳ khưu không được thọ thực lúc quá ngọ và không được cảm xúc hoặc thọ lãnh tiền bạc châu báu. Các thầy Vajjiputta sửa lại: Dầu quá ngọ các thầy cũng còn ăn được, và nếu có ai cho tiền bạc, các thầy được tự do thọ lãnh. Vì vậy mà hiện nay, các thầy tu theo nhóm Vajjiputta có thể ăn chiều, ăn tối, ăn khuya và tích trử tiền bạc, thâu góp lúa ruộng để tự ý tiêu xài. Nếu biết trọng giới luật, thì các thầy tỳ khưu chỉ được phép ăn trong khoảng từ mặt trời mọc đến đứng bóng thôi, và không cất giữ vật thực để dành ngày mai. Tiền bạc cũng chẳng được rờ đụng, huống hồ là thọ lãnh.
Còn tám điều sửa đổi khác về sự cất giữ đồ ăn như muối, ăn nơi này rồi còn đi ăn nơi khác, ở chung một chùa mà làm lễ phát lồ riêng theo bè đảng, không chịu chờ đợi cho đủ mặt tăng chúng để sám hối tội lỗi, hành đạo theo thói quen không kể kinh luật, uống rượu non chưa đúng chữ, ăn rồi mà còn đi kiếm sữa nguội để uống thêm, dùng tọa cụ không đúng thể thức của bậc tu hành. Các điều sửa đổi nói trên tuy không mấy trọng yếu, chớ cũng là một khởi điểm trên bước đường trụy lạc của nhóm tăng đồ không theo Chính pháp, khiến cho đoàn hậu tấn phải chịu ảnh hưởng tối đen đến ngày nay, mà mấy ai biết được nguyên do.
Đại đức Yassa thấy vậy sợ Phật pháp suy đồi, nên triệu tập Hội nghị Thánh tăng tại Vesali để kết tập kinh luật kỳ nhì, và thảo luận 10 điều sửa đổi của nhóm Vajjiputta. Chư tăng bác bỏ, không công nhận 10 điều phi pháp ấy, nhưng nhóm Vajjiputta không chịu tuân theo.
Sự chia rẽ tăng đồ bắt đầu từ đây. Phái Đại đức Yassa, gồm các vị Thánh tăng và phàm tăng chơn chánh, cố gìn giữ nguyên vẹn thực hành kinh luật của Phật di truyền, gọi là phái Theravāda (Bảo Thủ). Phe các thầy Vajjiputta, tự đem mình ra khỏi hệ thống Tăng già, mạnh ai nấy tự do canh cải kinh luật, lần lần họ lập ra chế độ riêng tư, phân phái nhiều tôn chỉ khác nhau. Các nhóm này gọi chung là phái Acariyavadā (Tân Tiến).
Y như lời tiên đoán của Đại đức Yassa, sự sửa đổi 10 điều luật của nhóm Vajjiputta đưa Phật pháp lần đến chỗ suy vong. Cho nên xứ nào bị ảnh hưởng của nhóm tà sư phản bội Vajjiputta truyền thống lưu lại, thì hình thức và chế độ Tăng già11 chẳng còn một mảy may nào giống theo khuôn khổ chế định của Phật Tổ Gotama.
Giới luật sửa đổi được, đến kinh pháp cổ truyền họ cũng phế bỏ, để theo về với triết lý huyền học của Bà-la-môn giáo và những lý lẽ biện hộ cho sự hư hỏng trụy lạc của họ, nào là cố chấp giới luật là hạ căn ngu xuẩn12; tự mình chưa được độ, mà trước nhất phải lo độ người13, dụng huyễn độ chơn14. Tóm lại, họ thiên về đường ngụy biện, luận giải triết lý cho nhiều mà chẳng bày được cho người đời một đạo chánh đáng để cầu sự giải thoát. Họ cố khuyến khích tín đồ ỷ lại nơi thần quyền, cúng tế cầu đảo, phú thác tương lai cho những tha lực mù mờ.
Phái Tân Tiến của nhóm Vajjiputta chia nhau đi truyền bá học thuyết sai lạc trong các nước thuộc miền Bắc Ấn Độ, lần lần đến Tây Tạng, rồi sang qua Cao Ly, Trung Hoa, Nhựt Bổn. Các nhà sư đến đâu, tùy theo sự tín ngưỡng và phong tục của mỗi xứ, chế biến thêm bớt kinh luật cho tiện bề thâu thập tín đồ. Khi truyền bá đến Tây Tạng, các thầy thâu nhập thêm môn phù chú, qua Trung Quốc gia nhập Đạo giáo, Khổng giáo làm ra Tam giáo hiệp nhứt là NhoThích-Đạo.15 Nhờ hai chữ “Phương tiện”, họ quy tụ được tín đồ đông dày, nên phái Tân Tiến tự cho họ cái danh hiệu là Mahāyāna (Đại thừa).
Đây nói qua phái Theravāda (Bảo Thủ) từ khi chia rẽ hai phái, và thấy phái Tân Tiến tràn lan lên miền Bắc Ấn Độ, họ lại truyền bá về phương Nam, để tránh sự xung đột, lần lần sang qua Lăn Ca, Thái Lan, Miến Điện, Ai-Lao, Cao Miên. Nhân mỗi phái đi mỗi hướng, nên có chỗ gọi phái Tân Tiến là Bắc tôn, phái Bảo Thủ là Nam tôn.
Phái Bảo Thủ vì trung thành với giáo pháp của Phật Gotama, lo nghiêm trì giới luật, gìn giữ cổ điển để bảo tồn Phật pháp, mà nghiêm trì giới luật là một điều phiền phức khó khăn16, nên chẳng mấy ai theo nổi cho bền bỉ. Vì vậy mà sự hoằng dương không được mau chóng, số tăng đồ và tín đồ rất ít. Nhân đó phái Tân Tiến mới đặt cho phái Bảo Thủ danh hiệu là Hinayana (Tiểu thừa)17 cố ý để khinh bỉ và thường hay kích bác chê bai, cho phái Bảo Thủ là ích kỷ nhị thừa18.
