Những tích liên quan đến mỗi giới

Những tích liên quan đến mỗi giới

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN III

    PHÁP-HÀNH GIỚI (SĪLĀCĀRA)

    Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)

     

    NHỮNG TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN MỖI GIỚI

    TÍCH NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI SÁT-SINH

    TÍCH MAHĀKĀLAUPĀSAKA

    Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, một cận-sự-nam tên Mahākāla là bậc Thánh- Nhập-lưu, bị vu oan giá họa là kẻ trộm-cắp với tang chứng rõ ràng, nên ông bị đánh chết. Câu chuyện được tóm lược như sau:

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy một người cận- sự-nam Mahākāla (1) là bậc Thánh Nhập-lưu có ngũ-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn. Ông thường thọ bát- giới Uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng.

    Hôm ấy, nhằm vào ngày giới Uposathasīla, ông cận- sự-nam Mahākāla đến ngôi chùa Jetavana xin thọ bát- giới Uposathasīla xong, rồi ở lại chùa nghe pháp, hành thiền suốt đêm, gần sáng ông mới trở về nhà.

    Khi ra khỏi chùa Jetavana, ông đến hồ nước trước cổng chùa để rửa mặt. Trong đêm ấy, bọn trộm-cắp lén vào một nhà trong thành lấy trộm của cải, tài sản.

    Người chủ nhà hay biết thức dậy, bọn trộm-cắp liền mang theo của cải chạy trốn thoát.

    Người chủ nhà cho người đuổi theo bọn trộm-cắp khắp các ngõ đường. Một tên trộm trong bọn chạy dọc theo ven đường đến chùa Jetavana.

    Biết đằng sau có người đang đuổi theo mình, tên trộm không thể mang theo gói của cải lấy trộm được, nên tên trộm liền ném gói của cải lấy trộm ấy xuống hồ nước để nhẹ người chạy thoát thân cho mau.

    Chẳng may gói của cải lấy trộm ấy lại rơi gần bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla đang ngồi rửa mặt lúc rạng đông. Khi ấy, nhóm gia nhân của chủ nhà đến, nhìn thấy gói của cải lấy trộm nằm bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla, nên chúng bắt ông cận-sự-nam Mahākāla, rồi bảo rằng:

    - Đêm qua, ngươi vào nhà lấy trộm của cải của chúng ta, có tang chứng rõ ràng.

    Ông cận-sự-nam Mahākāla nói rằng:

    - Đêm qua tôi đã ở chùa giữ bát-giới Uposathasīla, nghe pháp, hành thiền, sáng nay tôi mới rời khỏi chùa trở về nhà.

    Nhóm gia nhân không tin lời cận-sự-nam Mahākāla nên chúng đã đánh đập ông đến chết, rồi chúng bỏ thây bên hồ nước.

    Buổi sáng hôm ấy, một số tỳ-khưu trẻ và sa-di mang nồi đi lấy nước ở hồ, nhìn thấy tử thi của ông cận-sự- nam Mahākāla, rồi bảo nhau rằng:

    Ông cận-sự-nam Mahākāla giữ bát-giới Uposathasīla, nghe pháp, hành thiền suốt đêm hôm qua tại chùa, nay ông bị đánh đập chết oan, thật không công bằng.

    Chư tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch về cái chết oan của ông cận-sự-nam Mahākāla.

    Đức-Phật dạy rằng:

    - Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam Mahākāla bị chết như vậy là không công bằng ở kiếp hiện-tại này, nhưng lại công bằng theo ác-nghiệp sát-sinh mà tiền- kiếp của cận-sự-nam Mahākāla đã tạo.

    Chư tỳ-khưu, sa-di lắng nghe Đức-Phật dạy như vậy, liền đảnh lễ Đức-Phật, kính thỉnh Ngài thuyết giảng về ác-nghiệp sát-sinh nào của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo trong kiếp quá-khứ.

    Tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo ác- nghiệp sát-sinh như thế nào?

    Trong thời-kỳ quá khứ, trong nước của Đức-vua Bārāṇasī, vùng biên giới có bọn cướp ẩn náu thường quấy nhiễu dân chúng qua lại, cướp của giết người; nên Đức-vua truyền phái một đội binh lính đến vùng biên giới, đặt trạm canh phòng làm phận sự dẫn đường đưa dân chúng đi lại từ vùng này đến vùng khác để bảo vệ dân chúng được an toàn cả sinh-mạng lẫn của cải.

    Một hôm, đôi vợ chồng trẻ, người vợ rất xinh đẹp, đi trên một chiếc xe bò đến trạm canh phòng lúc về chiều.

    Người trạm trưởng nhìn thấy người vợ trẻ xinh đẹp đem lòng thương yêu và ganh tỵ với người chồng trẻ.

    Hai vợ chồng trẻ yêu cầu người trạm trưởng cho lính dẫn đường sang vùng bên kia. Người trạm trưởng đang có mưu đồ đen tối xấu xa nên đã từ chối một cách khéo léo rằng:

    - Này anh chị! Trời sắp tối rồi, đợi sáng mai tôi sẽ cho lính đưa anh chị đi sớm.

    Hai vợ chồng trẻ khẩn khoản năn nỉ nhờ người trạm trưởng cho lính dẫn đường đi ngay lúc đó, bởi vì, thời gian còn đi lại được, hai vợ chồng trẻ cũng có công việc gấp nên không muốn về nhà trễ.

    Người trạm trưởng có mưu đồ đen tối xấu xa nên vẫn tiếp tục khuyên hai vợ chồng trẻ rằng:

    - Này anh chị! Tối nay xin mời anh chị về nhà tôi nghỉ lại, sáng sớm tôi sẽ cho lính dẫn đường đưa anh chị đi.

    Hai vợ chồng trẻ không còn cách nào khác nên đành phải đến nhà người trạm trưởng, tạm ở lại qua đêm.

    Người trạm trưởng mời hai vợ chồng trẻ nghỉ trọ trong nhà khách, tiếp đãi cơm nước rất đàng hoàng, tử tế.

    Ban đêm, khi hai vợ chồng đang ngủ say, người trạm trưởng lén đem viên ngọc maṇi giấu vào chiếc xe của họ. Gần rạng đông, người trạm trưởng kêu la lên là có kẻ trộm lén vào nhà lấy viên ngọc maṇi quý giá, rồi cho người nhà đi lục soát tìm khắp mọi nơi.

    Lúc ấy, hai vợ chồng trẻ thức dậy đang sửa soạn chiếc xe bò để đi sớm, người trạm trưởng bảo người nhà lục soát trong chiếc xe bò, nhìn thấy viên ngọc maṇi giấu trong chiếc xe. Chúng bảo với hai vợ chồng trẻ rằng:

    “Ngươi lấy trộm viên ngọc maṇi quý của chủ ta rồi sáng sớm định sửa soạn chạy trốn thoát hay sao!”

    Chúng liền bắt người chồng trẻ đem đến trình chủ là người trạm trưởng rồi thưa rằng:

    - Thưa ông chủ! Chúng tôi bắt được người này lấy trộm viên ngọc maṇi của ông, đây là viên ngọc maṇi tang chứng rõ ràng.

    Người trạm trưởng quở mắng người chồng trẻ rằng:

    - Này ngươi! Ta đã cho vợ chồng ngươi đến nghỉ đêm nhà ta, cho ăn uống tử tế, thế mà ngươi không biết ơn, còn lén vào nhà lấy trộm viên ngọc maṇi quý giá của ta.

    Ông chủ trạm sai bảo người nhà đánh đập người chồng trẻ đến chết, đem thây vào bỏ trong rừng..., rồi bắt người vợ trẻ xinh đẹp làm vợ của mình.

    Sau khi người trạm trưởng chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh vào đại-địa-ngục Avīci, bị thiêu đốt, bị hành hạ chết đi rồi tái-sinh trở lại trong địa-ngục, chịu bao nỗi khổ cực suốt thời gian trong cõi địa-ngục do ác- nghiệp sát-sinh mà mình đã tạo, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

    Do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đập đến chết suốt 100 kiếp.

    Người trạm trưởng phạm điều-giới sát-sinh trong thời quá khứ ấy chính là tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla này.

    Tuy người cận-sự-nam Mahākāla đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, song quả của ác-nghiệp sát-sinh còn có năng lực dư sót, nên kiếp hiện-tại này ông bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đến chết như vậy.

    Cho nên, người cận-sự-nam Mahākāla bị đánh chết là công bằng theo ác-nghiệp sát-sinh của ông đã tạo trong kiếp quá-khứ (khi làm người trạm trưởng).

    TÍCH NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI SÁT-SINH VÀ GÂY OAN TRÁI

    Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy Đức-Phật thuyết giảng đề cập đến nữ dạ-xoa Yakkhinī (1), được tóm lược như sau:

    Một đôi vợ chồng không có con, người vợ đi tìm một người đàn bà về làm vợ nhỏ cho chồng để sinh con nối dòng và giữ gìn của cải, tài sản gia đình.

    Khi tìm được người vợ nhỏ cho chồng, người vợ lớn lại nghĩ rằng:

    “Nếu người vợ nhỏ có con, thì tất cả của cải, tài sản đều thuộc về người vợ nhỏ.”

    Nên bà vợ lớn bảo với bà vợ nhỏ rằng:

    - Này em! Khi nào em có thai, hãy báo cho chị biết.

    Vâng lời bà vợ lớn, khi có thai, bà vợ nhỏ liền báo cho bà vợ lớn biết. Bà vợ lớn làm thuốc phá thai trộn lẫn vào thức ăn, đồ uống cho bà vợ nhỏ dùng nên người vợ nhỏ đã bị hư thai lần thứ nhất.

    Người vợ nhỏ có thai lần thứ nhì, cũng như lần trước người vợ nhỏ liền báo cho người vợ lớn biết, người vợ lớn làm thuốc phá thai làm cho người vợ nhỏ bị hư thai lần thứ nhì.

    Người vợ nhỏ có thai lần thứ ba, bà nghĩ rằng:

    “Ta đã bị hư thai hai lần là bởi do bà vợ lớn, lần này ta không báo cho bà vợ lớn biết.”

    Cái thai trong bụng của bà vợ nhỏ càng ngày càng lớn dần, bà vợ lớn biết vậy liền quở trách bà vợ nhỏ rằng:

    - Tại sao em có thai, mà không báo cho chị biết!

    Bà vợ nhỏ thưa rằng:

    - Thưa chị! Hai lần trước em có thai, báo cho chị biết, chị cho uống thuốc làm cho em hư thai hai lần, cho nên, lần này em không dám báo cho chị biết.

    Bà vợ lớn sẵn có mưu đồ đen tối xấu xa nên bà tìm cơ hội lúc bà vợ nhỏ sơ hở, bà trộn thuốc vào thức ăn, đồ uống, bà vợ nhỏ không biết nên ăn uống vào làm cho bào thai bị hư. Lần này bào thai không thể ra ngoài được làm cho bà vợ nhỏ phải chết.

    Trước khi chết, bà vợ nhỏ nguyện kết oan trái với bà vợ lớn rằng:

    “Kiếp này, ngươi đã hại ta hai lần bị hư thai, lần thứ ba này, ngươi không chỉ làm cho ta bị hư thai mà còn giết hại sinh-mạng của ta nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

    Sau khi bà vợ nhỏ chết, với tâm oan trái trả thù, do ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm con mèo cái trong gia đình ấy.

    Gây oan trái lẫn nhau

    Người chồng biết được người vợ lớn là thủ phạm đã hai lần làm người vợ nhỏ bị hư thai, lần này không chỉ làm hư thai mà còn làm người vợ nhỏ chết, ông nổi giận đánh đập người vợ lớn đến chết.

    Người vợ lớn sau khi chết, ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con gà mái cũng ở trong gia đình ấy.

    Khi gà mái đẻ trứng ra, cả hai lần đều bị con mèo cái đến ăn trứng, đến lần thứ ba, sau khi ăn trứng xong, con mèo cái vồ con gà mái cắn cổ chết rồi ăn thịt gà luôn.

    * Con gà mái trước khi chết nguyện gây oan trái với con mèo cái rằng:

    “Kiếp này, ngươi đã ăn trứng của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn trứng của ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

    * Con gà mái sau khi chết, ác-nghiệp oan trái trả thù cho quả tái-sinh làm con cọp cái. Còn con mèo cái sau khi chết, do ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con nai cái.

    Khi con nai cái sinh con lần thứ nhất, con cọp cái tìm đến ăn thịt nai con, khi con nai cái sinh con lần thứ nhì, con cọp cái cũng tìm đến ăn thịt nai con.

    Khi con nai cái sinh con lần thứ ba, lần này con cọp cái tìm đến không chỉ ăn thịt nai con mà còn bắt nai mẹ giết chết ăn thịt nữa.

    * Con nai mẹ trước khi chết, nguyện kết oan trái với con cọp cái rằng:

    “Kiếp này, ngươi đã ăn thịt con của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn thịt con ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau, ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

    * Con nai cái sau khi chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm nữ dạ-xoa Yakkhinī ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ Đại-thiên-vương.

    Còn con cọp cái sau khi chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con gái của một gia đình trong kinh-thành Sāvatthi.

    Nàng trưởng thành khôn lớn có chồng và sống ở bên gia đình chồng. Lúc nàng sinh đứa con thứ nhất, nữ dạ- xoa theo dõi biết rõ, rồi biến hóa thành người bạn thân đến thăm nàng.

    Nhìn thấy con nàng, nữ dạ-xoa liền bắt đứa con của nàng để ăn thịt. Nàng sinh đứa con lần thứ nhì, nữ dạ- xoa theo dõi biết, liền xuất hiện đến bắt đứa con của nàng để ăn thịt như lần trước.

    Khi nàng có thai lần thứ ba, gần đến ngày sinh, nàng bàn tính với chồng xin về nhà cha mẹ của nàng để sinh con, bởi vì nếu nàng sinh ở đây thì nữ dạ-xoa sẽ đến bắt con của nàng để ăn thịt như hai lần trước.

    Người chồng đồng ý, hai vợ chồng cùng đưa nhau về bên nhà cha mẹ nàng để sinh con.

    Khi nàng sinh đứa con và làm lễ đặt tên cho con xong, hai vợ chồng bồng đứa con trở về lại bên nhà chồng.

    Trên đường đang đi trở về nhà, khi đi ngang qua ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy nữ dạ-xoa đang đi tìm nàng để bắt đứa con của nàng, nên nàng hoảng sợ quá, liền bồng đứa con chạy vào chùa Jetavana trốn thoát.

    Khi ấy, Đức-Phật đang thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nàng bồng đứa con đến gần Đức-Phật rồi đặt đứa con của nàng phía dưới đôi bàn chân của Đức-Phật bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính dâng đứa con này đến Ngài, cầu xin Ngài rải tâm đại bi cứu mạng đứa con của con.

    Lúc này, bên ngoài cửa ngôi chùa, chư-thiên giữ cửa cấm không cho nữ dạ-xoa đi vào trong ngôi chùa Jetavana.

    Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cho gọi nữ dạ-xoa được phép vào hầu.

    Nữ dạ-xoa đi vào hầu đảnh lễ Đức-Phật.

    Nhìn thấy nữ dạ-xoa, nàng hoảng sợ vô cùng khóc la bạch rằng:

    - Kính bạch Đức Thế Tôn, nữ dạ-xoa.

    Đức-Thế-Tôn khuyên dạy, trấn an nàng rằng:

    - Này con! Con đừng sợ, không có điều tai hại nào xảy đến cho đứa con của con và con đâu!

    Khi ấy, Đức-Thế-Tôn khuyên dạy rằng:

    - Này các con! Nếu các con không đến gặp Như-Lai thì sự oan trái giữa các con sẽ tiếp diễn mãi mãi.

    Tại sao các con gây oan trái lẫn nhau, rồi trả thù lại bằng sự oan trái?

    Sự thật, sự oan trái được dập tắt bằng sự không oan trái, chứ không phải dập tắt bằng sự oan trái.

    Đức-Phật thuyết câu kệ rằng:

    “Na hi verena verāni, sammantīdha kudācanaṃ.
    Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano.” (1)

    “Trong đời này những sự oan trái,
    Chẳng bao giờ dập tắt được oan trái,
    Bằng hành động oan trái đáp lại.
    Sự oan trái chỉ được dập tắt,
    Bằng sự không oan trái mà thôi.
    Đó là pháp có từ ngàn xưa,
    Của chư bậc thiện-trí cao thượng.”

    Sau khi lắng nghe câu kệ xong, nữ dạ-xoa liền chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập lưu, và các hàng đệ-tử cũng được nhiều lợi ích, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo trí-tuệ ba-la-mật của mỗi người.

    Bắt đầu từ khi ấy, sự oan trái hoàn toàn bị dập tắt, tâm từ và nhẫn-nại phát sinh giữa nữ dạ-xoa và nàng có đứa con, họ thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thương yêu đứa con nhỏ.

