NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN VIII
PHÁP-HẠNH BA-LA-MẬT 3 (PĀRAMĪ)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
PHÁP-HẠNH NHẪN-NẠI BA-LA-MẬT (KHANTIPĀRAMĪ)
Pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
PHÁP-HẠNH NHẪN-NẠI BA-LA-MẬT BẬC HẠ (KHANTIPĀRAMĪ)
Tích Mahiṃsarājājātaka (Ma-him-xá-ra-cha-cha-tá-ká)
Tích Mahiṃsarājājātaka(1) Đức-Bồ-tát tiền-kiếp Đức- Phật Gotama sinh làm Trâu chúa tạo pháp-hạnh nhẫn- nại ba-la-mật bậc hạ (khantipāramī).
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Mahiṃsarājājātaka này đề cập đến pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật của Ngài. Tích này được bắt nguồn như sau:
Trong kinh-thành Sāvatthi, một con khỉ tinh nghịch hay quấy phá được nuôi trong một gia đình trong kinh- thành, nó đi đến chuồng voi nhảy lên ngồi trên lưng một con voi có giới, tuy nó đi tiểu tiện, đại tiện, đi qua đi lại trên lưng con voi ấy, nhưng con voi không hề phát sinh tâm-sân, không tỏ vẻ bực tức nó, bởi vì con voi có giới đặc biệt có tâm-từ và đức tính nhẫn-nại.
Một hôm, con voi con hung dữ đứng nghỉ chỗ con voi có giới, theo thói quen, con khỉ tinh nghịch đi đến nhảy lên ngồi trên lưng con voi con hung dữ ấy, tưởng như con voi lớn có giới kia. Con voi con hung dữ nhanh nhẹn lấy cái vòi bắt con khỉ tinh nghịch đập xuống đất, rồi lấy bàn chân chà xát thân con khỉ tinh nghịch tan xương nát thịt, chết ngay tại chỗ.
Chuyện con voi con hung dữ và con khỉ tinh nghịch ấy được chư tỳ khưu nghe biết như vậy. Một hôm, chư tỳ-khưu tụ hội tại giảng đường đàm đạo với nhau rằng:
- Này chư pháp-hữu! Nghe nói rằng: Con khỉ tinh nghịch hay quấy phá nhảy lên ngồi trên lưng con voi con hung dữ, tưởng như con voi lớn có giới. Con khỉ tinh nghịch ấy bị con voi con hung dữ bắt chà xát tan xương nát thịt chết ngay tại chỗ.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên pháp toà, bèn truyền hỏi rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Các con đang đàm đạo về chuyện gì vậy ?
Chư Tỳ khưu bạch với Đức-Thế-Tôn về chuyện con khỉ như vậy. Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Con khỉ tinh nghịch hay quấy phá có thói quen xấu như vậy không chỉ trong kiếp hiện-tại này mà còn tiền-kiếp xa xưa của con khỉ tinh nghịch hay quậy phá cũng có thói quen xấu như vậy.
TÍCH MAHIṂSARĀJĀJĀTAKA
Truyền dạy như vậy xong, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Mahiṃsarājājātaka được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp Đức- Phật Gotama sinh làm con Trâu chúa ở trong rừng núi Himavanta.
Khi trưởng thành, Đức-Bồ-tát Trâu chúa có thân hình to lớn, có sức mạnh phi thường, đi kiếm ăn dọc theo sườn núi trong rừng sâu. Thấy một cây to lớn sum xuê có bóng mát, nên đi kiếm ăn nơi nào, đến buổi trưa, Đức-Bồ-tát Trâu chúa cũng đến đứng dưới gốc cây to lớn ấy nghỉ mát.
Khi ấy, một con khỉ tinh nghịch hay quấy phá từ trên cây leo xuống, đứng trên lưng Đức-Bồ-tát Trâu chúa, đi tiểu tiện, đại tiện, nắm 2 cái sừng lắc chơi chán, rồi nắm cái đuôi đưa qua đưa lại chơi như vậy.
Đức-Bồ-tát Trâu chúa vẫn đứng tự nhiên, dù con khỉ tinh nghịch hay quấy phá thế nào, Đức-Bồ-tát Trâu chúa vẫn không hề phát sinh sân-tâm bực tức con khỉ tinh nghịch ấy, bởi vì Đức-Bồ-tát Trâu chúa đang tạo pháp- hạnh nhẫn-nại ba-la-mật, nên không phát sinh tâm sân.
Cho nên, mỗi ngày dù cho con khỉ tinh nghịch hay quấy phá như thế nào, Đức-Bồ-tát Trâu chúa vẫn giữ thái độ nhẫn-nại tự nhiên, không hề phát sinh sân-tâm bực tức con khỉ tinh nghịch ấy.
Vị chư-thiên cội cây ấy nhìn thấy con khỉ có hành vi tinh nghịch đáng ghét mỗi ngày như vậy. Một hôm, vị chư-thiên cội cây ấy hiện ra đứng chỗ cội cây ấy thưa với Đức-Bồ-tát Trâu chúa rằng:
- Kính thưa Ngài Trâu chúa cao thượng, do nguyên nhân nào mà Ngài nhẫn-nại chịu đựng những nỗi khổ do con khỉ tinh nghịch hay quấy phá làm khổ Ngài vậy?
Ngài nên húc nó bằng đôi sừng nhọn, nên đạp nó bằng chân khoẻ mạnh của Ngài, làm cho nó chết ngay tại nơi ấy.
Nếu Ngài không giết nó chết thì nó mãi quấy phá những chúng-sinh khác.
Nghe vị chư-thiên cội cây thưa như vậy, Đức-Bồ-tát Trâu chúa thưa rằng:
- Này chư-thiên cội cây! Xét thấy ta với con khỉ thì ta là chúng-sinh có thân hình to lớn, dòng dõi cao quý, tuổi tác cao hơn con khỉ, nếu ta không chịu nhẫn-nại tha thứ lỗi cho con khỉ thì nguyện vọng cao cả tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật của ta thành tựu làm sao được?
Nếu con khỉ tinh nghịch ấy vẫn có thói quen bậy bạ đối với con trâu hung dữ khác, tưởng như ta thì nó sẽ bị con trâu hung dữ khác trừng trị hại nó chết ngay tại nơi ấy.
Như vậy, ta sẽ không bị phạm tội sát-sinh nào cả.
Vài ba hôm sau, Đức-Bồ-tát Trâu chúa đi ở nơi khác, một con trâu hung dữ khác đến đứng ngay tại chỗ cội cây ấy, con khỉ tinh nghịch ấy theo thói quen nhảy lên trên lưng con trâu hung dữ ấy, đi tiểu tiện, đại tiện, tưởng như Đức-Bồ-tát Trâu chúa. Con trâu hung dữ liền lắc mạnh thân mình, bất ngờ, con khỉ tinh nghịch rơi xuống đất, ngay tức khắc, con trâu hung dữ lấy cái sừng húc vào tim, rồi lấy chân đạp con khỉ tinh nghịch ấy tan xương nát thịt chết ngay tại chỗ ấy.