Từ khi hai bên chia rẽ nhau, phái Bảo Thủ tìm nơi thuận cảnh, ẩn náu chuyên lo tu niệm giải thoát không quan tâm đến hành vi của nhóm Vajjiputta. Cho nên mặc dù nhóm này nổi lên công kích dữ dội nhóm của Đại đức Yassa, họ vẫn không hay biết, hoặc có hay biết đi nữa, cũng nhịn nhục giả lơ điếc, một mực giữ phận bảo tồn Chánh pháp bằng sự thực hành y theo Tam tạng Pháp bảo của chư Thinh văn La-hán kết tập.
Trong phái Tân Tiến của nhóm Vajjiputta có nhóm thiên về Luật, có nhóm thiên về Kinh, phần đông lại thiên về Luận. Những nhóm tu theo Kinh theo Luật có lẽ vì quen theo đường cũ trước ngày chia rẽ, hoặc kém tài năng, nên bị các thầy chuyên về Luận khinh bỉ, liệt họ vào hàng Tiểu thừa, hoặc Trung thừa, còn các thầy thì tự xưng là Đại thừa, hoặc Tối Thượng thừa. Sự chia rẽ này phát sanh trong chỗ đua nhau lập giáo đặng tranh giành quyền lợi cùng uy tín của tín đồ. Nhờ thiên tài xuất chúng, học thức uyên thâm, các Luận sư chuyên giải những pháp sâu xa bí ẩn, lạm dụng những giả thuyết hư huyền của Bà-la-môn giáo, gây ra một cuộc đấu tài luận biện giữa phái Tân Tiến, chẳng khác nào một trận trường kỳ luận chiến: Thầy trò nối tiếp nhau, đời này qua đời nọ, truyền bá ca tụng đạo pháp mình và chỉ trích mạt thị giáo lý đối lập.
Cuộc luận chiến giữa các nhà sư Ấn Độ kéo dài từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IV (kỷ nguyên này) thì chấm dứt, dường như hết tác giả biệt tài. Giữa thời kỳ nói trên (thế kỷ thứ II), nhờ có vua Yuetchi Kaniska xứ Purusapuri sùng mộ Phật giáo dục lòng chư tăng chỉnh đốn kinh sách, nên các ngài gom tất cả những tác phẩm của các vị Tổ sư ba phái kết tập làm Tam tạng Pháp bảo Tân Tiến. Sự kết hợp này là lần đầu tiên mà cũng là lần chót. Thật ra chẳng phải là một sự kết tập Pháp bảo của Phật Tổ Gotama, như hai kỳ hội nghị của các bậc Thánh tăng “vô học” do Đại đức Kasspa và Yassa triệu tập. Đây chỉ là một sự thu thập những tác phẩm về Kinh, Luật, Luận của các thầy Tân Tiến trong ba phái viết ra làm nền tảng cho đạo giáo của họ.
Khi Phật giáo Tân Tiến được truyền bá qua Trung Hoa lại có thêm nhiều vị Tổ sư khác ra đời lập giáo. Các ngài canh cải tôn chỉ Tân Tiến Ấn Độ theo phong tục tập quán người Tàu, viết ra nhiều bộ kinh luận mới, được liệt vào Tam tạng Tân Tiến đã phiên dịch ra Hán văn. Tam tạng này không nhất định rằng mỗi tạng có mấy bộ, mỗi bộ có mấy pháp môn, mỗi pháp môn có mấy chữ như Tam tạng Bảo Thủ. Thành ra sau này có vị Tổ sư nào viết ra bao nhiêu kinh luận đều được liệt vào Pháp bảo, vì đó mà sau lại, ngoài kinh, luật, luận Sanskrit (Bắc Phạn) của các vị Tổ sư Ấn Độ, trong phái Tiểu- Trung-Đại thừa viết ra, người ta tự tiện thêm vào những tác phẩm chữ Hán của các vị Tổ sư Trung Hoa và Nhựt Bổn. Tam tạng Tân Tiến không có số Kinh, Luật, Luận nhất định như Tam tạng Bảo Thủ, dầu cho có hạn định cũng tùy số kinh sách thu góp trong thời kỳ soạn giả in ra, chẳng phải do nơi Hội nghị Tăng chúng nào quyết định cả, bởi Tân Tiến kết tập một lần một, trong thế kỷ thứ hai tại xứ Purusapuri (Ấn Độ) như đã nói trên. Kinh sách ba thừa đã kết tập làm một Tam tạng, thành ra Phật giáo Tân Tiến gồm cả Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa. Hiện giờ Tiểu thừa và Trung thừa không còn kế tự nên Đại thừa hưởng trọn gia tài triết lý ba thừa, như con một của ba dòng.
Trong khi thừa nhận giáo lý của hai phái Hạ thừa làm của chung cho nền đạo giáo mình, tăng đồ Đại thừa Trung Hoa và Nhựt Bổn vẫn giữ cái quy luật cũ của các vị Tổ sư Ấn Độ Tân Tiến, là tiếp tục chê bai, khinh thị các phái đàn em, để nâng cao giá trị mình. Nghĩ lại cũng hổ thầm, hổ vì mình không đủ tư cách là anh cả trong gia đình. Đã giành phần làm anh lại được hưởng cả gia tài sự nghiệp, còn ức hiếp nỗi gì mà phải lên giọng cho ra người ta khiếm nhã, trong khi chẳng bị ai biếm nhẽ hoặc tranh giành ngôi thứ Đại thừa của mình. Chỉ vì chỗ các vị Tổ sư tự nhắc mình lên cao và có lẽ cũng tự thấy cái cao của mình không ai công khai thừa nhận, hoặc trong khi lên giọng chê bai đàn em mà chẳng thấy ai dĩ hơi phản đối, họ tự thấy bị khinh ngầm mà sanh tâm thù hiềm ganh ghét chăng? Tiếc một điều là trong mấy thế hệ, từ trên đến dưới chẳng ai biết tông chi tộc phái của gia đình Phật tử, cứ gây ra mầm chia rẽ với đàn em, không người kế tự. Phật giáo Đại thừa gồm các phái sau:
- Tiểu thừa Tân Tiến: Vaibhāshika (Câu- Xá tông) Ấn Độ,
- Sautrāntika (Thành Thật tông) Ấn Độ, Vinaya (Luật tông) Ấn Độ.
- Trung thừa Tân Tiến: Madhyamika (Tam Luận tông), Vijnānavada hay là Yogācāra (Duy thức hay Pháp tướng tông) Ấn Độ.