    Tóm lược thay đổi qua mỗi kiếp và gây oan trái

    Người vợ lớn Người vợ nhỏ
     
    Sinh kiếp gà mái Sinh kiếp mèo cái
     
    Sinh kiếp cọp cái Sinh kiếp nai cái
     
    Sinh kiếp con gái Sinh kiếp nữ dạ-xoa.


    Vấn: Sự khác nhau giữa oan trái và ác-nghiệp như thế nào?

    Đáp: Người gây oan trái chắc chắn tạo ác-nghiệp. Người tạo ác-nghiệp, có khi có oan trái, có khi không có oan trái.

    Oan trái có thể dập tắt bằng sự không oan trái, còn ác-nghiệp không thể dập tắt bằng đại-thiện-nghiệp, song đại-thiện-nghiệp có khả năng làm giảm bớt tiềm lực cho quả của ác-nghiệp.

    Vấn: Hai người đàn bà gây oan trái với nhau, những đứa con của mỗi người có liên quan gì mà phải chịu khổ?

    Đáp: Cái thai (của người vợ nhỏ), trứng gà (của gà mái), nai con (của nai cái), đứa con (của người đàn bà) không liên quan trực tiếp đến sự oan trái của người mẹ, nhưng chịu ảnh hưởng gián tiếp về quả của ác-nghiệp của mẹ mình.

    Những người con còn nhỏ thường chịu ảnh hưởng quả của đại-thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp của cha mẹ.

    Nếu cha mẹ giàu có thì đứa con sinh ra được sống sung túc, nếu cha mẹ nghèo khổ thì đứa con sinh ra phải chịu cảnh thiếu thốn.

    Tuy nhiên có trường hợp đặc biệt, cha mẹ chịu ảnh hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp của người con, từ khi mới đầu thai hoặc khi sinh ra đời rồi.

    Ví như: * Trường hợp Ngài Trưởng-lão Sīvali, khi Ngài đầu thai vào lòng mẹ là bà Suppavāsā, hoàng-hậu của Đức-vua dòng Koliya, trong các kho của cải lúc nào cũng đầy đủ, sung túc, không bao giờ thấy bị hao hụt, giảm bớt chút nào.

    Đó là quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí ba-la-mật của thai nhi Sīvali làm ảnh hưởng tốt lành đến mẫu-hậu và phụ-vương của Ngài và những người thân trong hoàng tộc.

    * Trường hợp Ngài Trưởng-lão Losakatissa, khi Ngài đầu thai vào một gia đình trong xóm dân chài có một ngàn gia đình, từ khi thai nhi Losakatissa đầu thai, không chỉ gia đình cha mẹ của Ngài phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn mà còn ảnh hưởng đến một ngàn gia đình trong xóm dân chài ấy cũng phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn nữa.

    Đó là quả của ác-nghiệp tiền-kiếp của thai nhi Losakatissa gây ảnh hưởng đói khổ đến gia đình cha mẹ của Ngài và những gia đình trong xóm dân chài.

    BẬC THÁNH A-RA-HÁN KHÔNG TRÁNH KHỎI QUẢ CỦA ÁC-NGHIỆP SÁT-SINH

    Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama thường xuất hiện lên các cõi trời hỏi về các tiền-kiếp của các thiên-nam, thiên-nữ đã làm những phước-thiện nào mà có quả báu rồi thuyết lại cho dân chúng nghe, nên tất cả những người ấy đã bỏ nhóm ngoại đạo đi theo cúng dường chư tỳ-khưu trong Phật-giáo.

    Nhóm ngoại đạo mất dần dần lợi ích cúng dường nên tìm mưu kế giết Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

    Nhóm ngoại đạo hội họp bàn bạc với nhau rằng:

    “Sở dĩ chúng ta mất nhiều lợi lộc cúng dường là vì Ngài Mahāmoggallāna xuất hiện lên cõi trời hỏi các chư-thiên, khi ở cõi người đã tạo đại-thiện-nghiệp nào mà nay được hưởng mọi sự an-lạc như thế này; hoặc gặp các loài ngạ-quỷ hỏi kiếp trước đã tạo ác-nghiệp nào mà nay phải chịu khổ như thế này, v.v...

    Ngài Mahāmoggallāna tường thuật lại cho dân chúng nghe và họ tin theo Ngài, nên phần đông họ chỉ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đệ-tử của Đức-Phật mà thôi.

    Vì vậy, chúng ta càng ngày càng mất nhiều lợi lộc cúng dường. Chúng ta nên tìm cách giết hại Ngài Mahāmoggallāna rồi chúng ta sẽ có lại những lợi lộc cúng dường như trước đây.”

    Nhóm ngoại đạo đều đồng tâm nhất trí, họ thuê mướn bọn cướp sát nhân với số tiền trên 1.000 (một ngàn) kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa) để giết hại Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

    Bọn cướp đồng ý với số tiền ấy rồi làm theo sự yêu cầu của nhóm ngoại đạo.

    Bọn cướp sát nhân kéo nhau đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tại làng Kāḷasila.

    Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vốn là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đệ nhất xuất chúng về phép-thần-thông. Khi biết bọn cướp

    đến vây hãm, Ngài Đại-Trưởng-lão bay lên hư không, nên bọn chúng vào không thấy Ngài Đại-Trưởng-lão.

    Những ngày kế tiếp, bọn chúng cũng đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, khi thì Ngài Đại- Trưởng-lão bay lên hư không, khi thì Ngài Đại-Trưởng- lão biến mất, nên bọn chúng không sao tìm gặp được Ngài Đại-Trưởng-lão, cứ như vậy kéo dài cả tháng mà bọn chúng vẫn không sao bắt được Ngài Đại-Trưởng-lão.

    Đến cuối tháng, khi bọn chúng kéo đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, lần này suy xét thấy đến lúc hết tuổi thọ, đồng thời ác-nghiệp sát-sinh (đánh đập cha mẹ đến chết đem bỏ trong bụi cây mà tiền-kiếp của Ngài đã tạo trong thời quá-khứ xa xưa) cũng đến lúc cho quả ác-nghiệp ấy nên Ngài Đại-Trưởng-lão không thoát ra khỏi chỗ ở.

    Bọn cướp xông vào bắt Ngài Đại-Trưởng-lão rồi đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão tan xương nát thịt, bọn cướp tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết, nên đem bỏ thây ở bụi cây.

    Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nghĩ rằng: “Ta nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép tịch diệt Niết-bàn.”

    Nghĩ xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vận dụng phép-thần-thông gắn liền xương thịt lại rồi bay lên hư không đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.

    Đức-Phật cho phép Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog-gallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha.

    Như vậy, 1 tháng sau hạ thứ 45 của Đức-Phật, vào rằm tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử tịch diệt Niết-bàn tại làng Nālākagāma xứ Magadha, và cuối tháng 10 (30 tháng 10) Ngài Đại-Trưởng-lãoMahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha.

    Thế là hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đều đã tịch diệt Niết-bàn.

    Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Ajātasattu đất nước Magadha truyền lệnh truy tìm kẻ chủ mưu giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

    Quân lính triều đình điều tra biết rõ bọn cướp sát nhân đã nhận tiền thuê mướn của nhóm ngoại đạo để giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

    Đức-vua Ajātasattu truyền lệnh bắt bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo 500 người để xét xử, tất cả đều nhận tội. Đức-vua truyền lệnh đem tất cả bọn chúng chôn một nửa người xuống đất, phủ rơm lên trên thiêu sống, dùng cày sắt cày xới làm cho bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo chết tan xương nát thịt cả thảy.

    Đó là quả của ác-nghiệp sát-sinh, đánh đập bậc Thánh A-ra-hán đến chết (tịch diệt Niết-bàn).

    Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đã tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu bàn luận rằng:

    “Thật là đáng động tâm biết dường nào! Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử đệ nhất phép-thần-thông xuất chúng trong hàng thanh-văn đệ-tử, thế mà Ngài Đại-Trưởng- lão bị bọn cướp đánh đập đến gần chết, phải tịch diệt Niết-bàn như vậy. Thật là không công bằng chút nào.”

    Khi ấy, Đức-Phật vừa ngự đến bèn hỏi rằng:

    - Này các con! Các con đang hội họp bàn luận chuyện gì vậy?

    Chư tỳ-khưu bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn luận về Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn như vậy.

    Thật là không công bằng chút nào. Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn không công bằng trong kiếp hiện-tại này, song Mahā- moggallāna tịch diệt Niết-bàn lại công bằng xét theo ác- nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá-khứ xa xưa.

    Chư tỳ-khưu đảnh lễ kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết giảng về ác-nghiệp sát-sinh trong tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy được tóm lược như sau:

    Trong thời quá-khứ xa xưa, tại xứ Bārāṇasī, một người con trai có lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mù lòa, có lòng biết ơn và đền đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mình.

    Hằng ngày, người con trai lo cơm nước, giặt giũ quần áo, tắm rửa, phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi xong công việc trong nhà mới đi làm việc ngoài như vào rừng, ra ruộng, ... để kiếm tiền bạc của cải đem về nuôi dưỡng cha mẹ già một cách rất chu đáo với tấm lòng hiếu thảo và tôn kính cha mẹ.

    Một hôm, cha mẹ nói với người con chí hiếu yêu quý của mình rằng:

    - Này con yêu quý! Một mình con chịu làm lụng vất vả ngoài đồng, về nhà còn phải lo bao nhiêu công việc trong nhà. Cha mẹ muốn tìm cho con một người vợ, để giúp đỡ con lo công việc trong nhà, nghe con.

    Người con trai một mực từ chối, xin với cha mẹ rằng:

    - Thưa cha mẹ, con không muốn lấy vợ, con chỉ muốn một mình con lo phụng dưỡng cha mẹ mà thôi.

    Mỗi ngày, cha mẹ khẩn khoản năn nỉ, người con trai đành phải chiều theo ý của cha mẹ, chịu cưới vợ để làm cho cha mẹ hài lòng.

    Người vợ giúp đỡ chồng lo công việc trong nhà, lo phục vụ cha mẹ chồng mới chỉ được 2 - 3 ngày mà thôi, rồi những ngày tiếp theo nàng tỏ vẻ bực dọc cảnh cha mẹ chồng mù lòa, không muốn sống chung với cha mẹ chồng nữa.

    Người vợ than vãn với chồng rằng:

    - Này anh yêu quý! Em không muốn sống chung với cha mẹ mù lòa của anh nữa.

    Nàng đặt điều nói xấu cha mẹ chồng. Ban đầu người chồng không tin theo lời người vợ.

    Một hôm, khi người chồng đi ra ngoài làm công việc, người vợ ở nhà bày đồ đạc, đổ vỡ rải rác trong nhà. Người chồng đi làm về hỏi người vợ rằng:

    - Này em yêu quý! Tại sao đồ đạc đổ vỡ rải rác như thế này?

    Người vợ nói với người chồng là do hai ông bà mù lòa làm đồ đạc đổ vỡ rải rác, nàng phải dọn dẹp mệt nhừ cả người mà vẫn không làm hết việc, nàng không thể nào chịu nổi.

    Bây giờ nàng không muốn sống chung với hai ông bà già mù lòa ấy nữa.

    Mỗi ngày, từ đồng ruộng trở về, người chồng nghe vợ than vãn không sao chịu nổi. Người con trai liền lập mưu kế nói lừa dối cha mẹ, muốn đưa cha mẹ đi thăm người bà con bên làng ấy, người con thưa rằng:

    - Thưa cha mẹ, người bà con bên làng ấy muốn mời cha mẹ đến thăm viếng, để con đánh xe đưa cha mẹ đi.

    Nghe người con trai chí hiếu nói vậy, cha mẹ tin con nói thật, nên đồng ý đi thăm. Người con sửa soạn chiếc xe bò rồi bồng cha mẹ đặt ngồi lên xe và đánh chiếc xe bò chở cha mẹ đến một khu rừng rậm, tại đây người con thưa với cha mẹ rằng:

    - Thưa cha mẹ, nơi đây thường có bọn cướp sát nhân, xin cha mẹ ngồi trên xe để con xuống xe đi quan sát xong con sẽ trở lại.

    Người con bước xuống xe bò, rồi một lát sau giả làm bọn cướp sát nhân hung ác la hét chạy đến đánh đập cha mẹ mù lòa.

    Tuy cha mẹ thân già yếu mù lòa bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn luôn nghĩ thương đứa con thân yêu, nên hai ông bà la lớn bảo rằng:

    - Này con yêu quý! Con hãy chạy thoát thân, cha mẹ già yếu mù lòa có chết cũng cam phận.

    Mặc dù cha mẹ gào thét như vậy nhưng người con vẫn giả giọng kẻ cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già cho đến chết, và đem thây cha mẹ ném trong rừng rồi đánh xe trở về nhà.

    Đức-Phật thuyết giảng về tiền-kiếp của Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna giả làm bọn cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già yếu mù loà đến chết, bỏ thây trong rừng trong thời quá-khứ ấy.

    Người con ấy đã tạo ác-nghiệp trọng tội giết cha mẹ thuộc về ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội (ānantariya-kamma), nên sau khi chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy chắc chắn cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà không có nghiệp nào có thể ngăn được, chịu quả khổ cùng cực của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài trong các cõi địa-ngục cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

    Đó là tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna đã từng đánh đập cha mẹ cho đến chết, tạo ác- nghiệp vô-gián-trọng-tội trong thời quá-khứ xa xưa.

    * Kiếp hiện-tại, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggal- lāna là bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đó là do phát nguyện và quả của đại-thiện-nghiệp đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật của Ngài Đại-Trưởng-lão.

    Và Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bị bọn cướp sát nhân đánh đập tan xương nát thịt dẫn đến tịch diệt Niết-bàn, đó là quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội đánh đập cha mẹ đến chết trong thời quá-khứ xa xưa còn dư sót.

    Vì vậy, Đức-Phật dạy rằng:

    - Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna bị đánh đập dẫn đến tịch diệt Niết-bàn ấy là công bằng theo ác-nghiệp vô- gián-trọng-tội đánh đập cha mẹ cho đến chết mà tiền- kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá-khứ xa xưa.

    * Còn nhóm ngoại đạo có tác-ý trong ác-tâm thuê mướn bọn cướp sát nhân đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh A-ra-hán, đến chết, tất cả đều phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết hại bậc Thánh A-ra-hán, thuộc về ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nên tất cả chúng nó đều bị Đức-vua truyền lệnh đem hành hình.

    Sau khi bọn chúng chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Āvici, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

    SỰ CHẾT CỦA CHÚNG-SINH

    Tất cả mọi chúng-sinh trong ba giới bốn loài đều phải chết. Sự chết có 4 trường hợp:

    1- Chết vì hết tuổi thọ.

    2- Chết vì mãn nghiệp-hỗ-trợ.

    3- Chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp-hỗ-trợ.

    4- Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

    * Người có phước-thiện tránh được tai nạn

    Không đề cập đến 3 trường hợp chết trên, mà chỉ đề cập đến trường hợp thứ tư: Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

    Người có phước-thiện hộ trì có thể thoát khỏi mọi tai nạn một cách mầu nhiệm tự nhiên ngoài khả năng của người ấy, dù người khác có tác-ý trong ác-tâm cũng không thể giết được người có phước-thiện, nhờ phước- thiện hộ mạng người ấy.

    * Như trường hợp phú hộ Ghosaka

    Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Ghositārāma trong nước Kosambī, Ngài thuyết giảng tích Sāmāvatīvatthu (1), trong tích này có phần đề cập đến cuộc đời ông phú hộ Ghosaka được tóm lược như sau:

    Trong thời quá khứ, vùng Allakappa xảy ra nạn đói khát và bệnh dịch làm nhiều người chết.

    Người chồng tên Kotuhalika dẫn người vợ tên Kāḷī bồng đứa con nhỏ đi đến nước Kosambī để lánh nạn. Hai vợ chồng đi đường đồ ăn uống đã cạn hết, bệnh đói khát làm rã rời tay chân, bồng đứa con cũng không nổi nữa, người chồng bàn với vợ rằng:

    - Này em! Vợ chồng chúng ta còn sống, hy vọng sẽ có con nữa, bỏ đứa con này, chúng ta đi thôi.

    Người mẹ thương yêu con không đành bỏ con khi nó đang còn sống. Hai vợ chồng đồng ý thay phiên nhau bồng đứa con, mỗi người một đoạn đường. Sự đói khát lại càng làm bủn rủn tay chân, người chồng lại bàn tính với vợ bỏ đứa con, người vợ vẫn một mực năn nỉ chồng đừng bỏ đứa con.

    Đứa con nhỏ được trao từ tay chồng sang tay vợ, rồi trao từ tay vợ sang tay chồng làm cho đứa trẻ như ngất xỉu trên tay người cha. Người cha biết đứa con mệt ngủ thiếp đi nên đặt nó nằm trên đống lá cây khô ở dưới bóng mát gốc cây rồi bỏ đi theo vợ ở phía trước.

    Người vợ nhìn lại không thấy đứa con bèn hỏi:

    - Này anh! Con của chúng ta đâu rồi?