Sau khi thuyết tích Mahiṃsajātaka này xong, Đức- Thế-Tôn thuyết pháp về pháp tứ Thánh-đế tế độ chư tỳ- khưu chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân bậc thấp hoặc cao tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn- pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Tích Mahiṃsajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
Trong tích Mahiṃsarājājātaka này, Đức-Bồ-tát Trâu chúa là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ. Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp những nhân vật trong tích Mahiṃsarājājātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại của những nhân vật ấy như sau:
- Con khỉ tinh nghịch (kiếp quá-khứ) ấy, nay kiếp hiện-tại cũng là con khỉ tinh nghịch (kiếp hiện-tại) này.
- Con trâu hung dữ (kiếp quá-khứ) ấy, nay kiếp hiện- tại là con voi con hung dữ (kiếp hiện-tại).
- Đức-Bồ-tát Trâu chúa, nay kiếp hiện-tại là Đức- Phật Gotama.
Nhận Xét Về Tích Mahiṃsarājājātaka
Trong tích Mahiṃsarājājātaka, con trâu có tính hung dữ trong kiếp quá-khứ, nay kiếp hiện-tại là con voi con cũng có tính hung dữ. Và con khỉ có tính tinh nghịch trong kiếp quá-khứ, nay kiếp hiện-tại cũng là con khỉ có tính tinh nghịch kiếp hiện-tại.
Như vậy, nếu chúng-sinh có thói quen xấu nào phát sinh từ ác-tâm được biểu hiện ra bằng thân hoặc bằng khẩu đã trở thành thói quen tật xấu gọi là tiền-khiên-tật xấu (vāsana) được tích lũy trong tâm, từ kiếp này sang kiếp kia, trong mỗi kiếp tử sinh luân-hồi của chúng-sinh ấy, dù cho phần thân mỗi kiếp thay đổi khác nhau tùy theo nghiệp và quả của nghiệp, song phần tâm vẫn còn tích lũy thói quen tật xấu ấy.
Nếu kiếp nào có cơ hội thì thói quen tật xấu ấy được biểu hiện ra bằng thân hoặc bằng khẩu trong kiếp ấy.
Như trường hợp trong tích Mahiṃsarājājātaka, sau khi con trâu hung dữ kiếp quá-khứ chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau sinh làm con voi con hung dữ trong kiếp hiện-tại. Và con khỉ tinh nghịch kiếp quá- khứ sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau sinh làm con khỉ tinh nghịch kiếp hiện-tại.
Tiền-khiên-tật xấu này rất khó diệt tận được. Thật vậy, đối với chư bậc Thánh A-ra-hán có khả năng diệt tận được tất cả mọi phiền-não, tất cả mọi tham-ái không còn dư sót, nhưng không thể diệt tận được tiền-khiên-tật xấu đã được tích-luỹ từ những kiếp quá-khứ của mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân-hồi trong các loài.
Tiền-khiên-tật này duy nhất chỉ có Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác kiếp chót thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đồng thời đặc biệt diệt tận được mọi tiền-khiên tật (vāsanā) không còn nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, trong toàn cõi- giới chúng-sinh mà thôi.
(Xong pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ)
PHÁP-HẠNH NHẪN-NẠI BA-LA-MẬT BẬC TRUNG (KHANTI UPAPĀRAMĪ)
Tích Cūḷadhammapālajātaka (Chu-lá-tham-má-pa-lá)
Trong tích Cūḷadhammapālajātaka(2) Đức-Bồ-tát tiền- kiếp Đức-Phật Gotama sinh làm hoàng tử Dhammapāla của Đức-vua Mahāpatāpa tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la- mật bậc trung (khanti upapāramī).
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha, Ngài thuyết về tích Cūḷadhammapālajātaka đề cập đến pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật của Ngài. Tích này được bắt nguồn như sau:
Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp tại giảng đường bàn luận về tỳ-khưu Devadatta tìm mọi cách để giết hại Đức- Thế-Tôn, như tuyển các xạ thủ bắn tên giỏi đến bắn Đức-Thế-Tôn, lăn đá đè Đức-Thế-Tôn, thả voi Nāḷāgiri chạy đến chà Đức-Thế-Tôn, ... nhưng cách nào cũng không thể giết hại Đức-Thế-Tôn được.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên pháp toà, truyền hỏi chư tỳ khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?
Chư tỳ-khưu bạch với Đức-Thế-Tôn về câu chuyện đang bàn luận như vậy.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Không chỉ kiếp hiện-tại này, tỳ- khưu Devadatta tìm mọi cách để giết hại Như-Lai, mà còn có nhiều kiếp quá-khứ của Như-Lai cũng bị tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta giết hại. Nhưng kiếp hiện-tại, tỳ-khưu Devadatta chắc chắn không có khả năng giết hại được Như-lai, thậm chí cũng không thể làm cho Như-Lai giựt mình nữa.
TÍCH CŪḶADHAMMAPĀLAJĀTAKA
Nhân dịp ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Cūḷadham- mapālajātaka được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Mahāpatāpa ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi. Khi ấy, Đức- Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tái-sinh đầu thai vào lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī của Đức-vua Mahāpatāpa.
Đức-Bồ-tát đản sinh ra đời, đức-vua phụ làm lễ đặt tên là Dhammapālakumāra: Hoàng-tử Dhammapāla.
Khi Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla lên 7 tháng, Mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát là Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī ẵm Hoàng-tử Dhammapāla tắm nước thơm, rồi trang phục hoàng-tử xong, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī vô cùng hoan hỷ ngồi ham nựng nịu Hoàng- tử Dhammapāla. Khi ấy, Đức-vua Mahāpatāpa ngự đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, thấy Chánh-cung Hoàng-hậu ẵm Hoàng-tử Dhammapāla vào lòng nựng nịu bằng tình thương mẫu tử, nên không để ý đứng dậy đón rước Đức-vua Mahāpatāpa.
Đức-vua Mahāpatāpa nghĩ rằng:
“Sở dĩ Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī sinh tâm ngã-mạn là vì nương nhờ Hoàng-tử Dhammapāla này, nên không để ý ta đến đây, không đứng dậy đón rước ta như trước. Nếu sau này, Hoàng-tử Dhammapāla trưởng thành thì Chánh-cung Hoàng-hậu không còn coi ta ra gì nữa cũng nên. Vậy, ta nên giết Hoàng-tử Dhammapāla ngay bây giờ.”
Nghĩ như vậy, Đức-vua Mahāpatāpa nổi cơn thịnh nộ, bực tức ngự trở về, ngồi trên ngai vàng giữa nơi hội triều, rồi truyền lệnh gọi tên đao phủ mang con đao và tấm ván đến chầu.
Tên đao phủ đến tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này sẽ làm việc gì?
Đức-vua Mahāpatāpa hằn học truyền lệnh rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy mau đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, đem Hoàng-tử Dhammapāla đến đây cho Trẫm.