- Đại thừa Tân Tiến: Avatamsaka (Hoa Nghiêm tông) Ấn Độ, Dhyana (Thiền tông) Ấn Độ, Thiên Thai tông Trung Hoa, Chơn Ngôn tông Trung Hoa, Tịnh Độ tông Trung Hoa, Chơn tông Trung Hoa, Pháp Hoa tông Nhật Bổn.
Trong khi Tân Tiến tranh giành nhau lập giáo và chia thừa, nhóm Bảo Thủ cố duy trì nên đạo pháp nguyên thủy của Phật Tổ Gotama di truyền. Nếu cần phải đặt nhóm Bảo Thủ trong một thừa nào, thì có thể gọi nhóm ấy là Phật Thừa.
Cũng đồng là môn đồ Phật giáo, mà Tân Tiến và Bảo Thủ thờ hai chủ nghĩa khác nhau một trời một vực. Tân Tiến thực hành theo tôn giáo Đa thần, thờ Phật Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Ngọc hoàng, Diêm chúa, Địa Tạng, Quan Công, Tiêu Diện, Hộ Pháp v.v... ưa thích triết lý huyền ảo, lấy sự ăn chay19 làm trọng, lấy Tam tạng Bắc Phạn (Sanskrit) và Hán văn làm nền tảng. Bảo Thủ chủ trương chống thuyết Đa thần, chỉ nhìn nhận Phật Gotama là Giáo chủ, chú trọng về giới luật, căn cứ vào Tam tạng Nam Phạn (Pāḷī).
Tam tạng Pāḷī này khác hẳn với Tam tạng Tân Tiến về mọi phương diện:
- Xưa kia Phật Tổ Gotama dùng toàn tiếng Magadha là tiếng phổ thông trong thời kỳ ấy, nên sau lại chư Thánh tăng kết tập dùng thứ tiếng ấy, đến khi chép ra cũng dùng thứ tiếng phổ thông là chữ Pāḷī của xứ Magadha, chớ không có dùng chữ Sanskrit, chữ này là chữ của dòng Ba- la-môn giữ độc quyền sử dụng.
- Tam tạng Pāḷī được kết tập nhiều lần, mỗi khi có triệu chứng suy đồi hoặc có sự biến chuyển quan trọng có thể sai lạc Chánh pháp: lần thứ nhất, 3 tháng sau khi Phật nhập Niết-bàn do 500 vị A-la-hán tại Rajagaha; lần thứ nhì, 100 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn do 700 vị A- lahán tại Vesali; lần thứ ba, 218 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn do 1000 vị A-la-hán tại Patalliputta, hiện giờ là Patna; lần thứ tư, 514 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn, do 500 vị Thượng tọa Tích Lan, tại Malaya, lần này Hội nghị kết tập Tam tạng quyết định viết ra trên lá thốt nốt; lần thứ năm, 2414 năm sau khi Phật viên tịch do 2400 vị Tỳ khưu Miến Điện, tại Mandalay và khắc toàn bộ Tam tạng trên 729 bia đá cẩm thạch; hiện giờ tại Rangoon cho tới ngày kỷ niệm năm thứ 2500 của Phật lịch (là 2500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn) cho hoàn thành Kỳ kết tập thứ sáu này sẽ được khánh thành ngày 23 tháng 5 năm 1956, vía Phật nhập Niết-bàn.
- Tam tạng Pāḷī toàn là Phật ngôn do chư vị Thánh Tăng thuộc nằm lòng, đọc lại trong ba kỳ kết tập đầu, đúng theo số pháp môn, theo số chữ, và theo thứ tự nhất định của Hội nghị thứ nhất. Đến lần thứ tư, chư tăng nhận thấy đạo quả Tứ thánh lần lần giảm bớt, sợ phàm tăng không đủ trí tuệ nằm lòng tròn đủ Tam tạng, nên viết ra bằng chữ, để ngày sau dễ bề dò xét, khi có kết tập, hầu tránh sự canh cải của các nhà sư trụy lạc.
Các lời chú giải của chư vị A-la-hán cũng viết ra chữ, nhưng không được liệt vào Tam tạng Pháp bảo, cho nên dầu có vị tăng nào nuôi mộng lập giáo, làm Tổ sư cũng không thể được.
Tân Tiến và Bảo thủ chia rẽ nhau về hai phương diện tôn giáo và triết lý.
Tôn giáo ‒ Phật giáo nguyên Thủy chẳng đề cập đến thần linh, tạo hóa. Phật Gotama chẳng hề dạy đệ tử thờ một thần linh nào cả. Bỏ tục lệ thờ cúng, tức là không nhìn nhận thuyết thần học của Bà-la-môn giáo, là thuyết chuyên dạy về cúng tế thần linh. Đức Phật cũng chẳng hề đặt mình vào để thay thế cho vị thần linh nào và cũng không bắt buộc tín đồ thờ Ngài.
Trước giờ nhập diệt tại Kusinara. Nhân có đủ hạng trời và người nô nức đến thành tâm lễ bái cúng dường Thế Tôn, Ngài mới gọi Ānanda lại di chúc rằng: “Này Ānanda, sau khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ có những người thương tưởng Như Lai, bằng cách sùng bái chiêm ngưỡng trọng thể như hiện giờ. Tôn kính Như Lai như thế ấy, chẳng gọi tôn kính bằng cách cao thượng đâu. Này Ānanda, tỳ khưu, tỳ khưu ni, thiện nam, tín nữ nào cố tâm thực hành đúng đắn theo giáo pháp của Như Lai, ấy mới gọi là tôn kính Như Lai bằng cách cao thượng vậy.”
Thuở ấy, có nhiều người đinh ninh rằng bậc Chánh đẳng Chánh giác chẳng bao giờ chết, nên sau khi hay tin đức Phật đã định ngày giờ nhập diệt20, họ lấy làm ngạc nhiên, tìm đến hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn, Ngài là bậc hoàn toàn giác ngộ, mà Ngài cũng không thoát khỏi tay tử thần hay sao?” Phật đáp: “Này các con, những cái chi đã sinh thì phải diệt là lẽ thường.”