    - Này em! Anh để con nằm dưới bóng mát ở gốc cây kia rồi.

    Người vợ khóc lóc, van xin chồng bồng đứa con lại cho mình, người chồng trở lại bồng đứa con thì đứa con đã chết. (1)

    Hai vợ chồng tiếp tục đi đến một vùng, gặp một gia đình nuôi bò.

    Hôm ấy, gia đình nuôi bò làm lễ cầu an cho bò. Hằng ngày, ông chủ thỉnh Đức-Phật Độc-Giác đến độ vật thực, đặc biệt hôm ấy là ngày lễ cầu an nên người nuôi bò nấu cơm sữa bò nhiều.

    Người chủ nhà nhìn thấy hai vợ chồng đói khát từ nơi xa đến nên tiếp đãi rất tử tế và cho hai phần cơm sữa bò. Người vợ nói với chồng:

    - Này anh! Anh còn sống thì em sống được an-lạc, đã 7 ngày qua, anh chịu đói khát nhiều, anh nên dùng thêm một phần cơm sữa bò của em cho đủ no.

    Người vợ nhường một phần cơm của mình thêm cho chồng ăn đủ no, còn người vợ chỉ dùng một ít cơm với bơ còn lại mà thôi.

    Người chồng chịu đói khát suốt 7 ngày qua, nay gặp món cơm sữa bơ ngon miệng nên ăn no. Nhìn thấy người chủ nhà cho con chó cái nằm dưới ghế, ăn cơm sữa bơ, người ấy ngồi nghĩ rằng:

    “Con chó này có quả phước tốt thật, được ăn những đồ ăn ngon lành đến thế!”

    Đêm hôm ấy, người chồng ăn vật thực no, không tiêu hóa được nên bị chết. Khi sắp chết, nhớ tưởng đến con chó nên sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái- sinh vào bụng con chó cái của chủ nhà.

    Người vợ lo làm lễ hỏa táng cho chồng xong xin ở lại làm công trong nhà người chủ nuôi bò ấy.

    Người góa phụ làm công được một ít gạo, nấu cơm để bát cúng dường Đức-Phật Độc-Giác, rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Ngài, cầu xin phước-thiện này được thành tựu đến người chồng của con vừa qua đời.

    Người góa phụ suy nghĩ rằng:

    “Ta nên ở lại làm công nơi này, hằng ngày Đức-Phật Độc-Giác ngự đến đây khất thực, dù có ít thì ta cúng dường ít đến Ngài, dù không có thì ta có cơ hội đảnh lễ Ngài, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài, ta vẫn có được phước-thiện.”

    Mấy tháng sau, con chó mẹ sinh ra một con chó đực khôn ngoan dễ thương. Người chủ nuôi con chó con bằng sữa bò nên chó con mau lớn khôn.

    Mỗi khi Đức-Phật Độc-Giác độ vật thực xong, phần còn thừa, Đức-Phật cho con chó ăn phần vật thực ấy.

    Cho nên, con chó rất kính yêu Đức-Phật Độc-Giác. Mỗi ngày nó đi theo người chủ đến hầu Đức-Phật Độc- Giác. Trên đường đi đến nơi rừng cây rậm rạp, e sợ có thú dữ rình mồi, người chủ lên tiếng ‘sù! sù’ ba lần, nếu có thú dữ thì chúng lánh đi nơi khác.

    Một hôm, người chủ bạch với Đức-Phật Độc-Giác rằng:

    - Kính bạch Ngài, ngày nào con không có cơ hội đến kính thỉnh Ngài được, con sẽ cho con chó này đến kính thỉnh Ngài đến nhà con.

    Từ đó trở về sau, khi nào người chủ nhà không có cơ hội đến hầu Đức-Phật Độc-Giác được, thì người chủ sai bảo con chó rằng:

    - Này con! Con hãy đến kính thỉnh Đức-Phật Độc- Giác nhé con!

    Nghe xong, con chó liền vẫy đuôi chạy thẳng đến cốc của Đức-Phật Độc-Giác. Trên đường đi, đến nơi rừng cây rậm rạp, chó phát tiếng sủa ba tiếng để cho thú dữ lánh đi nơi khác. Con chó chạy đến cốc lá của Đức-Phật Độc-Giác, nhẹ nhàng đến trước cửa nằm mọp xuống ngẩng đầu sủa ba tiếng để báo tin cho Đức-Phật Độc- Giác biết, rồi nằm im lặng chờ Đức-Phật Độc-Giác đi ra.

    Con chó đi đằng trước dẫn đường, Đức-Phật Độc- Giác đi theo đường về nhà, nó rất kính yêu Đức-Phật Độc Giác.

    Về sau, bộ y của Đức-Phật Độc-Giác cũ quá, người chủ kính dâng cúng dường vải may y đến Đức-Phật Độc- Giác. Công việc may y làm một người rất khó nên Đức- Phật Độc-Giác nói với người chủ rằng:

    - Này thí-chủ! Công việc may y làm một mình không thuận tiện cho nên Như-Lai phải tìm bạn đồng phạm- hạnh cùng giúp may y.

    Người chủ bạch rằng:

    - Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài đi may y xong, con kính thỉnh Ngài trở lại.

    Con chó đứng nghe Đức-Phật Độc-Giác và người chủ nói chuyện với nhau. Tại nơi ấy, Đức-Phật Độc-Giác dùng phép thần thông bay lên hư không hướng về núi Gandhamādana. Con chó đứng nhìn theo Đức-Phật Độc- Giác bay lên hư không và sủa theo với tất cả tấm lòng kính yêu Đức-Phật Độc-Giác cho đến khi không còn nhìn thấy bóng dáng Đức-Phật Độc-Giác nữa. Con chó chết ngay tại nơi ấy.

    Con chó chết với đại-thiện-tâm kính yêu vô hạn nơi Đức-Phật Độc-Giác, nên sau khi con chó chết, đại- thiện-nghiệp cung kính ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên- nam trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có 1.000 (một ngàn) thiên-nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an-lạc ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên ấy.

    Khi thiên-nam này nói nhỏ bên tai vị chư-thiên nào, thì tiếng nói ấy vang xa đến 16 do-tuần (1 do-tuần khoảng 20 km), nếu thiên-nam này nói bình thường, tiếng nói vang rộng xa đến 10.000 (mười ngàn) do-tuần.

    Cho nên, vị thiên-nam này có tên là “Ghosakadeva- putta: Thiên-nam có giọng nói vang”. Đó là quả của phước-thiện kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật Độc-Giác. Vị thiên-nam Ghosaka hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

    Vị thiên-nam Ghosaka say mê trong đối-tượng ngũ- dục, quên dùng vật thực, thể xác không thể duy trì được, nên chết từ cõi trời Tam-thập-tam-thiên, đại-thiện- nghiệp của kiếp trước cho quả tái-sinh đầu thai vào lòng một kỹ nữ xinh đẹp ở kinh-thành Kosambī.

    CUỘC ĐỜI GHOSAKA CÓ PHƯỚC THOÁT CHẾT 7 LẦN

    1- Trẻ sơ sinh ghosaka bị bỏ trong đống rác

    Ngày Ghosaka sinh ra đời, người kỹ nữ hỏi người tớ gái rằng:

    - Này con! Bé trai hay bé gái?

    Người tớ gái thưa rằng:

    - Thưa bà, bé trai ạ.

    Người kỹ-nữ bảo người tớ gái đem đứa bé trai ấy bỏ nơi đống rác vì kỹ-nữ chỉ nuôi con gái, không nuôi con trai, bởi vì con trai không kế nghiệp nghề kỹ-nữ được.

    Đứa bé trai sơ sinh bị bỏ nơi đống rác, các bầy quạ, diều, chó vây quanh đứa bé mà không con nào dám vào ăn thịt.

    Đó là quả của đại-thiện-nghiệp kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật Độc-Giác.

    Khi ấy, một người thấy các bầy quạ, diều, chó vây quanh đống rác, liền đi lại xem có gì lạ thường, thì thấy một đứa bé trai, người ấy vui mừng hớn hở bồng đứa bé như đứa con của mình, sung sướng kêu lên rằng:

    “Ta được đứa con trai!” rồi người ấy bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế.

    2- Bé ghosaka bị bỏ trước cổng chuồng bò

    Khi ấy, phú hộ kinh thành Kosambī đi đến chầu Đức- vua, giữa đường gặp vị quân sư nhà vua chuyên môn xem sao trên hư không mà đoán số. Ông phú hộ hỏi vị quan rằng:

    - Thưa vị quân sư, hôm nay có điều lành dữ thế nào?

    Vị quân sư thưa:

    - Hôm nay, Đức-vua và triều đình, hoàng gia cho đến thần dân thiên hạ đều bình an và có một điều lành.

    “Đặc biệt, đứa bé nào sinh ra đời ngày hôm nay, về sau, nó sẽ trở thành một phú hộ nước Kosambī này.”

    Nghe nói như vậy, ông phú hộ có phu-nhân đang mang thai, già ngày già tháng rồi, nên ông phú hộ sai bảo gia nhân trở về nhà xem phu-nhân của mình đã sinh hay chưa rồi trở lại báo tin cho ông biết.

    Gia nhân báo tin cho ông phú hộ biết rằng bà phú hộ chưa sinh.

    Ông phú hộ đến chầu Đức-vua xong vội vàng trở về nhà, gọi người tớ gái thân tín tên Kāḷi và trao cho 1.000 (một ngàn) kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa), để bà đi tìm kiếm trong kinh-thành có đứa bé nào sinh trong ngày thì bà trao cho họ số tiền 1.000 kahāpana ấy, rồi bồng đứa bé về.

    Bà Kāḷi đi hỏi thăm tìm hỏi khắp nơi, lần lượt đến nhà một người, nhìn thấy có đứa bé bèn hỏi người nhà ngày sinh của đứa bé ấy. Người nhà bảo đứa bé vừa mới sinh trong ngày.

    Bà Kāḷi trao cho người chủ nhà 1.000 kahāpana, rồi bồng đứa bé về cho ông phú hộ.

    Ông phú hộ nghĩ rằng:

    “Nếu phu-nhân của ta sinh con gái, ta sẽ cho con gái của ta làm vợ nó rồi cho nó tước vị phú hộ, nếu phu- nhân ta sinh con trai thì ta sẽ giết nó chết.”

    Ông phú hộ bảo người nuôi nấng săn sóc đứa bé ở trong nhà. Vài ngày sau, phu-nhân của phú hộ sinh con trai nên ông phú hộ tính kế giết đứa bé này để con mình lớn lên được tước phú hộ.

    Ông phú hộ gọi bà Kāḷi đến sai bảo rằng:

    - Này Kāḷi! Sáng sớm mai, bà hãy bồng đứa bé Ghosaka này bỏ trước cổng chuồng bò để khi bò ra sẽ đạp đứa bé này chết. Bà đứng xem đứa bé chết hay sống thế nào rồi về trình cho ta biết.

    Bà Kāḷi làm theo lời của phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ trước cửa cổng chuồng bò. Người chăn bò mở cổng, thường ngày con bò đầu đàn đi ra sau chót, nhưng hôm ấy nó đi ra trước, bốn chân đứng như bốn trụ cột, đứa bé nằm ở giữa, đàn bò hằng trăm con lấn hai bên sườn con bò đầu đàn đi ra. Người chăn bò thấy điều lạ thường, nghĩ rằng:

    “Con bò đầu đàn này hằng ngày đi ra sau cùng, hôm nay ra trước đứng yên một chỗ, có chuyện gì lạ vậy.”

    Đến xem thấy đứa bé đang nằm giữa bốn chân con bò đầu đàn, người chăn bò vui mừng sung sướng bồng đứa bé, kêu lên rằng:

    “Ta được đứa con trai!” rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

    Bà Kāḷi trở về trình cho ông phú hộ biết tất cả sự việc đã xảy ra. Ông phú hộ liền trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn bò và bồng đứa bé trở về.

    3- Bé ghosaka bị bỏ trên đường

    Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

    - Này Kāḷi! Sáng sớm ngày mai sẽ có đoàn xe bò 500 chiếc chở hàng hóa đi bán. Bà bồng đứa bé Ghosaka này đặt nằm ngang trên đường để cho bò đạp chết, hoặc xe cán nó chết. Bà đứng đó theo dõi nó sống chết thế nào rồi về trình cho ta biết.

    Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka đặt nằm ngang trên đường. Khi ấy, người trưởng đoàn xe đi trước, khi đi đến gần chỗ đứa bé nằm, con bò đứng sững lại không chịu bước tới trước, dù người trưởng đoàn la bảo thế nào hai con bò vẫn không chịu bước, chỉ đứng sừng sững tại một chỗ. Chờ đến gần sáng, người trưởng đoàn nghĩ rằng:

    “Tại sao hai con bò này lại đứng sừng sững như vậy?”

    Người trưởng đoàn bước xuống xem thì nhìn thấy đứa bé nằm ngang trên đường, người trưởng đoàn vui mừng sung sướng kêu lên rằng:

    “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

    Bà Kāḷi về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe. Ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người trưởng đoàn xe, rồi bồng đứa bé trở về.

    4- Bé ghosaka bị bỏ nơi nghĩa địa

    Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

    - Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây để cho chó rừng, quạ, diều ăn thịt, hoặc các hàng phi nhân giết hại nó chết. Bà xem xét nó sống chết thế nào về trình cho ta biết.

    Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, bà đứng ở một nơi theo dõi xem xét. Bầy quạ, diều, chó rừng, phi nhân v.v... không có con nào dám đến gần đứa bé vì đại-thiện-nghiệp của đứa bé trong tiền-kiếp hộ mạng nó.

    Khi ấy, người chăn dê thả đàn dê vào nghĩa địa ăn lá cây, một con dê mẹ đi ăn vào giữa bụi cây, nhìn thấy đứa bé, dê mẹ quỳ gối xuống để cho đứa bé bú sữa.

    Người chăn dê la bảo dê mẹ không chịu ra nên đi vào bụi cây đuổi dê mẹ thì nhìn thấy dê mẹ đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê sung sướng vui mừng kêu lên rằng:

    “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

    Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn dê rồi bồng đứa bé về.

    5- Bé ghosaka bị ném xuống hố sâu

    Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

    - Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này lên đỉnh núi nơi ném bọn cướp, rồi ném đứa trẻ xuống hố sâu để thân hình nó đụng vào đá tan xương nát thịt rơi xuống đất.

    Bà theo dõi xem xét nó sống chết thế nào về trình cho ta biết.

    Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka lên đỉnh núi rồi ném đứa bé xuống hố sâu. Đứa bé rơi xuống nằm trên bụi tre có dây tơ hồng chằng chịt như nằm trên tấm thảm làm bằng lông thú êm ấm.

    Hôm ấy, người thợ đan tre và đứa con lên núi đốn tre, khi đốn cây tre xong, lôi cây tre ra làm cho bụi cây rung chuyển, đứa trẻ phát ra tiếng khóc:

    “Giống như tiếng khóc của một đứa bé.”

    Người thợ đi vòng quanh, nhìn lên ngọn bụi tre thấy đứa bé nằm trên ấy, người thợ sung sướng kêu lên rằng:

    “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

    Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người thợ đan tre, rồi bồng đứa bé về.

    6- Nghĩ hại người, lại tự làm khổ mình

    Ông phú hộ nghĩ mưu kế nào cũng không giết hại được đứa bé Ghosaka đành nuôi nấng chờ tìm mưu kế khác. Đứa bé Ghosaka càng ngày càng khôn lớn trưởng thành, ngây thơ và tưởng mình là con của ông phú hộ, không hề hay biết ông phú hộ tìm mưu kế giết hại mình.

    Khi ấy, phú hộ nghĩ ra mưu kế giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ đến chỗ làm đồ gốm, gặp người thợ đồ gốm quen thân, hỏi rằng:

    - Này người thợ! Khi nào sẽ đốt lò.

    Người thợ trả lời:

    - Thưa ông phú hộ, ngày mai tôi sẽ đốt lò.

    Ông phú hộ bảo rằng:

    - Này người thợ! Ngươi hãy nhận số tiền 1.000 kahāpana này rồi giúp tôi một việc.

    Người thợ hỏi:

    - Thưa ông phú hộ, tôi giúp ông việc gì?

    Ông phú hộ bảo rằng:

    - Này người thợ! Tôi có một đứa con ngỗ nghịch, vong ơn, tôi sẽ sai nó đến chỗ anh, anh dẫn nó vào trong phòng chặt nó làm nhiều đoạn, bỏ vào trong hũ rồi đem đốt trong lò. Tôi xin thưởng cho anh trước 1.000 kahāpana, khi nào anh làm xong tôi sẽ hậu tạ xứng đáng cho anh.

    Người thợ đồ gốm nhận lời.

    Sáng ngày hôm sau, ông phú hộ gọi Ghosaka đến rồi bảo rằng:

    - Này Ghosaka! Hôm qua, cha có gặp người thợ đồ gốm nhờ làm một việc, con hãy đến nơi ấy, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

    “Cha tôi bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong.”

