PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - THERAVĀDA
-----
KINH TỤNG
Soạn giả
Trưởng Lão Hòa Thượng Hộ Tông
(Vaṅsarakkhita Mahāthera)
PAKIṆṆAKAPARITTA ‒ (KINH TỤNG SAU CÙNG CÁC KINH CẦU AN)
ABHAYAPARITTAGĀTHĀ
Yan dunnimittaṃ avamaṅgalañca, yo cāmanāpo sakuṇassa saddo, pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ, buddhānubhāvena vināsamentu.
Yan dunnimittaṃ avamaṅgalañca, yo cāmanāpo sakuṇassa saddo, pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ, dhammānubhāvena vināsamentu.
Yan dunnimittaṃ avamaṅgalañca, yo cāmanāpo sakunassa saddo, pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ, saṅghānubhāvena vināsamentu.
Dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibbhayā, sokappattā ca nissokā, hontu sabbe pipāṇino.
Ettāvatā ca amhehi, sambhataṃ puññasampadaṃ sabbe devā numodantu (sabbasampattisiddhiyā).
Dānaṃ dadantu saddhāya sīlaṃ rakkhantu sabbadā bhāvanābhiratā hontu gacchantu devatāgatā.
Sabbe buddhā balappattā, paccekānañca yambalaṃ, arahantānañca tejena, rakkhaṃ bandhāmi sabbaso.
Nhờ uy linh của Đức Phật, xin cho những triệu bất hảo, điều bất lợi, tiếng điểu thú không vừa lòng, nghịch cảnh và mộng mị bất mãn thảy đều tiêu tan.
Nhờ uy linh của Đức Pháp, xin cho những triệu bất hảo, điều bất lợi, tiếng điểu thú không vừa lòng, nghịch cảnh và mộng mị bất mãn thảy đều tiêu tan.
Nhờ uy linh của Đức Tăng, xin cho những triệu bất hảo, điều bất lợi, tiếng điểu thú không vừa lòng, nghịch cảnh và mộng mị bất mãn thảy đều tiêu tan.
Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin cho dứt khổ, đến điều lo sợ rồi, xin cho dứt lo sợ, đến cơn phiền muộn rồi, xin cho dứt phiền muộn.
Mong cho Chư thiên hoan hỷ quả phước của chúng tôi đã tạo, cho được thành tựu những hạnh phúc.
Chúng nhân hãy bố thí, hãy trì giới hãy là người vui thích tham thiền (niệm Phật) thường thường, Chư thiên đã đến rồi, xin thỉnh các Ngài hồi quy.
Tất cả đức Chánh Biến Tri đều duy trì quyền lực, Chư Độc giác cũng có quyền lực, các bậc A-la-hán cũng có quyền lực; tôi xin kết hợp sự duy trì bằng cách phát quang hoàn toàn (của các quyền lực ấy).
JAYAPARITTAGĀTHĀ
Mahākāruṇiko nātho, hitāya sabbapāṇinaṃ, pūretvā pāramī sabbā patto sambodhimuttanaṃ.
Etena saccavajjena hotu te jayamaṅgalaṃ.
Jayanto bodhiyā mūle sakyānaṃ nandivaddhano, evaṃ tvaṃ vijayo hohi jayassu jayamaṅgale aparājitapallaṅke sīse paṭhavipokkhare.
Abhi seke sabbabuddhānaṃ aggappatto pamodati.
Sunakkhattaṃ sumaṅgalaṃ, supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhaṇo sumuhutto ca, suyiṭṭhaṃ brahmacārisu.
Padakkhiṇaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhiṇaṃ padakkhiṇaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhiṇā.
So atthaladdho sukhito Viruḷho buddhasāsane Arogo sukhito hohi Saha sabbehi ñātibhi.
Sa atthaladdhā sukhitā Viruḷhā buddhasāsane Arogā sukhitā hohi Saha sabbehi ñātibhi.
Te atthaladdhā sukhitā Viruḷhā buddhasāsane Arogā sukhitā hotha Saha sabbehi ñātibhi.
Đức Chánh Biến Tri là đấng cứu thế, Ngài gồm có đức đại bi, Ngài bổ khuyết tất cả pháp pāramī đem lợi ích đến chúng sanh rồi, Ngài chứng quả Toàn giác tối thượng.
Do lời chân thật này, xin cho hảo vận phát sanh đến người.
Đức Chánh Biến Tri khuyến khích cả dòng Thích Ca được hân hoan phát đạt, Ngài đã cảm thắng Ma vương rồi đắc bậc tối cao, Ngài thỏa mãn (pháp Ngài giác ngộ) trên bảo tọa bất khả chinh phục kế cận cội Bồ đề, ngay trung tâm địa cầu.
Như lá sen là nơi đăng quang của Chư Phật thế nào, xin cho người chiến thắng (nghịch pháp) như vậy.
Giờ nào chúng sanh thực hành thân, khẩu, ý trong sạch, giờ đó gọi là vận mệnh tốt, là giờ xán lạn, là khắc tốt, là canh tốt, (tài thí mà) người đã cúng dường đến các bậc Phạm hạnh rồi (giờ đó) gọi là cúng dường(26) chân chánh.
Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt.
Sự nguyện vọng của những người đó, cũng gọi là nguyện vọng phát đạt.
Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế, rồi sẽ được những lợi ích phát đạt.
Người (nam) ấy hãy được lợi ích, được an vui, hãy được phát đạt trong Phật giáo, hãy đừng có bịnh hoạn, cho được an vui cùng với quyến thuộc cả thảy.
Người (nữ) ấy hãy được lợi ích, được an vui, hãy được phát đạt trong Phật giáo, hãy đừng có bịnh hoạn, cho được an vui cùng với quyến thuộc cả thảy.
Tất cả người (nam và nữ) ấy hãy được lợi ích, được an vui, hãy được phát đạt trong Phật giáo, hãy đừng có bịnh hoạn, cho được an vui cùng với quyến thuộc cả thảy.
ĀTĀNĀṬIYAPARITTAGĀTHĀ
Sakkatvā buddharatanaṃ, osathaṃ uttamaṃ varaṃ, hitaṃ devamanussānaṃ,buddhatejena sotthinā, nassantupaddavā sabbe, dukkhā vūpasamentute.
Sakkatvā dhammaratanaṃ, osathaṃ uttamaṃ varaṃ, pariḷāhu pasamanaṃ, dhammatejena sotthinā, nassantupaddavā sabbe, bhayā vūpasamentute.
Sakkatvā saṅgharatanaṃ, osathaṃ uttamaṃ varaṃ, āhuneyyaṃ pāhuneyyaṃ, saṅghatejena sotthinā, nassantupaddavā sabbe, rogā vūpasamentute.
Yaṃkiñci ratanaṃ loke, vijjati vividhaṃ puthu, ratanaṃ buddhasamaṃ natthi, tasmā sotthī bhavantute.
Yaṃkiñci ratanaṃ loke, vijjati vividhaṃ puthu, ratanaṃ dhammasamaṃ natthi, tasmā sotthī bhavantute.
Yaṃkiñci ratanaṃ loke, vijjati vividhaṃ puthu, ratanaṃ saṅghasamaṃ natthi, tasmā sotthī bhavantute.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, buddho me saraṇaṃ varaṃ, etena saccavajjena, hotu te jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, dhammo me saraṇaṃ varaṃ, etena saccavajjena, hotu te jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, saṅgho me saraṇaṃ varaṃ, etena saccavajjena, hotu te jayamaṅgalaṃ.
So atthaladdho sukhito viruḷho buddhasāsane arogo sukhito hohi saha sabbehi ñātibhi.
Sā atthaladdhā sukhitā viruḷhā buddhasāsane arogā sukhitā hohi saha sabbehi ñātibhi.
Te atthaladdhā sukhitā viruḷhā buddhasāsane arogā sukhitā hotha saha sabbehi ñāṭibhi.
Xin cho tất cả điều nguy khốn được tiêu tan, những khổ não của người đều yên lặng, nhờ sự vinh quang và vẻ uy linh của đức Phật, vì lòng tôn kính Phật bảo, như món linh dược quý cao, là lợi ích đến Chư thiên và nhân loại.
Xin cho tất cả điều nguy khốn được tiêu tan, những lo sợ của người đều yên lặng, nhờ sự vinh quang và vẻ uy linh của đức Pháp, vì lòng tôn kính Pháp bảo, như món linh dược quý cao, là Pháp trấn tĩnh điều phiền não.
Xin cho tất cả điều nguy khốn được tiêu tan, những bịnh hoạn của người đều yên lặng, nhờ sự vinh quang và vẻ uy linh của đức Tăng, vì lòng tôn kính Tăng bảo, như món linh dược quý cao, đáng cho người cúng dường và hoan nghinh tôn trọng.
Những báu vật trong thế gian có nhiều thứ nhiều loại, những báu vật ấy chẳng sánh bằng Phật bảo đâu, vì thế, cầu xin hạnh phúc phát sanh đến người.
Những báu vật trong thế gian có nhiều thứ nhiều loại, những báu vật ấy chẳng sánh bằng Pháp bảo đâu, vì thế, cầu xin hạnh phúc phát sanh đến người.
Những báu vật trong thế gian có nhiều thứ nhiều loại, những báu vật ấy chẳng sánh bằng Tăng bảo đâu, vì thế, cầu xin hạnh phúc phát sanh đến người.
Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo, chỉ có Đức Phật là nơi nương cao quý của tôi; do lời chân thật này, xin cho hảo vận phát sanh đến người.
Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo, chỉ có Pháp bảo là nơi nương cao quý của tôi; do lời chân thật này, xin cho hảo vận phát sanh đến người.
Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo, chỉ có Đức Tăng là nơi nương cao quý của tôi; do lời chân thật này, xin cho hảo vận phát sanh đến người.
Người (nam) ấy hãy được lợi ích, được an vui, được tiến hóa trong đường Phật đạo, khỏi bịnh hoạn, được sự an vui cho những người trong gia quyến cả thảy.
Người (nữ) ấy hãy được lợi ích, được an vui, hãy được tiến hóa trong đường Phật đạo, khỏi bịnh hoạn, được sự an vui cho những người trong gia quyến cả thảy.
Những người (nam nữ) ấy hãy được lợi ích, được an vui, hãy được tiến hóa trong đường Phật đạo, khỏi bịnh hoạn, được sự an vui cho những người trong gia quyến cả thảy.
TIDASAPĀRAMĪ ‒ TAM THẬP ĐỘ
1) Itipiso bhagavā dāna paramī sampanno.
Itipiso bhagavā dāna upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā dāna paramatthapāramī sampanno.
2) Itipiso bhagavā sīla pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā sīla upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā sīla paramatthapāramī sampanno.
3) Itipiso bhagavā nekkhamma pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā nekkhamma upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā nekkhamma paramatthapāramī sampanno.
4) Itipiso bhagavā paññā pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā paññā upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā paññā paramatthapāramī sampanno.
5) Itipiso bhagavā viriya pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā viriya upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā viriya paramatthapāramī sampanno.
6) Itipiso bhagavā khantī pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā khantī upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā khantī paramatthapāramī sampanno.
7) Itipiso bhagavā sacca pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā sacca upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā sacca paramatthapāramī sampanno.
8) Itipiso bhagavā adhiṭṭhāna pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā adhiṭṭhāna upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā adhiṭṭhāna paramatthapāramī sampanno.
