NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN V
PHƯỚC-THIỆN (PUÑÑA-KUSALA)
Soạn giả:
Tỳ-khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
PHƯỚC-THIỆN CHÁNH-KIẾN (DIṬṬHIJUKAMMA)
Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến
- Định nghĩa Diṭṭhijukamma
“Diṭṭhiyā ujukaraṇaṃ: diṭṭhijukammaṃ.”
Trí-tuệ hiểu biết chính-trực bằng chánh-kiến gọi là diṭṭhijukamma.
Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến đó là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng, tin chắc chắn mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình với tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên gọi là phước-thiện chánh-kiến sở-nghiệp.
Đức-Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp như sau:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.” (1)
Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Như vậy, mỗi người nói riêng, tất cả mọi chúng-sinh nói chung chỉ có thiện-nghiệp và ác-nghiệp là của riêng thật sự của mình mà thôi.
Ngoài nghiệp của mình ra, không có gì trong đời này là của riêng mình thật sự cả, thậm chí ngay sắc thân bên trong này cũng không phải là của riêng mình, bởi vì ta không thể làm chủ theo ý của mình được, huống hồ gì của cải tài sản, sự nghiệp bên ngoài làm sao ta có thể gọi là của riêng mình được? Cũng không thể gọi là của riêng một ai cả.
Thật vậy, nếu người nào khi đại-thiện-nghiệp bố-thí nào có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy thì người ấy được giàu sang phú quý, v.v...cuộc sống đầy đủ sung túc hạnh phúc an-lạc, đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy, thì tất cả của cải tài sản, đất đai, sự nghiệp, v.v... không thể giữ gìn được nữa, bởi vì không phải là của riêng mình.
Người thí-chủ thiện-trí hiểu biết rõ sự thật tất cả tiền của bên ngoài không phải là của riêng mình thật sự như vậy, nên người thí-chủ thiện-trí biết sử dụng tiền của thuộc về quyền sở hữu tạm thời của mình, đem tiền của ra mua sắm những thứ vật dụng cần thiết, đó là y phục, vật thực, thuốc trị bệnh, xây dựng chỗ ở cúng-dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo đại-thiện-nghiệp bố-thí thuộc về của riêng mình thật sự có tính chất bền vững lâu dài, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai đối với thí-chủ.
Còn những của cải tài sản còn lại thuộc về của chung của mình và của mọi người.
Tất cả 4 loài chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới này, đều bị chi phối do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh mà thôi. Ngoài nghiệp và quả của nghiệp ra, mỗi chúng-sinh hoàn toàn không tuỳ thuộc vào quyền năng của một ai cả, cho nên không có định-mệnh an bài hoặc số-mệnh an bài của mỗi chúng-sinh.
Giả sử, nếu mỗi chúng-sinh trong 4 loài dù lớn, dù nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới, có mỗi định-mệnh hoặc mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh, thì thử hỏi ai có khả năng định sẵn, an bài mỗi định-mệnh hoặc mỗi số- mệnh của mỗi chúng-sinh lớn, hoặc nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới này được ???
Như vậy, chắc chắn không có định-mệnh an bài hoặc số-mệnh an bài của mỗi chúng-sinh, mà chỉ có nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh mà thôi.
Cho nên, người thiện-trí có trí-tuệ hiểu biết đúng như vậy gọi là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở- nghiệp hiểu biết đúng, tin tưởng mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, gọi là diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Diṭṭhijukamma = Diṭṭhi + ujukamma,
Diṭṭhi: có nghĩa chánh-kiến (sammādiṭṭhi).
Ujukamma: có nghĩa trí-tuệ hiểu biết đúng chính-trực.
Diṭṭhijukamma: Trí-tuệ hiểu biết chính-trực đúng đắn bằng chánh-kiến đó là kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh- kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình.