Bởi cớ ấy phái Bảo Thủ xem đức Phật như một người đã tiến hóa đến mức cùng tột, cao cả hơn loài người và chẳng hề tôn phong Ngài là bậc Thần. Nhưng đây chỉ nói về phương diện học lý. Về mặt thực hành, phái Bảo Thủ cũng không tránh khỏi sự thờ phượng đức Phật Gotama và để Ngài chiếm cả gầm trời Phật giáo. Ý nghĩa sự thờ cúng đức Phật bằng nhang đèn và các thứ bông hoa, chẳng ngoài sự biết ơn đối với vị Giáo chủ. Kim thân Phật đối với phái Bảo Thủ là tượng trưng của đức từ bi, bác ái nên họ không tưởng tượng rằng sự tôn thờ vị Giáo chủ của họ là trái nghịch với giáo lý vô thần.
Đi ngược với giáo pháp ấy chính là phái Tân Tiến. Phật Tổ Như Lai không tự xưng là một vị thần, vì đó mà phái Tân Tiến chẳng hề tạo tượng thờ Ngài21. Trái lại họ thờ chẳng biết bao nhiêu Phật quá khứ, vi lai, Bồ tát và những thần linh mà họ cho rằng quyền sửa đổi số mạng, ân xá tội lỗi và cứu vớt họ về nơi Cực lạc. Tưởng Phật cũng như thần linh, nên họ cúng tế đủ thứ xôi chè, bánh trái, cơm nước và tiêu phí chẳng biết bao nhiêu giấy tiền vàng bạc. Hằng năm họ gửi trước vào ngân khố của Diêm Vương cả vạn ức đồng “vãng sanh”, mong ngày kia dùng thế lực kim tiền để trông cậy thần linh sửa đổi luật nhân quả. Phải chăng, trước khi vong kỷ độ tha, đầu tiên phải cầu thân cho có tha lực gia hộ?
Phật Gotama dạy những phương pháp tự độ, chẳng bao giờ hứa độ ai. Ai khôn cứ tự đi theo con đường của Ngài đã vạch sẵn, thì ngày kia họ sẽ đến chỗ giải thoát. Bằng chẳng vậy, Ngài cũng không có quyền lực nào cứu vớt ra khỏi luân hồi. Thế thì cầu Ngài và thờ Ngài, mà chẳng hành theo giáo pháp của Ngài, tưởng cũng vô ích. Lúc Ngài còn tại thế, nhiều môn đệ đã không ưa vì Ngài nghiêm minh quá lẽ. Sau khi Ngài viên tịch, họ cố quên Ngài. Trách sao ở Ấn Độ, là nơi Ngài ra đời khai đạo, chẳng còn mấy ai tưởng nhớ đến Ngài. Các chùa Tân Tiến không thờ Ngài cũng không ngoài lẽ nói trên. Không thờ, mà các thầy Tân Tiến còn viết sách bịa đặt rằng sự canh cải của họ, những sự thờ cúng ông Phật này, bà Phật nọ, đều do nơi lời chỉ dạy của Phật Gotama22.
Như chữ Buddha (Phật Đà), theo lập thuyết của Tân Tiến là tuệ giác trường tồn, ứng hiện mọi nơi, biến hóa vô cùng trong thời gian và không gian, khi biến làm ông Phật này, lúc hóa ra vị Bồ tát nọ. Hơn nữa, Phật là người đã thành, chúng sanh sẵn có Phật tánh, nên ai ai cũng sẽ thành Phật23. Trong thời gian qua rồi và sẽ đến, ắt có vô số người thành Phật. Bởi đó nên Tân Tiến lập ra một vạn thần miếu, thờ đủ Phật quá khứ, vị lai. Phật vị lai chưa ra đời, mà họ cũng tạo tượng thờ và đặt ra những kinh sám, ngày vía, ngày giỗ. Ngoài các vị Phật, các vị Bồ tát, họ còn thờ các vị Jhāni Bouddhas (Thiền na Phật) là những vị Phật do các ông thiền sư trừu tượng trong lúc công phu hành đạo. Người ta còn ước đoán rằng mỗi vị Phật thật, đều có một vị Thiền na đối ứng, như Phật Amitabha (Di Đà) là Thiền na của Phật Gotama vậy. Người ta còn đặt ra một ngôi cao cả hơn nữa là Adi-Bouddha (Bố Di Sơ Phật)24 để tế độ quần sanh. Nhờ thuyết ấy, một lúc nọ Tân Tiến trở thành nhất thần giáo, trong một thời gian, rồi vì tập quán cũng huờn trở lại Đa thần giáo đến ngày nay.
Các vị Phật quá khứ, vị lai, Thiền na, Bồ tát và Bố Di Sơ Phật nói trên thuộc về trừu tượng phi thường, chẳng phải như Phật Gotama, là một vị Phật có thật.
Chữ Bouddha theo Bảo Thủ là một danh từ phổ thông dành riêng cho các vị Chánh đẳng Chánh giác ba đời, và nhất là để chỉ danh hiệu Phật Tổ Gotama, là bậc thông thấu lý Tứ diệu đế mà Ngài đã đem ra giáo hóa chúng sanh.
Danh từ Boddhisatta (Bồ tát hay Bồ đề Tát đỏa), theo Tân Tiến có nhiều nghĩa. Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đây là tôn chỉ của Bồ tát. Những người mê đạo, đều nhiệt liệt hoan nghênh chủ nghĩa cao thượng này, và cương quyết thệ nguyện giữ hạnh Bồ tát, mong ngày kia làm Phật Tổ Như Lai. Kẻ có óc suy nghĩ, lại rụt rè trước bổn nguyện vĩ đại ấy. Đã vậy, họ nghĩ một cách mỉa mai rằng: thân này chưa độ, mong độ thân nào? Lời nói vừa nghe qua, thấy nó thấp hèn ích kỷ làm sao, nhưng nó bắt buộc suy nghĩ. Và sau khi để ý nhòm ngó những người tu hạnh Bồ tát, từ bậc xuất gia đến hàng cư sĩ rõ là họ năng thuyết bất năng hành. Các nhà sư còn phải lo tu, lo học chưa xong, lâu lâu họ giảng cho một thời kinh, một câu kệ để trả ơn áo cơm cho tín đồ. Nhiều khi những lời đạo đức của họ không đi đôi với việc làm là khác.
Về phần tín đồ thì khỏi nói. Cha mẹ vợ con, gia đình và thân sống của họ, họ độ không rồi, mong gì độ ai. Ngoài đời họ còn phải chạy theo danh lợi quyền tước; vào chùa họ còn ỷ lại nơi sự ủng hộ của thần linh.