9) Itipiso bhagavā mettā pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā mettā upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā mettā paramatthapāramī sampanno.
10) Itipiso bhagavā upekkhā pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā upekkhā upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā upekkhā paramatthapāramī sampanno.
11) Itipiso bhagavā dasa pāramī sampanno.
Itipiso bhagavā dasa upapāramī sampanno.
Itipiso bhagavā dasa paramatthapāramī sampanno.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bố thí đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bố thí đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bố thí đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trì giới đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trì giới đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trì giới đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xuất gia đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xuất gia đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xuất gia đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trí tuệ đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trí tuệ đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp trí tuệ đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp tinh tấn đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp tinh tấn đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp tinh tấn đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp nhẫn nại đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp nhẫn nại đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp nhẫn nại đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp chân thật đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp chân thật đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp chân thật đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp quyết định đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp quyết định đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp quyết định đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bác ái đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bác ái đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp bác ái đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xả đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xả đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ pháp xả đến bờ cao thượng.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ 10 pháp đến bờ kia.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ 10 pháp đến bờ trên.
Đức Thế Tôn Ngài đã tròn đủ 10 pháp đến bờ cao thượng.
DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTĀRAMBHO ‒ BỐ CÁO KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Anuttaraṃ abhisambodhiṃ sambujjhitvā tathāgato paṭhamaṃ yaṃ adesesi dhammacakkaṃ anuttaraṃ sammadeva pavattento loke appaṭivattiyaṃ.
Yathākkhātā ubho antā paṭipatti ca majjhimā catūsvāriyasaccesu visuddhaṃ ñāṇadassanaṃ.
Desitaṃ dhammarājena sammāsambodhikittanaṃ nāmena vissutaṃ suttaṃ. Dhammacakkappavattanaṃ veyyākaraṇapāṭhena saṅgītantam bhaṇāmase.
Đức Như Lai là đấng Giáo chủ, đã chứng bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, những Pháp trong thế gian chẳng ai hành được, Ngài có thể làm cho hành theo được, rất chơn chánh.
Ngài chuyển Pháp luân lần đầu giảng giải về 2 pháp thái quá, là pháp thấp thỏi, cùng con đường trung đạo, và trí tuệ hiểu thấy phân minh Tứ Diệu đế là trí tuệ thanh bạch.
Nay tôi tụng kinh Chuyển Pháp Luân của đức Chánh Biến Tri, là bậc Pháp vương, đã diễn giải chắc chắn.
Kinh ấy công bố về quả Chánh Biến Tri, mà các bậc a-xà-lê đã hội họp kết tập, chỉnh đốn theo Phạn Ngữ (Pāli) bằng văn thường, không lẫn lộn kệ ngôn.
DHAMMACAKKAPPAVATTANASŪTRA ‒ KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Evamme suttaṃ.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye.
Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi.
Dveme bhikkhave antā pabbajitena na sevitabbā.
Katame dve?
Yo cāyaṃ kāmesukāmasukhallikānuyogo hīno dhammo.
Pothujjaniko, anariyo.
Anatthasañhito.
Yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho.
Anariyo.
Anatthasañhito.
Ete te kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
Katamā ca sā bhikkhave majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
Seyyathidaṃ?
Sammādiṭṭhi.
Sammāsaṅkappo.
Sammāvācā Sammākammanto.
Sammāājīvo Sammāvāyāmo.
Sammāsati Sammāsamādhi.
Ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhaṃ ariyasaccaṃ jātipi dukkhā jarāpi dukkhā byādhipi dukkhā maraṇampi dukkhaṃ soka parideva dukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā appiyehi sampayogo dukkho piyehi vippayogo dukkho yampicchaṃ na labhati.
Tampi dukkhaṃ saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.
Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhasamudayo ariyasaccaṃ yāyaṃ taṇhā ponobbhavikā nandirāgasahagatā.
Tatra tatrābhinandinī seyyathidaṃ kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā.
Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhanirodho ariyasaccaṃ yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo.
Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo seyyathīdaṃ sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājivo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.
Idaṃ dukkhaṃ ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pahīnatam me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Idaṃ dukkhasamudayo ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo ariyasaccaṃ pahātabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo ariyasaccaṃ pahīnanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Idaṃ dukkhanirodho ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikātabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikatanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Yāvakīvañca me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evantiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi.
Neva tāvāhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho paccaññāsiṃ.
Yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evantiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi.
Athāhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho paccaññāsiṃ.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi akuppā me vimutti ayamantimā jāti natthidāni punabbhavoti.
Idamavoca bhagavā attamanā pañca vaggiyā bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmim bhaññamāne āyasmato koṇḍaññassa virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi yaṃkiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhammanti.
Pavattite ca bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesuṃ etaṃ bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaneṇa vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasminti.
Bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātummahārājikā devā saddamanussāvesuṃ.
Cātummahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tāvatiṃsā devā saddamanussāvesuṃ.
Tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā yāmā devā saddamanussāvesuṃ.
Yāmānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tusitā devā saddamanussāvesuṃ.
Tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā nimmānaratī devā saddamanussāvesuṃ.
Nimmānaratīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā paranimmitavasavattī devā saddamanussāvesuṃ.
Paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā brahmakāyikā devā saddamanussāvesuṃ etaṃ Bhagavatā bārāṇasiyaṃ isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasminti.
Itiha tena khaṇena tena muhuttena yāva brahmalokā saddo abbhuggacchi ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampi sampakampi sampavedhi.
Appamāṇo uḷāro obhāso loke pāturahosi atikkamma devānaṃ devānubhāvanti.
Atha kho bhagavā udānaṃ udānesi aññāsi vata bho koṇḍañño aññāsi vata bho koṇḍaññoti.
Itihidaṃ āyasmato koṇḍaññassa aññākoṇḍañño tveva nāmaṃ ahosīti.
Tôi (tên là A-Nan-Đa) được nghe lại như vầy:
Thuở đức Thế Tôn ngự tại rừng Hưu (Isipatanamigadāyavana) gần thành Bārāṇasī.
Đức Thế Tôn một hôm gọi 5 thầy tỳ khưu, ngụ nơi ấy, dạy rằng:
Này các thầy tỳ khưu! Hai pháp thái quá, là pháp tu thấp thỏi.
Những bậc xuất gia, chẳng nên xu hướng theo, chẳng nên hành theo.
Hai pháp thái quá ấy, thế nào? Một là, pháp làm cho thân tâm quyến quyến theo tình dục, pháp hèn hạ.
Pháp của kẻ thế, pháp của phàm nhơn, chẳng phải của bậc cao nhơn.
Chẳng có lợi ích chi.
Hai là, pháp làm cho khổ khắc thân tâm, nhân làm cho thân hình đau đớn.
Chẳng phải là Pháp của bậc cao nhơn.
Chẳng có lợi ích chi.
Này các thầy tỳ khưu! Sự tu hành theo con đường giữa, không thiên theo 2 điều thái quá ấy, mà Như Lai đã được đại ngộ, là pháp làm cho phát sanh, sự thấy biết phân minh, sự an tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ.
Này các thầy tỳ khưu! Sự tu hành theo con đường giữa, mà Như Lai đã được đại ngộ, là sự tu hành cho phát sanh tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh đích xác, sự an tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ ấy là thế nào?
Là Bát Chánh đạo, pháp như con đường có 8 nẻo cao thượng.
Bát Chánh đạo ấy thế nào?
Thấy hiểu chơn chánh.
Suy nghĩ chơn chánh.
Nói lời chơn chánh.
Nghề nghiệp chơn chánh.
Nuôi mạng chơn chánh.
Tinh tấn chơn chánh.
Tư tưởng chơn chánh.
Định tâm chơn chánh.
Này các thầy tỳ khưu! Bát chánh đạo, là con đường giữa, mà Như Lai đã đi và đã được đại ngộ, là sự tu hành theo, cho đặng phát sanh tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh thật tướng, tu cho đặng sự an tịnh, cho có trí tuệ, cho đặng hiểu biết chơn chánh, cho đặng dứt khổ.
Này các thầy tỳ khưu! Sanh, là sự hội họp ngũ uẩn, là nhân đem đến sự khổ; lão, là già cả yếu đuối, cũng là nhân đem đến sự khổ; bịnh, là sự đau ốm cũng là nhân đem đến sự khổ; tử, là sự tan rã ngũ uẩn, cũng là nhân đem đến sự khổ; uất ức, bực tức trong lòng không bày tỏ ra được, cũng là nhân đem đến sự khổ; không ưa mà họp, cũng là nhân đem đến sự khổ; ưa mà phải lìa, cũng là nhân đem đến sự khổ.
Các sự thống khổ hầu hết có nhân sanh khổ ấy, gọi là khổ diệu đế.
Này các thầy tỳ khưu! Sự thương muốn nào hằng tạo ra kiếp thoát sanh mới, do bởi tình dục là mối ham muốn trong lòng, thường thường ưa thích điều vui sướng theo các cảnh giới; sự thương muốn ấy là thế nào?
Sự thương muốn ấy là: kāmataṇhā,(27) bhavataṇhā(28), vibhavataṇhā(29).
Cả 3 sự thương muốn ấy gọi là tập khổ diệu đế.
Này các thầy tỳ khưu! Cách dứt khỏi sự thương muốn, chẳng còn dư sót, do nhờ Bát chánh đạo, cách tránh khỏi ái dục, cách dứt bỏ ái dục, cách thoát khỏi ái dục chẳng còn dư sót, do nhờ Bát chánh đạo ấy, gọi là Diệt khổ Diệu đế.
Này các thầy tỳ khưu! Bát chánh đạo cao thượng ấy là thế nào?
Là: hiểu biết chơn chánh; suy nghĩ chơn chánh; nói lời chơn chánh; nghề nghiệp chơn chánh; nuôi mạng chơn chánh; tinh tấn chơn chánh; tư tưởng chơn chánh; định tâm chơn chánh; Bát chánh đạo ấy gọi là: Diệt khổ Đạo Diệu đế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: đây là Khổ Diệu đế như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng Khổ Diệu đế này, nên ghi nhớ bằng trí tuệ như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Khổ Diệu đế này, Như Lai đã ghi nhớ được rồi như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: đây là Tập khổ Diệu đế như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Tập khổ Diệu đế này, phải dứt trừ như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Tập khổ Diệu đế này, Như Lai đã hành được phân minh như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: đây là Diệt khổ Diệu đế như thế .
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt khổ Diệu đế này phải hành cho phân minh như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Diệt khổ Diệu đế này Như Lai đã hành được phân minh như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: đây là Diệt khổ Đạo Diệu đế như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt khổ Diệu đế này phải hành cho tăng tiến như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Tuệ thấy rõ đã phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm đã phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi đã phát sanh, tuệ diệt vô minh đã phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các Pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Diệt khổ Diệu đế này, Như Lai đã hành được tăng tiến rồi như thế.
Này các thầy tỳ khưu! Bao giờ tuệ biết rõ, thấy rõ theo lẽ chánh: có 3 luân(30), 12 thể(31) vận chuyển trong Tứ Diệu đế ấy chưa phát sanh trong sạch đến Như Lai.