Trí-tuệ làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sam-mādiṭṭhi có 3 loại:
1- Sutamayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do nghe, học hỏi chánh-pháp, đọc sách nghiên cứu về chánh-pháp của Đức-Phật làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
2- Cintāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do suy xét đúng đắn, tư duy đúng do nương nhờ nơi trí-tuệ nghe, học hỏi chánh-pháp, đọc sách nghiên cứu về chánh-pháp của Đức-Phật làm nền tảng, để có trí-tuệ suy xét đúng, tư duy sâu sắc về sự hiện hữu của mỗi chúng-sinh khác nhau trong đời đều do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh khác nhau làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
3- Bhāvanāmayapaññā: Trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh do pháp-hành do nương nhờ nơi sutamayapaññā và cintā- mayapaññā làm nền tảng, để hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, cho nên, trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh làm nhân-duyên phát sinh kammassakatā sammādiṭṭhi.
Như vậy, 3 loại trí-tuệ này làm nhân phát sinh
kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp thấy đúng, biết đúng sự thật, tin tưởng mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, nên có 10 điều chánh-kiến gọi là“sammādiṭṭhika dasavatthu” để có diṭṭhijukamma- kusala: phước-thiện chánh-kiến.
Sammādiṭṭhika dasavatthu: 10 điều chánh-kiến:
1- Atthi dinnaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước-thiện bố-thí sẽ có quả tốt, an-lạc.
2- Atthi yiṭṭhaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước-thiện cúng dường sẽ có quả tốt, an-lạc.
3- Atthi hutaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: phước- thiện cúng dường, đón rước, sẽ có quả tốt, an-lạc.
4- Atthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Chánh-kiến biết đúng rằng: đã tạo đại-thiện- nghiệp, ác-nghiệp, rồi có quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp, có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Atthi ayaṃ loko: Chánh-kiến biết đúng rằng: có cõi- giới này, nghĩa là có chúng-sinh tái-sinh đến cõi đời này.
6- Atthi paro loko: Chánh-kiến biết đúng rằng: có cõi-giới khác, nghĩa là chúng-sinh sau khi chết, nghiệp của họ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi khác.
7- Atthi mātā: Chánh-kiến biết đúng rằng: đối xử tốt, đối xử xấu với mẹ sẽ có quả tốt, quả xấu.
8- Atthi pitā: Chánh-kiến biết đúng rằng: đối xử tốt, đối xử xấu với cha sẽ có quả tốt, quả xấu.
9- Atthi sattā opapātikā: Chánh-kiến biết đúng rằng: có các loài chúng-sinh hóa-sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc-giới, chư phạm-thiên cõi vô-sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Atthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā-paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Chánh-kiến biết đúng rằng: trong đời này, có các Sa-môn, Bà-la-môn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần thông.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi- giới này, cõi-giới khác, rồi thuyết giảng là điều có thật.
Mười điều chánh-kiến này là 10 điều trắc nghiệm khảo sát để biết mình có đầy đủ trọn vẹn hay không. Nếu xem xét thấy mình có đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến này thì có thể tự khẳng định mình là người có diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Nếu trường hợp xem xét thấy mình chưa đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến này thì biết mình là người chưa có đủ diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Trong đời này, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, muốn tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến chư tỳ- khưu, nhưng không học hỏi hiểu biết nhiều chánh-pháp của Đức-Phật, nên người ấy tạo được phước-thiện bố-thí ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, bởi vì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy không có sutamayapaññā (trí- tuệ phát sinh do nghe chánh-pháp), cũng không có cintā- mayapaññā (trí-tuệ phát sinh do suy xét đúng đắn về chánh-pháp), bởi vì thiếu diṭṭhijukammakusala: phước- thiện chánh-kiến.
Nếu người nào chưa có đầy đủ 10 điều chánh-kiến (sammādiṭṭhika dasavatthu) thì người ấy nên cố gắng tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo và nên thực-hành pháp-hành Phật-giáo, để hiểu biết rõ chánh-pháp của Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ chánh-pháp, để có được đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến cơ bản này.
Người nào có được đầy đủ 10 điều chánh-kiến thì người ấy có được kammassakatāsammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, nên có diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Người nào có diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến, khi tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ- giới, phước-thiện thực-hành pháp-hành thiền-định, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, v.v... người ấy sẽ được phước- thiện vô lượng, có quả báu vô lượng không sao kể được.
Ví dụ như ươm hạt giống cây Bồ-đề nhỏ, lên thành cây Bồ-đề to lớn.