Trong muôn vạn người họa may tìm ra được vài ông Bồ tát xuất gia hoặc tại gia. Bậc cao thượng này thường hành sáu pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Các vị Bồ tát nói trên, khi đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác, dòm lại thấy chúng sanh còn chìm đắm trong bể khổ luân hồi, đem lòng từ bi, không vội nhập Niết- bàn, như hạng ích kỷ nhị thừa là Thinh văn Duyên giác, nên tự nguyện luân chuyển theo các loại chúng sanh để tế độ họ.25 Chừng nào tất cả chúng sanh thành Phật rồi26, các vị Bồ tát đó mới thành Phật. Như thuở giờ có Bồ tát Quan Âm lo việc cứu khổ, cứu nạn cho giới tín đồ Phật giáo, và Bồ tát Địa Tạng thường ra vô trong các cửa địa ngục độ những tội nhân về miền lạc cảnh.
Theo trên thì Tân Tiến có hai dạng Bồ tát: Hạng thứ nhất gồm cả tăng đồ và tín đồ, là Bồ tát xuất gia và tại gia; hạng thứ nhì là Bồ tát thuộc giới siêu hình, như Quan Âm và Địa Tạng thường thị hiện ở thế gian, chờ cơ hội thuận tiện tế độ chúng sanh, mà chúng sanh ấy chẳng ai khác hơn là những người tu Phật, tức là các Bồ tát xuất gia và tại gia nói trên. Vì lẽ đó mà người ta thường thờ cúng các vị Bồ tát ấy, để nhờ ân huệ của các Ngài.
Quan niệm về hai chữ Bồ tát của Bảo thủ lại khác hẳn: Theo Phạn ngữ Pāḷī, chữ Bodhisatta có nghĩa như vầy: bodhi là giác, satta là chúng sanh hữu tình. Bodhisatta là một hạng chúng sanh có nhiều trí tuệ. Khi sanh vào cầm thú thì làm chúa bầy, và nhờ có nhiều trí tuệ, nên thường cứu vớt đồng loại thoát những điều rủi ro tai hại. Nếu sanh làm người thì đứng vào bậc thông minh, sáng suốt và chúng sanh này rất ít có trong đời; bởi họ sẵn có tác ý lành đối với vạn vật muôn loài, và luôn luôn tìm dịp làm lợi ích cho nhân quần xã hội, không vọng cầu danh lợi, không ngã mạn tự cao, không khinh bỉ kẻ khác. Khi làm một việc chi, nếu bị chê bai hay ngợi khen, họ vẫn tự nhiên không đem lòng phiền trách, cũng không tỏ dấu vui mừng. Người như thế gọi là bậc cao nhơn; đời kiếp nào cũng tinh tấn hành 10 pháp pāramī (ba-la-mật) không thối chuyển:
1. Danaṃ: Bố thí, là đem của cải, hoặc Phật pháp cho chúng sanh.
2. Silaṃ: Trì giới, là gìn giữ thân khẩu cho trong sạch, hoặc không phạm điều luật răn cấm của Phật.
3. Nekhammaṃ: Xuất gia, là sự đi tìm đạo đức cao thượng, hoặc dứt bỏ gia đình đi tu.
4. Paññā: Trí tuệ, là thông suốt cả các pháp.
5. Viriyaṃ: Tinh tấn, là cố gắng tu hành không thối chuyển.
6. Khanti: Nhẫn nhục, là cố gắng chịu điều sĩ nhục hoặc nhẫn nại trong các sự trở ngại.
7. Saccaṃ: Chơn thật, là ngay thật không gian trá.
8. Adhitthanaṃ: Chí nguyện, là cố đạt được những điều mong mỏi trong lòng.
9. Mettā: Bác ái, là hiền lành, thương xót, không nóng giận oán thù.
10. Upekkha: Xả, là không vui không buồn. Các vị Bồ tát hành đủ pháp thập độ nói trên trong ba bực: pāramī: đáo bỉ ngạn (đến bờ kia), upapāramī: đến bờ trên, paramatthapāramī: đến bờ cao thượng. Tổng cộng thành tam thập độ (30 độ). Ba bậc này chỉ về ba bậc hy sinh để hành tròn đủ 10 pháp ba-la-mật nói trên. Ba cách hy sinh ấy là: hy sinh tài sản, vợ con; hy sinh tay, chơn, mắt, mũi, thịt; và hy sinh mạng sống. Pháp thập độ này là pháp gieo trồng trí tuệ để chứng một trong ba quả Bồ đề: Sammāsambodhi: Chánh đẳng Chánh giác; Paccekabodhi: Duyên giác; Savakabodhi: Thinh văn giác.
Tóm lại, theo Bảo Thủ thì Bồ tát thuộc hạng chúng sanh, chuyên hành pháp thập độ trong ba bực không thối chuyển, trãi qua vô lượng kiếp luân hồi. Khi hành được viên mãn, thì đắc một trong ba quả Bồ đề nói trên, tùy theo nguyện vọng của mình. Trong vô lượng kiếp luân hồi, vừa tự mình tiến hóa, vừa dắt dẫn chúng sanh hữu duyên27 với mình tiến hóa theo, gọi là tự giác giác tha. Một khi đạo đầy quả đủ, độ chúng sanh trong kiếp chót, đến thời kỳ xác thân tiêu hoại nhập Niết-bàn là nhiệm vụ đã trọn đủ rồi, không dư không thiếu28 và cũng không tái sanh trở lại, hay thị hiện độ ai nữa.
Với hai chữ “thị hiện”, tín đồ bị dắt dẫn ra khỏi sự thật, để hướng vào huyền bí. Cho nên có thuyết nói rằng Bồ tát Siddhatta. Khi ra đời tại Kapilavastu, thì Ngài đã thành Phật rồi. Đã thành Phật, sao còn lầm lạc trong sáu năm khổ hạnh?
Phật Gotoma đã tịch diệt gần 25 thế kỷ rồi, nếu không nói Ngài còn thị hiện đây đó, thì lý thuyết “độ tận chúng sanh” không đứng vững.
Triết lý – Phật Gotama đã nhiều phen nói rằng triết học đã giúp cho nhân loại một phương pháp nào để giải thoát những khốn khổ ở đời.