Này các thầy tỳ khưu! Trong khi Như Lai chưa có sự hiểu biết cao siêu hơn trong các thế giới luôn cả cõi Trời, cõi Ma vương, cõi Phạm thiên, trong vòng nhứt thiết chúng sanh, luôn cả bậc Sa-môn và Bà-la-môn, cùng chư nhơn và ngoài hạng người ra nữa, thì Như Lai cũng chưa gọi mình là bậc chứng quả Chánh Biến Tri vậy.
Này các thầy tỳ khưu! Khi nào tuệ biết rõ, thấy rõ theo lẽ chánh, có 3 luân và 12 thể, theo trong Tứ Diệu đế ấy đã phát sanh trong sạch đến Như Lai.
Này các thầy tỳ khưu! Thì Như Lai được gọi là bậc Vô thượng Chánh Biến Tri, vì trong các thế giới, những cõi Trời, cõi Ma vương, cõi Phạm thiên trong vòng nhứt thiết chúng sanh, luôn cả bậc Sa-môn, và Bà-la-môn, cùng chư nhơn và ngoài hạng người ra nữa, chẳng có sự hiểu biết nào, cao siêu hơn sự hiểu biết của Như Lai.
Tuệ biết rõ, thấy rõ đã phát sanh cho nên Như Lai biết rằng sự giải thoát phiền não của Như Lai chẳng còn lay động, biến đổi nữa, kiếp này là kiếp chót, từ đây Như Lai chẳng còn thọ sanh kiếp khác nữa.
Đức Thế Tôn giảng giải kinh “Chuyển Pháp-Luân” rồi, 5 thầy tỳ khưu phát lòng hoan hỷ vô hạn.
Trong khi đức Như Lai giảng giải kinh vô kệ này, thì pháp nhãn là đạo Tu-đà-huờn, đạo diệt trừ bụi nhơ là tình dục, phát sanh đến Kiều-Trần-Như, Ngài đã biết rõ: Cái chi có tánh cách sanh tự nhiên, đều có tánh cách diệt tự nhiên.
Khi đức Như Lai giảng giải kinh “Pháp- Luân” vừa dứt, tất cả Chư thiên ngự trên địa cầu bèn ca tụng rằng: Bánh xe Pháp này là bánh xe vô thượng, những Sa-môn, Bà- la-môn, Chư thiên, Ma vương, Phạm thiên hoặc một bậc nào trong thế giới, đều không diễn giải được.
Chỉ có đức Như Lai Ngài giảng giải rồi, trong rừng Isipatanamigadāya, gần thành Bārāṇasī.
Chư thiên trong cõi Tứ Đại Thiên vương được nghe tiếng ca tụng của Chư thiên ngự trên địa cầu, rồi bèn đồng nhau ca tụng theo lời ngợi khen ấy.
Chư thiên trong cõi trời Đạo Lợi được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi Tứ Đại Thiên vương, rồi liền ca tụng y như thế ấy.
Chư thiên trong cõi trời Dạ Ma được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi trời Đạo Lợi, cũng đều ca tụng lời ngợi khen ấy.
Chư thiên trong cõi trời Đâu Xuất Đà được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi Trời Dạ Ma, rồi cũng rập nhau ca tụng theo nữa.
Chư thiên trong cõi trời Hóa Lạc Thiên, được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi Trời Đâu Xuất Đà rồi, đồng thinh ca tụng tiếp theo.
Chư thiên trong cõi trời Tha Hóa Tự Tại được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi Trời Hóa Lạc Thiên, rồi cũng đồng nhau ca tụng lời ngợi khen ấy.
Chư thiên trong hàng Phạm thiên, được nghe tiếng của Chư thiên trong cõi trời Tha Hóa Tự Tại, rồi cũng lặp lại mà ca tụng như vầy: Chẳng có Pháp luân nào cao siêu hơn Pháp luân này.
Chư Sa-môn, Bà-la-môn, Chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, hoặc một người nào trong các thế giới cũng chẳng diễn giải được, chỉ có đức Như Lai Ngài đã giảng giải rồi, trong rừng Isipatanamigadāyavana, gần thành Bārāṇasī.
Tiếng ca tụng liên tiếp vang dội đến cõi Phạm thiên chỉ trong nháy mắt.
Do sự truyền báo ca tụng mà cả 10.000 thế giới thảy đều rung động, luôn cả trên dưới và các phương.
Có cả hào quang rực rỡ vô cùng vô tận, cao siêu hơn hào quang của tất cả Chư thiên, chiếu diệu trong thế giới.
Liền đó đức Như Lai là đấng Giáo chủ bèn lên tiếng rằng: Kiều-Trần-Như đã được đại ngộ; A-Nhã-Kiều-Trần-Như đã được đại ngộ.
Từ đây A-Nhã-Kiều-Trần-Như được gọi là đức Kiều-Trần-Như.
DASAMAṂ BOJJHAṄGA PARITTAṂ ‒ TỤNG CẦU AN CHO BỆNH NHÂN
Bojjhaṅgo satisaṅkhāto, dhammānaṃ vicayo tathā, viriyaṃ pīti passaddhi, bojjhaṅgā ca tathāpare, samādhūpekkhā.
Bojjhaṅgā Satte te sabbadassinā, muninā sammadakkhātā, bhavitā bahulīkatā, samvattanti abhiññāya, nibbānāya ca bodhiyā.
Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā.
Ekasmiṃ samaye nātho, moggallānañca kassapaṃ, gilāne dukkhite disvā, bojjhaṅge sattadesayi, te ca taṃ abhinanditvā, rogā mucciṃsu taṃkhaṇe.
Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā.
Ekadā dhammarājāpi gelaññenābhipīḷito cundattherena taññeva bhāṇapetvāna sādaraṃ sammoditvā ca ābādhā taṇhā vuṭṭhāsi ṭhānaso.
Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā.
Pahīnā te ca ābādhā tiṇṇannampi mahesinaṃ maggāhatakilesāva pattānuppatti dhammataṃ.
Etena saccavajjena sotthi te hotu sabbadā.
Bojjhaṅga tức là trí nhớ, trạch pháp, tinh tấn, phỉ lạc, an tĩnh và bojjhaṅga khác là thiền định và xả.
Tất cả pháp Thất giác chi ấy, đức Muni đã thông suốt, đã thấy chơn chánh, đã bổ khuyết, đã hành thâm đúng đắn và đạt thần thông, Niết-bàn và trực giác rồi.
Do lời chân thật này, cầu xin thường được phát sanh hạnh phúc đến người.
Thuở kia, đấng Cứu thế nhìn thấy thầy Mục- Kiền-Liên và thầy Ca-Diếp đau khổ, Ngài bèn thuyết pháp Thất giác chi, 2 thầy hân hoan được thính Pháp liền khỏi bịnh tức khắc.
Do lời chân thật này, cầu xin thường được phát sanh hạnh phúc đến người.
Lúc nọ đấng Cứu thế là vị Pháp vương thọ bệnh, Ngài dạy thầy Cunda tụng pháp Thất giác chi, Ngài hoan hỷ rồi được bình phục.
Do lời chân thật này, cầu xin thường được phát sanh hạnh phúc đến người.
Những bệnh mà tam đại Thánh nhơn đã dứt rồi, không còn tái phát nữa, như các phiền não mà Thánh nhơn đã diệt tuyệt bằng Thánh đạo.
Do lời chân thật này, cầu xin thường được phát sanh hạnh phúc đến người.
GIRIMĀNANDASŪTRA ‒ KINH “GÍ-RÍ-MA-NAN-ĐÁ” TỤNG CHO BỆNH NHÂN
Evamme sutaṃ:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tena kho pana samayena āyasmā girimānando ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno.
Atha kho āyasmā Ānando yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekāmantaṃ nisīdi.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca.
Āyasmā bhante girimānando ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.
Sādhu bhante bhagavā yenāyasmā girimānando tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyāti.
Sace kho tvaṃ ānanda Girimānandassa bhikkhuno upasaṅkamitvā dasa saññā bhāseyyāsi.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati yaṃ Girimānandassa bhikkhuno dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippassambheyya.
Katamā dasa?
Aniccasaññā anattasaññā asubhasaññā ādīnavasaññā pahānasaññā virāgasaññā nirodhasaññā sabbaloke anabhiratasaññā sabbasaṅkhāresu aniccasaññā ānāpānassati.
Katamā cānanda aniccasaññā.
Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati.
Rūpaṃ aniccaṃ.
Vedanā aniccā.
Saññā aniccā.
Saṅkhārā aniccā.
Viññāṇaṃ aniccan ti.
Iti imesu pañcasu upādānakkhandhesu aniccānupassī viharati.
Ayaṃ vuccatānanda aniccasaññā.
Katamā cānanda anattasaññā idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati.
Cakkhuṃ anattā.
Rūpā anattā.
Sottaṃ anattā.
Saddā anattā.
Ghānaṃ anattā.
Gandhā anattā.
Jivhā anattā.
Rasā anattā.
Kāyo anattā.
Phoṭṭhabbā anattā.
Mano anattā.
Dhammā anattā ti.
Iti imesu chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu anattānupassī viharati.
Ayaṃ vuccatānanda anattasaññā.
Katamā cānanda asubhasaññā?
Idhānanda bhikkhu imaṃ eva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūrannānappakārassa asucino paccavekkhati: atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ nahārū aṭṭhī aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphasaṃ antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghānikā lasikā muttan ti.
Iti imasmiṃ kāye asubhānupassī viharati.
Ayaṃ vuccatānanda asubhasaññā.
Katamā cānanda ādīnavasaññā?
Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamulagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati.
Bahudukkho kho ayaṃ kāyo bahuādīnavoti.
Iti imasmiṃ kāye vividhā ābādhā upajjanti.
Seyyathīdaṃ?
Cakkhurogo.
Sotarogo.
Ghānarogo.
Jivhārogo.
Kāyarogo.
Sīsarogo.
Kaṇṇarogo.
Mukharogo.
Dantarogo.
Kāso, sāso.
Pināso.
Ḍaho, jaro.
Kucchirogo.
Mucchā.
Pakkhandikā.
Sulā, visūcikā.
Kuṭṭhaṃ, gaṇḍo.
Kilāso, soso.
Apamāro, daddu.
Kaṇḍu, kacchu.
Rakhasā, vitacchikā.
Lohitaṃ, pittaṃ.
Madhumeho, aṃsā.
Piḷakā.
Bhagaṇḍalā.
Pittasamuṭṭhānā ābādhā.
Semhasamuṭṭhānā ābādhā.
Vātasamuṭṭhānā ābādhā.
Sannipātikā ābādhā.
Utupariṇāmathā ābādhā.
Visamaparihārathā ābādhā.
Opakkamikā ābādhā.
Kammavipākajā ābādhā.
Sītaṃ, unhaṃ.
Jighacchā, pipāsā.
Uccāro, passāvoti.
Iti imasmim kāye ādīnavānupassī viharati.
Ayaṃ vuccātananda ādīnavasaññā
Katamā cānanda pahānasaññā?
Idhānanda bhikkhu uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Uppannaṃ byāpādavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Uppannuppanne pāpake akusale dhamme nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Ayaṃ vuccatānanda pahānasaññā.
Katamā cānanda virāgasaññā?
Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati.
Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhippaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nibbānanti.
Ayaṃ vuccatānanda viragasaññā.
Katamā cānanda nirodhasaññā?
