Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, Đức-Phật cùng với chư tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành Sāvatthi ngự đến kinh-thành Rājagaha, ngự tại ngôi chùa Veḷuvana. Khi ấy, Ngài Đại Trưởng-lão Mahāmog- gallāna đang trú tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha, nhóm ngoại đạo thuê mướn bọn cướp vây đánh Ngài Đại-Trưởng-lão.
Đã nhiều lần Ngài Đại-Trưởng-lão đều lẫn tránh được. Đến lần cuối cùng, Ngài Đại-Trưởng-lão suy xét thấy ác-nghiệp cũ đến thời-kỳ cho quả cuối cùng trước khi tịch diệt Niết-bàn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão nhẫn-nại chịu đựng để nhóm cướp đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão tan xương nát thịt. Chúng tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết, nên ném xác Ngài Đại-Trưởng-lão vào bụi cây, rồi bỏ đi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna sử dụng phép thần-thông liên kết xương thịt lại, bay đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn vào ngày 30 tháng 10 (âm lịch), tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha.
Lễ hỏa táng xong, Đức-Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá-lợi của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna tại kinh-thành Rājagaha.
Như vậy, trong tháng 10 (âm lịch) năm ấy, vào ngày rằm tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, đến ngày 30 tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn.
Hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn.
Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành Rājagaha du hành đến kinh-thành Vesālī.
Một hôm, Đức-Thế-Tôn ngự vào kinh-thành Vesālī để khất thực, sau khi thọ thực xong, Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cùng ngự đến ngôi tháp Cāpālacetiya.
Sau khi Đức-Thế-Tôn ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda! Bậc nào đã thường thực-hành bốn pháp thành-tựu (idhipāda), đã thực-hành trở thành thuần thục, đã thực-hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực-hành bốn pháp thành-tựu này.
– Này Ānanda! Bậc ấy có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ hoặc hơn kiếp tuổi thọ được như ý.
– Này Ānanda, Như-Lai đã thường thực-hành bốn pháp thành-tựu (idhipāda), đã thực-hành trở thành thuần thục, đã thực-hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực-hành bốn pháp thành-tựu này.
– Này Ānanda, Như-Lai cũng có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm) hoặc hơn kiếp tuổi thọ (hơn 100 năm) được theo như ý.
Đức-Thế-Tôn đã truyền dạy gián tiếp như vậy, nhưng Ngài Trưởng-lão Ānanda không hiểu, nên không thỉnh mời Đức-Thế-Tôn rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm).
– Kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chư-thiên và nhân-loại.
Bởi vì, khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda bị Ác-ma-thiên quấy nhiễu, nên không hiểu ý của Đức-Thế-Tôn. Dù Đức-Thế-Tôn dạy như vậy lần thứ hai, lần thứ ba, Ngài Trưởng-lão Ānanda vẫn không hiểu được.
Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép đi ra ngoài ngồi dưới gốc cây không xa nơi Đức-Thế-Tôn.