Triết học có nhiều thứ, nhưng nơi đây, dường như đức Phật ám chỉ riêng các thứ triết học về nguyên lý vũ trụ, về căn cội loài người, về thần bí và hình nhi thượng học, mà người Ấn Độ đã thâm nhiễm vào đời thượng cổ. Với những học thuật ấy, con người không tìm được phương châm nào để đưa mình lên chỗ siêu sanh an lạc, mà trái lại, họ bị vướng mắc trong những quan niệm siêu hình của Bà-lamôn giáo. Kết quả của học thuật ấy là mê tín, ỷ lại nơi thần quyền và say đắm theo luận thuyết mơ hồ, không căn cứ thiết thực.
Đức Phật biết rằng con người ít quan tâm đến việc thực tế, mà hay chú trọng về chuyện phi thường. Nhưng bầu tư tưởng của con người bao giờ cũng giới hạn, bởi óc trí phàm tục không thể suy nghĩ và biện xét ngoài phạm vi lý trí của mình. Người đời dầu có tài học rộng hiểu xa đến đâu, nếu không biết dùng những phương pháp chuyển hóa phàm trí thành thánh tuệ, để khai thông trực giác của mình, thì không thể nào khám phá những điều bí mật trên kia lằn mức thế gian. Chưa đủ trình độ diệt tận vô minh, người đời lại mong thám hiểm các giới thần bí vô hình, rồi chủ trương lấy khái niệm riêng tư của mình trong sự suy nghĩ, trừu tượng, để giải thích những lý luận bao la. Đã chẳng thâu được một lợi ích nào thiết thực cho đường tiến hóa, mà lại trở nên tà kiến, ngã mạn. Trong khi vơ vẫn trong rừng triết lý, lắm khi người ta chạm trán vào bức tường bí mật. Tới đó là cùng đường, bí lối, nhưng trong khi phàm tuệ không thể vượt qua ranh giới Thánh vức, người ta còn bướng bỉnh trừu tượng những giả thuyết gọi là “bất khả tư nghì”. Càng luận, càng giải, càng hiu hiu tự đắc, càng sai đường lạc nẻo, càng sanh ra ghen tỵ, mê tín, cố chấp, chia rẽ. Một khi lạc bước vào đường lối ấy, con người không còn đường hy vọng gieo duyên trong Phật pháp. Như sau khi đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đức Phật đến xứ Benares (Ba-Nại-Da) tìm năm anh em thầy Kiều Trần Như, dọc đường gặp thầy đạo sĩ Upaka. Thầy này thấy đức Phật liền phát tâm trong sạch đến chào hỏi: Bạch Sa-môn, oai nghi phong độ của Ngài thật chỉnh túc, trang nghiêm, chẳng hay Ngài thọ giáo với ai? Tôn sư của Ngài là người thế nào? – Đức Phật đáp bằng câu kệ rằng: “Người như ta đã suốt thông tam giới, hết còn bị các pháp chi phối, tận diệt ái dục, hoàn toàn giác ngộ, không còn ai là thầy của ta nữa”. Thầy Upaka là người có hân hạnh gặp Phật trước nhứt, và sau khi được Phật tự giới thiệu cho thầy biết, lẽ thì với tâm trong sạch đã phát khởi, thầy ân cần thỉnh giáo. Nhưng trái lại, thầy tỏ dấu kiêu ngạo, lắc đầu bỏ đi. Thầy Upaka đã sẵn có một đức Tôn sư và một giáo pháp để đưa thầy đến một ngôi vị có lẽ còn cao quý hơn ông Sa-môn này, thì cần gì phải cậy nhờ ông. Hơn nữa, biết đâu thầy sanh lòng ganh tỵ không muốn thấy ai giỏi hơn thầy.
Hiện giờ trong Phật giáo cũng có không hiếm thầy Upaka. Ngoài miệng họ vẫn ca tụng Phật Tổ Gotama, mà trong lòng họ lại tin tưởng một ông Giáo chủ khác và thực hành theo một đạo pháp khác. Chính đó là bức tường ngăn lấp con đường Niết-bàn. Biết như thế, nên ngoài triết lý của Phật Gotama là những Thánh giáo mà họ gìn giữ nguyên vẹn từ 25 thế kỷ nay, phái Bảo Thủ chẳng hề nghe triết lý nào khác, bởi trong thế gian chẳng có sự tiến bộ nào về luân lý và khoa học đưa người đến Niết-bàn. Chưa dùng được cái trực giác để chứng cái chơn lý tuyệt đối ấy, phái Bảo Thủ không vượt khỏi lời dạy của đức Phật Tổ Gotama và chư vị Thinh văn, La-hán quả.
Về Niết-bàn họ tạm hiểu chánh lý theo lời đức Phật và theo chú giải của chư La-hán, chẳng hề đem ra làm đầu để biện luận, bởi đạo quả Niết-bàn chỉ dành cho các bậc tu chứng do thiền định và minh sát tuệ, và khi chứng rồi các bậc này cũng không thể dùng danh từ nào mà giải thích cho người chưa khai thông trực giác hiểu được phần chơn lý tuyệt đối.
Theo Đại đức Anuradha (A-Nậu-Đa-La), thì Niết-bàn là sự phân ly lòng ái dục. Trong kinh Saṃyutta Nikāya, Đại đức Sāriputta (Xá-Lợi-Phất) giải cho ông Jambukhadaka rằng Niết-bàn là sự vụt tắt lửa tham, sân, si. Trong Visuddhimagga nói rằng khi Đại đức Sāriputta giải Niếtbàn là sự vụt tắt lửa tham, sân, si, thì ngài chỉ đề cập đến phương pháp đạt đạo quả Niết-bàn thôi.
Kinh sách Bảo Thủ ám chỉ Niết-bàn bằng tiếng Sopadisesa (Hữu dư Niết-bàn) và Anupadisesa (Vô dư Niết- bàn), nhưng chớ nên tưởng đó là hai thứ Niết-bàn. Hai tên khác nhau ám chỉ một đạo quả Niết-bàn của người còn sanh tiền và lúc viên tịch. Hữu dư Niết-bàn là trạng thái còn cặn bã, còn gốc, dùng trong khi một vị Thánh nhân đã đắc đạo quả, nhưng còn xác thân, là sợi dây liên kết đời hiện tại. Vô dư Niết-bàn là trạng thái hết gốc rễ, dùng trong khi các vị Phật và A-la-hán diệt độ.