Idhānanda bhikkhu araññāgato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati.
Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhippaṭinissaggo taṇhakkhayo nirodho nibbānanti.
Ayaṃ vuccatānanda nirodhasaññā.
Katamā cānanda sabbaloke anabhiratasaññā?
Idhānanda bhikkhu ye loke upāyupādānā
cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā te pajahanto viramati na upādiyanto.
Ayaṃ vuccatānanda sabbaloke anabhiratasaññā.
Katamā cānanda sabbasaṅkhāresu aniccasaññā?
Idhānanda bhikkhu sabbasaṅkhārehi aṭṭiyati harāyati jigucchati.
Ayaṃ vuccatānanda sabbasaṅkhāresu aniccasaññā.
Katamā cānanda ānāpānassati?
Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā nisīdati pallaṅkaṃ ābhijjitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
So satova assasati.
Sato passasati.
Dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasissāmīti pajānāti.
Dīghaṃ vā passasanto dīghaṃ passasissāmīti pajānāti.
Rassaṃ vā assasanto rassaṃ assasissāmīti pajānāti.
Rassaṃ vā passasanto rassaṃ passasissāmīti pajānāti.
Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati.
Sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati.
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
Pītippaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati.
Pītippaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
Sukhappaṭisamvedī assasissāmīti sikkhati.
Sukhappaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
Cittasaṅkhārappaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati.
Cittasaṅkhārappaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
Passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati.
Passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
Cittappaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati.
Cittappaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
Abhippamodayaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati.
Abhippamodayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati.
Samādahaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati.
Samādahaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati.
Vimocayaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati.
Vimocayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati.
Aniccānupassī assasissāmīti sikkhati.
Aniccānupassī passasissāmīti sikkhati.
Virāgānupassī assasissāmīti sikkhati.
Virāgānupassī passasissāmīti sikkhati.
Nirodhānupassī assasissāmīti sikkhati.
Nirodhānupassī passasissāmīti sikkhati.
Paṭinissaggānupassī assasissāmīti sikkhati.
Paṭinissaggānupassī passasissāmīti sikkhati.
Ayaṃ vuccatānanda ānāpānassati.
Sace kho tvaṃ ānanda Girimānandassa bhikkhuno upasankamitvā imā dasa saññā bhāseyyāsi, ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati yaṃ girimānandassa bhikkhuno imā dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippassambheyyāti.
Atha kho āyasmā Ānando Bhagavato santike imā dasa saññā uggahetvā yenāyasmā Girimānando tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmato Girimānandassa imā dasa saññā abhāsi.
Atha kho āyasmato Girimānandassa imā dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippasambhi.
Vuṭṭhahi cāyasmā Girimānando tamhā ābādhā.
Tathā pahīno ca panāyasmato Girimānandassa so ābādho ahosīti.
Tôi (tên là A-Nan-Đa) được nghe lại như vầy:
Một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc, gần thành Xá-Vệ (Xa-quát-thí) (Sāvatthi).
Thuở ấy có thầy tỳ khưu Girimānanda mang bịnh, chịu nhiều sự đau đớn nặng nề.
Ānanda, vào nơi Phật ngự, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi chỗ nên ngồi.
Khi Ānanda an vị bèn bạch với Đức Thế Tôn bằng lời kệ này:
Bạch đức Thế Tôn, thầy Girimānanda, mang bịnh chịu nhiều sự đau đớn nặng nề.
Bạch đức Thế Tôn, cầu xin đức Thế Tôn mở lòng bác ái cứu giúp thầy Girimānanda, cầu xin đức Thế Tôn ngự vào chỗ ngụ của thầy Girimānanda.
Đức Thế Tôn liền đáp: Ānanda này! Ngươi nên vào chỗ của tỳ khưu Girimānanda đặng giảng giải cả 10 phép tưởng.
Phép ấy là nguyên nhân diệt bịnh, nếu thầy tỳ khưu Girimānanda được nghe thì bịnh sẽ thuyên giảm lập tức.
10 phép tưởng ấy thế nào?
10 phép tưởng ấy là: tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng sự khổ, tưởng sự dứt bỏ, tưởng dứt tình dục, tưởng tịch tịnh, tưởng sự không tham luyến thế giới, tưởng các pháp hành là vô thường, tưởng hơi thở.
Nầy Ānanda, tưởng vô thường thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, hoặc ở trong rừng, hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, suy tưởng thấy như vầy:
Sắc không thường.
Thọ không thường.
Tưởng không thường.
Hành không thường.
Thức không thường.
Thầy tỳ khưu hằng suy tưởng, thấy 5 uẩn này đều là vô thường như vậy.
Ānanda, pháp ấy Như Lai gọi là “Tưởng vô thường” vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng vô ngã thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, hoặc ở trong rừng, hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, suy tưởng hằng thấy như vầy:
Mắt chẳng phải là của ta.
Các sắc chẳng phải là của ta.
Tai chẳng phải là của ta.
Các tiếng chẳng phải là của ta.
Mũi chẳng phải là của ta.
Các mùi chẳng phải là của ta.
Lưỡi chẳng phải là của ta.
Các vị chẳng phải là của ta.
Thân chẳng phải là của ta.
Các sự đụng cọ chẳng phải là của ta.
Tâm chẳng phải là của ta.
Các pháp chẳng phải là của ta.
Thầy tỳ khưu hằng suy tưởng thấy lục căn và lục trần đều chẳng phải là của ta.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng vô ngã vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng bất tịnh thế nào?
Nầy Ānanda! Thầy tỳ khưu suy tưởng thấy trong thân thể, từ bàn chơn trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, có da bao bọc chung quanh, chứa những vật không sạch, có nhiều hình dáng khác nhau, những là: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, da non, lá lách, phổi, ruột già, ruột non, vật thực chưa tiêu hóa, phẩn, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu trong da, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu.
Thầy tỳ khưu hằng suy tưởng thấy những vật không sạch trong thân thể như vậy.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng vật bất tịnh vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng sự khổ thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, hoặc ở trong rừng, hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, suy tưởng thấy như vầy:
Thân thể thật có nhiều sự khổ não, nhiều sự tội lỗi.
Các bịnh hoạn đau nhức hằng phát sanh trong thân thể này:
Bịnh hoạn ấy là thế nào ?
Bịnh trong con mắt.
Bịnh trong lỗ tai.
Bịnh trong lỗ mũi.
Bịnh trong lưỡi.
Bịnh trong thân hình.
Bịnh trong đầu.
Bịnh ngoài lỗ tai.
Bịnh trong miệng.
Bịnh chưn răng.
Bịnh ho, bịnh suyễn.
Bịnh ngoài lỗ mũi.
Bịnh nóng, bịnh gầy mòn.
Bịnh trong bụng.
Bịnh trúng gió, chóng mặt.
Bịnh thổ huyết.
Bịnh đau bụng, bịnh tả.
Bịnh cùi, bịnh bướu.
Bịnh lác, bịnh ho lao.
Bịnh kinh phong, bịnh mụn (mụt).
Bịnh sảy (mụt sảy), bịnh phong lỡ.
Bịnh ban, trái, bịnh ghẻ phỏng.
Bịnh đau máu, bịnh đau mật.
Bịnh bạch đái, bịnh trĩ ngoại.
Bịnh đinh sang (mụt có mũ).
Bịnh âm sang (trĩ lậu) nội.
Bịnh đau mặt.
Bịnh bởi đàm sanh.
Bịnh cảm gió.
Bịnh phong đàm.
Bịnh thời khí.
Bịnh tổn.
Bịnh do bị đánh đập.
Bịnh do nghiệp báo.
Bịnh do sự lạnh, bịnh do sự nóng.
Bịnh do sự đói, bịnh do sự khát.
Bịnh bón, bịnh lậu.
Thầy tỳ khưu hằng suy tưởng thấy tội khổ trong thân thể như vậy.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng tội khổ vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng sự dứt bỏ thế nào?
NầyĀnanda! Thầy tỳ khưu trong Phật pháp, không đem lòng thọ lãnh nghĩa là dứt bỏ, làm cho tiêu tán, làm cho không còn phát sanh dục tư duy (kāmavitakka) là thứ lòng suy nghĩ về tình dục.
Không đem lòng thọ lãnh, là dứt bỏ, làm cho tiêu tán, làm cho không còn phát sanh hận tư duy (byāpādavitakka) là thứ lòng hay suy nghĩ về sự hiềm thù, là sự suy nghĩ cách làm hại chúng sanh.
Không lòng thọ lãnh, là dứt bỏ, làm cho tiêu tán, làm cho chẳng còn phát sanh khốn tư duy (vihiṃsavitakka) là thứ lòng suy nghĩ làm khó chúng sanh.
Không lòng thọ lãnh, là dứt bỏ, làm cho tiêu tán, làm cho không còn phát sanh nghiệp dữ, nghiệp dữ đã có không cho tăng tiến thêm nữa.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng sự dứt bỏ vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng dứt tình dục, thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, hoặc ở trong rừng, hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, quán tưởng thấy như vầy:
Pháp dứt tình dục là Niết-bàn, diệt trừ các sở hành, dứt bỏ cả phiền não, đoạn tuyệt cả ái dục rồi, pháp dứt tình dục là Niết-bàn ấy, là đức tịnh; pháp dứt tình dục là Niết-bàn ấy, là đức cao thượng.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng dứt tình dục vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng tịch tịnh, thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, hoặc ở trong rừng hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, quán tưởng thấy như vầy:
Pháp tịch tịnh là Niết-bàn diệt trừ các sở hành, dứt bỏ cả phiền não, đoạn tuyệt cả ái dục rồi; pháp tịch tịnh là Niết-bàn ấy, là đức tịnh; pháp tịch tịnh là Niết-bàn ấy, là đức cao thượng.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng tịch tịnh vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng sự không tham luyến thế giới, là thế nào?
Nầy Ānanda! Cái tâm nào đã nương theo ái dục, hoặc cố chấp sự thường kiến cùng đoạn kiến và những vi tế phiền não trong thế giới, là tâm ác, thầy tỳ khưu trong Phật pháp này, khi dứt bỏ hẳn cả các pháp ấy, không lòng cố chấp nữa, thì được tránh cả ác pháp ấy.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng sự không tham luyến thế giới vậy.
Nầy Ānanda! Tưởng tất cả sở hành đều vô thường là thế nào?
NầyĀnanda, Thầy tỳ khưu trong Phật Pháp, chán nản gớm ghê các sở hành.
Nầy Ānanda! Phép ấy Như Lai gọi là tưởng tất cả sở hành đều là vô thường vậy.
Nầy Ānanda! Niệm hơi thở thế nào?
Nầy Ānanda, thầy tỳ khưu trong Phật pháp, ở trong rừng hoặc ở gần cội cây, hoặc ở trong nhà thanh vắng, ngồi nhắm mắt thân hình ngay thẳng, ý tưởng chơn chánh, để tìm phép thiền định.
Thầy tỳ khưu ấy chăm chỉ nhớ biết rõ rệt đến hơi thở ra.
Chăm chỉ nhớ biết rõ rệt đến hơi thở vô.
Khi hơi thở ra dài, biết rõ: Ta thở ra dài.
Khi hơi thở vô dài, biết rõ: Ta thở vô dài.