    Cậu Ghosaka vâng lời cha ra đi, vừa ra khỏi nhà, gặp đứa em trai (con ruột của ông phú hộ) đang chơi bắn bi với tính cách ăn thua với nhóm trẻ con.

    Thấy anh Ghosaka đến, người em vui mừng nói rằng:

    - Này anh Ghosaka! Em chơi bị thua bọn trẻ này rất nhiều viên bi, bây giờ nhờ anh chơi hộ, bắn thắng lại số bi ấy cho em.

    Cậu Ghosaka bảo với em rằng:

    - Này em thân thương! Anh phải đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung, ở đây chơi trò bắn bi sẽ bị cha rầy la, anh sợ cha lắm.

    Biết cậu Ghosaka có tài chơi trò bắn bi rất giỏi, lúc nào cũng thắng bọn trẻ nên người em năn nỉ rằng:

    - Này anh Ghosaka! Xin anh đừng sợ, để em đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung thay anh, còn anh ở đây chơi trò bắn bi với nhóm trẻ, thắng lại số bi cho em rồi anh chờ em trở lại.

    Cậu Ghosaka nói với em rằng:

    - Này em thân thương! Nếu như vậy, em đến chỗ lò gốm, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

    “Cha tôi sai bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong.”

    Người em là người con ruột của ông phú hộ đến gặp người thợ đồ gốm nói như vậy. Khi ấy, người thợ đồ gốm liền giết đứa con của ông phú hộ theo lời yêu cầu của ông, chặt đứa con từng đoạn bỏ vào hũ đặt vào lò nung thiêu cháy.

    Cậu Ghosaka chơi trò bắn bi thắng nhóm trẻ, lấy lại số bi của người em đã thua, rồi ngồi chờ người em trở lại mãi đến chiều không thấy em trở lại nên trở về nhà. Ông phú hộ nhìn thấy Ghosaka liền hỏi:

    - Này Ghosaka! Sao con không đi đến gặp người thợ đồ gốm?

    Cậu Ghosaka thưa với cha (ông phú hộ) rằng:

    - Kính thưa cha, khi con đi ra, gặp em trai chơi trò bắn bi bị thua bọn trẻ nên nó nhờ con chơi để gỡ lại, còn nó thay con đi đến nhà bác thợ nung lò gốm.

    Khi nghe như vậy, ông phú hộ liền kêu la rằng:

    “Xin đừng có giết con tôi!”

    Ông phú hộ đầu óc choáng váng, bước đi khệnh khạng đến chỗ người thợ đồ gốm, hai tay ôm đầu kêu la:

    - Này anh thợ! Xin đừng làm cho tôi thiệt hại.

    Người thợ đồ gốm thấy ông phú hộ đến kêu la như vậy nên thưa với ông phú hộ rằng:

    - Thưa ông phú hộ, ông đừng lớn tiếng kêu la như vậy, công việc ông yêu cầu tôi đã hoàn thành xong rồi.

    Ông phú hộ khổ tâm sầu não tột cùng như bị quả núi lớn đè lên ngực của ông.

    Người này mưu hại người kia mà người kia không có tâm làm hại trở lại, hoặc người này mưu làm khổ người kia mà người kia không có tâm làm khổ trở lại, thì người mưu làm hại này sẽ phải chịu 10 điều khổ não, như Đức- Phật đã dạy:

    - Chịu khổ tâm cùng cực.
    - Bị thiệt hại lớn.
    - Bị đau đầu, đứt mạch máu (vì sự nóng nảy quá độ).
    - Bị bệnh trầm trọng.
    - Bị phóng tâm, loạn trí, điên cuồng.
    - Bị tai hại do từ Đức-vua.
    - Bị chê trách dữ dội.
    - Bà con, bè bạn bị tai nạn.
    - Của cải, sự nghiệp bị thiệt hại.
    - Sau khi chết sa vào địa-ngục.

    7- Mưu kế giết hại Ghosaka lần cuối cùng

    Mặc dù vậy, vẫn chưa từ bỏ ý định giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ nghĩ ra được mưu kế:

    “Ta sẽ sai Ghosaka đi đến nhà bác thâu thuế 100 gia đình của ta, nhờ bác thâu thuế giết nó.”

    Nghĩ xong, ông phú hộ liền viết một lá thư gửi cho bác thâu thuế ấy rằng:

    “Người cầm thư này là đứa con ngỗ nghịch vong ơn của tôi, nhờ bác giết chết nó rồi ném xuống hầm. Khi giết chết nó xong rồi tôi sẽ trọng thưởng cho bác.”

    Ông phú hộ gọi cậu Ghosaka rồi bảo rằng:

    - Này Ghosaka! Con mang thư này đi đến trao cho bác thâu thuế của nhà ta ở vùng ấy.

    Ông phú hộ bảo cậu Ghosaka cất giữ cẩn thận lá thư trong chéo áo. Cậu Ghosaka không biết đọc chữ, vì từ nhỏ đến lớn cậu không được đi học chữ, cho nên cậu Ghosaka đem lá thư giết mình nhưng vẫn không biết. Cậu thưa với người cha rằng:

    - Thưa cha, trên đường đi con sẽ ở trọ nơi nào?

    Ông phú hộ bảo rằng:

    - Này Ghosaka! Con đừng lo, trên đường đi đến vùng bên ấy, đến tỉnh thành có một gia đình phú hộ là bạn thân của cha, con đến nhà ông phú hộ ăn và nghỉ lại đêm nơi ấy rồi sáng mai đi tiếp.

    Cậu Ghosaka đảnh lễ cha rồi từ giã ra đi, đến tỉnh ấy hỏi thăm nhà ông phú hộ, gặp phu-nhân của phú hộ ở nhà, cậu tự giới thiệu tên là Ghosaka, con trai của phú hộ Kosambī.

    Được biết như vậy, bà phú hộ vô cùng hoan hỷ, bởi vì phú hộ xứ Kosambī với gia đình bà vốn là bạn thân thiết với nhau. Phu-nhân phú hộ nhìn thấy Ghosaka đem lòng thương yêu như con của mình.

    * Gia đình phú hộ tỉnh này có một đứa con gái được 16 tuổi rất xinh đẹp đáng yêu. Cô ở trong một căn phòng sang trọng đặc biệt trên tầng lầu thứ 7, với một người tớ gái lo phục vụ cho cô. Khi ấy, cô sai bảo đứa tớ gái đi chợ.

    Nhìn thấy đứa tớ gái, phu-nhân phú hộ gọi lại hỏi rằng:

    - Này con! Con đi đâu?

    Người tớ gái thưa rằng:

    - Thưa bà, tiểu thư sai con đi chợ mua sắm đồ.

    Phu-nhân phú hộ bảo người tớ gái rằng:

    - Này con! Con hãy lo nước tắm, nước rửa chân, sắp đặt chỗ nghỉ cho cậu Ghosaka, con của phú hộ, rồi con đi chợ sau.

    Người tớ gái làm công việc mà bà phú hộ sai bảo xong mới đi chợ nên về trễ, bị tiểu-thư quở trách.

    Người tớ gái thưa chuyện với tiểu thư rằng:

    - Thưa tiểu thư, sở dĩ em về trễ là vì em phải lo chỗ ở cho công-tử Ghosaka là con của phú hộ Kosambī xong, em mới đi chợ, xin tiểu-thư đừng trách em.

    Nghe đến tên công tử Ghosaka là con trai phú hộ Kosambī, con gái phú hộ cảm thấy con tim rung động, lòng yêu thương dạt dào trong lòng, khiến nàng không thể ngồi yên trên tầng lầu.

    Thật ra, tiền-kiếp của cô con gái phú hộ này tên là Kāḷī, có người chồng yêu quý tên là Kotuhalika, và tiền- kiếp của cậu Ghosaka tên là Kotuhalika có người vợ yêu quý tên Kāḷī.

    Như vậy, cô con gái phú hộ và cậu Ghosaka đã từng là vợ chồng thương yêu với nhau trong tiền-kiếp, cho nên, tình nghĩa vợ chồng yêu thương với nhau trong kiếp trước đã phát sinh trở lại với cô khiến cho cô muốn gặp lại người chồng yêu thương trong kiếp trước.

    * Tình thương yêu phát sinh do hai nhân

    Đức-Phật dạy rằng:

    “Tình yêu phát sinh do hai nguyên nhân:

    - Tình yêu vợ chồng đã từng sống chung trong kiếp trước.

    - Tình nghĩa giúp đỡ lẫn nhau trong kiếp hiện-tại.”

    Cô gái phú hộ hỏi người tớ gái rằng:

    - Này em! Bây giờ công-tử Ghosaka đang ở đâu vậy? Người tớ gái thưa rằng:

    - Thưa tiểu-thư, công-tử Ghosaka đang nghỉ ở trong phòng khách.

    Cô gái phú hộ hỏi rằng:

    - Này em! Công-tử Ghosaka có mang gì theo không?

    Người tớ gái thưa rằng:

    - Thưa tiểu thư, công-tử Ghosaka có mang theo lá thư được cất giữ trong chéo áo.

    Cô gái phú hộ nôn nao muốn biết nội dung của lá thư nên cô từ tầng lầu thứ 7 vội vàng đi xuống. Trong nhà không ai hay biết, nàng lén vào phòng ngủ của công-tử Ghosaka, thấy công tử Ghosaka đang nằm ngủ say, tình yêu thương vô hạn phát sinh, nàng muốn biết lá thư nói gì nên lấy lá thư trở về phòng đọc, nàng giật mình nghĩ rằng:

    “Người gì mà khờ khạo đến thế! Mang thư giết mình mà không hay biết, nếu ta không đọc thư này thì chắc anh ta chết mất thôi!”

    Nàng bỏ lá thư ấy, viết lại lá thư khác, dựa theo lời của ông phú hộ, đổi ý nghĩa lại rằng:

    “Thưa bác, con của tôi tên Ghosaka, mang thư này đến bác, nhờ bác thâu thuế 100 nhà rồi làm một nhà lầu 2 tầng, có hàng rào xung quanh chắc chắn, có người canh gác cửa ngày đêm. Nhờ bác thay mặt tôi đứng ra làm lễ thành hôn con trai của tôi Ghosaka với con gái phú hộ trong tỉnh thành ấy. Khi công việc xong rồi tôi sẽ trọng thưởng cho bác.”

    Viết xong nàng gấp lại, xuống lầu đến phòng ngủ của công-tử Ghosaka, nàng cất giữ lá thư vào trong chéo áo của cậu ta như trước.

    Cậu Ghosaka nghỉ một đêm, sáng dậy ăn uống no đủ, từ giã ông bà phú hộ đi đến nhà bác thâu thuế. Bác thâu thuế nhìn thấy cậu Ghosaka hỏi:

    - Này công-tử! Công-tử đến có công việc gì?

    Cậu Ghosaka thưa rằng:

    - Thưa bác! Thân phụ của con gửi lá thư cho bác đây.

    Cậu Ghosaka trao lá thư cho bác thâu thuế xem, đọc xong thư bác thâu thuế vô cùng hoan hỷ nghĩ rằng:

    “Ông phú hộ đã giao cho ta công việc quan trọng, rất vinh dự lớn lao.”

    Ông thông báo với 100 gia đình đóng thuế biết rằng:

    - Thưa quý bà con! Công-tử Ghosaka của ông phú hộ mang lá thư đến cho tôi, trao một phận sự quan trọng rất vinh dự là thay mặt ông phú hộ đứng ra lo công việc làm lễ thành hôn công-tử lớn của phú hộ với cô tiểu-thư của gia đình phú hộ trong tỉnh thành này.

    Chúng ta hãy mang vật liệu, v.v... để xây cất một căn nhà lầu 2 tầng thật xinh đẹp xong, rồi chúng ta sẽ tổ chức làm lễ thành hôn cho công-tử của ông phú hộ với tiểu-thư của ông phú hộ trong tỉnh thành này.

    Tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ chung lo xây cất nhà rồi làm lễ thành hôn công-tử Ghosaka của phú hộ Kosambī với cô tiểu-thư của phú hộ trong tỉnh thành này xong, cho người báo tin cho ông phú hộ Kosambī biết rằng:

    “- Kính thưa ông phú hộ, công việc mà ông phú hộ giao cho tôi, bây giờ tôi đã làm xong.”

    Ông phú hộ Kosambī nghe người đem tin thuật lại mọi sự việc ngoài ý muốn của mình, ông than vãn rằng:

    “Ta muốn làm điều nào thì điều ấy không thành tựu, ta không muốn làm điều nào thì điều ấy lại thành tựu.”

    Ông phú hộ Kosambī phát sinh khổ tâm buồn phiền lâm bệnh nặng, một phần vì thương tiếc đứa con ruột, một phần uất ức đứa con nuôi, đã bao nhiêu lần giết nó mà vẫn không giết được, cho nên căn bệnh của phú hộ càng ngày càng trầm trọng không có thuốc men nào điều trị cho khỏi được.

    Phần tiểu-thư của ông phú hộ sau khi làm lễ thành hôn với công-tử Ghosaka rồi, nàng bảo nhóm gia nhân rằng:

    Nếu có người nhà ông phú hộ xứ Kosambī đến mang tin tức gì, các người hãy cho ta biết trước, không được cho cậu Ghosaka biết trước.

    Ông phú hộ Kosambī tuy đã lâm bệnh nặng, nhưng ông nghĩ rằng:

    “Ta sẽ không cho đứa con nuôi xấu số này thừa hưởng của cải sự nghiệp của ta.”

    Ông phú hộ Kosambī sai người đem thư đến gọi đứa con nuôi Ghosaka về gặp ông hai lần mà phu-nhân của Ghosaka vẫn giấu kín không cho phu-quân Ghosaka biết, mãi cho đến lần thứ ba, người nhà phú hộ Kosambī đem tin đến, bảo công-tử Ghosaka trở về nhà cho ông phú hộ gặp mặt gấp.

    Lần này phu-nhân của công-tử Ghosaka hỏi thăm tình trạng và biết ông phú hộ lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống lâu được nữa, nàng mới báo tin cho phu- quân biết rằng:

    - Cha của anh bị bệnh nặng trầm trọng, hai vợ chồng chúng ta nên sắp đặt trở về thăm cha.

    Nàng muốn kéo dài thời gian nên nàng tính đem xe chở của cải hàng hóa thâu thuế 100 nhà về nhà chồng.

    Khi cậu Ghosaka về đến nhà thì ông phú hộ đã quá yếu rồi, người nhà báo tin cho ông phú hộ biết cậu Ghosaka về đến.

    Theo sự sắp đặt của phu nhân, công tử Ghosaka đứng phía dưới chân của người cha, vợ của công tử Ghosaka đứng ở phía trên đầu.

    Ông phú hộ gọi người thủ kho báo cáo tất cả của cải vàng bạc trong kho của ông và của cải bên ngoài. Người thủ kho báo cáo: “Của cải có 400 triệu (bốn trăm triệu), còn ruộng đất, đàn gia súc: trâu, bò, ngựa, xe cộ, v.v... có chừng ấy, chừng ấy, ...”

    Ông phú hộ Kosambī nghĩ trong tâm không muốn cho cậu Ghosaka số của cải, tài sản ấy, nhưng miệng lại nói cho, ngược lại với điều ông đã nghĩ, bởi vì, do phước- thiện của cậu Ghosaka khiến ông phú hộ Kosambī nói trái với điều ông suy nghĩ.

    Sau đó, ông phú hộ Kosambī qua đời (chết), tất cả của cải, tài sản sự nghiệp của ông phú hộ Kosambī đều thuộc về của cậu Ghosaka.

    * Cuộc đời Ghosaka trở thành phú hộ

    Sau khi ông phú hộ Kosambī chết, các quan tâu lên Đức-vua Udena nước Kosambī.

    Đức-vua truyền hỏi:

    - Ông phú hộ Kosambī có đứa con nào không?

    Các quan tâu:

    - Muôn tâu Bệ hạ, ông phú hộ xứ Kosambī có một công-tử tên là Ghosaka.

    Đức-vua truyền lệnh gọi công-tử Ghosaka vào chầu, rồi phong tước Ghosaka thừa kế tước vị phú hộ của người cha để lại.

    Từ đó, cậu Ghosaka trở thành phú hộ nước Kosambī. Một hôm, phu-nhân phú hộ nhìn phu-quân Ghosaka mỉm cười. Phú hộ Ghosaka hỏi phu-nhân cười việc gì?

    - Thưa phu-quân Ghosaka, nay phu-quân trở thành phú hộ nước Kosambī như thế này là nhờ em giúp một phần.

    Nàng kể lại việc công-tử Ghosaka đem lá thư đến bác thâu thuế nhờ bác ấy giết công-tử, chính nàng đã bỏ lá thư ấy rồi viết lại lá thư khác, nhờ bác thâu thuế đứng ra làm lễ thành hôn cho công tử với nàng.