Niết-bàn chẳng phải là trạng thái tuyệt diệt, nhưng đó gọi là viên tịch. Niết-bàn chẳng bị một nhân nào sanh ra, nó là tương đối với đời sống hiện tượng, với luân hồi. Nó là trường cửu, là hạnh phúc tuyệt đối phát sanh do nhờ đoạn tuyệt ái dục, khác với hạnh phúc thế gian là sự thỏa mãn của lòng tham dục.
Lý Niết-bàn của phái Bảo Thủ tạm hiểu sơ lược theo Tam tạng và chú giải của chư Thinh văn, La-hán, tóm tắt chỉ có bấy nhiêu. Chúng ta chớ nên ngộ nhận rằng trình độ của phái Bảo Thủ tới đây là cùng. Bát chánh đạo, gồm cả giới định huệ29, là con đường duy nhất của họ, cho nên thời buổi nào cũng có bậc tu chứng Niết-bàn. Nhưng khi đắc đạo quả rồi thì tự mình biết lấy, không thể đem ra giảng giải cho ai biết được. Bằng chưa chứng đạo quả, họ vẫn thủ phận hành trình theo Bát chánh đạo, để tiến đến mục đích cứu cánh, là trạng thái không thể giải thích bằng lời hay mô tả bằng sách. Tóm lại, phái Bảo Thủ chú trọng về phương pháp đạt đạo quả và chẳng hề biện luận về đạo quả.
Trái lại phái Tân Tiến nói rất nhiều về đạo quả hơn làị dạy cách thực hành để đạt đạo quả, cho nên họ thích luận giải về triết lý, là pháp học và ít thiêng về thiền định là pháp hành. Theo Tân Tiến, Niết-bàn có nhiều thứ:
- Niết-bàn tự tánh, là toàn thể pháp vắng lặng, bình đẳng. Phật và chúng sanh vốn như nhau.
- Niết-bàn còn dư chỗ nương dựa, là trạng thái giải thoát mê lầm, chấp trước, nhưng còn thân và tâm.
- Niết-bàn hết dư chỗ nương dựa, là trạng thái của bậc tu chứng, đã bỏ thân và tâm, trở về bản thể, như bậc Chánh đẳng Chánh giác.
- Niết-bàn không trụ, chỉ Phật và Bồ tát không trụ ở sanh tử, mà cũng không trụ ở Niết-bàn; không trụ ở sanh tử nên không gọi là tịch diệt. Không tịch diệt nhưng vẫn tịch diệt. Không ở Niết-bàn, nhưng chẳng phải sanh, chẳng phải sanh nhưng vẫn giáng sanh. Nên chẳng đồng với nghĩa viên tịch của nhị thừa30.
Tân Tiến lại còn nói rằng: Niết-bàn và luân hồi vẫn không hai: mê là luân hồi, giác là Niết-bàn. Căn cứ vào Thập nhị nhân duyên, Tân Tiến cho rằng vô minh là cái nhân31 làm xoay chuyển bánh xe luân hồi. Diệt được vô minh là diệt luân hồi, là Niết-bàn, cho nên đối với kẻ si mê, đó là luân hồi, đối với người giác ngộ, đó là Niết-bàn. Niết-bàn và luân hồi nào có khác nhau, nhưng phải hiểu rằng trong Niết-bàn chẳng có chi gọi là tiêu, là diệt.
Muốn đắc Niết-bàn, cứ diệt tận tư tưởng sai lầm. Vạn hữu toàn là không, kẻ nào tưởng đến cái có và cái không, chẳng bao giờ tiến đến cái ngừng nghỉ của luân hồi, của đời hiện tượng. Trong cái tuyệt đối, Niết-bàn vĩnh viễn không còn một pháp nào, dầu là tội lỗi, là nghiệp lực, hoặc đời sống cá nhân, hoặc các pháp tập hợp đều không tồn tại. Các pháp nói trên đều không có trong tuyệt đối, mà cũng chẳng hề có, ví như sợi dây trong bóng tối, bị lầm tưởng là con rắn. Khi đem đèn lại, người ta liền nhận sự lầm lạc và hết còn nghĩ đó là con rắn.
Sự ngộ nhận ấy chẳng chi khác hơn là ảo tưởng, là ái dục, là nghiệp, là sanh, là đời sống cá nhân. Chẳng có chi là tự chủ, là thật tướng, theo nghĩa của Niết-bàn tuyệt đối, và cũng chẳng có chi gọi là thật có theo nghĩa của luân hồi. Sợi dây bị ngộ nhận là rắn, nào phải con rắn thật, dầu trong bóng tối hay dưới ánh sáng. Vậy thì luân hồi nào phải có thật, chỉ những kẻ ngu độn, bị cái ta ám ảnh, nên họ tưởng rằng họ có thực thể riêng, thật ra chẳng có thực thể nào hết, chẳng khác nào kẻ bị đau mắt dòm thấy trước họ nào là tóc, là ruồi, là vật này vật nọ, kỳ dư chẳng có chi hết.
Niết-bàn chẳng phải là bờ bên kia, chẳng phải chết, nó là cơn tỉnh giấc mộng đau khổ, là dứt bịnh trí não, là thấy sự thật. Kinh Lankavatara nói rằng Niết-bàn chỉ có một, người nào hiểu hiện tượng là ảo mộng, không thật tướng, người ấy chứng Niết-bàn.31 Niết-bàn là thực tại, là rỗng không, là không ảo mộng chồng chất trên thực tại, không tương đối.
Niết-bàn và luân hồi không phải hai; sự vật cũng không hai. Không có Niết-bàn, trừ khi nào có luân hồi. Không có luân hồi, trừ khi nào có Niết-bàn. Kinh Prajna Paramita Hridaya Sutra nói năm uẩn đều không, chính năm uẩn là Niết-bàn, sắc thật không, không thật sắc, nghĩa là ngoài sắc không có không, ngoài không không có sắc. Người có năm uẩn, người là không không, người là thực tại, người là Niết-bàn vậy.