Khi hơi thở ra vắn, biết rõ: Ta thở ra vắn.
Khi hơi thở vô vắn, biết rõ: Ta thở vô vắn.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ hơi thở ra mới(32) thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ hơi thở vô(33) mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người diệt hơi thở ra, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người diệt hơi thở vô(34), mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ sự vui mừng, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ sự vui mừng, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ sự yên vui, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ sự yên vui, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ tâm hành(35), mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ tâm hành, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người diệt tâm hành, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người diệt tâm hành, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ tâm, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người biết thật rõ tâm, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta làm cho tâm thơ thới, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta làm cho tâm thơ thới, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta giữ tâm cho bình đẳng trong cảnh giới, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta giữ tâm cho bình đẳng trong cảnh giới, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta diệt tâm cho khỏi, nhứt là 5 pháp cái, mới thở ra(36).
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta diệt tâm cho khỏi, nhứt là 5 pháp cái, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy ngũ uẩn là vô thường, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy ngũ uẩn là vô thường, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp dứt trừ tình dục, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp dứt trừ tình dục, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp tịch tịnh, khỏi sự thống khổ, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp tịch tịnh, khỏi sự thống khổ, mới thở vô.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp dứt bỏ phiền não, mới thở ra.
Thầy tỳ khưu tinh cần như vầy: Ta là người hằng thấy pháp dứt bỏ phiền não, mới thở vô.
Nầy Ānanda! Những điều ấy, Như Lai gọi là niệm hơi thở vậy.
Nầy Ānanda! Nếu người vào đến chỗ ngụ của thầy tỳ khưu Girimānanda rồi, nên giảng giải 10 phép tưởng như vậy, đó là nguyên nhân làm cho bịnh của thầy tỳ khưu Girimānanda được thuyên giảm trong giây phút.
Liền đó đức Ānanda học cả 10 phép tưởng ấy của đức Thế Tôn, rồi đem giảng giải lại cho thầy tỳ khưu Girimānanda.
Nhờ nghe được 10 phép tưởng, mà thầy Girimānanda được khỏi bịnh lập tức.
Thầy Girimānanda hẳn được dứt khỏi bịnh ấy.
Căn bịnh của thầy Girimānanda được dứt khỏi do thầy Girimānanda nghe được cả 10 phép tưởng, mà đức Ānanda giảng giải lại như vậy.
BHĀSITOVĀDASAṄKHEPA ‒ LỜI CHỈ GIÁO TÓM TẮT
Okāsa.
Yo pana dhammānudhammapaṭipanno viharati sāmīcipaṭipanno anudhammacari so Tathāgataṃ sakkaroti garukaroti māneti pūjeti paramāya pūjāya paṭipattipūjāya.
Sabbapāpassa akaraṇaṃ.
Kusalassāpasampadā.
Sacittapariyodapanaṃ.
Etaṃ Buddhānasāsanaṃ.
Khanti paramaṃ tapo titikkhā, nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhā, na hi pabbajito parūpaghātī, samaṇo hoti paraṃ viheṭhayanto.
Anūpavādo anūpaghāto.
Paṭimokkhe ca saṃvaro.
Mattaññutā ca bhattasmiṃ.
Pantañca sayanāsanaṃ, adhicitte ca āyogo, etaṃ buddhānasāsanaṃ.
Sīlasamādhiguṇānaṃ, khanti padhānakāraṇaṃ, sabbe pi kusala dhammā, khantyāyeva vaḍhanti te.
Kevalānaṃ pi pāpānaṃ, khanti mūlaṃ nikantati, garahakalahādīnaṃ, mūlaṃ khaṇati khantiko.
Khanti dhīrassalaṅkāro.
Khanti tapo tapassino.
Khanti balaṃ va yatīnaṃ.
Khanti hitasukhāvahā.
Khantiko mettavā lābhī, yasassī sukhasīlavā, piyo devamanussānaṃ, manāpo hoti khantiko.
Attano pi paresañca, atthāvaho va khantiko, saggamokkhagamaṃ maggaṃ āruḷho hoti khantiko.
Satthuno vacanovādaṃ, karotiyeva khantiko, paramāya ca pūjāya, jinaṃ pūjeti khantiko.
Dullabhañca manussattaṃ, buddhuppādo ca dullabho, dullabhā khaṇasampatti, saddhammo paramadullabho.
Sukho buddhānamuppādo, sukhā saddhammadesanā, sukhā saṅghassa sāmaggī, samaggānaṃ tapo sukho.
Sukho viveko tuṭṭhassa, sutadhammassa passato.
Abyāpajjhaṃ sukhaṃ loke pāṇabhūtesu saññamo.
Sukhā virāgatā loke, kāmānaṃ samatikkamo, asmimānassa vinayo, etaṃ ve paramaṃ sukhaṃ.
Kiccho manussapaṭilābho.
Kicchaṃ maccāna jīvitaṃ, kicchaṃ saddhammassavanaṃ.
Kiccho buddhanamuppādo.
Satthuno saddhammaṃ sutvā, sabbasmiṃ jinasāsane, kappāni satasahassani, duggatiṃ so na gacchati.
Pubbaṇhe piṇḍapātañca, sāyaṇhe dhammadesanaṃ, padose bhikkhu ovādaṃ, adharatte devapañhanaṃ, paccūseva gate kāle, bhabbābhabbe vilokanaṃ, ete pañcavidhe kicce, visodheti munipunkavoti.
Kukkuṭe gabbhavāso ca, soṇe cudaranikkhami, usabhe rājasampatti, sase pabbajito jino.
Kukkuṭe sabbaññū buddho, tattha cakkaṃ pavattayi, nibbānagamanaṃ sappe, sahassaṃ pañca mūsike.
Okkanto ca guruvārasmiṃ, sukkavāre ca nikkhami, sambuddho buddhavārasmiṃ, aṅgāre parinibbuto.
Āsāḷhapuṇṇamokkanto, visākhe yeva nikkhami, visākhapuṇṇamī sambuddho, visākhe parinibbuto.
Nibbute lokanāthamhi, sambuddhe aggapuggale, paṭimā bodhirukkhā ca, thūpā ca jinadhātuyo, caturāsīti sahassa, dhammakkhandhā sudesitā, aggappavattanaṭṭhāne, ṭhapitā honti pāniṇaṃ.
lti sammāsambuddhena desitaṃ ovādaṃ citte ṭhapetvā sammāsambuddhena vuttappakārena paṭipattipūjāya pūjaṃ karontena lokiyalokuttara sampattisiddhaṃ kātabbaṃ ukāsa ārādhaṇaṃ karomi.
Okāsa
Sirīsakyamunisabbaññūbuddhassa balavapaccūsasamaye kusinārāya yamakasālānamantare amumhi sappasaṃvacchare gimha utumhi visākhamāse sukkapakkhe paṇṇarasiyā tithiyaṃ bhummavāre bhummayāme anurādhanakkhattadivase parinibbānaṃ ahosi anupādisesāya nibbānadhātuyā.
Tôi xin tôn kính. Người nào tu hành hằng ở theo lẽ chánh, hằng hành theo điều chánh, người ấy gọi là người hết lòng thành kính, sùng bái đức Như Lai, bằng cách cao thượng, vì đã được hành theo Chánh pháp. Tư cách chẳng làm tất cả điều dữ. Tư cách làm những việc lành. Tư cách làm cho tâm mình trong sạch. Những tư cách ấy là giáo pháp của Chư Phật. Sự nhịn nhục là pháp thiêu hủy cao thượng, Chư Phật đã giải rằng: Niết-bàn là đức cao thượng, bậc xuất gia mà làm khó chúng sanh, thì chẳng phải bậc xuất gia, chẳng phải bậc Sa-môn. Tư cách không phỉ báng (kẻ khác).
Tư cách không làm khổ (kẻ khác).
Tư cách thu thúc trong giới bổn.
Sự biết tiết độ trong thực phẩm.
Tư cách nằm ngồi trong nơi thanh vắng, tư cách cố gắng trong sự tu tâm.
Những điều ấy là giáo pháp của Chư Phật.
Tất cả các pháp lành ấy, hằng được tăng tiến, do nhờ sự nhịn nhục; sự nhịn nhục là nguyên nhân phát sanh giới và định.
Sự nhịn nhục dứt trừ được nguồn cội tất cả tội lỗi, người nhịn nhục gọi là người đã trừ tuyệt gốc rễ tội lỗi, nhứt là tội phỉ báng, mắng nhiếc, cãi lẫy.
Sự nhịn nhục là khí cụ của bậc trí tuệ.
Sự nhịn nhục là pháp thiêu hủy của người có pháp thiêu hủy.
Sự nhịn nhục là khí lực của người hành giả.
Sự nhịn nhục là đức đem đến điều lợi ích cùng sự an vui.
Người nhịn nhục hằng có bằng hữu, có tài lợi, có sự an vui.
Người nhịn nhục là nơi yêu mến vừa lòng của Chư thiên và tất cả nhân loại.
Người nhịn nhục làm được nhiều điều lợi ích cho mình và cho kẻ khác.
Người nhịn nhục là người đi trên đường về cõi Trời và Niết-bàn.
Người nhịn nhục là người thật hành theo giáo pháp của Phật, người nhịn nhục là người sùng bái Đức Phật bằng cách cao thượng.
Phẩm cách sanh ra làm người, chúng sanh khó mà sanh ra được.
Phẩm cách chứng quả Phật, chúng sanh khó mà chứng được.
Phẩm cách gặp thời kỳ, là sanh ra gặp Đức Phật, hoặc Phật Pháp, chúng sanh khó mà gặp được.
Pháp của bậc Thiện Trí Thức, chúng sanh rất khó mà học được.
Phẩm cách được chứng quả của Chư Phật, đem đến sự an vui, cách giảng giải về Pháp của bậc thiện trí thức, đem đến sự an vui.
Sự hòa hợp của Chư Tăng, hoặc của phe đảng, đem đến sự an vui, sự cố gắng của những người hòa hợp, đem đến sự an vui.
Sự yên tịnh của người vui trong chỗ thanh vắng, là người đã được nghe pháp, đã suy tưởng thấy pháp, đem đến sự an vui.
Cách không làm khó, cách thu thúc đối với chúng sanh, đem đến sự an vui.
Phẩm hạnh tránh xa tình dục, là cách thoát khỏi tình dục, đem đến sự an vui tuyệt đối.
Cách làm cho tiêu tan ngã mạn, đem đến sự an vui.
Cách luân hồi lại làm người là việc khó.
Sự nuôi mạng sống của tất cả chúng sanh là việc khó, sự được nghe Phật pháp là việc khó.
Cách được chứng quả của Chư Phật là việc khó.
Người đã nghe Phật pháp mà được hành theo giáo lý của Chư Phật, thì chẳng bị đọa vào ác đạo, trọn 10 ngàn kiếp.
Đức Phật lớn hơn tất cả các bậc trí tuệ, Ngài làm trọn cả 5 phận sự: trong buổi mai, Ngài ngự đi trì bình khất thực; trong buổi chiều, Ngài thuyết pháp độ sanh; trong lúc hoàng hôn, Ngài giáo hóa các hàng tỳ khưu; trong canh khuya, Ngài đáp lời vấn của Chư thiên.
Trong canh năm, Ngài xem xét đến chúng sanh, coi hạng nào nên giác ngộ, cùng không nên giác ngộ.