Biết Đức-vua Mahāpatāpa nổi cơn thịnh nộ, bực tức nên ngự trở về, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī ẵm Hoàng-tử Dhammapāla vào lòng, than khóc thật thảm thương. Khi ấy, theo lệnh của Đức-vua Mahāpatāpa, tên đao phủ đến bắt buộc Chánh-cung Hoàng-hậu Candā- devī trao Hoàng-tử Dhammapāla cho y. Nhưng vì thương yêu Hoàng-tử, Chánh-cung Hoàng-hậu không đành lòng trao Hoàng-tử, nên tên đao phủ giật Hoàng-tử từ trên tay của Chánh-cung Hoàng-hậu, đem hoàng-tử Dhammapāla mới lên 7 tháng, đến trình lên Đức-vua Mahāpatāpa, tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này sẽ làm gì?
Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy đem tấm ván đặt nằm trước mặt Trẫm, rồi đem Hoàng-tử Dhammapāla đặt nằm ngửa trên tấm ván này.
Tuân theo lệnh Đức-vua Mahāpatāpa, tên đao phủ thi hành như vậy.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī ngự đến ngồi gần Hoàng-tử Dhammapāla khóc than thảm thiết.
Tên đao phủ tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này sẽ làm gì?
Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy chặt 2 bàn tay của Hoàng-tử Dhammapāla này.
Nghe lệnh của Đức-vua Mahāpatāpa truyền như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī đảnh lễ Đức-vua, rồi tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, Hoàng-tử Dhammapāla của thần thiếp mới lên 7 tháng còn bé nhỏ không biết gì, Hoàng-tử Dhammapāla hoàn toàn vô tội, chỉ có thần thiếp là người có tội lớn đối với Hoàng-thượng, vì không đứng dậy đón rước Hoàng-thượng mà thôi. Vì vậy, kính xin Hoàng-thượng truyền lệnh chặt 2 bàn tay của thần thiếp.
- Kính xin Hoàng-thượng tha cho Hoàng-tử Dhamma- pāla vô tội, còn nhỏ quá chưa biết gì cả.
Không quan tâm đến lời tâu của Chánh-cung Hoàng- hậu Candādevī, Đức-vua Mahāpatāpa lại truyền lệnh tên đao phủ rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi chớ nên chậm trễ, hãy mau chặt 2 bàn tay của Hoàng-tử Dhammapāla.
Đức-Bồ-Tát Dhammapāla Tạo Pháp Nhẫn-Nại ba-la-mật
Tên đao phủ lấy lưỡi đao bén chặt 2 bàn tay của Hoàng-tử Dhammapāla như chặt vào mụt măng non, máu chảy ra từ 2 vết thương cổ tay.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla nằm yên không hề lay động, không hề khóc, thực-hành pháp-hành nhẫn-nại ba-la-mật, chịu đựng nỗi đau khổ của vết thương 2 bàn tay. Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla còn có tâm-từ đối với Đức-Phụ-vương và tên đao phủ.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, Mẫu-hậu của Hoàng-tử Dhammapāla khóc than thảm thiết nhặt 2 bàn tay bỏ vào trong hộp.
Tên đao phủ tâu nữa rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này sẽ làm gì nữa?
Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy chặt 2 bàn chân của Hoàng-tử Dhammapāla.
Nghe Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, chỉ có thần thiếp mới là người có tội lớn đối với Hoàng-thượng mà thôi.
Vậy, kính xin Hoàng-thượng truyền lệnh chặt 2 bàn chân của thần thiếp, và xin tha cho Hoàng-tử Dhamma- pāla vô tội, lại còn bé nhỏ quá chưa biết gì.
Không quan tâm đến lời tâu của Chánh-cung Hoàng- hậu Candādevī, Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh cho tên đao phủ lập tức thi hành lệnh ngay. Tên đao phủ chặt 2 bàn chân của Hoàng-tử Dhammapāla, máu chảy ra từ vết thương 2 bàn chân.
Dù đã bị chặt 2 bàn tay và 2 bàn chân, Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla vẫn nằm yên tự nhiên bất động, tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật, chịu đựng mọi nỗi đau khổ cùng cực mà không hề khóc. Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla còn có tâm-từ đối với Đức-Phụ- vương và tên đao phủ.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī khóc than thảm thiết, nhặt 2 bàn chân của Hoàng-tử Dhammapāla đặt vào hộp, rồi đảnh lễ Đức-vua Mahāpatāpa, tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, Đấng Phu-quân của thần thiếp, Hoàng-tử Dhammapāla đã bị Hoàng-thượng truyền lệnh chặt 2 bàn tay và 2 bàn chân rồi, thần thiếp là Mẫu-hậu của hoàng tử có bổn phận nuôi dưỡng.
- Muôn tâu Hoàng-thượng, kính xin Hoàng-thượng ban Hoàng-tử Dhammapāla cho thần thiếp nuôi dưỡng.
Khi ấy, tên đao phủ tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này đã thi hành theo lệnh của Bệ-hạ.
Vậy, công việc của kẻ hạ thần xong hay chưa?
Đức-vua Mahāpatāpa truyền bảo rằng:
- Này tên đao phủ! Công việc ngươi chưa xong đâu! - Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này còn phải làm gì nữa? Đức-vua Mahāpatāpa truyền bảo rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy chặt cái đầu của Hoàng-tử Dhammapāla.
Nghe Đức-vua Mahāpatāpa truyền bảo tên đao phủ như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, chỉ có thần thiếp mới là người có tội lớn đối với Hoàng-thượng mà thôi.
Vậy, kính xin Hoàng-thượng truyền lệnh chặt cái đầu của thần thiếp, và xin tha cho Hoàng-tử Dhammapāla vô tội, lại còn bé nhỏ quá chưa biết gì.
Tâu xong, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī đưa cái đầu của Bà cho tên đao phủ chặt.
Tên đao phủ tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này phải làm thế nào?
Hoàng-Tử Dhammapāla Bị Chặt Đầu
Đức-vua Mahāpatāpa truyền bảo rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy mau chặt cái đầu của Hoàng-tử Dhammapāla ngay lập tức.
Tên đao phủ liền chặt cái đầu của Hoàng-tử Dhamma- pāla, rồi tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này thi hành theo lệnh của Bệ-hạ xong rồi hay chưa?
- Này tên đao phủ! Ngươi còn phận sự phải làm nữa. Tên đao phủ tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần này còn phải làm phận sự nào nữa?
Đức-vua Mahāpatāpa truyền lệnh rằng:
- Này tên đao phủ! Ngươi hãy dồi cái thây của Hoàng-tử Dhammapāla lên trên hư không, rồi đưa mũi đao nhọn lên đón cái thây ấy.
Tuân theo lệnh của Đức-vua Mahāpatāpa, tên đao phủ thi hành, dồi cái thây của Hoàng-tử Dhammapāla lên trên hư không, khi cái thây rơi xuống, tên đao phủ đưa mũi đao nhọn lên đón xuyên thủng qua cái thây của Hoàng-tử Dhammapāla, rơi xuống giữa sân rồng, trước mặt các quan trong triều.
