NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN II
QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY TẠI VIỆT-NAM
Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda tại Việt-Nam do Ngài Đại-Trưởng-lão Hộ-Tông là Vị Sơ Tổ có công lớn cùng với chư Đại-Trưởng-lão khác. Ngài Sơ Tổ đã dịch và ấn hành nhiều sách, nhiều kinh tụng hằng ngày cho sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Trong những bài kệ lễ bái Tam-bảo, có 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và có 3 bài kệ khẳng định không quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.
Những bài kệ này có thể đem sử dụng vào trong trường hợp trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo và sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposatha- sīla, hoặc cửu-giới uposathasīla thì thật là hợp thời.
BA BÀI KỆ SÁM HỐI TAM-BẢO
Trước khi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới (hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, ...) các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo: sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức- Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, để làm cho tâm của mình trở nên trong sạch thanh-tịnh, rồi xin thọ phép quy- y Tam-bảo và ngũ-giới thì thật là hợp thời.
BA BÀI KỆ KHẲNG ĐỊNH QUY-Y TAM-BẢO
Và sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới,... xong rồi, các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, mà chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng trưởng đức- tin càng thêm vững chắc, thì cũng thật là hợp thời.
NGHI THỨC LỄ THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO VÀ NGŨ-GIỚI
Trong các buổi lễ dù nhỏ, dù lớn, dù có một người hoặc nhiều người, trước sự hiện diện chứng minh của Ngài Đại-Trưởng-lão, hoặc Ngài Trưởng-lão, hoặc vị tỳ- khưu, sa-di, hoặc người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật Gotama,
hoặc trước cội Đại-Bồ-đề, hoặc trước ngôi Bảo-tháp, hoặc trước bàn thờ Đức-Phật, ...
Trước tiên, thành kính đảnh lễ Tam-bảo xong, rồi các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc ba bài kệ sám hối Tam-bảo.
BÀI KỆ SÁM HỐI ĐỨC-PHẬT-BẢO
Uttamaṅgena vande’haṃ, (Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ. (Pa-đá-păng-xung vóa-rút-tá-măng)
Buddhe yo khalito doso, (Bút-thê dô khá-lí-tô đô-xô)
Buddho khamatu taṃ mama.(*) (Bút-thô khá-má-tú tăng má-má)
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ, Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo, Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)
BÀI KỆ SÁM HỐI ĐỨC-PHÁP-BẢO
Uttamaṅgena vande’haṃ, (Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ. (Thăm-măn-chá đú-ví-thăng vóa-răng)
Dhamme yo khalito doso, (Thăm-mê dô khá-lí-tô đô-xô)
Dhammo khamatu taṃ mama.(*) (Thăm-mô khá-má-tú tăng má-má)
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ, Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo, Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)
BÀI KỆ SÁM HỐI ĐỨC-TĂNG-BẢO
Uttamaṅgena vande’haṃ, (Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)
Saṃghañca duvidhuttamaṃ. (Xăng-khăng-chá đú-ví-thút-tá-măng)
Saṃghe yo khalito doso, (Xăng-khê dô khá-lí-tô đô-xô)
Saṃgho khamatu taṃ mama.(*) (Xăng-khô khá-má-tú tăng má-má)
Nghĩa:
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ, Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo, Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)
BÀI KỆ CẦU NGUYỆN
Iminā puññakammena, (Í-mí-na pun-nhá-kam-mê-ná)
Sabbe bhayā vinassantu. (Xặp-bê phá-gia wí-nát-xăn-tú)
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, (Níp-ba-năng á-thí-găn-tung hí)
Sabbadukkhā pamuccāmi. (Xặp-bá-đúc-kha pá-múc-cha-mí)
Nghĩa:
Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này, Cầu xin mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
LỢI ÍCH CỦA SỰ SÁM HỐI VÀ CẦU NGUYỆN
Năm điều tai họa (antarāyikadhamma):
1- Kammantarāyika: Tai họa do ác-nghiệp trọng-tội.
2- Kilesantarāyika: Tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định.
3- Vipākantarāyika: Tai họa do quả tái-sinh.
4- Ariyūpavādantarāyika: Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân.