Nếu người nào không có được đầy đủ 10 điều chánh- kiến này thì người ấy cũng không có kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, nên không có diṭṭhiju- kammakusala: phước-thiện chánh-kiến.
Người nào không có diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến, khi tạo phước-thiện bố-thí, phước- thiện giữ gìn giới của mình, phước-thiện thực-hành pháp-hành thiền-định, hoặc pháp-hành thiền-tuệ, v.v... người ấy sẽ được phước-thiện ít ỏi, có quả báu ít ỏi.
Ví dụ như cây Bồ-đề to lớn có hạt Bồ-đề nhỏ.
Diṭṭhijukamma trong 3 thời-kỳ
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā.
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā.
- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā.
1- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā là tác-ý thiện-tâm trước khi có được diṭṭhijukamma như thế nào?
Người nào biết mình chưa hiểu biết đúng giáo-pháp của Đức-Phật, chưa có đầy đủ 10 điều chánh-kiến, người ấy biết suy nghĩ rằng:
“Ta nên theo học pháp-học Phật-giáo và nên thực- hành pháp-hành Phật-giáo để có được kammassakatā sammādiṭṭhi chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, sẽ có được phước-thiện chánh-kiến thấy đúng chính trực trong giáo-pháp của Đức-Phật.”
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
2- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā là tác-ý thiện-tâm đang khi có được diṭṭhijukamma như thế nào?
Sau khi suy nghĩ như vậy, người ấy quyết tâm tinh- tấn theo học pháp-học Phật-giáo, hiểu biết đúng đắn phần pháp-học Phật-giáo, rồi tiếp theo thực-hành pháp- hành Phật-giáo, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật- tánh của sắc-pháp, danh-pháp, nên có được phước- thiện chánh-kiến biết đúng chính trực trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
3- Diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā là tác-ý thiện-tâm sau khi đã có được diṭṭhijukamma như thế nào?
Sau khi học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp- hành Phật-giáo, có phước-thiện chánh-kiến thấy đúng chính trực trong giáo-pháp của Đức-Phật, người ấy suy nghĩ rằng:
“Trước đây, ta chưa hiểu biết rõ pháp-học Phật-giáo và chưa thực-hành pháp-hành Phật-giáo, nên thấy sai, biết sai giáo-pháp của Đức-Phật. Nay, ta đã học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo nên có được đầy đủ trọn vẹn 10 điều chánh-kiến biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình.”
Đó là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa giảng giải trong bộ Aṭṭhasālinī aṭṭhakathā phần puññakriyā- vatthādikathā rằng:
1- Diṭṭhiṃ ujukaṃ karissāmī’ti cintentopi tesaṃ yeva aṭṭhānaṃ aññatarena cinteti.
Người nào suy nghĩ rằng: Ta sẽ làm cho trí-tuệ phát sinh thấy đúng chính trực theo giáo-pháp của Đức-Phật, người ấy suy nghĩ với đại-thiện-tâm nào trong 8 dục-giới thiện-tâm như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ pubbacetanā.
2- Diṭṭhiṃ ujukaṃ karonto pana catunnaṃ ñāṇa- sampayuttānaṃ aññatarena karoti.
Người nào đang thực-hành để cho trí-tuệ phát sinh thấy đúng chính trực theo giáo-pháp của Đức-Phật, bằng cách theo học pháp-học Phật-giáo và theo thực- hành pháp-hành Phật-giáo, người ấy đang thực-hành như vậy, với đại-thiện-tâm nào trong 4 dục-giới thiện- tâm hợp với trí-tuệ như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ muñcacetanā.
3- Diṭṭhiṃ me ujukā katā’ti paccavekkhanto aṭṭhānaṃ aññatarena paccavekkhati”.
Người nào quán triệt trong phước-thiện chánh-kiến của mình rằng: Ta đã có trí-tuệ thấy đúng chính trực theo pháp-học Phật-giáo và pháp-hành Phật-giáo, người ấy đã quán triệt với đại-thiện-tâm nào trong 8 dục-giới thiện-tâm như vậy, gọi là diṭṭhijukamma trong thời-kỳ aparacetanā.