Đức Bồ tát giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong năm Dậu, Ngài sanh ra trong năm Tuất, Ngài lên ngôi Vua trong năm Sửu, Ngài xuất gia trong năm Mão.
Ngài chứng quả Phật trong năm Dậu, Ngài chuyển Pháp luân trong năm ấy, Ngài nhập Niết-bàn trong năm Tỵ. Phật pháp đủ chẵn 5 ngàn năm trong năm Tý.
Ngài giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong ngày thứ năm, sanh ra trong ngày thứ sáu, được chứng quả Phật trong ngày thứ tư, nhập Niết-bàn trong ngày thứ ba.
Ngài giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong ngày Rằm tháng Sáu, đản sanh trong ngày Rằm tháng Tư, được chứng quả Chánh Biến Tri trong ngày Rằm tháng Tư, Ngài nhập Niết-bàn trong ngày Rằm tháng Tư.
Khi Đức Chánh Biến Tri là bậc cao thượng, là nơi xu hướng của tất cả chúng sanh đã nhập Niết-bàn, Ngài để lại trong thế gian, những Kim thân, Bảo tháp, cây Bồ đề, Xá lợi tháp và 8 muôn 4 ngàn Pháp môn, đặng chúng sanh ức niệm và hành theo cho đặng hạnh phúc cao thượng.
Người nên hết lòng ghi nhớ, những lời giáo huấn của đức Chánh Biến Tri, nên xu hướng theo, nên hành theo những điều mà đức Chánh Biến Tri đã chỉ dẫn, hành theo cho được kết quả hữu lậu, cùng quả vô lậu, tôi xin hết lòng hoan hỷ ghi nhớ những điều như thế.
Tôi xin tôn kính.
Đức Sakyamuni Chánh Biến Tri, là đấng Giáo chủ, Ngài đã nhập Vô dư Niết-bàn, vừa lúc rạng đông, tại khoảng trống giữa hai cây Song Long thọ, gần thành Kusinārā, trong ngày thứ tư, trong mùa hạn năm Tỵ.
DHĀTUCETIYĀNAMAKĀRAGĀTHĀ ‒ KỆ TỤNG LỄ BÁI CÁC THÁP THỜ XÁ LỢI
Mahāgotamasambuddho, kusiṇārāya nibbuto, dhātuvitthārakaṃ katvā, tesu tesu visesato.
Uṇhisaṃ catasso dāṭhā, akkhakā dve ca sattamā, asambhinnā va tā satta, sesā bhinnā va dhātuyo.
Mahantā pañca nāḷī ca, majjhimā ca cha nāḷiyo, khuddakā pañca nāḷī ca, sambhinnā tividhā matā.
Mahantā bhinnamuggā ca, majjhimā bhinnataṇḍulā, khuddakā sāsapamattā, evaṃ dhātuppamānikā.
Mahantā suvaṇṇavaṇṇā, majjhimā phalikappabhā, khuddakā bakulavaṇṇā, tāpi vandāmi dhātuyo.
Eko thūpo rājagahe.
Eko vesāliyā ahu.
Eko kapilavatthusmiṃ.
Eko ca alakappake.
Eko ca rāmagāmāsmiṃ.
Eko ca veṭṭhadīpake.
Eko pāveyyake malle.
Eko ca kusinārake.
Ete sārīrikā thūpā, jampūdipe patiṭṭhitā, pūjitā naradevehi, ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Ekā dāṭhā tidasapure.
Ekā nāgapure ahu.
Ekā gandhāravisaye.
Ekā sīhaḷadīpake.
Imā catūsu ṭhānesu, satthu dāṭhā patiṭṭhitā, pūjitā naradevehi, ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Uddhaṃ dakkhiṇadāṭhā ca, tāvatiṃse patiṭṭhitā, adho dakkhiṇadāṭhā ca, sīhaḷadīpe patiṭṭhitā vāmadāṭhā ca.
Uddhampi gandhāraraṭṭhe patiṭṭhitā, vāmadāṭhā ca adhopi, nāgaloke patiṭṭhitā, pūjitā naradevehi, ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Brahmaloke dussadhātu vāma akkhakadhātuyo sabbe brahmābhipūjenti thūpaṃ dvādasayojanaṃ.
Tāvatiṃsamhi devānaṃ cūḷāmaṇimhi kesakaṃ sabbe devābhipūjenti pasannā buddhasāsane pūjitā naradevehi ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Cattāḷīsa samā dantā kesā lomā nakhā pi ca devā haranti ekekaṃ cakkavāḷaparamparā pūjitā naradevehi ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Aṭṭhārasa dve vassasate dhammāsoko tadā ahu caturāsītisahassā cetiyā ca kārāpitā pūjitā naradevehi ahaṃ vandāmi dhātuyo.
Đại đức Gotama(37) là đức Chánh Biến Tri cao thượng, Ngài đã nhập Niết-bàn, gần thành Kusiṇārā có các thứ Xá-lị để lại nhiều nơi.
Xá-lị không bể có 7 đoạn là: Đức Un-hi Xá-lị (Uṇhīsa)(38), đức Đa-thá Xá-lị (Dāṭha)(39), đức Ắc-khá-ká Xá-lị (Akkhaka)(40).
Ngoài các Xá-lị ấy đều bể ra (từ miếng nho nhỏ).
Xá-lị đã bể có 3 thứ: Đức Xá-lị đoạn lớn, cân được 5 cân, đức Xá-lị đoạn vừa, cân được 6 cân, đức Xá-lị đoạn nhỏ, cân được 5 cân.
Tất cả đức Xá-lị có bề rộng lớn như vầy: đức Xá-lị đoạn lớn, lớn bằng hột đậu xanh, đức Xá-lị đoạn vừa, lớn bằng hột gạo, đức Xá-lị đoạn nhỏ, lớn bằng hột cải.
Tất cả đức Xá-lị màu sắc khác nhau như vầy: Đức Xá-lị đoạn lớn có sắc như vàng, đức Xá-lị đoạn vừa có sắc như ngọc pha lê, đức Xá-lị đoạn nhỏ có sắc như bông cây bakula.
Tôi xin đem hết lòng thành kính, mà làm lễ các đức Xá-lị ấy.
Một tòa tháp để lại trong thành Ra-chá-gá-há (Rājagaha).
Một tòa tháp để lại trong thành Quê-sa-ly (V esālī).
Một tòa tháp để lại trong thành Cá-bí-lá- quát-thú (Kapilavatthu).
Một tòa tháp để lại trong thành Á-lá-cá- cáp-bá-cá (Alakappaka).
Một tòa tháp để lại trong thành Ra-má-ga- má (Rāmagāma).
Một tòa tháp để lại trong thành Quết-thá- đi-bá-cá (Veṭṭhadīpaka).
Một tòa tháp để lại trong thành Ba-quây- dá-cá (Pāveyyaka) trong Mallaraṭṭhajanapada.
Một tòa tháp để lại trong thành Cú-sí-na-ra (Kusinārā).
(Cả 8) tòa tháp ấy là tháp táng đức Xá-lị để lại trong Nam Thiệm Bộ Châu, tôi xin đem hết lòng thành kính mà làm lễ các đức Thánh tích (trong cả 8 tháp ấy) mà Chư thiên và nhơn loại hằng sùng bái cúng dường.
Một đức Đa-thá Xá-lị để lại trong cõi Trời Đạo Lợi.
Một đức Đa-thá Xá-lị để lại trong cõi Long Vương.
Một đức Đa-thá Xá-lị để lại trong xứ Gan- tha-rá-rát-thá (Gandhāraraṭṭha).
Một đức Đa-thá Xá-lị để lại trong xứ Tích- Lan.
Các đức Đa-thá Xá-lị ấy của đức Thế Tôn để lại trong 4 nơi, tôi xin đem hết lòng thành kính, mà làm lễ các đức Xá-lị, mà Chư thiên và nhơn loại hằng sùng bái cúng dường.
(Là) Đức Đa-thá Xá-lị bên hữu để trong cõi Trời Đạo-Lợi đức Đa-thá Xá-lị bên hữu phía dưới để trong xứ Tích-Lan.
Đức Đa-thá Xá-lị bên tả phía trên để trong xứ Ganh-tha-rá, đức Đa-thá Xá-lị bên tả phía dưới để trong cõi Long Vương, tôi xin đem hết lòng thành kính mà làm lễ các đức Xá-lị, mà Chư thiên và nhơn loại hằng sùng bái cúng dường.
Đức Đús-sá (Dussa)(41) Xá-lị cùng đức Ắc- khá-ká (Akkhaka) Xá-lị bên tả để lại trong cõi Phạm thiên, Chư Phạm thiên hằng sùng bái cúng dường, tòa tháp 12 do tuần để táng các đức Xá-lị ấy.
Tất cả Chư thiên là bậc tín thành trong Phật pháp hằng cúng dường đức Kê-sa (Kesā)(42) Xá-lị đã táng trong tòa tháp Chu- la-má-ni (Cūḷāmaṇi) trong cõi Trời Đạo-Lợi, tôi xin đem hết lòng thành kính mà làm lễ đức Xá-lị mà Chư thiên và nhơn loại, hằng sùng bái cúng dường.
Cả 40 đức Đan-tá (Danta)(43) Xá-lị, và đức Kê-sa (Kesā), đức Lô-ma (Lomā)(44), đức Ná-kha (Nakha)(45), mà Chư thiên đem mỗi thứ đi mỗi thế giới khác, tôi xin đem hết lòng thành kính, mà làm lễ các Thánh tích, mà Chư thiên và nhơn loại, hằng sùng bái cúng dường.
Thuở Phật Pháp được 218 năm(46) có một Hoàng đế hiệu Tham-má-sô-ká (Dhammasoka)(47), ngài có tạo 8 muôn 4 ngàn tòa tháp để táng Xá-lị, tôi xin đem hết lòng thành kính, mà làm lễ các đức Thánh tích ấy, mà Chư thiên và nhơn loại hằng sùng bái cúng dường.
ĀDITTAPARIYĀYASŪTRA ‒ KINH GIẢI VỀ LỬA (PHIỀN NÃO)
Evaṃ me sutaṃ.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati gayāsīse saddhiṃ bhikkhusahassena.
Tatra kho bhagavā bhikkhu āmantesi.
Sabbaṃ bhikkhave ādittaṃ.
Kiñca bhikkhave sabbaṃ ādittaṃ.
Cakkhuṃ bhikkhave ādittaṃ.
Rūpā ādittā.
Cakkhuviññāṇaṃ ādittaṃ.
Cakkhusamphasso āditto.
Yam pidaṃ cakkhusamphassapaccayā upajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ.
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Sotaṃ ādittaṃ.
Saddā ādittā.
Sotaviññāṇaṃ ādittaṃ.
Sotasamphasso āditto.
Yam pidaṃ sotasamphassapaccayā upajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ.
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Ghānaṃ āditttaṃ.
Gandhā ādittā.
Ghānaviññāṇaṃ ādittaṃ.
Ghānasamphasso āditto.
Yam pidaṃ ghānasamphassapaccayā upajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ.
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Jivhā ādittā.
Rasā ādittā.
Jivhāviññāṇaṃ ādittaṃ.
Jivhāviññānamsamphasso āditto.
Yam pidaṃ jivhāsamphassapaccayā upajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ.
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Kāyo āditto.