    Phú hộ Ghosaka không tin lời của phu-nhân bởi vì phú hộ Ghosaka tin rằng: “Ta là người con trai thừa kế của cải tài sản và tước vị của người cha để lại.”

    Bởi vì phú hộ Ghosaka không hề hay biết gì về thân phận của mình và những sự việc mà ông phú hộ đã đối xử với mình.

    Vì vậy, phú hộ Ghosaka không tin lời của phu-nhân. Biết phú hộ Ghosaka vẫn chưa tin đó là sự thật nên nàng cho người gọi bà tớ gái Kāḷi đứng ra làm chứng.

    Bà tớ gái Kāḷi thân tín đứng ra làm chứng thuật lại đầy đủ cuộc đời của cậu Ghosaka từ khi còn là đứa trẻ sơ sinh, ông phú hộ đã tốn nhiều tiền, với tác-ý trong ác- tâm muốn giết Ghosaka 6 lần trước, nhưng không thể nào giết chết Ghosaka được.

    Đến lần thứ 7, như lời phu-nhân đã nói là hoàn toàn đúng theo sự thật.

    Như vậy, công-tử Ghosaka thoát chết 7 lần, nay trở thành phú hộ Ghosaka nước Kosambī này.

    Phú hộ Ghosaka nghe qua tiểu sử cuộc đời của mình như vậy nên suy nghĩ rằng:

    “Ta đã tạo ác-nghiệp gì nặng mà ta bị tai nạn như thế, và ta đã tạo đại-thiện-nghiệp gì mà ta được thoát khỏi chết như vậy. Từ nay về sau, ta không nên dể duôi, cố gắng tạo mọi phước-thiện.”

    Từ đó, phú hộ Ghosaka mỗi ngày đem của cải ra làm phước-thiện bố-thí cho mọi người nghèo khổ đói khát, người đi đường, v.v...

    Về sau, khi nghe tin Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian, phú hộ Ghosaka cùng với hai người bạn cũng là phú hộ tên Kukkuṭa và Pāvārika cùng nhau đến hầu Đức-Phật tại xứ Sāvatthi, nghe pháp xong, cả ba phú hộ đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Cả ba phú hộ thỉnh Đức-Phật ngự đến xứ Kosambī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi mỗi ông phú hộ xây cất mỗi ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

    - Ông phú hộ Ghosaka xây cất ngôi chùa đặt tên Ghositārāma.

    - Ông phú hộ Kukkuṭa xây cất ngôi chùa đặt tên Kukkuṭārāma.

    - Ông phú hộ Pāvārika xây cất ngôi chùa đặt tên Pāvāritārāma.

    Ba ông phú hộ nước Kosambī hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời.

    TÍCH NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI TRỘM-CẮP

    Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại cung điện của Đức- vua Bimbisāra trong kinh-thành Magadha, thuyết bài Tirokuḍḍapeta tế độ nhóm ngạ-quỷ là thân quyến tiền- kiếp của Đức-vua Bimbisāra.

    Trong bộ Chú-giải Petavatthu giảng giải bài kệ Tirokuḍḍapetavatthu (1) nói về nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra, được tóm lược như sau:

    Nhóm ngạ-quỷ vốn là bà con thân quyến trong tiền- kiếp của Đức-vua Bimbisāra từ thời kỳ Đức-Phật

    Phussa xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức-Phật Gotama của chúng ta trải qua thời gian khoảng cách 92 đại-kiếp trái đất, có 8 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức-Phật Phussa, Đức-Phật Vipassī, Đức- Phật Sikhī, Đức-Phật Vessabhū, Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức-Phật Kasspa đến Đức- Phật Gotama.

    Tiền-kiếp của nhóm ngạ-quỷ vốn là bà con thân quyến của vị quan thâu-thuế (1) của Đức-vua Jayasena trong thời-kỳ Đức-Phật Phussa.

    Những người bà con thân quyến ấy có phận sự lo làm các món vật thực đem dâng cúng dường đến Đức-Phật Phussa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Nhóm người ấy vốn không có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên đã tự tiện lấy dùng trước những món đồ ăn dành để dâng cúng dường đến chư tỳ- khưu-Tăng, còn đem cho các con ăn nữa, đã phạm giới trộm-cắp đồ ăn của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, lại còn gây gỗ với những người có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo rồi đốt cháy nhà bếp, nên tạo ác-nghiệp trộm-cắp và phá hoại.

    Sau khi nhóm người ấy chết, ác-nghiệp trộm-cắp đồ ăn của chư tỳ-khưu-Tăng cho quả tái-sinh trong cõi đại- địa-ngục, rồi từ cõi địa-ngục này sang địa-ngục khác, trải qua 92 đại-kiếp trái đất, mãi cho đến kiếp trái đất Bhaddakappa (2) này.

    Trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, chúng nó mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục rồi tái-sinh làm nhóm ngạ-quỷ đói khát.

    Một hôm, nhóm ngạ-quỷ ấy đến hầu Đức-Phật Kassapa, bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhóm ngạ-quỷ chúng con đến khi nào mới có người bà con thân quyến làm phước- thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng con, để cho nhóm ngạ-quỷ chúng con hưởng được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, chúng con mới thoát ra khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ sở này, hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc? Bạch Ngài.

    Nghe chúng ngạ-quỷ bạch hỏi như vậy, Đức-Phật Kassapa dạy bảo rằng:

    - Này nhóm ngạ-quỷ! Bây giờ các con chưa được gì. Các con hãy ráng chờ trong thời vị-lai đến thời-kỳ Đức- Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

    Thuở ấy, có Đức-vua Bimbisāra đã từng là bà con thân quyến của các con cách đây 92 đại-kiếp trái đất. Đức-vua Bimbisāra sẽ làm phước-thiện bố-thí, cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, rồi sẽ hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các con.

    Nghe lời dạy của Đức-Phật Kassapa như vậy, nhóm ngạ-quỷ vô cùng hoan hỷ trông chờ như sắp nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy trong nay mai.

    Thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm.

    Đến khi Đức-Phật Kassapa tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật bị mai một dần dần cho đến khi hoàn toàn bị tiêu hoại, thì ác-pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện-pháp từ từ suy thoái, cho nên, tuổi thọ của con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống dần dần cho đến khi tuổi thọ con người chỉ còn 10 năm.

    Khi ấy, một thảm họa khủng khiếp xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con thân quyến, ...

    Một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại lẫn nhau nữa.

    Từ đó, con người bắt đầu biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, do đó, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng trưởng dần dần lên đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm.(1)

    Thời-kỳ ấy, con người sống lâu phát sinh tâm dể duôi, ác-pháp bắt đầu phát sinh, do đó, tuổi thọ của con người cũng bắt đầu giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm.

    Trong thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm, Đức-Phật Gotama của chúng ta xuất hiện trên thế gian.

    Vào thời ấy, Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha, trị vì đất nước Māgadha. Đức-Phật ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng. Đức-vua Bimbisāra cùng toàn thể dân chúng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tế độ đức-vua cùng dân chúng.

    Ngay ngày hôm ấy, Đức-vua Bimbisāra chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cùng với số đông dân chúng cũng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Đức-vua Bimbisāra có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng- bảo, kính thỉnh Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng ngày hôm sau độ vật thực tại cung điện.

    Đức-Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Bimbisāra.

    Sáng hôm ấy, Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Đức-vua Bimbisāra làm phước-thiện đại-bố-thí đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng.

    Khi ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền- kiếp của Đức-vua Bimbisāra cùng nhau hiện đến cung điện đứng chờ đợi với hy vọng rằng:

    “Hôm nay, Đức-vua Bimbisāra sẽ hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ chúng ta.”

    Sau khi làm phước-thiện bố-thí dâng cúng dường vật thực đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng độ xong, Đức-vua Bimbisāra mãi lo suy nghĩ xây dựng ngôi chùa nơi nào thuận lợi, làm chỗ ở cho Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên không hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho ai cả.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua không hưởng được phần phước-thiện bố-thí, cho nên, chúng ngạ-quỷ vô cùng thất vọng khổ tâm.

    Đêm hôm ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến lâu đài của Đức-vua, kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ.

    Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua, con nghe những âm thanh đáng kinh sợ. Vậy, có chuyện gì sẽ xảy đến với con hay không? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Đại-vương! Đại-vương không có gì đáng lo sợ. Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đại-vương thời quá-khứ, chúng nó trông chờ Đại-vương từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến nay. Chúng ngạ- quỷ hy vọng Đại-vương làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi- hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng riêng biệt, khi nhóm ngạ-quỷ hưởng được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, nhóm ngạ-quỷ sẽ thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

    Ngày hôm qua, sau khi làm phước-thiện bố-thí xong, Đại-vương không hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng ngạ-quỷ. Do đó, nhóm ngạ-quỷ thất vọng khổ tâm, đêm khuya chúng ngạ-quỷ hiện đến gần lâu đài của Đại-vương kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ như vậy.

    Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, nếu con làm phước-thiện bố-thí rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố- thí ấy thì nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con có nhận được hay không? Bạch Ngài.

    Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Đại-vương! Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đại-vương sẽ nhận được.

    Lắng nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức- vua Bimbisāra liền bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để con xin làm phước-thiện bố-thí, cúng dường đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, lần này con sẽ hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí riêng biệt đến cho nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con, để cứu giúp cho nhóm ngạ-quỷ thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát ấy, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

    Đức-Thế-Tôn im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức- vua Bimbisāra.

    Đức-vua Bimbisāra thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi xin phép hồi cung ngự trở về cung điện, lo sửa soạn vật thực để làm phước-thiện bố-thí vào ngày hôm sau.

    Sáng hôm sau, Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Đức-Thế-Tôn ngự lên ngồi chỗ cao quý và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngồi chỗ mỗi vị.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến đứng các nơi bên ngoài chờ đợi với hy vọng rằng:

    “Hôm nay, chúng ta chắc chắn sẽ hưởng được phần phước-thiện bố-thí hồi-hướng ấy, rồi hóa thành món ăn, thức uống, v.v ... cho chúng ta.”

    Đức-Thế-Tôn hóa phép thần-thông làm cho tất cả nhóm ngạ-quỷ hiện rõ ra để cho Đức-vua Bimbisāra nhìn thấy chúng ngạ-quỷ ấy.

    Mỗi khi, Đức-vua tự tay mình dâng cúng dường món ăn, thức uống nào đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, Đức-vua đều hồi hướng phần phước-thiện bố-thí rằng:

    “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Cầu mong phần phước- thiện bố-thí này được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay khi ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến ấy đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, có đầy đủ món ăn, thức uống ngon lành trên cõi trời.

    Đức-vua Bimbisāra thành kính dâng cúng dường bộ y và các thứ vật dụng khác đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố- thí rằng:

    “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Cầu mong phần phước- thiện bố-thí này được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

    Nhóm bà con thân quyến ấy của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay khi ấy, nhóm bà con thân quyến có đầy đủ các bộ y phục đẹp đẽ lạ thường, các đồ trang sức quý giá, các lâu đài sang trọng, chỗ nằm, chỗ ngồi đẹp đẽ, v.v... trên cõi trời.

    Do nhờ oai lực của Đức-Thế-Tôn, Đức-vua Bimbisāra tận mắt nhìn thấy tất cả nhóm bà con thân quyến được thoát khỏi cảnh khổ đói khát, lạnh lẽo, ... được hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời. Đức-vua phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ.

    Sau khi độ vật thực xong, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tích Tirokuḍḍapetavatthu này gồm có 12 bài kệ, trong đó có câu:

    “Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của các con, những bà con thân quyến của các con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

    THÍ-CHỦ HỒI-HƯỚNG PHƯỚC-THIỆN ĐẾN THÂN QUYẾN

    Dựa theo bài kệ trong Tirokuḍḍapetavatthu, mỗi khi các thí-chủ có cơ hội làm phước-thiện nào ví như phước-thiện bố-thí, ... cúng dường đến chư tỳ-khưu- Tăng v.v... nên hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến các ngạ-quỷ bà con thân quyến của mình bằng cách tự đọc câu kệ hồi-hướng rằng:

    “Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

    Các thí-chủ sau khi tự đọc xong câu kệ này, nếu các ngạ-quỷ là bà con thân quyến của mình hay biết có thân quyến hồi-hướng phần phước-thiện ấy thì liền xuất hiện đến, các ngạ-quỷ đều phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay khi ấy, các ngạ-quỷ là bà con thân quyến của thí-chủ được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, nhờ phước-thiện ấy đó là đại-thiện-nghiệp cho quả hóa-sinh

    kiếp sau trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng mọi an-lạc tại cõi trời ấy.

    Mỗi người trong chúng ta trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này, tin chắc chắn rằng:

    “Có số bà con thân quyến thuộc về kiếp ngạ-quỷ có ác-nghiệp nhẹ đang sống gần gũi với chúng ta, các ngạ- quỷ ấy ngày đêm đang trông chờ bà con thân quyến làm phước-thiện rồi hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho các ngạ-quỷ ấy. Cho nên, chúng ta mỗi khi làm phước- thiện nào rồi nên đọc câu kệ hồi-hướng rằng:

    “Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Cầu mong phần phước-thiện này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.”

    Nếu nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến của thí-chủ hay biết tin lành ấy thì nhóm ngạ-quỷ ấy liền xuất hiện đến, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay sau khi có đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước- thiện ấy, các ngạ-quỷ bà con thân quyến liền thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, được trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy, thì hạnh phúc an-lạc biết dường nào!

    Trên đây đề cập đến người phạm điều-giới trộm-cắp đồ ăn của tỳ-khưu-Tăng tạo ác-nghiệp nặng mà phải chịu quả khổ trong cõi địa-ngục lớn đến các cõi đia-ngục nhỏ suốt thời gian lâu dài trải qua 92 đại-kiếp trái đất, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi lại tái-sinh làm kiếp

    ngạ-quỷ còn phải chịu quả khổ đói khát trông chờ bà con thân quyến làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến nhóm ngạ-quỷ. Sau khi nhóm ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước- thiện ấy mới thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ sở như đã trình bày.

    TÍCH CỦA NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI TÀ-DÂM

    Người phạm điều-giới tà-dâm là người có quan hệ tình-dục bất chính với vợ hoặc chồng hoặc con của người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.

    QUẢ KHỔ CỦA ÁC-NGHIỆP TÀ-DÂM: ISIDĀSĪTHERĪGĀTHĀ

    Trích trong bộ Therīgāthā (Đại-đức Tỳ-khưu-ni kệ), Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsītherī (1) thuật lại tiền-kiếp của Ngài rằng:

    Tỳ-khưu-ni Isidāsī và tỳ-khưu-ni Bodhī là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch, nhập thiền an hưởng sự an-lạc trong thiền, là bậc đa văn túc trí, bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi phiền-não không còn dư sót.

    Hai Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni cùng nhau đi khất thực, độ xong cùng trở về, ngồi nghỉ một nơi thanh vắng đàm đạo với nhau.

    Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Bodhī hỏi vị Đại-đức tỳ-khưu- ni Isidāsī rằng:

    - Này em Isidāsī! Em là bậc đáng kính trọng, em đang còn trẻ, em thấy tội-lỗi gì trong đời mà em xuất gia tỳ- khưu-ni như vậy?

    Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsī là bậc có trí-tuệ sáng suốt, có tài thuyết pháp, đã thưa rằng:

    - Thưa chị Bodhī, xin chị nghe em thuật lại câu chuyện cuộc đời em, khiến em đi xuất gia như vầy:

    “Em là đứa con gái duy nhất trong gia đình, cha em là phú hộ ở trong thành Ujjeni, là người có giới, có tâm từ thương yêu quý mến em.

    Khi em đã trưởng thành, có một người con trai phú hộ ở xứ Sāketa đến xin làm lễ cưới em về làm vợ, thân phụ của em bằng lòng cho em về làm dâu gia đình phú hộ xứ Sāketa.

    Em đã về nhà cha mẹ chồng, hằng ngày em đảnh lễ cha mẹ chồng, cha mẹ chồng dạy bảo điều nào em cũng làm tròn phận sự điều ấy.

    Chị gái, em gái, anh trai, em trai, bà con, bạn bè người quen bên chồng, em chỉ thấy một lần, về sau khi gặp lại em cư xử kính trọng lễ phép, tiếp đón tử tế bằng thức ăn, nước uống, đồ dùng, v.v... em biết những gì hợp với người nào, em tiếp đãi biếu tặng cho người ấy.

    Buổi sáng, em thường thức dậy sớm, rửa mặt rửa tay xong, chắp tay đi vào hầu hạ chồng, nào lấy nước nóng nhúng khăn lau mặt, chải tóc, xoa vật thơm, lấy gương soi mặt, đem áo quần sạch thay bộ áo quần cũ, hầu hạ chồng em, như người tớ gái ngon ngoãn vâng lời chủ.

    Em tự nấu cơm canh, rửa chén bát, giặt giũ quần áo cho chồng, ... như người mẹ hiền săn sóc đứa con yêu quý duy nhất như thế nào thì em cũng săn sóc chồng như thế ấy.