Chánh-kiến có 5 loại:
1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ.
3- Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ.
4- Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ.
5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán- triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, phiền-não đã diệt tận, phiền-não chưa diệt tận.
Năm loại chánh-kiến này, trong Puññakriyāvatthu điều thứ 10 diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến chỉ đề cập đến kammassakatā sammādiṭṭhi mà thôi.
MICCHĀDIṬṬHI: TÀ-KIẾN
Thật ra, trong phần puññakriyāvatthu không có đề cập đến micchādiṭṭhi: tà-kiến.
Để biết tính chất khác biệt giữa chánh-kiến với tà-kiến, nên trình bày thêm phần micchādiṭṭhi: tà-kiến này. Tà-kiến là gì?
Định nghĩa:
Micchā passatī’ti micchādiṭṭhi.
Trạng-thái thấy sai sự thật gọi là tà-kiến, đó là tà- kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Tà-kiến có nhiều loại, trong kinh Brahmajālasutta có 62 loại tà-kiến và kinh Sāmaññaphalasutta (2) có 3 loại tà-kiến cố-định. Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā có 20 loại tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ.
Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:
1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp thuộc về sắc-pháp.
2 - Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm
3- Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
4- Hành-uẩn chấp-thủ gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
5- Thức-uẩn chấp-thủ gồm có 81 tam-giới-tâm. (Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-uẩn.)
Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā trình bày tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn có 20 loại.
* Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta (ngã).
1-Tà-kiến chấp ngã trong sắc-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Sắc-uẩn là ta.
- Ta có sắc-uẩn.
- Sắc-uẩn trong ta.
- Ta trong sắc-uẩn.
2- Tà-kiến chấp ngã trong thọ-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thọ-uẩn là ta.
- Ta có thọ-uẩn.
- Thọ-uẩn trong ta.
- Ta trong thọ-uẩn.
3- Tà-kiến chấp ngã trong tưởng-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Tưởng-uẩn là ta.
- Ta có tưởng-uẩn.
- Tưởng-uẩn trong ta.
- Ta trong tưởng-uẩn.
4- Tà-kiến chấp ngã trong hành-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Hành-uẩn là ta.
- Ta có hành-uẩn.
- Hành-uẩn trong ta.
- Ta trong hành-uẩn.
5- Tà-kiến chấp ngã trong thức-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
- Thức-uẩn là ta.
- Ta có thức-uẩn.
- Thức-uẩn trong ta.
- Ta trong thức-uẩn.
Đó là 20 loại tà-kiến chấp-ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ đối với tất cả các hàng chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) trong tam-giới.
- Tất cả chúng sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới.
- Tất cả phạm-thiên có ngũ-uẩn trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên).
- Tất cả phạm-thiên có nhất-uẩn là sắc-uẩn trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên.
- Tất cả phạm-thiên có tứ-uẩn là thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta này có ảnh hưởng thế nào đối với mọi chúng-sinh?
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Đối với tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm nhân đều có loại sakkāyadiṭṭhi: tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta, loại tà-kiến này không có ảnh hưởng, không cản trở nào đối với những người tạo mọi phước- thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, v.v..., cũng không cản trở đối với các hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định, không cản trở sự chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, cũng không cản trở chứng đắc 5 phép thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).
Cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta không cản trở dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới; không cản trở sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên; không cản trở vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên.
Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn cản trở pháp-hành thiền-tuệ
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta, ngã này chỉ có cản trở đối với các hành- giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi, bởi vì đối- tượng thiền-tuệ có ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp- thủ, thức-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp rõ ràng đều là pháp- vô-ngã, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh,... nhưng tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, chúng-sinh, v.v... cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ làm cản trở đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
* Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ
1- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Sắc-uẩn chấp-thủ đó là thân gồm có 28 sắc-pháp:
- Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nam gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nữ-tính).
- Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nữ gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nam-tính).
Ví dụ: Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, ...Đúng theo sự-thật của chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm mà thôi.
Thân thuộc về sắc-uẩn (sắc-pháp), nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm mà thôi.