Tiềm lực phát sanh do sự suy tư tưởng sai lầm từ vô thủy, sanh ra ảo cảnh rồi cố chấp duy trì mãi mãi, cho nên tiềm thức phân biệt một thế giới chủ quan, bám chặt vào đó để nuôi nấng cái alaya vijnāna (A-lại-da-thức). Trong Hàm tàng thức này lại còn có những hột giống của vô số quan niệm cấu thành cái màng ảo mộng của luân hồi. Các hạt giống ấy là kết quả của những tư tưởng quá khứ, trở thành thói quen, trí nhớ, tự tác, tự động trong tiềm thức và thường phát lộ ra ngoài một cách bất ngờ. Luân hồi của ta hiểu không giống như sự thật, do tiềm lực sai lầm vô thủy, nên nó là ảo cảnh trong giấc mộng. Diệt tư tưởng sai biệt ấy, gọi là tỉnh giấc, là Niết-bàn.32
Ghi chú
9 Lễ hỏa táng.
10 Đại đức Kassapa làm chủ tọa; Đại đức Ananda (A-Nan) lãnh trọng trách lập lại các lời thuyết pháp, giảng đạo của Phật, gọi là tạng Kinh. Tạng kinh này chia làm hai phần, phần phổ thông là Kinh, phần vi tế là Vi diệu pháp mà người ta thường gọi là tạng Luận. Đại đức Upali (Ưu-bà-li) nhắc lại những quy tắc của Phật chế định cho hàng xuất gia và tại gia hành theo trong phạm vi đạo đức, gọi là tạng Luật.
11 Tiếng nói Tăng già chớ kỳ dư các thầy Tân Tiến sống rời rạc; không chịu đoàn kết để lập ra Giáo hội Tăng già, vì họ đã sống tự do, quen tu theo một lối riêng và không thích ai dòm ngó hành vi của họ.
12 Bậc tu cao, dù phạm điều giới luật nào cũng không tội lỗi vì tâm không cố chấp. Đây là nói càng nói bướng, bao giờ cũng chủ tâm trước rồi mới hành động sau, kêu là trí hành hiệp nhứt.
13 Tự mình chưa sáng mà phải lo khai sáng cho người, ấy mới từ bi bác ái.
14 Tu cách nào cũng được, ỷ lại nơi đâu cũng xong, khi chết cũng được làm Phật trên Liên đài. Dùng đủ ngón thiện xảo phương tiện để dắt dẫn tín đồ đi
lạc đã mấy ngàn năm, mà chưa thấy ai tỉnh ngộ trở về với Chánh pháp.
15 Họ không ái ngại đem Quan Công vào chùa làm Phật Già Lam. Một tướng của Lưu Bị đã giết người vô số kể, tu hồi nào mà thành Phật? Họ quên câu: ngũ giới bất trì nhơn thiên lộ triệt.
16 Tại gia hay xuất gia cũng lấy giới luật làm thầy.
17 Đại thừa là cổ xe lớn; chở nhiều người: Tiểu thừa là cổ xe nhỏ, chật hẹp, không chở được mấy người. Hội Phật giáo, hoàn cầu, trong phiên Đại hội kỳ nhứt, tháng 5 năm 1950, tại Tích Lan đã quyết định xóa bỏ tiếng Hinayana (Tiểu thừa), vì danh từ ấy biểu lộ tư cách đê hèn của bọn phá hoại Phật pháp, lại là một sự trở ngại trong sự đoàn kết tín đồ.
18 Nên cố ý xem trong kinh sách Đại thừa, nhiều nơi lộ vẻ khinh bỉ Tiểu thừa. Trái lại trong kinh Nam tông chẳng hề thấy đề cập đến môn phái nào cả.
19 Thay thế cho giới luật.
20 Ngày 15 tháng Giêng năm Tỵ, trong hang Pāvāceliya; Đức Thế Tôn định trong kỳ hạn ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết-bàn.
21 Chẳng biết trong chùa Tân tiến, tượng Bồ tát Siddhatha mới sinh ra, tay chỉ thiên, tay chỉ địa có ý nghĩa chi?
22 Với những câu: Như thị ngã văn (Ta có nghe như vậy), ai lại không am hiểu đó là lời của Ānanda. Có xem lịch sử mới nhận thấy ngón xảo quyệt của đám hậu duệ, kế thừa cho bọn Vajjiputta.
23 Thành Phật một cách dễ dàng, nhưng không có sử tích để lại như Phật Gotama vì người ta thành trong giờ lâm chung, không ai được hay biết.
24 Có sách dịch Adi- Buddba là A Di Đà Phật, thật không đúng.
25 Phật Tổ Gotama, mặc dầu đã độ chúng sanh trong vô số kiếp, nhất là trong kiếp chót, nhưng chúng sanh vẫn còn luân hồi mà Ngài lại vội nhập Niếtbàn, phải chăng Ngài thuộc hạng ích kỷ nhị thừa, như chư vị Thinh văn là đồ đệ của Ngài? Để giải quyết cái thắc mắc này, người ta nói tuy tịch rồi mà vẫn không tịch, bởi Ngài còn thị hiện giữa tín đồ cùng khắp cõi Ta-bà, chờ độ hết chúng sanh rồi mới vào an nghỉ trong Niết-bàn.
26 Đố ai biết chừng nào bánh xe luân hồi hết quay? Và chừng nào tín đồ của các tôn giáo bỏ đạo họ, để theo về với Phật giáo?
27 Chỉ những người có thiện cảm với mình, họ ưa thích nghe lời dạy dỗ, nghĩa là họ chịu để cho mình cảm hóa. Những kẻ vô duyên với mình, nói họ không nghe làm sao mà độ?
28 Nghĩa là độ tận chúng sanh mà mình đã từng gần gũi, giúp đỡ và hướng dẫn từ vô lượng kiếp, trên đường Giác ngộ.
29 Huệ còn gọi là tuệ.
30 Chết không phải chết, mà sống cũng không phải sống. Phật Thích Ca đã ra qua đời trên 2500 năm nay, mà Ngài vẫn còn thị hiện giữa tín đồ.
31 Theo Bảo Thủ, vô minh chẳng phải là nhân mà là một điều kiện thôi.
31 Ai lại không hiểu, mà mấy ai chứng Niết-bàn?
32 Luận thật hay, nhưng không thấy dạy một phương pháp nào nên thực hành, để diệt tư tưởng sai lầm.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.