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī phát sinh nỗi thống khổ cùng cực, vừa khóc than thảm thiết, vừa nhặt cái đầu và từng miếng thịt của Hoàng-tử Dhammapāla bỏ vào trong hộp, than vãn rằng:
- Có ai là bạn thân thiết và là bề tôi trung thành của Đức-vua Mahāpatāpa có tâm-từ, tâm-bi tại nơi đây không?
Chắc chắn là không có rồi! Bởi vì không có một ai khuyên can Đức-vua Mahāpatāpa rằng:
“Muôn tâu Bệ-hạ, kính xin Bệ-hạ không nên truyền lệnh giết hại Hoàng-tử Dhammapāla yêu quý của Bệ-hạ.”
Có ai là bạn thân thiết và là thân quyến của Đức-vua Mahāpatāpa có tâm-từ, tâm-bi tại nơi đây không?
Chắc chắn là không có rồi. Bởi vì không có một ai khuyên can Đức-vua Mahāpatāpa rằng:
“Muôn tâu Bệ-hạ, kính xin Bệ-hạ không nên truyền lệnh giết hại Hoàng tử Dhammapāla yêu quý của Bệ-hạ.”
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī khóc than vãn rằng:
“Hoàng-tử Dhammapāla sẽ là đứa con nối ngôi Hoàng-thượng, Hoàng-tử Dhammapāla được nâng niu từ khi mới sinh, hai bàn tay, hai bàn chân, đầu và mình được thoa bằng lõi trầm đỏ thơm tho. Nay, Hoàng- thượng đã truyền lệnh chặt đứt rời ra cả rồi!
- Muôn tâu Hoàng-thượng, chắc sinh mạng của thần thiếp không thể duy trì được nữa, sẽ bị chết thôi!
Chánh-Cung Hoàng-Hậu Candādevī Quy Thiên
Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī phát sinh nỗi thống khổ cùng cực không sao chịu nổi được, nên vỡ tim ngã xuống chết tại nơi ấy.
Đức-Vua Mahāpatāpa Bị Đất Rút
Khi ấy, Đức-vua Mahāpatāpa không thể ngồi vững trên ngai vàng được, ngã lăn xuống nền nơi hội triều, Đức-vua Mahāpatāpa rơi xuống nền đất, mặt đất dày không thể đỡ được tội ác của Đức-vua Mahāpatāpa, nên mặt đất nứt ra làm đôi, ngọn lửa địa-ngục loé lên rút Đức-vua Mahāpatāpa vào dưới lòng đất.
Sau khi Đức-vua Mahāpatāpa băng hà, ác-nghiệp sát- sinh Hoàng-tử Dhammapāla ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt trong cõi đại-địa-ngục ấy suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn hạn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra được.
Thi thể của Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī và thi thể của Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla được các vị quan trong triều làm lễ hoả táng theo truyền thống của hoàng tộc.
Sau khi Đức-Thế-Tôn thuyết tích Cūḷadhammapāla- jātaka xong, Chư tỳ khưu hiểu rõ tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta như vậy.
Tích Cūḷadhammapālajātaka Liên Quan Kiếp Hiện-Tại
Trong tích Cūḷadhammapālajātaka này, Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla sinh ra được 7 tháng là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc trung. Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp những nhân vật trong tích Cūḷadhamma- pālajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại của những nhân vật ấy như sau:
- Đức-vua Mahāpatāpa, nay kiếp hiện-tại là tỳ-khưu Devadatta.
- Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, nay kiếp hiện- tại là Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Mahāpajāpatigotamī.
- Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla, nay kiếp hiện- tại là Đức-Phật Gotama.
Nhận Xét Về Đức-Bồ-Tát Hoàng-Tử Cūḷadhammapāla
Pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha).
Pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật đó là vô-sân tâm-sở (adosacetasika) đồng sinh với đại-thiện-tâm chịu đựng mọi đối tượng không đáng hài lòng xảy đến một cách bất ngờ, mà không hề phát sinh sân-tâm không hài lòng trong các đối tượng ấy.
Tích Cūḷadhammapālajātaka, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Hoàng-tử Cūḷadhamma- pāla của Đức-vua Mahāpatāpa, khi còn nhỏ mới lên 7 tháng tuổi.
Vậy, do nguyên nhân nào mà Đức-Phụ-vương Mahāpatāpa tàn nhẫn truyền lệnh cho người đao phủ chặt 2 bàn tay, 2 bàn chân, chặt cái đầu của Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla, mà còn truyền lệnh dùng lưỡi đao nhọn đâm phân thây, làm cho Hoàng-tử Dhamma- pāla chết thê thảm như vậy?
Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama và Đức-vua Mahāpatāpa là tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta.
Sở dĩ Đức-Phụ-vương Mahāpatāpa đối xử tàn nhẫn với Hoàng-tử Dhammapāla con của mình như vậy, là vì trong tiền-kiếp xa xưa của Đức-vua Mahāpatāpa phát sinh tâm sân hận điên cuồng kết oan trái với tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Hoàng-tử Dhammapāla, trong tích Serivavāṇijajātaka được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, một người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo là tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta và một người buôn bán đồ nữ trang lương thiện là tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama.
Một hôm, người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo đi ngang qua nhà người nghèo vốn trước kia là một gia đình phú hộ giàu sang, nay còn lại một bà ngoại và một cháu gái nhỏ.
Thấy người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo, cháu gái muốn có được món nữ trang, nên năn nỉ xin bà ngoại mua cho món nữ trang, nhưng bà ngoại bảo cháu gái rằng:
- Này cháu yêu quý! Gia đình của ta nghèo, không có tiền nhiều để mua nữ trang cho cháu, trong nhà có một chiếc mâm cũ kỹ kia, để bà ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu được hay không.
* Gọi người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo vào nhà, bà đem chiếc mâm cũ kỹ ấy đưa cho người buôn bán nữ trang ấy xem, bà thiết tha trình bày hoàn cảnh nghèo khổ của bà cho y thông cảm, rồi nói cho biết ý muốn của bà.
Sau khi săm soi kỹ với con mắt nhà nghề, người buôn bán đồ nữ trang ấy biết rõ đó là chiếc mâm vàng ròng được chạm những phù điêu, hoa văn rất tinh tế, thật là cổ vật vô giá, nhưng mà hai bà cháu hoàn toàn không hề biết giá trị của nó. Y vốn có tánh tham lam và gian xảo, nên nghĩ rằng:
“Ta sẽ chiếm đoạt chiếc mâm vàng cổ vật này, mà chỉ cần đổi một món nữ trang không đáng giá mà thôi.”
Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném chiếc mâm cũ kỹ xuống đất, nói rằng:
- Này bà cụ! Chiếc mâm cũ kỹ này có đáng giá gì đâu, mà bà đòi đổi một món nữ trang?
Nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi mà thôi!
Nói xong, người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo kia làm bộ bỏ đi nơi khác.
* Ngày hôm sau, thấy người buôn bán đồ nữ trang lương thiện (Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama) đi ngang qua nhà, đứa cháu lại xin bà ngoại mua cho một món đồ nữ trang.