- Nếu khi thân đi hoặc sắc đi thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Ta đi vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có sắc đi mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta đi là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã (ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi thuộc về sắc-uẩn đó là sắc-pháp cho là ta đi.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng- thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 danh-uẩn) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Cũng tương tự như vậy,
- Khi thân đứng hoặc sắc đứng, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đứng cho là ta đứng nữa.
- Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc ngồi cho là ta ngồi nữa.
- Khi thân nằm hoặc sắc nằm, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc nằm cho là ta nằm nữa...
2- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở (vedanācetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng, có 3 loại thọ:
- Dukkhavedanā: thọ khổ là cảm thọ khổ khó chịu trong đối-tượng xấu.
- Sukhavedanā: thọ lạc là cảm thọ lạc dễ chịu trong đối-tượng tốt.
- Adukkhamasukhavedanā: thọ không khổ không lạc là cảm thọ không khổ không lạc trong đối-tượng không xấu không tốt.
Ba loại thọ này là thọ-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi cảm thọ khổ (dukkhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ cho là ta khổ.
- Nếu khi cảm thọ lạc (sukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ lạc cho là ta an-lạc.
- Nếu khi cảm thọ không khổ không lạc (adukkha- masukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ không khổ không lạc cho là ta không khổ không lạc.
Ta khổ, ta an-lạc,... vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có thọ-uẩn cảm thọ mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta khổ, ta an- lạc,... là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta khổ, ta an-lạc,...
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta khổ, ta an-lạc, ...
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
3- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở (saññā- cetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
Tưởng tâm-sở có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối- tượng đó là:
- Rūpasaññā: sắc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng sắc.
- Saddasaññā: tưởng thanh là tưởng nhớ đối-tượng âm-thanh.
- Gandhasaññā: hương tưởng là tưởng nhớ đối-tượng hương.
- Rasasaññā: vị tưởng là tưởng nhớ đối-tượng vị.
- Phoṭṭhabbasaññā: xúc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng xúc.
- Dhammasaññā: pháp tưởng là tưởng nhớ đối-tượng các pháp.
Sáu loại tưởng này là tưởng-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi tưởng nhớ đến đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc tưởng cho là ta tưởng sắc.
Ta tưởng sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có tưởng- uẩn mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tưởng là vì tà- kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta tưởng.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tưởng.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
4- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (cetasika) (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Trong 50 tâm-sở có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) dẫn đầu tạo thiện-nghiệp hoặc tạo ác-nghiệp.
- Nếu khi tạo thiện-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp.
- Nếu khi tạo ác-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo ác-nghiệp.
Ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,... vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma) thì chỉ có hành-uẩn tạo thiện-nghiệp, tạo ác- nghiệp mà thôi.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tạo thiện- nghiệp, ta tạo ác-nghiệp... là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành- uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác- nghiệp, ...
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp, mọi sắc-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,...
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
5- Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?
Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm chia ra 6 loại thức-tâm:
- Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm.
- Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm.
- Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm có 2 tâm.
- Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm có 2 tâm.
- Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm có 2 tâm.
- Manoviññāṇa: ý-thức-tâm có 71 tâm.
Sáu loại tâm này gọi là thức-uẩn thuộc về danh-pháp.
- Nếu khi nhãn-thức-tâm có phận-sự thấy đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm cho là ta thấy sắc.
Ta thấy sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có nhãn- thức-tâm thấy sắc mà thôi, nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn.
Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta thấy sắc là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn cho là ta thấy sắc.
Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.
Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.
Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta thấy sắc.
Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.
Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Cũng tương tự như vậy,
- Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhĩ-thức-tâm cho là ta nghe âm-thanh nữa.
- Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tỷ- thức-tâm cho là ta ngửi mùi hương nữa.
- Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm vị, thì bậc Thánh Nhập- lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thiệt-thức- tâm cho là ta nếm vị nữa.
- Nếu khi thân-thức-tâm xúc-giác cứng mềm,... thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thân-thức-tâm cho là ta xúc-giác cứng mềm nữa.
- Nếu khi ý-thức-tâm biết các pháp, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi ý- thức-tâm cho là ta biết các pháp nữa.
* Niyatamicchādiṭṭhi: tà-kiến cố-định là tà-kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.