    Em chỉ có một mực hết lòng thương yêu, chiều chuộng chồng, chung thủy với chồng, làm tròn bổn phận người vợ hiền đối với chồng.

    Em không hề có tính ngã-mạn khó dạy, không hề lười biếng, nhác làm. Em là người siêng năng cần mẫn, dễ dạy, có giới trong sạch và đầy đủ.

    Thế mà chồng em không vừa lòng với em, không thương yêu em, chồng em thưa với cha mẹ rằng:

    - Kính thưa cha mẹ, con sẽ bỏ nhà ra đi, con không thể nào sống chung trong một ngôi nhà với nàng Isidāsī được.

    Cha mẹ chồng bảo chồng em rằng:

    - Này con yêu quý! Con chớ nên nói như vậy, nàng Isidāsī là người thiện-trí thông minh, siêng năng chăm chỉ, làm tròn phận sự của người vợ hiền, dâu thảo.

    Tại sao con không vừa lòng, không thương yêu Isidāsi vậy con?

    Chồng em thưa với cha mẹ rằng:

    - Kính thưa cha mẹ, Isidāsī không hề làm điều gì để cho con phật ý, không vừa lòng cả, nhưng thưa cha mẹ, con không thể sống chung với Isidāsī được, con không muốn nhìn thấy mặt Isidāsī, con xin phép từ giã cha mẹ, con xin đi nơi khác.

    Cha mẹ chồng khi nghe chồng em nói như vậy, đến hỏi em rằng:

    - Này con yêu quý! Con đã làm điều gì sai quấy, làm cho chồng con không vừa lòng, muốn từ bỏ con?

    Con hãy nói thật cho cha mẹ nghe điều ấy.

    Em thưa với cha mẹ chồng rằng:

    - Kính thưa cha mẹ, con không hề làm điều gì sai quấy, con không hề làm điều gì khiến cho chồng con phật ý, không vừa lòng cả, con không hề coi thường chồng con, con không hề nói lời nào thô tục khiến chồng con không vừa lòng hoặc giận hờn con cả.

    Cha mẹ chồng em khổ tâm vô cùng, không nói gì cả, nhưng dù sao cũng phải giữ con trai ở lại nhà, không cho con trai đi nơi khác, nên đành phải trả em trở về nhà cha mẹ em ở thành Ujjeni.

    Kể từ đó, em trở thành người đàn bà xinh đẹp, dễ thương mà bị chồng bỏ.

    Em về sống với gia đình cha mẹ em được một thời gian, cha của em lại gả em cho một người con trai của một gia đình giàu có, của cải bằng một nửa gia đình cha mẹ người chồng thứ nhất.

    Em sống chung với người chồng thứ hai, hằng ngày em làm tròn phận sự của một người vợ hiền, một người con dâu thảo trong gia đình cha mẹ chồng, em hầu hạ săn sóc chồng em như một người đầy tớ gái hầu hạ săn sóc chủ.

    Mặc dù vậy, em hầu hạ săn sóc chồng em được một tháng, người chồng thứ hai cũng gửi trả em về lại với cha mẹ của em. Em trở về sống với gia đình cha mẹ em.

    Một hôm, cha em gặp một chàng trai trẻ đi lang thang, đi xin ăn sống nhờ vào lòng từ, bi của người khác, chàng trai trẻ có thân, khẩu, ý hành thiện. Cha em bảo với chàng trai hành khất ấy rằng:

    - Này con! Con nên đến làm rể của nhà ta, con hãy vất bỏ cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, bộ đồ rách rưới dơ bẩn của con đi.

    Anh ấy đồng ý đến làm rể của cha mẹ em, làm chồng của em.

    Em sống chung với người con trai hành khất ấy là người chồng thứ ba được trọn mười lăm (15) ngày.

    Người con trai hành khất ấy thưa với cha em rằng:

    - Thưa ông, xin ông trả lại cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm và bộ đồ rách rưới dơ bẩn ấy lại cho con, để cho con đi xin ăn, bởi vì con không thể sống chung với nàng Isidāsī được.

    Cha mẹ em và người bà con hỏi anh chàng hành khất ấy rằng:

    - Này con! Cô Isidāsī đã làm điều gì mà con không hài lòng?

    Vậy, con nên nói cho cha mẹ và bà con biết, cha mẹ sẽ giúp đỡ cho con được vừa lòng như ý.

    Chàng trai hành khất thưa với cha mẹ em và bà con rằng:

    - Con muốn được sống tự do, con không muốn sống chung với nàng Isidāsī.

    Cha mẹ em phải để cho chàng trai hành khất ra đi sống tự do, còn lại một mình, em suy nghĩ rằng:

    “Em nên từ biệt cha mẹ, em đi tự tử hoặc nên đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni?”

    Khi ấy, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā, là bậc đa- văn túc-trí, giới-đức thanh-tịnh đến khất thực tại nhà em.

    Nhìn thấy Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, em cung kính đón rước tiếp đãi, trải chỗ cho Ngài ngồi, em đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi kính dâng vật thực cúng dường đến Ngài. Khi Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā độ vật thực xong, em đảnh lễ và bạch rằng:

    - Kính thưa Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, con có nguyện vọng muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Kính xin Ngài có tâm từ tế độ cho con.

    Khi ấy, cha mẹ em bảo với em rằng:

    - Này con gái yêu quý! Con nên sống tại nhà, thực- hành giới, giữ gìn giới trong sạch, thực-hành phước- thiện bố-thí, dâng vật thực cúng dường đến Sa-môn, Bà- la-môn, như vậy cũng tốt chứ con.

    Em chắp tay lạy cha mẹ, vừa khóc vừa thưa với cha mẹ rằng:

    - Kính xin cha mẹ có tâm từ, tâm bi cho phép con được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni, con sẽ cố gắng thực- hành phạm-hạnh cao thượng, để làm cho ác-nghiệp cũ của con không có cơ hội cho quả nữa.

    Cha mẹ em biết không thể ngăn được ý nguyện muốn xuất gia của em, nên cha mẹ đành cho phép em xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Cha mẹ em cầu chúc cho em chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn cao thượng mà Chư Phật đã dạy:

    “Niết-bàn là pháp an-lạc tuyệt đối.”

    Em chắp tay lạy cha mẹ và bà con rồi xin đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

    Sau khi trở thành tỳ-khưu-ni thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đến ngày thứ 7, em đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự đến A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả cùng Tam-minh, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    Em đã nhớ rõ lại tiền-kiếp của em suốt 7 kiếp, kể từ kiếp hiện-tại này trở lại theo tuần tự 7 kiếp quá-khứ của em, để biết ác-nghiệp nào cho quả khiến cho cuộc đời của em bị chồng không vừa lòng bỏ em như vậy.

    Em xin thuật lại quả của ác-nghiệp mà tiền-kiếp của em đã tạo trong kiếp quá-khứ.

    Xin chị lắng nghe ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp ấy trong tiền-kiếp của em như sau:

    * Tiền-kiếp thứ 7 của em, kể từ kiếp này trở lui, em là con trai tiệm vàng có nhiều của cải giàu sang ở thành Erakaccha, là người con trai dể duôi (thất niệm) si-mê trong thời trẻ trung, đã phạm điều-giới tà-dâm với vợ người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.

    * Tiền-kiếp thứ 6 của em, sau khi con trai tiệm vàng chết, do ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại- địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm suốt thời gian lâu dài trong đại-địa-ngục Avīci cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

    * Tiền-kiếp thứ 5 của em, sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con khỉ đực. Khỉ đực con sinh ra được 7 ngày, bị con khỉ chúa cắn đứt dương vật.

    Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

    * Tiền-kiếp thứ 4 của em, sau khi kiếp con khỉ chết, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con dê đực bị mù mắt, bị què chân. Về sau, cũng bị cắn đứt dương vật, rồi sinh bệnh sưng làm mủ, dòi ăn bộ sinh dục, phải chịu đau khổ suốt 12 năm rồi chết.

    Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

    * Tiền-kiếp thứ 3 của em, sau khi dê đực chết, ác- nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con bò đực có bộ lông nâu. Khi lớn lên được 12 tháng cũng bị thiến bộ sinh dục. Kiếp làm bò đực, khi thì người chủ bắt kéo cày, khi thì người chủ bắt kéo xe, không có lúc nào được nghỉ.

    Về sau, kiếp bò đực ấy bị mù đôi mắt, bệnh hoạn chết. Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

    * Tiền-kiếp thứ nhì của em, sau khi kiếp bò đực chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con của một người tớ gái, là đứa trẻ ái-nam ái-nữ (không phải trai cũng không phải gái), sống được 30 tuổi rồi chết.

    Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

    * Tiền-kiếp thứ nhất của em, sau khi kiếp ái-nam ái- nữ chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm

    người con gái trong gia đình thợ dệt chiếu nghèo nàn cực khổ, túng thiếu mang nợ, chủ nợ đến đòi, không trả nổi, người chủ nợ lấy tất cả của cải, bắt gia đình, kể cả con gái về làm tôi tớ.

    Về sau, khi đứa con gái (là em) lớn được 16 tuổi rất xinh đẹp, người con trai của chủ nợ tên Giridāsa bắt ép em làm vợ nhỏ mặc dù ông ta đã có vợ lớn rồi.

    Người vợ lớn là người có giới, có đức-hạnh tốt, thương yêu chiều chuộng chung thủy với chồng.

    Ông Giridāsa rất say mê người vợ nhỏ xinh đẹp. Người vợ nhỏ (là em) năn nỉ, lời ngon, tiếng ngọt, xúi dục ông Giridāsa đuổi người vợ lớn ra khỏi nhà.

    Do ác-nghiệp ấy, nên kiếp này 3 người chồng đều ruồng bỏ em, đuổi ra khỏi nhà, không muốn nhìn mặt em, mặc dù em hết lòng hầu hạ chồng như người tớ gái ngoan ngoãn lo phục vụ chủ.

    Đó là ác-nghiệp xúi dục chồng đuổi vợ lớn ra khỏi nhà.

    Kiếp hiện-tại này là kiếp cuối cùng, bởi vì em đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, không còn tái- sinh trở lại kiếp nào nữa.

    Như vậy, tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp. Cho nên, quả của mọi ác-nghiệp và quả của mọi thiện-nghiệp cũng đều kết thúc trong kiếp chót này.”

    QUẢ KHỔ CỦA ÁC-NGHIỆP TÀ-DÂM: AÑÑATARAPURISAVATTHU

    Thuở ấy, Đức-Phật đang ngự tại chùa Jetavana đề cập nói về quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm, được tóm lược như sau:

    Một hôm, Đức-vua Pasenadi Kosala cỡi bạch tượng trang sức lộng lẫy có đoàn quân lính hầu ngự đi trong thành biểu dương oai lực của Đức-vua.

    Khi ấy, một người đàn bà rất xinh đẹp, đứng ở cửa sổ trên tầng 7 của lâu đài nhìn Đức-vua.

    Đức-vua ngẩng lên nhìn thấy nàng đẹp như thiên-nữ, Đức-vua sinh tâm yêu say đắm nàng ấy. Khi hồi cung trở về cung điện, Đức-vua gọi vị quan cận thần đi dò hỏi xem nàng đã có chồng hay chưa. Vị quan cận thần về tâu cho Đức-vua biết nàng đã có chồng rồi. Đức-vua truyền lệnh đòi chồng của nàng vào cung, bày mưu kế hiểm giết người chồng để chiếm người vợ trẻ rất xinh đẹp ấy.

    Mưu kế đã tính sẵn, đợi ngày hôm sau mới giết người đàn ông và sẽ chiếm người vợ trẻ xinh đẹp, Đức-vua bị lửa tình dục thiêu đốt, suốt đêm không sao ngủ được, trông cho mau đến sáng.

    Khi ấy, bốn chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục “Loha- kumbhī: Địa-ngục nước đồng sôi” (chiều sâu 60 do- tuần) bị lửa địa-ngục thiêu đốt, nước đồng sôi làm cho cả 4 chúng-sinh ấy nhào lên rồi lộn xuống, giống như hạt gạo đang sôi trong nồi cháo lỏng. Từ miệng địa-ngục nước đồng sôi chìm đến đáy thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm; rồi từ đáy nước đồng sôi nổi lên đến miệng thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm, vừa đến miệng 4 chúng-sinh nhìn nhau định đọc một câu kệ, nhưng thời gian không kịp, cho nên mỗi chúng-sinh ấy chỉ đọc được âm đầu là Du, Sa, Na, So.

    Đức-vua suốt đêm không ngủ được, vào canh giữa đêm nghe rõ 4 âm đầu “Du, Sa, Na, So”. Đức-vua kinh đến câu chuyện Aññatarapurisavatthu (1): có một đoạn sợ không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình, cho hoàng hậu hoặc cho ngai vàng của mình, không sao nhắm mắt được cho đến sáng.

    Đức-vua truyền lệnh gọi vị quân sư đến hỏi, vị quân sư không biết nhưng sợ mất mặt nên nói bậy rằng:

    - Tâu Đại-vương, có sự nguy hiểm đến sinh-mạng của Đại-vương.

    Vị quân sư bày ra việc lấy máu tế thần, bắt 100 con voi, 100 con ngựa, 100 con bò đực, 100 con bò sữa, 100 con dê, 100 con cừu, 100 con gà, 100 con heo, 100 đứa con trai, 100 đứa con gái cắt cổ lấy máu tế thần, để Đức- vua khỏi bị nguy hiểm đến tính mạng.

    Hoàng-hậu Mallikā hay tin Đức-vua tin theo lời vị quân sư truyền lệnh bắt sinh vật làm lễ tế thần. Hoàng hậu Mallikā ngự đến chầu Đức-vua, khuyên can Đức- vua không nên tạo ác-nghiệp sát-sinh, mà kính thỉnh Đức-vua đến hầu Đức-Phật.

    Đức-vua Pasenadi Kosala cùng Hoàng hậu Mallikā đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, Hoàng hậu Mallikā kính bạch Đức-Phật rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vào canh giữa đêm Đức- vua không ngủ được, nằm nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So” rất rùng rợn.

    Buổi sáng, Đức-vua truyền hỏi vị quân sư thì vị quân sư tâu rằng: “sẽ có sự nguy hiểm đến sinh mạng của Đức-vua.” Vị quân sư bày ra việc sát-sinh làm lễ tế thần để cứu nguy sinh mạng của Đức-vua.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sự thật như thế nào? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Đại-vương, Đại-vương nghe như thế nào?

    Đức-vua Pasenadi Kosala bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua con không ngủ được, vào canh giữa đêm con nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So”, con cảm thấy kinh sợ không biết sự việc gì sẽ xảy đến cho con? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

    - Này Đại-vương! Không có sự nguy hiểm gì xảy đến cho Đại-vương cả. Đó là 4 chúng-sinh trong cõi địa- ngục đã từng tạo ác-nghiệp trong tiền-kiếp, khi chúng nhìn thấy lại nhau, muốn đọc câu kệ, nhưng thời gian không kịp, mới đọc được âm đầu của câu kệ rồi bị chìm lại xuống cõi địa-ngục.

    Đức-vua bạch hỏi:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 4 chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp gì? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn thuyết dạy về ác-nghiệp của 4 chúng- sinh ấy rằng:

    - Này Đại-vương! Đại-vương hãy lắng nghe ác- nghiệp mà 4 chúng-sinh ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

    Trong quá-khứ, thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ của con người khoảng 20.000 (hai mươi ngàn) năm.

    Đức-Phật Kassapa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngự đi khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.

    Trong xứ Bārāṇasī, 4 người con trai của 4 ông phú hộ, có của cải đến 400 triệu, là bạn hữu với nhau; chúng không nghĩ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng, không nghĩ giữ gìn ngũ-giới và tạo mọi phước-thiện, chúng lại bàn bạc với nhau rằng:

    “Trong nhà chúng ta có nhiều của cải, chúng ta sẽ làm gì với số của cải ấy để được sung sướng.”

    * Một người nói rằng:

    - Này các bạn! Chúng ta uống rượu ngon, ăn đồ ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

    * Một người khác lại nói rằng:

    - Này các bạn! Chúng ta ăn cơm nấu từ gạo sāli, có mùi thơm được cất giữ suốt 3 năm, với đồ ăn ngon, đi chơi thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

    * Một người khác nói rằng:

    - Này các bạn! Chúng ta sai người làm đồ ăn ngon đặc biệt, ăn rồi đi chơi thì cuộc sống của chúng ta được sung sướng.

    * Một người khác nói rằng:

    - Này các bạn! Phần đông đàn bà ham tiền của, chúng ta đem tiền của ra dụ dỗ vợ của người khác sống chung với chúng ta thì cuộc sống của chúng ta sẽ được sung sướng nhiều.

    Cả 4 người con trai phú hộ đồng tình với nhau theo ý kiến cuối cùng.