Vì thương đứa cháu mồ côi mẹ cha, nên bà chiều ý cháu, gọi người buôn bán đồ nữ trang ấy vào nhà, lại đem chiếc mâm cũ kỹ ấy, đưa cho người buôn bán đồ nữ trang lương thiện ấy xem.
Lần này, bà kể lể hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn ấy nghe, với hy vọng người lái buôn ấy cảm thông hoàn cảnh khổ của cháu bà, nhận chiếc mâm cũ kỹ ấy, để đổi lấy món nữ trang nhỏ nào cho cháu.
Đức-Bồ-tát buôn bán đồ nữ trang lương thiện cầm chiếc mâm lau chùi lớp bụi sạch sẽ, phát hiện ra chiếc mâm này không chỉ là một chiếc mâm vàng ròng quý báu, mà còn chạm trỗ những phù điêu, hoa văn rất tinh tế, thật công phu, mỹ thuật tuyệt vời là cổ vật vô giá.
Đức-Bồ-tát lái buôn đưa hai tay nâng niu chiếc mâm ấy và từ tốn thưa rằng:
- Kính thưa mẹ, chiếc mâm này không chỉ là bằng vàng ròng quý báu, mà còn là một cổ vật mỹ thuật tuyệt vời vô giá, có giá trị ít nhất trên 100 ngàn đồng kahāpaṇa (tiền Ấn xưa).
- Kính thưa mẹ, tất cả các món nữ trang và số tiền của con mang theo trong người cũng chưa bằng một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy được. Nhưng con sẽ tặng cho bé gái một món đồ nữ trang mà bé gái thích nhất.
Nghe Đức-Bồ-tát lái buôn thưa như vậy, bà già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thành của người lái buôn lương thiện, nên bà bảo rằng:
- Này con! chính tấm lòng chân thật của con còn quý hơn chiếc mâm vàng cổ vật này gấp trăm, gấp ngàn lần.
Hôm trước, một người buôn bán đồ nữ trang như con đến nhà, y đã chê chiếc mâm này chưa đáng 12 xu rưỡi. Khi đi ra, y ném chiếc mâm này xuống đất, còn nói lời hằn học trách móc nữa.
Nếu quả thật, chiếc mâm này là bằng vàng quý báu như con nói thì đó chính là quả phước của con.
Vậy, con hãy lấy chiếc mâm này, rồi cho cháu gái của bà một món nữ trang nào cũng được, để cho nó vui mừng. Con chớ nên ái ngại gì cả.
Tuy nghe bà cụ nói như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát lái buôn xét thấy tất cả đồ nữ trang và số tiền của mình ít quá so với chiếc mâm vàng cổ vật vô giá kia, nên Đức- Bồ-tát lái buôn không dám nhận nó.
Đã nhiều lần từ chối không được, nên Đức-Bồ-tát lái buôn đem trao tất cả đồ nữ trang còn lại và trao trọn cả số tiền của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn (1.000) đồng tiền Ấn xưa cho hai bà cháu, xin nhận lấy chiếc mâm vàng cổ vật vô giá ấy, rồi chỉ xin lại tám (8) đồng để chi phí dọc đường trên đường trở về quê mà thôi.
Sau khi Đức-Bồ-tát buôn bán đồ nữ trang mang chiếc mâm vàng cổ vật đi ra đến bờ sông lên thuyền sang sông. Khi ấy, người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo trở lại nhà tìm bà cụ, y bảo rằng:
- Này bà cụ! Bà hãy đem chiếc mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ cho cháu bà món nữ trang nho nhỏ.
Nhìn thấy y, con người tham lam và gian xảo đáng khinh bỉ, nên bà mắng rằng:
- Này ông kia! Chiếc mâm vàng cổ vật của tôi đáng giá 100 ngàn đồng, thế mà ông dám chê rằng:
“Nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi.”
Tôi đã trao chiếc mâm vàng cổ vật ấy cho người buôn bán đồ nữ trang lương thiện rồi. Người ấy đã trao cho tôi tất cả số nữ trang còn lại và trọn số tiền mà người ấy có, rồi nhận chiếc mâm vàng cổ vật vô giá ấy vừa mới đem đi rồi.
Nghe bà cụ nói như vậy, người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo hối tiếc vì đã làm mất món lợi lớn, nên y gào thét lên rằng:
“Ôi! Ta đã thất bại quá lớn rồi! Tên buôn bán đồ nữ trang kia đã cướp chiếc mâm vàng ròng đáng giá 100 ngàn đồng kahāpaṇa của ta rồi!
Gào thét khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, nên tên buôn bán đồ nữ trang ấy nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh lại, y như người điên nóng nảy xả bỏ y phục, vung vãi các đồ nữ trang xuống đất, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo ra bờ sông, thấy Đức-Bồ-tát buôn bán đồ nữ trang ngồi trên chiếc thuyền qua quá nửa sông, y gào thét lớn rằng:
“Hãy quay thuyền trở lại! Hãy quay thuyền trở lại!”
Tuy nghe tiếng gọi, nhưng Đức-Bồ-tát buôn bán đồ nữ trang bảo người lái thuyền chèo sang bờ bên kia.
Tiền-Kiếp Của Tỳ-Khưu Devadatta Kết Oan Trái Với Đức-Bồ-Tát Tiền-Kiếp Của Đức-Phật Gotama
Nằm trên bờ sông bên này, người buôn bán đồ nữ trang tham lam và gian xảo hối tiếc của, nên quá uất hận, phát sinh cơn nóng cùng cực, làm cho người buôn bán đồ nữ trang ấy máu trào ra miệng, với tâm sân hận thốt ra lời thề kết oan trái với Đức-Bồ-tát buôn bán đồ nữ trang, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, mỗi khi gặp lại nhau, bất cứ kiếp nào trong vòng tử sinh luân-hồi, rồi lăn ra chết ngay tại chỗ bờ sông ấy.
Đó là lần đầu tiên tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta kết oan trái với Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.
Do điều oan trái ấy mà trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta gặp Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, bất cứ ở địa vị nào cũng tìm mọi cách để làm hại Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama.
Đến kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sinh làm Thái-tử Siddhatta của Đức-vua Suddhodana và Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmayādevī thuộc dòng họ Sakya, và hoàng-tử Devadatta cũng sinh trưởng trong dòng họ Sakya.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhatta xuất gia trở thành Đức- Phật Gotama, còn hoàng-tử Devadatta xuất gia trở thành tỳ-khưu, là đệ tử của Đức-Phật Gotama, thế mà, về sau tỳ-khưu Devadatta tìm đủ mọi cách giết hại Đức- Phật Gotama, để trở thành Đức-Phật, nhưng điều ấy không thể thực hiện được, bởi vì đã là Đức-Phật thì không có một ai có khả năng giết hại Đức-Phật được.
Trường-hợp tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta kết oan trái với tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama chỉ có một bên, còn tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama hoàn toàn không kết oan trái với tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta.