5- Aṇāvitikkamantarāyika: Tai họa do phạm giới.(1)
Trong 5 điều tai họa ấy, có 3 điều: tai họa do ác- nghiệp trọng-tội, tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định và tai họa do quả tái-sinh, cả 3 điều tai họa này xảy ra trong kiếp hiện-tại, vô phương cứu chữa, đành phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy mà thôi.
Riêng 2 điều: tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh- nhân và tai họa do phạm giới, cả 2 điều tai họa này, ngay trong kiếp hiện-tại, có thể cứu chữa bằng cách làm lễ sám hối lỗi lầm của mình.
* Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân: Nếu có những lỗi lầm nào xúc phạm đến Đức-Phật, Đức- Pháp, Đức-Tăng, các bậc Thầy tổ, ông bà, cha mẹ, các bậc Trưởng-lão, các bậc có giới-đức, các bậc ân-nhân, v.v... thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối những lỗi lầm ấy của mình đối với các bậc ấy mà thôi. Sau khi làm lễ sám hối xong, người ấy phải luôn tâm niệm không để tái phạm.
Như vậy, người ấy tránh được mọi tai họa, sẽ thành tựu được sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại lẫn vô lượng kiếp vị-lai.
Vì vậy, lễ sám hối Tam-bảo là điều lợi ích lớn lao.
* Tai họa do phạm giới: Đối với hạng phàm-nhân vốn có phiền-não còn nặng nề, trong cuộc sống hằng ngày khó tránh khỏi điều phạm giới.
Nếu đã phạm giới dù nặng dù nhẹ thì cũng có thể gây ra tai họa trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.
Muốn tránh khỏi những điều tai họa xảy đến cho mình, thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối, rồi xin thọ trì giới trở lại, đó là phương cách duy nhất, để cho giới của mình trở nên trong sạch trở lại.
Lễ sám hối là phương cách chung cả cho sa-di, tỳ- khưu lẫn người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
- Đối với chư tỳ-khưu, trước khi hành tăng-sự như lễ tụng bhikkhupātimokkha “Lễ tụng giới tỳ-khưu hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối tháng, chư tỳ-khưu, mỗi vị đều phải làm lễ sám hối āpatti 2-3 vị lẫn nhau trước, rồi sau đó mới hành-tăng-sự tụng bhikkhu- pātimokkha”. Hoặc mỗi khi vị tỳ-khưu nào biết mình bị phạm giới nào, vị tỳ-khưu ấy nên tìm đến vị tỳ-khưu khác xin làm lễ sám hối giới ấy.
Sau khi đã sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại trong sạch.
- Đối với sa-di nên sám hối và chịu hành phạt xong, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Đối với hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ sám hối Tam-bảo xong, rồi mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla hoặc cửu- giới uposathasīla, ... Đó là điều hợp pháp, để làm tăng thêm đức-tin và lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo.
* Bài kệ cầu nguyện đó là nguyện vọng tha thiết của mình, mong tránh khỏi tai họa và mong sớm chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
* Lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới theo truyền thống của người Myanmar thật rõ ràng:
- Người xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, ... khẩn khoản thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, ...
Như vậy, đây là một nghi thức người xin khẩn khoản và thỉnh cầu Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn phép quy- y Tam-bảo và ngũ-giới, ... Đó là cách nên bắt chước theo.
XIN THỌ TRÌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO VÀ NGŨ-GIỚI
Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:
- Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ (á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há păn-chá-xi-lăng) dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, (thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa xi-lăng đê-thá mê
Bhante. phăn-tê).
- Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, (Đú-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há) pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā (păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa)
sīlaṃ detha me, Bhante. (xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).
- Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, (Tá-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há) pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā (păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa)
sīlaṃ detha me, Bhante. (xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).
Nghĩa:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba.
-oo0oo-
(*) Ba bài kệ này trong quyển “Nhật Hành Cư-sĩ” của Sơ Tổ Hộ-Tông.
(1) Tìm hiểu đầy đủ trong quyển “Tìm hiểu Pháp-hành Thiền-Tuệ” (trang 530).
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.