    Từ đó, cả 4 người con trai ấy đem tiền bạc dụ dỗ vợ của người khác, đã phạm điều-giới tà-dâm tạo ác- nghiệp tà-dâm.

    Sau khi 4 người con trai phú hộ chết, ác-nghiệp tà- dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ trong suốt khoảng thời gian lâu dài, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian.

    Khi chúng mãn quả ác-nghiệp tà-dâm trong đại-địa- ngục Avīci, song ác-nghiệp tà-dâm ấy còn dư sót, cho quả tái-sinh vào “cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī: Địa- ngục nước đồng sôi” có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), từ miệng địa ngục chìm xuống đến đáy trải qua thời gian 30.000 năm, rồi từ đáy địa-ngục nước đồng sôi trồi lên đến miệng địa-ngục trải qua thời gian 30.000 năm, khi nổi lên đến miệng địa-ngục thì 4 chúng sinh ấy nhìn thấy nhau định đọc câu kệ, nhưng vì thời gian ngắn ngủi không kịp nên mỗi chúng sinh chỉ đọc được một âm đầu, rồi chìm xuống đáy trở lại.

    - Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Du” còn câu kệ đầy đủ là:

    “Dujjīvitamajīvimha, ye sante na dadamhase. Vijjamānesu bhojesu, dīpaṃ nākamha attano.”(1)

    “Này các bạn thân mến của tôi! Khi chúng ta có nhiều của cải, Đã không đem làm phước bố-thí, Làm hòn đảo nương nhờ của mình. Chúng ta có tuổi thọ sống lâu. Mà sống đời thấp hèn đáng khinh.”

    - Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Sa” còn câu kệ đầy đủ là:

    “Saṭṭhivassasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso. Niraye paccamānānaṃ, kadā anto bhavissati.”

    “Này các bạn thân mến của tôi! Chúng ta chịu khổ trong địa-ngục, Đầy đủ suốt sáu chục ngàn năm. Khi nào chúng ta mới mãn hạn, Trong địa ngục này các bạn nhỉ?”

    - Này Đại-vương! Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Na” còn câu kệ đầy đủ là:

    “Natthi anto kato anto, na anto paṭidissati. Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, mama tuyhañca, mārisā.”

    “Này các bạn thân mến của tôi! Mãn hạn trong địa-ngục không có, Sự mãn hạn từ đâu có được? Mãn hạn địa-ngục không hiện rõ. Bởi vì khi chúng ta làm người, Tôi và các bạn tạo ác-nghiệp.”

    - Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “So” còn câu kệ đầy đủ là:

    “Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ. Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahuṃ.”

    “Này các bạn thân mến của tôi!
    Sau khi tôi thoát khỏi địa-ngục,
    Nếu được tái-sinh lại làm người,
    Sẽ là người biết lắng nghe pháp,
    Giữ giới trong sạch và trọn vẹn.
    Chắc chắn sẽ tạo nhiều phước-thiện.”

    Khi Đức-Phật giảng giải xong ý nghĩa 4 âm đầu trong 4 câu kệ đầy đủ của 4 chúng-sinh địa-ngục vốn là 4 người con trai của 4 nhà phú hộ trong tiền-kiếp, Đức-vua lắng nghe phát sinh động tâm nghĩ rằng:

    “Tạo ác-nghiệp tà-dâm này nặng đến thế! 4 người con trai của 4 nhà phú hộ phạm điều-giới tà-dâm, phải chịu thiêu đốt ở đại-địa-ngục Avīci suốt khoảng thời gian từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức- Phật Gotama.

    Sau khi thoát ra khỏi đại-địa-ngục Avīci, rồi còn phải sa vào địa-ngục nước đồng sôi Lohakumbhī có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), chịu thiêu đốt 60.000 năm cũng chưa biết lúc nào mãn quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm trong địa-ngục nước đồng sôi.

    Còn ta đem lòng thương yêu, say mê vợ người khác, làm suốt đêm không ngủ được. Kể từ nay, ta sẽ không dám sinh tâm thương yêu, say mê vợ người khác nữa.”

    Đức-vua Pasenadi Kosala truyền lệnh thả những người và các loài thú được tự do trở về chỗ của mình, do nhờ Hoàng hậu Mallikā.

    TÍCH NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI NÓI-DỐI

    Người phạm điều-giới nói-dối là người nói lời lừa dối, trái với sự thật, khiến cho người nghe tin theo, đem lại sự tai hại trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai. Cho nên, người phạm điều-giới nói-dối, tạo ác-nghiệp nói- dối, rồi phải chịu quả khổ tái-sinh trong cõi ác-giới: địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

    TÍCH CON CÁ VÀNG KAPILA

    Trong bộ Chú-giải Pháp-cú, tích con cá vàng Kapila (1) được tóm lược như sau:

    Thuở ấy, Đức-Phật đang ngự tại chùa Jetavana, đề cập đến tích con cá vàng tên là Kapila liên quan đến ác- nghiệp nói-dối.

    Trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa có hai anh em, người anh tên Sāgata, người em tên Kapila. Cả hai anh em có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa. Còn thân mẫu tên Sādhinī và em gái tên Tāpanā, cả hai người đều xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

    Sau khi hai anh em trở thành tỳ-khưu xong, một hôm hai huynh đệ tỳ-khưu bạch hỏi vị Thầy tế độ rằng:

    - Kính bạch Thầy, phận sự trong Phật-giáo có bao nhiêu? Bạch Thầy.

    Vị Thầy tế độ dạy rằng:

    - Này hai con! Trong Phật-giáo này có hai phận sự chính là:

    1- Gandhadhura: Phận sự học pháp-học đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, ...

    2- Vipassanādhara: Phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra- hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

    * Vị tỳ-khưu Sāgata suy nghĩ rằng:

    “Ta lớn tuổi, ta nên theo phận sự thực-hành pháp- hành thiền-tuệ để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.”

    Vị tỳ-khưu Sāgata ở với vị Thầy tế độ 5 hạ (5 năm) học hiểu rõ về pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ với vị Thầy tế độ xong, rồi xin phép đi vào rừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

    Ngài Trưởng-lão Sāgata thực-hành pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    * Vị tỳ-khưu Kapila nghĩ rằng:

    “Ta còn nhỏ tuổi, ta nên theo phận sự học pháp-học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trước, khi lớn tuổi ta sẽ theo phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ sau.”

    Vị tỳ-khưu Kapila cố gắng theo học pháp-học, ghi nhớ Tam-Tạng Pāḷi, nhờ ghi nhớ pháp-học giỏi, có tài thuyết pháp hay, có tài biện luận giỏi,nên có nhiều người ngưỡng mộ.

    Do có nhiều người ngưỡng mộ nên có nhiều lợi lộc phát sinh, vị tỳ-khưu Kapila say mê trong lợi lộc, ỷ lại vào tài năng sở học của mình, nên phát sinh tâm ngã- mạn, tự cho mình là tài giỏi hơn người, coi thường bậc phạm-hạnh có giới-đức, dùng sở học của mình áp chế người khác, ngụy biện đảo lộn.

    - Điều nên hành (kappiya), nói không nên hành (akappiya).

    - Điều không nên hành (akappiya), nói nên hành (kappiya).

    - Điều có lỗi (sāvajja), nói không có lỗi (anavajja).

    - Điều không có lỗi (anavajja), nói có lỗi (sāvajja)...

    Những bậc thiện-trí có giới-đức, có tâm từ, tâm bi, đến khuyên dạy nhắc nhở rằng:

    - Này pháp-hữu Kapila! Không nên nói như vậy, làm hư hoại Phật-giáo.

    Tỳ-khưu Kapila không kính trọng bậc thiện-trí, lại còn coi thường chê trách rằng:

    - Quý vị không hiểu biết gì! Quý vị chỉ có nắm tay không, ...

    Những bậc thiện-trí đem chuyện này thưa với Ngài Trưởng-lão Sāgata là bậc Thánh A-ra-hán, là pháp- huynh của tỳ-khưu Kapila.

    Ngài Trưởng-lão Sāgata đến khuyên dạy, nhắc nhở tỳ-khưu Kapila là pháp-đệ rằng:

    - Này Kapila! Pháp-đệ nên thực-hành đúng theo lời khuyên dạy, nhắc nhở của chư bậc thiện-trí để làm cho Phật-giáo được trường tồn.

    Vì vậy, pháp-đệ hãy từ bỏ tà-kiến sai lầm, như điều nên hành, nói không nên hành, điều không nên hành, nói nên hành, v.v...

    Tỳ-khưu Kapila có tính ngã-mạn khó dạy, không làm theo lời khuyên dạy, nhắc nhở của pháp-huynh (bậc Thánh A-ra-hán).

    Ngài Trưởng-lão Sāgata có tâm từ, tâm bi đến khuyên dạy 2-3 lần, biết tỳ-khưu Kapila không nghe lời khuyên dạy, nhắc nhở, nên dạy rằng:

    - Này Kapila! Nếu cứ tiếp tục như vậy thì pháp-đệ sẽ phải chịu hậu quả ác-nghiệp nghiêm trọng của mình.

    Về sau, Ngài Trưởng-lão Sāgata tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Tỳ-khưu Kapila càng ngày càng tạo ác-nghiệp nói- dối, nên sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp nói-dối ấy cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình đã tạo.

    Thân mẫu là tỳ-khưu-ni Sādhinī và em gái là tỳ-khưu- ni Tāpanā là hai vị tỳ-khưu-ni có tính thiên vị, bênh vực tỳ-khưu Kapila, rồi chê trách những tỳ-khưu có giới-đức, nên sau khi hai vị tỳ-khưu-ni chết, ác-nghiệp ấy cho quả đều tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình đã tạo.

    * Sinh làm con cá vàng tên Kapila

    Hậu kiếp tỳ-khưu Kapila ở trong đại-địa-ngục Avīci, bị thiêu đốt chịu quả khổ của ác-nghiệp trong suốt khoảng thời gian từ thời Đức-Phật Kassapa cho đến thời- kỳ Đức-Phật Gotama mới thoát ra khỏi địa-ngục. Do ác-nghiệp nói-dối ấy còn dư sót cho quả tái-sinh làm con cá vàng tên Kapila ở sông Aciravatī có vảy màu như vàng, nhưng miệng có mùi hôi thối ghê tởm, đó là quả của ác-nghiệp nói-dối.

    Một hôm, nhóm trẻ xóm dân chài bàn tính nhau đi bắt cá, rồi đem lưới giăng ở sông Aciravatī. Con cá vàng lớn này bị mắc lưới, được bắt lên trên ghe, nhóm dân chài thấy cá lạ nên mang đến trình Đức-vua để lãnh thưởng.

    Đức-vua Pasenadi kosala nhìn thấy con cá vàng lớn lạ thường, nên nghĩ rằng:

    “Ta nên đem con cá vàng này đến trình Đức-Phật để biết rõ thế nào.”

    Con cá được đem đến ngôi chùa Jetavana, khi con cá mở miệng mùi hôi thối tỏa ra khắp ngôi chùa Jetavana.

    Đức-vua bạch hỏi Đức-Phật rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nhân nào con cá có màu như vàng? Do nhân nào miệng con cá lại hôi thối đến như thế? Bạch Ngài.

    Đức-Phật dạy rằng:

    - Này Đại-vương, con cá này tiền-kiếp là tỳ-khưu tên Kapila trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa, là bậc đa-văn túc-trí, học Tam-Tạng Pāḷi có tài thuyết pháp giỏi, được nhiều người theo ngưỡng mộ. Vì tâm tham muốn trong lợi lộc chế ngự, nên tỳ-khưu Kapila nói dối sai với chánh-pháp, điều nên hành thì nói không nên hành, .... còn chê trách các tỳ-khưu có giới- đức trong sạch mà không nghe theo mình. Sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp nói-dối cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp, sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, cũng do ác-nghiệp nói-dối ấy cho quả tái-sinh làm con cá màu vàng này.

    * Con cá có màu như vàng là do quả của đại-thiện- nghiệp học pháp-học Pāḷi nhiều năm và tán dương ca tụng ân Đức-Phật lâu năm.

    * Miệng của con cá có mùi hôi thối ghê tởm là do quả của ác-nghiệp nói dối, chê trách tỳ-khưu có giới-đức trong sạch, thuyết pháp sai chánh-pháp, ...

    - Này Đại-vương, Như-Lai sẽ khiến con cá nói được.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, xin Ngài khiến con cá nói. Bạch Ngài.

    Đức-Phật hỏi con cá rằng:

    - Ngươi là Kapila phải không?

    Con cá bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con là Kapila. Bạch Ngài.

    - Ngươi từ đâu đến tái-sinh làm con cá này?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kiếp trước con từ cõi đại- địa-ngục thoát ra, do ác-nghiệp cho quả tái-sinh làm con cá này. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu Sāgata, pháp-huynh của ngươi ở đâu?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp-huynh Sāgata đã tịch diệt Niết-bàn. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu-ni Sādhinī thân mẫu của ngươi và tỳ-khưu- ni Tāpanā em gái của ngươi ở đâu?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tỳ-khưu-ni Sādhinī thân mẫu của con và tỳ-khưu-ni Tāpanā em gái của con đang ở trong địa-ngục. Bạch Ngài.

    - Bây giờ, ngươi sẽ đi đâu?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sau khi chết, ác-nghiệp sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci như trước. Bạch Ngài.

    Con cá Kapila hối hận tức mình tự đập đầu chết tức thì, cũng do ác-nghiệp nói-dối cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci trở lại.

    Tất cả mọi người nghe cuộc đối thoại giữa Đức-Phật và con cá vàng đều phát sinh động tâm nổi da gà, rợn tóc gáy.

    NÀNG KỸ-NỮ CIÑCĀMĀṆAVIKĀ VU OAN CHO ĐỨC-PHẬT

    Thuở ấy, Đức-Thế-Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, nhóm các tu-sĩ ngoại đạo bày mưu với nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā (1) vu oan, mắng nhiếc Đức- Phật, để làm mất uy tín của Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử. (2)

    Vào thời-kỳ đầu của chánh-pháp, các hàng đệ-tử ngày một thêm đông, chư-thiên, phạm-thiên, nhân-loại đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân vô số, không sao kể xiết.

    Vì vậy, danh thơm tiếng tốt của Đức-Phật lan truyền khắp mọi nơi. Đại đa số dân chúng trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, nay đã trở thành đệ- tử của Đức-Phật. Đó là điều mà các tu-sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm nên sự cúng dường lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

    Khi thấy dân chúng lũ lượt kéo nhau đi nghe pháp cúng dường tứ vật dụng đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, các tu-sĩ ngoại đạo đã ra đứng chặn giữa đường rồi lớn tiếng thuyết phục họ rằng:

    “Không chỉ Sa-môn Gotama là Đức-Phật mà chúng tôi đây cũng là Thế-Tôn. Bố-thí cúng dường đến Sa-môn Gotama có phước nhiều, quả báu nhiều, thì bố-thí cúng dường đến chúng tôi cũng được như vậy.”

    Mặc dù các tu-sĩ ngoại đạo gắng sức rao truyền quảng cáo, cũng không thể đem lại đức-tin cho dân chúng được nữa. Khi phần đông dân chúng mất đức-tin nơi các tu-sĩ ngoại đạo thì họ cũng bị mất nhiều lợi lộc. Do đó, chúng họp bàn với nhau bày mưu kế thâm độc để hạ uy tín của Đức-Phật.

    Vào thời ấy, trong kinh-thành Sāvatthi có cô kỹ-nữ rất xinh đẹp như thiên-nữ tên là Ciñcāmāṇavikā. Nàng vốn là đệ-tử thuần thành của các tu-sĩ ngoại đạo.

    Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng Ciñcāmāṇavikā, các tu-sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế:

    “Chúng ta dùng nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Sa-môn Gotama, gây ra sự hiểu lầm để làm mất uy tín của Samôn.”

    Mưu kế ấy được họ chấp nhận.

    Một hôm, như lệ thường cô Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu-sĩ xong, rồi ngồi một bên. Cô Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu- sĩ ngồi im lặng không nói với cô một câu nào.

    Cô nghĩ rằng: “Mình có lỗi gì đây!” Cô bạch vị Đạo-trưởng rằng:

    - Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

    Vị Đạo-trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng rằng:

    - Này Ciñcāmāṇavikā! Con là một đệ-tử rất thuần thành, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à!

    Vì vậy, quý thầy cảm thấy khổ tâm, buồn bực nên không ai nói với ai điều gì cả.

    Cô Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

    - Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ sung túc lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

    Vị Đạo-trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói:

    - Này Ciñcāmāṇavikā! Con không biết gì hay sao? Chính Sa-môn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Sa-môn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường, ... Cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy.

    Cô Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa rằng:

    - Kính bạch quý Ngài, vậy mà con không hay biết gì cả. Con có thể làm gì để giúp đỡ cho quý Ngài được hay không ?

    Các vị đạo-sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói rằng:

    - Này con! Chỉ sợ con ngại khó mà không giúp quý thầy đó thôi.