(Xong pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc trung)
PHÁP-HẠNH NHẪN-NẠI BA-LA-MẬT BẬC THƯỢNG (KHANTIPARAMATTHAPĀRAMĪ)
Tích Khantivādījātaka (Khăn-tí-wà-đì-chà-tá-ká)
Trong tích Khantivādījātaka(3) này Đức-Bồ-tát tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm vị đạo-sĩ Kuṇḍala, tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng (Khanti paramatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, một vị tỳ- khưu có tính hay nóng giận, vì không có đức nhẫn-nại. Một hôm, Đức-Thế-Tôn truyền bảo vị tỳ-khưu ấy rằng:
- Này tỳ-khưu! Con đã xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo pháp của Như-Lai, Như-Lai là Bậc không nóng giận. Tại sao con thường phát sinh sân-tâm hay nóng giận như vậy?
Này tỳ-khưu! Trong thời quá-khứ, bậc thiện-trí là đạo-sĩ dù bị Đức-vua truyền lệnh cho người đánh đập tàn nhẫn, chặt hai tay, hai chân, cắt hai lỗ tai, cắt lỗ mũi mà vẫn có đức nhẫn-nại chịu đựng không hề phát sinh sân-tâm tức giận Đức-vua và những người hành hạ mình.
TÍCH KHANTIVĀDĪJĀTAKA
Nhân dịp ấy, Đức-Phật thuyết về Khantivādījātaka, tích Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala là tiền-kiếp của Ngài. Tích này được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, Đức-vua Kalābu ngự tại kinh- thành Bārāṇasī, trị vì nước Kāsiraṭṭha. Thời ấy, Đức-Bồ- tát Kuṇḍala tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn giàu sang phú quý có của cải tài sản nhiều đến 800 triệu Kahāpana, đặt tên của Đức-Bồ-tát là Kuṇḍalakumāra (công-tử Kuṇḍala).
Khi trưởng thành, Đức-Bồ-tát công-tử Kuṇḍala được mẹ cha gởi đi học tại kinh-thành Takkasilā. Sau khi học thành tài, Đức-Bồ-tát công-tử trở về nhà giúp đỡ mẹ cha. Đến khi mẹ cha qua đời, Đức-Bồ-tát công-tử Kuṇḍala được thừa hưởng tất cả của cải tài sản ấy.
Một hôm, Đức-Bồ-tát Kuṇḍala suy xét thấy tất cả của cải tài sản lớn lao mà tổ tiên, ông bà, mẹ cha đã tích luỹ trải qua nhiều đời kế tiếp. Đến khi chết, không có ai có thể mang theo được, nên Đức-Bồ-tát Kuṇḍala nghĩ rằng:
“Cuộc đời của ta chắc chắn cũng sẽ là như vậy mà thôi. Vậy, ta nên đem tất cả của cải tài sản lớn lao này ra làm phước-thiện bố-thí đến cho những người nên bố- thí. Như vậy, ta sẽ được phước-thiện bố-thí thuộc về của riêng ta, rồi ta hồi hướng phước-thiện bố-thí ấy đến cho tổ tiên, ông bà, mẹ cha, bà con thân bằng quyến thuộc cùng tất cả chúng-sinh. Khi họ hoan hỷ phần phước- thiện bố-thí này, họ sẽ được thoát khỏi cảnh khổ, được an-lạc lâu dài.”
Suy nghĩ xong, Đức-Bồ-tát Kuṇḍala thực hiện ý định của mình, đem tất cả của cải tài sản làm phước-thiện bố- thí cho những người cần được sự bố-thí.
Sau đó, Đức-Bồ-tát Kuṇḍala bỏ nhà đi vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo-sĩ trú trong rừng núi ấy. Hằng ngày, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala đi vào rừng tìm các thứ trái cây lớn, nhỏ, hoặc các thứ củ, các loại rau rừng để nuôi mạng, thực-hành pháp-hành thiền-định.
Sau một thời gian dài trú trong rừng núi Himavanta, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala rời khỏi khu rừng núi ấy đi đến xóm làng để khất thực. Dần dà Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala đến vườn thượng uyển của Vua Kalābu trú ngụ.
Một buổi sáng, khi đi vào kinh-thành Bārāṇasī để khất thực, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala đứng trước ngôi nhà của vị quan Thừa-tướng của Vua Kalābu. Nhìn thấy tướng mạo oai nghi, đường hoàng, 6 môn được cẩn trọng thanh-tịnh của Ngài, vị Thừa-tướng liền phát sinh đức- tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, cung kính cúng dường những vật thực đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài đạo-sĩ, trong thời gian Ngài còn trú trong vườn thượng uyển này, mỗi ngày chúng con kính thỉnh Ngài đến khất thực tại ngôi nhà của chúng con, để cho chúng con có cơ hội tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường các món vật thực đến Ngài.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala làm thinh nhận lời thỉnh mời ấy. Mỗi ngày, Ngài đi đến khất thực tại ngôi nhà vị quan Thừa-tướng ấy.
Một hôm, Vua Kalābu đang say rượu, ngự đến du lãm vườn thượng uyển cùng với các quan quân theo hộ giá và đoàn vũ nữ ca hát theo sau. Đến vườn thượng uyển, Vua Kalābu nằm trên tảng đá quý, đầu gối lên người của cô mỹ nữ yêu quý, rồi ngủ say. Nhóm vũ nữ ca hát bảo nhau rằng:
- Chúng ta nhảy múa, ca hát để cho Đức-vua xem và nghe. Bây giờ, Đức-vua đã ngủ say rồi, chúng ta ca hát nhảy múa có ích lợi gì đâu!
Nhóm vũ nữ ấy liền ngưng nhảy múa ca hát, dẫn nhau đi dạo chơi xem hoa quả trong vườn thượng uyển. Khi ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala đang trú dưới gốc cây Sālā đang mùa hoa nở. Nhìn thấy Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, nhóm vũ nữ dẫn nhau đến đảnh lễ, kính thỉnh Đức-Bồ- tát đạo-sĩ thuyết pháp cho họ nghe, cho đến khi Đức-vua tỉnh giấc. Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đã thuyết pháp tế độ nhóm vũ nữ ấy.
Khi ấy, Vua Kalābu nằm ngủ gối đầu trên mình cô vũ nữ, cô cựa mình làm cho Đức-vua tỉnh giấc, liền truyền hỏi rằng:
- Nhóm vũ nữ đi đâu cả rồi?
Cô mỹ nữ ấy tâu rằng:
- Tâu Hoàng-thượng, nhóm vũ nữ ấy đi nghe một vị đạo-sĩ thuyết pháp.
Nghe cô mỹ nữ yêu quý tâu như vậy, Vua Kalābu giận dữ, nổi cơn thịnh nộ, cầm thanh gươm báu ngự đến, thì một cô vũ nữ xinh đẹp trong nhóm chạy đến đón rước Đức- vua, rồi xin nhận lấy thanh gươm báu ấy, Vua Kalābu ngự đến nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, truyền hỏi rằng:
- Này tên đạo-sĩ! Ngươi thường thuyết pháp gì?
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala tâu rằng:
- Tâu Đại-vương, bần đạo thường thuyết pháp nhẫn- nại (khantivādī), và thường tán dương ca tụng pháp nhẫn-nại.
- Này tên đạo-sĩ! Pháp nhẫn-nại ấy như thế nào?