Phoṭṭhabbā ādittā.
Kāyaviññāṇaṃ ādittaṃ.
Kāyasamphasso āditto.
Yam pidaṃ kāyasamphassapaccayā upajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ.
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Mano āditto.
Dhammā ādittā.
Manoviññāṇam ādittaṃ.
Manosamphasso āditto.
Yampidaṃ manosamphassapaccayā upajjati vedayittaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā.
Tampi ādittaṃ?
Kena ādittaṃ?
Ādittaṃ rāgagginā dosagginā mohagginā ādittaṃ jātiyā jarāmaraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittanti vadāmi.
Evaṃ passaṃ bhikkhave sutavā ariyasāvako cakkhusmiṃpi nibbindati rūpesu pi nibbindati cakkhuviññāṇepi nibbindati cakkhusamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Sotasmiṃpi nibbindati saddesupi nibbindati sotaviññanepi nibbindati sotasamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ sotasamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Ghānasmiṃpi nibbindati gandhesupi nibbindati ghānaviññane pi nibbindati ghānasamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ ghānasamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Jivhāyapi nibbindati rasesupi nibbindati jivhāviññāṇepi nibbindati jivhāsamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Kāyasmiṃpi nibbindati phoṭṭhabbesupi nibbindati kāyaviññāṇepi nibbindati kāyasamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ kāyasamphassapaccayā uppājjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Manasmiṃpi nibbindati dhammesupi nibbinpati manoviññāṇepi nibbindati manosamphassepi nibbindati.
Yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmiṃpi nibbindati.
Nibbindaṃ virajjati virāgā vimuccati.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
Khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.
Idaṃ avoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhu Bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne tassa bhikkhusahassassa anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti.
Tôi (tên là A-Nan-Đa) được nghe lại như vầy:
Một thuở nọ đức Thế Tôn là đấng Giáo chủ, ngự trong nước Gá-da-si-sá (Gayāsīsa) gần sông Gá-da (Gayā) cùng một ngàn thầy tỳ khưu.
Đức Thế Tôn dạy các thầy tỳ khưu trong nước Gá-da-si-sá (Gayāsīsa) ấy phải chăm chỉ nghe lời này:
Này các thầy tỳ khưu! Tất cả vật đều là nóng.
Này các thầy tỳ khưu! Tất cả vật đều là nóng, ấy là cái chi?
Này các thầy tỳ khưu! Mắt là vật nóng. Các sắc là vật nóng.
Thức nương theo mắt là vật nóng.
Sự tiếp xúc của mắt là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ, không vui, phát sanh do sự tiếp xúc của mắt.
Sự biết rõ cảnh giới ấy, cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức, do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Tai là vật nóng.
Các tiếng là vật nóng.
Thức nương theo tai là vật nóng.
Sự tiếp xúc của tai là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của tai.
Sự biết rõ cảnh giới ấy cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, do sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức, do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Mũi là vật nóng.
Các mùi là vật nóng.
Thức nương theo mũi là vật nóng.
Sự tiếp xúc của mũi là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ, không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của mũi.
Sự biết rõ cảnh giới ấy cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức,do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Lưỡi là vật nóng.
Các vị là vật nóng.
Thức nương theo lưỡi là vật nóng.
Sự tiếp xúc của lưỡi là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của lưỡi.
Sự biết rõ cảnh giới ấy cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức,do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Thân là vật nóng.
Sự đụng chạm do thân thể là vật nóng.
Thức nương theo thân thể là vật nóng.
Sự tiếp xúc của thân là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của thân.
Sự biết rõ cảnh giới ấy cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức,do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Ý là vật nóng.
Các pháp là cảnh giới phát sanh trong tâm là vật nóng.
Thức nương theo ý là vật nóng.
Sự tiếp xúc của ý là vật nóng.
Sự biết rõ cảnh giới là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của ý.
Sự biết rõ cảnh giới ấy cũng là vật nóng.
Nóng do lẽ chi?
Như Lai gọi nóng do lửa tình, do lửa sân, do lửa si, nóng do sự sanh, sự già yếu và sự chết; nóng do sự trái ý, do sự uất ức,do sự khổ trong thân, do sự khổ trong tâm, do các sự khó chịu trong tâm.
Này các thầy tỳ khưu! Các bậc Thinh văn cao thượng, khi đã nghe thấy như thế ắt sanh lòng chán nản trong mắt, chán nản các sắc, chán nản trong thức nương theo mắt, chán nản sự tiếp xúc của mắt.
Chán nản sự biết rõ cảnh giới, là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của mắt.
Chán nản trong tai, chán nản các giọng nói (hoặc âm thanh), chán nản trong thức nương theo tai, chán nản sự tiếp xúc của tai.
Chán nản đến sự biết rõ cảnh giới, là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của tai.
Chán nản trong mũi, chán nản các mùi, chán nản trong thức nương theo mũi, chán nản sự tiếp xúc của mũi.
Chán nản đến sự biết rõ cảnh giới, là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của mũi.
Chán nản trong lưỡi, chán nản trong các vị, chán nản trong thức nương theo lưỡi, chán nản trong sự tiếp xúc của lưỡi.
Chán nản đến sự biết rõ cảnh giới, là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của lưỡi.
Chán nản trong thân thể, chán nản các sự đụng chạm, chán nản trong thức nương theo thân thể, chán nản sự tiếp xúc của thân thể.
Chán nản đến sự biết rõ cảnh giới, là thọ lãnh điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của thân thể.
Chán nản trong ý, chán nản các pháp, chán nản trong thức nương theo ý, chán nản sự tiếp xúc của ý.
Chán nản đến sự biết rõ cảnh giới, là điều vui, điều khổ, hoặc không khổ không vui, phát sanh bởi sự tiếp xúc của ý.
Khi đã chán nản (như vậy rồi) thì dứt khỏi tình dục, tâm cũng giải thoát (khỏi trầm luân) nhờ dứt khỏi tình dục.
Khi tâm giải thoát (khỏi trầm luân) thì tuệ (của bậc Thinh văn) cao thượng ấy cũng phát sanh phân minh và biết rằng tâm của ta đã giải thoát khỏi trầm luân rồi.
Các (bậc Thinh văn cao thượng) cũng rõ như vầy: sự sanh (của ta) đã dứt, Pháp cao thượng ta đã đắc, phận sự nên làm ta cũng đã làm, ngoài ra ta chẳng còn phận sự gì khác nữa.
Đức Thế Tôn là đấng Giáo chủ, diễn giải kinh này rồi.
Các thầy tỳ khưu ấy đều phát sanh lòng hoan hỷ.
Khi đức Thế Tôn giảng giải về pháp có mẹo mực này, tâm 1000 thầy tỳ khưu đều được giải thoát các nghiệp hoặc, nhờ dứt khỏi lòng ngã chấp.
BUDDHAJAYAMANGALAGĀTHĀ ‒ KỆ TỤNG VỀ SỰ CẢM THẮNG VĀ HẠNH PHÚC
1) Bāhuṃ sahassamabhinim mitasāvudhantaṃ grīmekhalaṃ uditaghorasasenamāraṃ dānādidhammavidhinā jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
2) Mārā tirekamabhiyujjhitasabbarattim ghorampanālavaka makkhamathaddhayakkhaṃ khantīsudantavidhinā jitavā munindo, tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
3) Nālāgiriṃ gajavaraṃ atimattabhūtaṃ dāvaggi cakkamasanīva sudārunantaṃ mettambuse kavidhinā jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
4) Ukkhittakhaggamatihatthasudārunantaṃ dhāvantiyojanapathaṅgulimalavantaṃ iddhībhisaṅkhatamano jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
5) Katvāna kaṭṭhamudaraṃ iva gabbhinīyā ciñcāya duṭṭhavacanaṃ janakāyamajjhe santena somavidhinā jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
6) Saccaṃ vihāya matisaccakavādaketuṃ vādābhiropitamanaṃ atiandhabhūtaṃ paññāpadīpajalito jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
7) Nandopananda bhujagaṃ vibuddhaṃ mahiddhiṃ puttena thera bhujagena damāpayanto iddhupadesavidhinā jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
8) Duggāhadiṭṭhibhujagena sudaṭṭhahatthaṃ brahmaṃ isuddhijutimiddhibakābhidhānaṃ ñāṇāgadena vidhinā jitavā munindo tantejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.
9) Etāpi buddhajayamaṅga atthagāthā yo vācano dinadine sarate matandī hitvānanekavividhāni cupaddavānī mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyya naro sapañño.
1) Đức Phật cao thượng hơn các bậc trí tuệ, Ngài đã cảm thắng Ma vương, Ma vương biến ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi Gri-mê-khá-lá (Grīmekhala) đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ pháp thập độ, nhứt là pháp bố thí, mà Đức Phật cảm thắng được Ma vương. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
2) Đức Phật đã cảm thắng Dạ xoa A-lá-quá- cá (Ālāvaka) rất cang ngạnh, không lòng nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng Đức Phật, Dạ xoa rất hung ác, cảm dõng hơn Ma vương, đã bị đức Chánh Biến Tri dùng phép nhẫn nhục thâu phục rồi. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
3) Đức Phật đã cảm thắng voi Na-la-gí-rí (Nālāgiri) đến cơn hung ác dữ tợn như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng từ bi, mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng được (voi ấy).Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
4) Đức Phật dùng phép Thần thông, cảm thắng Ăng-gú-lí-ma-lá (Angulimala), kẻ cướp sát nhơn, cắt ngón tay người xỏ làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt đức Chánh Biến Tri xa ba do tuần. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
5) Đức Phật đã khử trừ lời dữ của nàng Chinh-Cha (Ciñcā), nàng dùng cây tròn giống dạng đứa bé trong thai, giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng phép chánh định, mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng nàng giữa chốn đông người. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
6) Đức Phật sáng suốt nhờ ngọn đèn tuệ. Ngài đã cảm thắng kẻ ngoại đạo Sách-chá-cá (Saccaka), là kẻ không ngay thật, chỉ ưa thích sự nâng cao lời nói mình như dựng cột phướng, kẻ rất si mê, chẳng khác người mù. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
7) Đức Phật dạy Đại đức Mục-Kiền-Liên, biến làm Long Vương, để thâu phục Rồng chúa Nanh-đô-bá-nanh-đá (Nandopananda), là rồng tà kiến, có nhiều thần thông, nhờ dạy Đại đức Mục-Kiền- Liên, mà đức Chánh Biến Tri thâu phục được (rồng chúa ấy). Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
8) Đức Phật đã cảm thắng Đại Phạm thiên Bá-cá (Baka), tự cho mình là cao thượng, vì đức trong sạch, có thần thông, và chấp hẳn tà kiến, nhờ giác tuệ, mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng được Đại Phạm thiên ấy. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.
9) Những người có trí tuệ, không biếng nhác, thường ngày hằng tụng hoặc niệm tám kệ ngôn, tán dương oai lực của đức Chánh Biến Tri, thì sẽ được tránh khỏi vô số nạn tai và sẽ chứng quả Niết-bàn là nơi an vui độc nhất.
ANATTALAKKHAṆASUTRA ‒ KINH TỤNG VỀ TƯỚNG VÔ-NGÃ
Kinh tụng trong khi người có bịnh hoặc tang lễ.
Evaṃ me sutaṃ.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye.
Tatra kho Bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi.