    Cô Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

    - Kính bạch quý Ngài, khó khăn gì con cũng có thể làm được miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an- lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

    Vị tu-sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

    - Này con! Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy thì chỉ có một cách là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào giả mang thai với Sa- môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa-môn Gotama, như thế phần đông đệ-tử của Sa- môn Gotama sẽ trở lại với chúng ta.

    Cô Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói rằng:

    - Kính bạch quý Ngài, đúng vậy, kế này rất hay. Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

    Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều, sau khi nghe Đức- Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi đảnh lễ Đức-Phật trở về nhà, họ thường gặp cô Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi cô rằng:

    - Này cô! Chiều tối rồi cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

    Cô Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra sự nghi ngờ rằng:

    - Tôi đi đâu là việc riêng của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

    Nói xong, cô bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana nhưng cô lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

    Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận-sự-nam, cận-sự- nữ đem các lễ vật đến ngôi chùa Jetavana để cúng dường lên Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng, thì lại thấy cô Ciñcāmāṇavikā từ hướng ngôi chùa Jetavana trở lại kinh-thành Sāvatthi, người ta lại hỏi cô rằng:

    - Này cô! Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào kinh-thành sớm vậy?

    Cô Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp rằng:

    - Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

    Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, cô Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khác hỏi cô:

    - Này cô! Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

    Cô Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

    - Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin nói thật. “Đêm qua tôi nghỉ ở cốc Gandhakuṭi chung với Sa- môn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi.”

    Nói xong, cô tỏ vẻ đắc ý bỏ vào kinh-thành.

    Khi nghe cô Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận-sự- nam, cận-sự-nữ phàm-nhân thiểu-trí, sinh tâm bán tín bán nghi. Ba – bốn tháng sau, cô Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai.

    Một số phàm-nhân khác không có trí-tuệ, không hiểu biết rõ giáo-pháp của Đức-Phật, nên nghi ngờ rằng:

    “Có phải cô Ciñcāmāṇavikā có thai với Sa-môn Gotama hay không?”

    Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức- Phật đến hồi chung cuộc. Nhóm tu-sĩ ngoại đạo gọi cô Ciñcāmāṇavikā đến, họ đẽo một miếng gỗ giống hình dạng như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây.

    Nhóm tu-sĩ ngoại đạo bảo cô Ciñcāmāṇavikā đeo miếng gỗ giống hình dạng cái thai vào trước bụng, buộc chặt 4 sợi dây sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người đàn bà mang thai gần đến ngay sinh nở.

    * Đức-Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

    Vào một buổi chiều, khi Đức-Phật đang ngự trên pháp tòa thuyết-pháp tại giảng đường ngôi chùa Jetavana, tứ chúng đệ-tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì cô Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức-Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

    - Này ông đại Sa-môn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ?

    Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ...

    Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức-vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, ... cho người lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

    Nghe cô Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức-Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói:

    “Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitatha- bhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma.”(1)

    - Này cô! Cô nói lời chân thật hay lời giả dối chỉ có Như-Lai và cô biết rõ mà thôi?

    Cô Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

    - Đúng vậy, này ông Đại Sa-môn, chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi.

    Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, bảo tòa của Đức-vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên- nhãn quan sát nguyên nhân, Đức-vua trời Sakka thấy rõ, biết rõ cô Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử bởi chuyện không có thật.

    Đó chỉ là âm mưu thâm độc của nhóm tu-sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức-Phật trước tứ chúng đệ-tử mà thôi.

    Đức-vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Đức-vua trời Sakka cùng 4 vị thiên-nam xuất hiện xuống giảng đường ngôi chùa Jetavana ngay tức khắc.

    Theo lệnh của Đức-vua trời Sakka, 4 vị thiên-nam hóa thành 4 con chuột cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây cột tấm gỗ giống như bào thai của cô Ciñcāmāṇavikā, đồng thời Đức-vua trời Sakka hóa một luồng gió thổi làm cho tấm gỗ ấy rơi xuống đụng nhằm vào hai bàn chân của cô Ciñcāmāṇavikā làm cho đôi bàn chân của cô bầm máu.

    Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng thanh-văn đệ-tử.

    Cô Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa.

    Cô Ciñcāmāṇavikā hoàn toàn thất vọng, bước đi thất tha thất thểu vừa khuất tầm mắt của mọi người, ác- nghiệp nói-dối, nói lời vu khống của cô quá nặng nên mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy cô rồi hút xác cô xuống sâu dưới lòng đất.

    Sau khi cô Ciñcāmāṇavikā chết, ác-nghiệp nói-dối, nói vu khống ấy cho quả tái-sinh vào đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp nói-dối, nói lời vu khống ấy.

    TÍCH NGƯỜI PHẠM ĐIỀU-GIỚI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY

    Thuở ấy, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, Đức-Phật đề cập đến hai người con của hai nhà phú hộ (Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu)(1) được sơ lược như sau:

    * Một nhà phú hộ trong thành Bārāṇasī có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, chỉ có một người con trai duy nhất. Hai ông bà phú hộ bàn với nhau rằng:

    “Gia đình chúng ta có nhiều tiền, nhiều của như thế này, chúng ta chỉ có một đứa con trai, sau này chúng ta sẽ giao tất cả gia tài lại cho con để nó thừa hưởng sung sướng suốt cuộc đời cũng không sao hết được. Con chúng ta không cần làm việc gì cho vất vả.”

    Hai ông bà phú hộ nhất trí như vậy nên cho đứa con trai đi học đờn ca, múa hát vui chơi, không học nghề hay chuyên môn nào khác.

    * Một nhà phú hộ khác cũng trong thành Bārāṇasī này, cũng có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, cũng chỉ có một người con gái duy nhất. Hai ông bà phú hộ cùng bàn với nhau như nhà phú hộ có người con trai, nên cho đứa con gái đi học đờn ca, múa hát vui chơi như con trai nhà phú hộ kể trên.

    Khi người con trai và người con gái của hai nhà phú hộ đến tuổi trưởng thành, hai bên gia đình kết làm sui gia với nhau, tác hợp cho con trai và con gái làm lễ thành hôn, thành đôi vợ chồng với nhau.

    Sau khi cha mẹ hai bên lần lượt qua đời, tất cả gia tài của hai nhà phú hộ gom chung lại thành tài sản lớn đến 1.600 triệu.

    Cho nên, hai vợ chồng con của phú hộ có tài sản của cải rất lớn, nên gọi là “Mahādhana”, và hai người con của hai nhà phú hộ gọi là “Seṭṭhiputtā”, hai danh từ ghép lại nhau gọi là “Mahādhanaseṭṭhiputtā”, nghĩa là: “Hai người con của hai nhà phú hộ có tài sản lớn.”

    Hai vợ chồng trẻ, con nhà phú hộ không biết kinh doanh nào khác, chỉ biết đờn ca, múa hát vui chơi mà thôi. Thường ngày, hai vợ chồng đến chầu Đức-vua.

    Trên đường đi, một nhóm người uống rượu, ăn chơi, ca hát bên đường, bọn chúng nhìn thấy hai vợ chồng con phú hộ thường qua lại nên bàn tính với nhau rằng:

    “Chúng ta có thể làm cách nào để cho hai vợ chồng con phú hộ này nghiện rượu, chúng ta sẽ sống bám vào họ thì được sung sướng suốt đời.”

    Bọn chúng bàn mưu tính kế vừa xong, khi thấy hai vợ chồng con phú hộ đang đi tới, bọn chúng vừa uống rượu, vừa ca hát, nhảy múa có vẻ rất vui sướng rồi đồng thanh nói lời chúc tụng rằng:

    “Chúng tôi cầu chúc hai vợ chồng con phú hộ được sống lâu trăm tuổi, được hạnh phúc an-lạc suốt đời.

    Chúng tôi xin nương nhờ nơi hai người, cũng sẽ được an-lạc, sung sướng.”

    Người con trai phú hộ nghe bọn chúng chúc tụng mình có vẻ thích thú hoan hỷ lắm, mới hỏi người đánh xe rằng:

    - Này ngươi! Chúng nó uống nước gì vậy?

    - Thưa cậu chủ, chúng nó uống rượu ạ.

    - Rượu có vị ngon không?

    - Thưa cậu chủ, trong các loại nước, rượu là loại nước có vị ngon làm cho người thưởng thức say ngây ngất. Người con trai phú hộ nói với người đánh xe rằng:

    - Nếu như vậy thì ta cũng nên uống chơi cho biết vị của rượu.

    Người con trai phú hộ sai người đánh xe đến gặp nhóm người kia lấy một chút rượu uống thử cho biết.

    Về sau không lâu, uống rượu được nhiều, người con trai phú hộ trở thành người nghiện rượu nặng.

    Nhóm người nghiện rượu kia biết người con trai phú hộ đã nghiện rượu rồi, chúng rủ nhau đến tận nhà người con trai phú hộ để uống rượu cho có bạn.

    Lâu ngày, tiếng đồn càng xa, bọn chúng rủ nhau đến ngày càng đông. Người con trai phú hộ sai gia nhân mua rượu, mỗi lần 100 kahāpana, rồi 200 kahāpana, v.v... Ngoài việc tốn tiền mua rượu, còn tốn thêm tiền mua bông hoa, nước thơm, tiền mướn đoàn vũ nữ nổi tiếng đến ca hát, nhảy múa, xong rồi còn ban thưởng, mỗi lần 1.000 kahāpana, 2.000 kahāpana, v.v...

    Người con trai phú hộ phung phí tiền bạc suốt ngày đêm như vậy, trải qua một thời gian lâu, của cải, tài sản 800 (tám trăm) triệu phần của mình đã hết sạch.

    Người quản gia đến trình cho người con trai phú hộ biết rằng:

    - Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của cậu đã hết sạch rồi!

    Người con trai phú hộ bèn hỏi:

    - Này ngươi! Của cải, tài sản phần của phu-nhân ta không còn hay sao?

    Người quản gia thưa rằng:

    - Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của mợ vẫn còn.

    Người con trai phú hộ ra lệnh:

    - Này ngươi! Hãy lấy của cải phần của phu-nhân ta ra xài.

    Người con trai phú hộ phung phí như vậy trải qua thêm một thời gian lâu nữa, tài sản phần của người vợ cũng hết sạch.

    Những ngày tiếp theo sau, bán dần ruộng, vườn, xe cộ, đồ đạc trong nhà, đến cuối cùng cũng bán cả căn nhà đang ở để tiêu xài.

    Đến khi hai vợ chồng con phú hộ tuổi già, không có nhà ở, hai vợ chồng phải dẫn nhau ra ở bên hiên nhà người khác.

    Hằng ngày, hai vợ chồng cầm mảnh bát đi xin những đồ ăn thừa của người khác, để sống lay lắt qua ngày.

    Một hôm, ông già đứng gần cửa trai tăng đường để chờ nhận đồ ăn còn dư của chư tỳ-khưu, sa-di.

    Đức-Phật nhìn thấy ông già, rồi mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch hỏi Đức-Phật, do nguyên nhân nào mỉm cười.

    Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

    - Này Ānanda! Ông già kia, trước đây là con của nhà phú hộ có một tài sản lớn lao, đã tiêu xài phung phí hết sạch, sau đó lại còn bán hết tất cả ruộng, vườn, đồ đạc, nhà cửa,... Bây giờ, không còn gì nữa, ông phải dẫn vợ đi xin ăn trong kinh-thành này.

    Đức-Phật truyền dạy rằng:

    * Nếu người con phú hộ, trong tuổi thiếu-niên không tiêu xài phung phí của cải, tài sản, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhất trong kinh-thành Bārāṇasī này.

    Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ trong tuổi thiếu-niên xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến A- ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    Còn người vợ có khả năng chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

    * Nếu người con phú hộ, trong tuổi trung-niên với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhì trong kinh-thành Bārāṇasī này.

    Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ, trong tuổi trung- niên xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

    Còn người vợ có khả năng chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

    * Nếu người con phú hộ, trong tuổi lão-niên với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ ba trong kinh-thành Bārāṇasī này.

    Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ, trong tuổi lão-niên, xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

    Còn người vợ có khả năng chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Nhưng bây giờ, hai vợ chồng con phú hộ này đã trải qua hết cả 3 thời (thiếu-niên, trung-niên, lão-niên) rồi, của cải, tài sản trong thế gian của họ đã bị khánh kiệt, của báu siêu-tam-giới là Thánh-đạo và Thánh-quả trong Phật-giáo cũng bị hoại nữa, như con cò già rụng hết lông cánh, nằm thoi thóp trong vũng bùn khô.

    Đức-Phật dạy bài kệ rằng:

    “Acaritvā brahmacariyaṃ, aladdhā yobbane dhanaṃ. Jiṇṇakoñcāva jhāyanti, khīṇamaccheva pallale. Acaritvā brahmacariyaṃ, aladdhā yobbane dhanaṃ. Senti cāpātikhīṇāva, purāṇāni anutthunaṃ.”(1)

    “Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh. Không được của báu lúc còn trẻ trung, Như con cò già yếu nằm than thở, Trên vũng bùn khô, không còn tôm cá. Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh, Không được của báu lúc còn trẻ trung, Nằm hối tiếc của cải xưa đã hết, Như mũi tên đã rời khỏi cây cung, Rơi xuống đất làm đồ ăn cho mối.”

    Nhận xét về tích người con phú hộ

    Như Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda về hai người con phú hộ. Ngay trong kiếp hiện-tại, hai người con phú hộ đều có khả năng trở thành bậc Thánh-nhân, sở dĩ hai người con phú hộ không trở thành bậc Thánh- nhân là vì gần gũi thân cận với bạn ác nghiện rượu, nên người con trai phú hộ phạm điều-giới uống rượu và các chất say, trở thành người nghiện rượu nặng, cho nên tất cả của cải tài-sản đều bị tiêu hao, thậm chí còn ngôi nhà ở cuối cùng cũng không giữ gìn được. Tất cả của cải tài-sản sự nghiệp đều bị khánh kiệt hết thảy. Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn cũng không có cơ hội phát triển được nữa.

    Đến thời kỳ lão-niên, người con trai phú hộ dẫn vợ đi ăn xin, sống lay lắt qua ngày ở dưới mái hiên nhà của người khác.

    Như vậy, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say trở thành người nghiện rồi, không gặp được người bạn tốt là bậc thiện-trí khuyên bảo, nhắc nhở thì càng bị sa lầy, chìm đắm trong vòng truỵ lạc.

    Đức-Phật dạy:

    “Asevanā ca bālānaṃ, paṇḍitānañca sevanā...”

    Không nên gần gũi thân cận với bạn ác. Nên gần gũi thân cận với bậc thiện-trí. Đó là điều hạnh phúc an-lạc cao-thượng...

    Tóm lại, trong ngũ-giới có 5 điều-giới, người ác nào có tác-ý trong ác-tâm phạm mỗi điều-giới nào hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, tạo mỗi ác-nghiệp ấy nặng hoặc nhẹ khác nhau nên quả của mỗi ác-nghiệp ấy tương xứng khác nhau đối với chủ nhân của ác-nghiệp ấy.

    Những tích được trích dẫn làm tiêu biểu giúp cho độc giả tìm hiểu về người ác phạm mỗi điều-giới, tạo ác- nghiệp và quả của ác-nghiệp của mỗi điều-giới trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.

    -oo0oo-

    (1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Mahākāla upāsakavatthu.

    ---

    (1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kāḷayakkhinīvatthu.

    ---

    (1) Dhammapadagāthā thứ 5 trong tích Kāḷayakkhinīvatthu.

    ---

    (1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Sāmāvatīvatthu.

    (1) Người chồng bỏ đứa con nhỏ chết. Kiếp sau của người chồng ấy, khi được tái-sinh đầu thai làm người, bị người ta bỏ chết 7 lần, nhưng nhờ phước-thiện hộ mạng nên không chết.

    ---

    (1) Khu. Bộ Chú-giải Petavatthu, Tirokuḍḍapetavatthuvaṇṇanā.

    (1) Vị quan thâu thuế này là tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra.

    (2) Bhaddakappa là kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống có 5 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana, Đức-Phật Kassapa, Đức-Phật Gotama, và sẽ có Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian trong thời vị-lai, cùng trong kiếp trái đất này.

    (1) Asaṅkhyeyya tính theo số lượng, số 1 đứng trước 140 số 0 (số không).

    ---

    (1) Bộ Khuddakanikāya, bộ Therīgāthā, tích Isidāsitherīgāthā.

    ---

    (1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Bālavagga, Aññatarapurisavatthu.

    (1)- Dhammapadaṭṭhakathā, tích Aññatarapurisavatthu.

    ---

    (1) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kapilamacchavatthu.

    ---

    (1) Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ciñcāmāṇavikāvatthu.

    (2) Chuyện xảy ra vào khoảng thời gian giữa hạ thứ 7 và hạ thứ 8 của Đức- Phật.

    (1) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ciñcāmāṇavikāvatthu.

    ---

    (1) Dhammapadaṭṭhakathā, Jarāvagga, Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu.

    (1) Dhammapadagāthā thứ 155, 156.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.