- Tâu Đại-vương, pháp nhẫn-nại là pháp không sân, dù người ta chửi mắng mình, hăm doạ mình, đánh đập mình, v.v... mà mình vẫn có đức nhẫn-nại chịu đựng, không hề phát sinh sân-tâm tức giận người ấy.
Vua Kalābu hằn học truyền bảo rằng:
- Lát nữa, ta sẽ thấy pháp nhẫn-nại của ngươi!
Vua Kalābu truyền gọi tên đao phủ chuyên chặt đầu kẻ trộm cướp đến. Tên đao phủ tâu rằng:
- Tâu Đại-vương, kẻ hạ thần phải làm gì?
Vua Kalābu truyền lệnh rằng:
- Này đao phủ! Ngươi hãy xô ngã tên đạo-sĩ ác này nằm xuống đất, rồi lấy chiếc roi gai đánh 2.000 roi ở 4 nơi: đằng trước, đằng sau và hai bên hông cho ta.
Tuân theo lệnh của Vua, tên đao phủ xô ngã Đức-Bồ- tát đạo-sĩ nằm xuống đất, rồi đánh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ 2.000 roi ở 4 nơi. Dù bị đánh làm cho rách da, nát thịt, máu chảy ra khắp toàn thân như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn có đức nhẫn-nại chịu đựng một cách tự nhiên, không hề phát sinh sân-tâm tức giận Đức-vua và tên đao phủ đánh đập mình.
Vua Kalābu truyền hỏi rằng:
- Này tên đạo-sĩ! Ngươi còn có pháp gì nữa không?
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ôn tồn tâu rằng:
- Tâu Đại-vương, bần đạo chỉ có pháp nhẫn-nại mà thôi. Bần đạo thường tán dương ca tụng pháp nhẫn-nại. Pháp nhẫn-nại của bần đạo không phải ở chỗ da thịt, mà ở trong tâm của bần đạo. Đại-vương không thể nào làm hại được đâu!
Vua Kalābu tức giận truyền lệnh rằng:
- Này đao phủ! Ngươi hãy chặt hai cánh tay của tên đạo-sĩ ác này!
Tuân theo lệnh của Vua, tên đao phủ chặt hai cánh tay của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ lìa khỏi thân. Máu từ vết thương 2 cánh tay chảy ra lênh láng trên mặt đất. Dù bị chặt hai cánh tay như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn nằm yên nhẫn-nại chịu đựng, không hề phát sinh sân- tâm tức giận Vua và tên đao phủ ấy
Thấy Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy, Vua Kalābu càng thêm tức giận, truyền lệnh rằng:
- Này đao phủ! Ngươi hãy chặt hai chân của tên đạo-sĩ ác này!
Tuân theo lệnh của Vua, tên đao phủ chặt hai chân của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ lìa khỏi thân. Máu từ vết thương hai chân tuôn ra xối xả trên mặt đất. Dù bị chặt hai chân như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn nằm yên nhẫn-nại chịu đựng đau đớn một cách tự nhiên, không hề phát sinh sân-tâm tức giận Vua và tên đao phủ.
Vua Kalābu truyền hỏi tiếp rằng:
- Này tên đạo-sĩ! Ngươi còn có pháp gì nữa không?
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nhẫn-nại, từ tốn tâu rằng:
- Tâu Đại-vương, bần đạo chỉ có pháp nhẫn-nại mà thôi. Bần đạo thường tán dương ca tụng pháp nhẫn-nại. Pháp nhẫn-nại của bần đạo không ở trong hai cánh tay, hai chân mà ở trong tâm của bần đạo. Đại-vương không thể nào làm hại được đâu!
Nghe Đức-Bồ-tát tâu như vậy, Vua Kalābu càng thêm nổi cơn tức giận truyền lệnh rằng:
- Này đao phủ! Ngươi hãy cắt hai tai, cắt mũi của tên đạo-sĩ ác này cho Trẫm.
Tuân theo lệnh của Vua, tên đao phủ cắt hai tai, cắt mũi của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ. Dù bị cắt hai tai, cắt mũi nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn nằm yên nhẫn-nại chịu đựng đau đớn một cách tự nhiên, không hề phát sinh sân tâm tức giận Vua và tên đao phủ ấy.
Vua Kalābu truyền hỏi tiếp rằng:
- Này tên đạo-sĩ! Ngươi còn có pháp gì nữa không?
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nhẫn-nại chịu đựng, cố gắng từ tốn tâu rằng:
- Tâu Đại-vương, bần đạo cũng chỉ có pháp nhẫn-nại mà thôi. Bần đạo thường tán dương ca tụng pháp nhẫn- nại. Pháp nhẫn-nại của bần đạo không có trong hai lỗ tai, lỗ mũi, mà ở trong tâm của bần đạo. Đại-vương không có thể nào làm hại được đâu!
Vua Kalābu tức giận như điên, truyền lệnh tên đao phủ dựng Đức-Bồ-tát ngồi dậy, chính Vua Kalābu đưa chân đạp mạnh vào ngực của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, làm cho Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ngã ngửa ra sau, rồi Vua Kalābu hậm hực bảo rằng:
- Này tên đạo-sĩ! Ngươi nằm nơi đó mà tán dương ca tụng pháp nhẫn-nại của ngươi!
Vua Kalābu tức giận bỏ đi. Sau khi Vua Kalābu rời khỏi nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đang nằm, vị quan Thừa-tướng đến lấy tấm vải sạch lau sạch máu toàn thân của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, nhặt hai cánh tay, hai chân, hai lỗ tai và lỗ mũi lau sạch sẽ, rồi gói lại bằng tấm vải sạch, đỡ Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ngồi dậy, rồi nâng Ngài đến nằm một nơi đáng tôn kính. Vị Thừa-tướng đảnh lễ Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, rồi tha thiết khẩn khoản rằng:
- Kính bạch Ngài đạo-sĩ cao thượng! Nếu Ngài có tức giận thì xin Ngài chỉ tức giận một mình Vua Kalābu mà thôi, vì Vua là người truyền lệnh đánh Ngài, chặt hai tay, hai chân, cắt hai tai và mũi của Ngài.
- Kính xin Ngài đạo-sĩ có tâm đại bi thương xót đến những người khác, xin Ngài đừng giận, để cho đất nước này tránh khỏi tai họa.
Nghe vị Thừa-tướng tha thiết khẩn khoản như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ráng nhẫn-nại chịu đựng những cơn đau đớn, bình tĩnh, sáng suốt dạy bảo rằng:
- Thưa ân nhân thân mến! Tuy Vua Kalābu đã truyền lệnh đánh bần đạo, chặt hai cánh tay, hai chân, cắt hai tai, cắt mũi của bần đạo, nhưng bần đạo có pháp nhẫn- nại, nên không hề phát sinh sân-tâm tức giận Vua Kalābu và người hành hạ ấy.
Thật ra, bần đạo có pháp nhẫn-nại, nên không hề phát sinh sân-tâm tức giận bất cứ một ai cả.
Xin ân nhân hãy an tâm.