Rūpaṃ bhikkhave anattā.
Rūpañca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa na yidaṃ rūpamābādhāya saṃvatteyya.
Labhetha ca rūpe evaṃ me rūpaṃ hotu evaṃ me rūpaṃ mā ahosīti.
Yasmā ca kho bhikkhave rūpaṃ anattā tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati.
Na ca labhati rūpe evaṃ me rūpaṃ hotu evaṃ me rūpaṃ mā ahosīti.
Vedanā anattā;
Vedanā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa na yidaṃ.
Vedanā abādhāya saṃvetteyya.
Labhetha ca vedanāya evaṃ me vedanā hotu evaṃ me vedanā mā ahosīti
Yasmā ca kho bhikkhave vedanā anattā tasmā vedanā ābādhāya saṃvattati.
Na ca labhati vedanāya evaṃ me vedanā hotu evaṃ me vedanā mā ahosīti.
Saññā anattā.
Saññā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa na yidaṃ saññā ābādhāya saṃvatteyya.
Labhetha ca saññāya evaṃ me saññā hotu evaṃ me saññā mā ahosīti.
Yasmā ca kho bhikkhave saññā anattā tasmā saññā ābādhāya saṃvattati.
Na ca labhati saññāya evaṃ me saññā hotu evaṃ me saññā mā ahosīti.
Saṅkhārā anattā saṅkhārā ca hidaṃ bhikhave attā abhavissaṃsu na yidaṃ saṅkhārā ābādhāya saṃvatteyyuṃ.
Labhetha ca saṅkhāresu evaṃ me saṅkhārā hontu evaṃ me saṅkhārā mā ahosunti.
Yasmā ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā tasmā saṅkhārā abādhāya saṃvattanti.
Na ca labhati saṅkhāresu evaṃ me saṅkhārā hontu evaṃ me saṅkhārā mā ahosunti.
Viññāṇaṃ anattā
Viññāṇañca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa.
Na yidaṃ viññāṇaṃ ābādhāya saṃvatteyya.
Labhetha ca viññāṇe evaṃ me viññāṇaṃ hotu evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosīti.
Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṃ anattā tasmā viññāṇaṃ ābādhāya saṃvattati.
Na ca labhati viññāṇe evaṃ me viññāṇaṃ hotu evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosīti.
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā ti?
Aniccaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā ti?
Dukkhaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃnu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama eso hamasmi eso me attāti.
No hetaṃ bhante!
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave vedanā niccā vā aniccā vā ti?
Aniccā bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā ti?
Dukkhaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃnu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama eso hamasmi eso me attāti?
No hetaṃ bhante!
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave saññā niccā vā aniccā vā ti?
Aniccā bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā ti?
Dukkhaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃnu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama eso hamasmi eso me attāti?
No hetaṃ bhante!
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave saṅkhārā niccā vā aniccā vā ti?
Aniccā bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā ti?
Dukkhaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃnu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama eso hamasmi eso me attāti?
No hetaṃ bhante!
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccā vā ti?
Aniccaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā ti?
Dukkhaṃ bhante!
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃnu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama eso hamasmi eso me attāti?
No hetaṃ bhante!
Tasmā tiha bhikkhave yaṃkiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yandūre santike vā sabbaṃ rūpaṃ.
Netaṃ mamo neso hamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yākāci vedanā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā yā dūre santike vā sabbā vedanā.
Netaṃ mama neso hamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yākāci saññā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā yā dūre santike vā sabbā saññā.
Netaṃ mama neso hamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yekeci saṅkhārā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā ye dūre santike vā sabbe saṅkhārā.
Netaṃ mama neso hamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yaṃkiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yandūre santike vā sabbaṃ viññāṇaṃ.
Netaṃ mama neso hamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Evaṃ passaṃ bhikkhave sutavā ariyasāvako rūpasmiṃpi nibbindati vedanāyapi nibbindati saññāsapi nibbindati saṅkhāresupi nibbindati viññāṇasmiṃpi nibbindati.
Nibbindaṃ virajjati virāgā vimuccati.
Vimuttasmiṃ ñāṇaṃ hoti.
Khīṇā jāti suvitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.
Idamavo ca bhagavā.
Atta manā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti.
Kinh này (gọi là Vô Ngã Tướng Kinh).
Tôi là A-Nan-Đa có nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ngụ trong rừng Hưu, gần thành Bārāṇasī.
Đức Phật gọi năm thầy tỳ khưu trong nơi ấy mà giảng rằng:
Này các thầy tỳ khưu! Sắc thân là vô ngã, chẳng phải là của ta.
Này các thầy tỳ khưu! Nếu sắc thân này thiệt là của ta, thì nó không phải chịu sự đau ốm.
Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho sắc thân của ta như thế này, xin đừng cho sắc thân của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Sắc thân thiệt là vô ngã, nên nó hằng chịu sự đau ốm.
Lại nữa, người đời không có thể nói: Xin cho sắc thân của ta như thế này, xin đừng cho sắc thân của ta như thế kia.
Thọ chẳng phải là của ta.
Này các thầy tỳ khưu! Nếu thọ thiệt là của ta.
Thọ ấy cũng không phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người có thể nói: Xin cho thọ của ta như thế này, xin đừng cho thọ của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Thọ thiệt là vô ngã, nên nó phải hằng chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời không có thể nói: Xin cho thọ của ta như thế này, xin đừng cho thọ của ta như thế kia.
Tưởng chẳng phải là của ta.
Này các thầy tỳ khưu! Nếu tưởng thiệt là của ta, tưởng ấy cũng không phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho tưởng của ta như thế này, xin đừng cho tưởng của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Tưởng thiệt chẳng phải là của ta, nên nó hằng phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời không có thể nói: Xin cho tưởng của ta như thế này, xin đừng cho tưởng của ta như thế kia.
Hành chẳng phải là của ta: Này các thầy tỳ khưu! Nếu hành thiệt là của ta, hành ấy cũng chẳng phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho hành của ta như thế này, xin đừng cho hành của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Hành thiệt chẳng phải là của ta, nên nó hằng phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời không có thể nói: Xin cho hành của ta như thế này, xin đừng cho hành của ta như thế kia.
Thức chẳng phải là của ta.
Này các thầy tỳ khưu! Nếu thức thiệt là của ta.
Thức ấy cũng chẳng phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho thức của ta như thế này, xin đừng cho thức của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Thức thiệt chẳng phải là của ta, nên nó hằng phải chịu sự đau khổ.
Lại nữa, người đời không có thể nói: Xin cho thức của ta như thế này, xin đừng cho thức của ta như thế kia.
Này các thầy tỳ khưu! Các ngươi cho sắc thân là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, sắc thân là vô thường.
Vật chi là vô thường, vật ấy khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi theo lẽ thường thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các thầy tỳ khưu! Các ngươi cho thọ là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, thọ là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi theo lẽ thường, thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các thầy tỳ khưu! Các ngươi cho tưởng là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, tưởng là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi theo lẽ thường, thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các thầy tỳ khưu! Các ngươi cho hành là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, hành là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi theo lẽ thường, thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các thầy tỳ khưu! Các ngươi cho thức là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, thức là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi theo lẽ thường, thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các thầy tỳ khưu! Cho nên sắc nào dầu trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hèn hạ, quí cao. Sắc nào dầu xa hay gần, các sắc đều chỉ là sắc thôi.
Các ngươi nên xem sự ấy bằng trí tuệ trong sạch theo chơn lý như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải là thân ta.
Thọ nào trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hèn hạ hoặc quí cao. Thọ nào gần hoặc xa, các thọ ấy đều chỉ là thọ thôi.
Các ngươi nên xem sự ấy bằng trí tuệ trong sạch theo chơn lý như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải là thân ta.
Tưởng nào trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hèn hạ hoặc quí cao. Tưởng nào gần hoặc xa, các tưởng ấy đều chỉ là tưởng thôi.
Các ngươi nên xem sự ấy bằng trí tuệ trong sạch theo chơn lý như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải là thân ta.
Hành nào trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hèn hạ hoặc quí cao. Hành nào gần hoặc xa, các hành ấy đều chỉ là hành thôi.
Các ngươi nên xem sự ấy bằng trí tuệ trong sạch theo chơn lý như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải là thân ta.
Thức nào trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hèn hạ hoặc quí cao. Thức nào gần hoặc xa, các thức ấy đều chỉ là thức thôi.
Các ngươi nên xem sự ấy bằng trí tuệ trong sạch, theo chơn lý, như vầy: Đó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng phải là thân ta.
Này các thầy tỳ khưu! Các bậc Thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, các ngài chán nản trong sắc, chán nản trong thọ,chán nản trong tưởng, chán nản trong hành và chán nản trong thức.
Khi đã chán nản (như thế) thì được lánh xa tình dục, tâm được giải thoát.
Khi tâm được giải thoát, trí tuệ (của bậc Thinh văn) phát sanh rõ rệt, mà biết rằng tâm của ta đã giải thoát rồi.
Các bậc Thinh văn cũng biết rõ rằng: Sự sanh (của ta) đã dứt, đạo của Pháp cao thượng ta đã đắc rồi, phận sự nên hành, ta cũng đã hành rồi.
Đức Phật đã giảng giải dứt kinh này.
Nhóm 5 thầy tỳ khưu nghe được khẩu truyền của đức Thế Tôn, lấy làm hoan hỷ.
Khi Đức Phật đang giảng kinh này, thì tâm của 5 thầy tỳ khưu được giải thoát các vi tế phiền não, vì chẳng còn nê chấp (rằng ta, rằng chúng ta nữa).
-oo0oo-
(26) Cũng gọi là tôn kính, tôn sùng.
(27) Ái dục trần thế.
(28) Ái dục sanh trong sắc giới (vì thường kiến).
(29) Ái dục sanh trong vô sắc giới (vì đoạn kiến).
(30) 3 luân là: huệ thấy rõ diệu đế, huệ thấy rõ ‘sự’ trong diệu đế, huệ thấy rõ ‘sự’ trong diệu đế đã hành rồi, 3 luân ấy vận chuyển như bánh xe.
(31) Mỗi diệu đế có 3 luân, 4 diệu đế thành 3x4=12.
(32) Chú giải: hành chặng đầu (mũi), chặng giữa (tim), chặng chót (rún) theo hơi thở ra thật rõ.
(33) Hành chặng đầu (rún), chặng giữa (tim), chặng chót (mũi) theo hơi thở vô cho thiệt rõ.
(34) Diệt hơi thở thô thiển.
(35) Tâm hành là thọ uẩn và tưởng uẩn.
(36) Chú giải: hành giả diệt 5 pháp cái nhờ nhập sơ thiền, diệt tâm sở (tầm và sát) nhờ nhập nhị thiền, diệt tâm sở (phỉ lạc) nhờ nhập tam thiền, diệt tâm sở (an lạc) nhờ nhập tứ thiền.
(37) Tàu âm: Cồ Đàm.
(38) Xương trán.
(39) Răng nhọn (răng chó).
(40) Xương vai.
(41) Y phục của Nài mặc lúc trốn ra khỏi thành.
(42) Tóc.
(43) Răng.
(44) Lông.
(45) Móng.
(46) Kể từ sau khi Phật nhập diệt.
(47) Hoàng đế A-Dục.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.