Vua Kalābu Bị Đất Rút
Khi ấy, Vua Kalābu ngự đi một đoạn đường ngắn cách Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, thì mặt đất nứt làm đôi, ngọn lửa phun lên, rút Vua Kalābu vào trong lòng đất.
Sau khi Vua Kalābu băng hà, ác-nghiệp tàn nhẫn đối với Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt trong cõi địa-ngục ấy.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala cũng viên tịch ngay trong ngày hôm ấy, các quan trong triều đình của Vua Kalābu, hoàng tộc, dân chúng trong thành Bārāṇasī đem những vật thơm, hoa đến làm lễ cúng dường thi thể Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, rồi họ tổ chức lễ hoả táng thi thể của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala một cách trọng thể.
Sau khi thuyết về tích Khantivādījātaka xong, Đức- Thế-Tôn thuyết bài kệ rằng:
“Acetanaṃ va koṭṭente, tiṇhapharusunā mamaṃ. Kāsisāje na kuppāmi, esā me khantipārami.”(4)
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Như-Lai tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.
Dù Vua Kalābu nước Kāsi đã truyền lệnh đánh đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Như-Lai,
Chặt hai tay, hai chân, cắt hai tai, cắt mũi của đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Như-Lai,
Bằng mã tấu sắc bén, như chặt vào khúc gỗ vô tâm. Đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Như-Lai không hề phát sinh sân-tâm tức giận Vua Kalābu.
Đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Như-Lai.
Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Khantivādījātaka, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Đức-Thế-Tôn như vậy, vị tỳ-khưu thường hay phát sinh sân-tâm, có tính hay nóng giận ấy chế ngự được sân-tâm, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, cho đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được sân-tâm không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Tích Khantivādījātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
Tích Khantivādījātaka này, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh nhẫn- nại ba-la-mật bậc thượng trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Khantivādījātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại.
- Vua Kalābu nước Kāsi, nay kiếp hiện-tại là tỳ-khưu Devadatta.
- Vị quan Thừa-tướng của Vua Kalābu, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
10 Pháp-Hạnh ba-la-mật
Tóm lược tích Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la- mật bậc thượng, ngoài ra, còn có 9 pháp-hạnh ba-la-mật khác là phụ cũng đồng thời thành tựu như sau:
- Đức-Bồ-tát Kuṇḍala đem tất cả của cải tài sản làm phước-thiện bố-thí, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala giữ gìn giới trong sạch, đó là pháp-hạnh giữ giới ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala từ bỏ nhà cửa đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala có trí-tuệ sáng suốt, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala giữ gìn lời nói chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala nói lời phát nguyện không lay chuyển, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala có tâm-từ, không phát sinh sân-tâm đến tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.
- Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala có tâm-xả đối với tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.
Đó là 9 pháp-hạnh ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng.
Nhận Xét Về Đức-Bồ-Tát Đạo-Sĩ Kuṇḍala
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng (khantiparamatthapāramī).
Pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ, để hỗ trợ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha).
Pháp-hành nhẫn-nại ba-la-mật đó là vô-sân tâm-sở đồng sinh trong đại-thiện-tâm, mỗi khi tiếp xúc những đối tượng bất bình một cách bất ngờ, Đức-Bồ-tát vẫn giữ gìn đại-thiện-tâm trong sáng một cách tự nhiên.
Thật ra, những đối tượng bất bình xảy ra một cách bất ngờ dễ làm cho sân-tâm phát sinh làm khổ tâm.
Đối với chư Đức-Bồ-tát tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba- la-mật với đại-thiện-tâm trong sáng, cho nên dù tiếp xúc những đối-tượng bất bình xảy đến làm cho khổ thân như thế nào, Đức-Bồ-tát vẫn không hề phát sinh sân-tâm trong các đối-tượng ấy, vẫn giữ gìn đại-thiện-tâm trong sáng nhẫn-nại chịu đựng mọi nỗi khổ thân một cách tự nhiên, để thành tựu pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.
Thật ra, pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật là pháp-hạnh khó có cơ hội thực-hành, bởi vì những trường hợp bất bình này xảy đến bất ngờ, nên Đức-Bồ-tát hoàn toàn bị động, cho nên, Đức-Bồ-tát có trí-tuệ sáng suốt suy xét rằng:
“Đây là cơ hội tốt, hiếm có, giúp cho ta tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật, đó là một pháp-hạnh ba-la-mật không thể thiếu được.”
Vì vậy, Đức-Bồ-tát tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la- mật với đại-thiện-tâm trong sáng, không để sân-tâm phát sinh trong các đối tượng bất bình ấy, để cho thành tựu được pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật của mình.
Ngoài pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật ra, còn lại 9 pháp-hạnh ba-la-mật khác như là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật, pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật, pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật, pháp-hạnh tinh- tấn ba-la-mật, pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật, pháp- hạnh phát-nguyện ba-la-mật, pháp-hạnh tâm-từ ba-la- mật, pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật. Trong 9 pháp-hạnh ba- la-mật này, chư Đức-Bồ-tát hoàn toàn chủ động lựa chọn tạo pháp-hạnh ba-la-mật nào thì cố gắng cũng có cơ hội tạo pháp-hạnh ba-la-mật ấy được thành-tựu như ý.
Như trường hợp Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala gặp Vua Kalābu một cách bất ngờ và hoàn toàn bị động. Đức-Bồ- tát đạo-sĩ thường đề cao pháp-hạnh nhẫn-nại, nên khi Vua Kalābu truyền hỏi Đức-Bồ-tát rằng:
- “Này tên đạo-sĩ! Ngươi thường thuyết pháp gì?”
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala tâu rằng:
- “Tâu Đại-vương, bần đạo thường thuyết pháp nhẫn- nại (khantivādī), và thường tán dương ca tụng pháp nhẫn-nại.”
Vua Kalābu vốn đã kết oan trái với Đức-Bồ-tát đạo-sĩ từ kiếp quá-khứ xa xưa. Vì vậy, khi gặp lại nhau trong kiếp hiện-tại này, nên Vua Kalābu trả thù ngay.
Còn đối với Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Kuṇḍala đó là cơ hội tốt hiếm có, để tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc thượng, để mong sớm trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Đối với chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác cần phải tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ, để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, làm nhân-duyên hỗ trợ pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
- Đối với chư Đức-Bồ-tát Độc-giác cần phải tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ và bậc trung để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, để làm nhân- duyên hỗ trợ pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là chư Đức-Phật Độc-Giác.
- Đối với Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ, bậc trung và bậc trung để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng để làm nhân-duyên hỗ trợ pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác.
(Xong pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật bậc thượng)
-oo0oo-
(1) Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Tikanipāta, tích Mahiṃsajātaka.
(2) Bộ Jātakaṭṭhakathā, Pañcakanipāta, Cūḷdhammapālajātakavaṇṇanā.
(3) Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Catukanipāta, tích Khantivādījātaka.
(4) Bộ Khu. Jātakaṭṭhakathā, phần Nidāna, Khu. Cariyāpiṭaka.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.