Tà-kiến cố-định có 3 loại:
- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.
- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.
- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.
1- Vô-quả tà-kiến như thế nào?
Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc đã tạo thiện-nghiệp rồi đều không có quả khổ của ác- nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau.”
Vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta (3) vị Đạo-sư ngoại-đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng:“không có quả của nghiệp” như sau:
1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước thiện bố thí không có quả tốt, an-lạc.
2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường không có quả tốt, an-lạc.
3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường, đón rước cũng không có quả tốt, an-lạc.
4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi-giới này.
6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.
7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình không có quả tốt, quả xấu.
8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình không có quả tốt, quả xấu.
9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc- giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sam- māpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc- giới, các bậc thiền vô-sắc, chứng đắc các phép thần- thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi- giới này, các cõi-giới khác.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là ác-nghiệp, thiện-nghiệp.
2- Vô-nhân tà-kiến như thế nào?
Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác- nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.
Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện- nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời-kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(4) vị Đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp” như sau:
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng- sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
- Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
- Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.
3- Vô-hành tà-kiến như thế nào?
Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện”.
Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:
Tự mình hành ác, sai khiến người khác hành ác đều không có hành ác như:
- Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.
- Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp, v.v...
- Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố-thí đều không có hành thiện bố-thí.
- Tự mình cúng dường, khuyên dạy người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường, v.v...
Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.
Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.
TÀ-KIẾN - CHÁNH-KIẾN (MICCHĀDIṬṬHI - SAMMĀDIṬṬHI)
Tà-kiến và chánh-kiến phát sinh do nhân nào?
Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy tà-kiến (micchādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên như sau:
“Dveme Bhikkhave, paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro. Ime kho bhikkhve, dve paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya.”
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh tà- kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe tà-pháp từ hạng người có tà-kiến.
2- Ayoniso ca manasikāro: biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh tà-kiến.
Giải Thích
Ayoniso ca manasikāro: biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh- pháp tam-giới như sau:
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng thường (nicca).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng lạc (sukha).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng ngã (attā).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho rằng tịnh (subha).
Ayonisomanasikāra: biết trong tâm với si-tâm biết đảo ngược 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh làm nhân-duyên phát sinh micchādiṭṭhi: tà-kiến, cũng làm nhân-duyên phát sinh vipallāsa: pháp-đảo-điên.
Vipallāsa: pháp-đảo-điên có 3 loại:
1- Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến đảo-điên thấy đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
2- Cittavipallāsa: Tâm đảo-điên biết đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
3- Saññāvipallāsa: Tưởng đảo-điên tưởng đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
Như vậy, pháp-đảo-điên có 3 loại, mà mỗi loại có 4 pháp, cho nên, gồm có 12 pháp-đảo-điên làm nhân- duyên phát sinh tà-kiến.
* Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy chánh-kiến (sammādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên như sau:
“Dveme Bhikkhave, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro. Ime kho bhikkhave, dve paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya.”
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh chánh-kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì? (5)
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe chánh-pháp từ các bậc thiện-trí có chánh-kiến.
2- Yoniso ca manasikāro: Hiểu biết trong tâm với trí- tuệ biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.
- Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh chánh-kiến.
Giải Thích
Yoniso ca manasikāro: Biết trong tâm với trí-tuệ biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam- giới như sau:
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì trí-tuệ biết đúng là vô-thường (anicca).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì trí-tuệ biết đúng là khổ (dukkha).
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì trí-tuệ biết đúng là vô-ngã (anattā)
* Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì trí-tuệ biết đúng là bất-tịnh (asubha).
Yonisomanasikāra: Hiểu biết trong tâm với trí-tuệ biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới đều có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh làm nhân-duyên phát sinh sammādiṭṭhi: chánh-kiến.
Chánh-kiến có 5 loại:
1-Kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến-sở-nghiệp nghĩa là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác- nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là pháp vô-ngã, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh- đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh- quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
5- Paccavekkhaṇāsammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán-triệt nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn đã chứng đắc; quán-triệt phiền-não đã diệt tận và phiền-não chưa diệt tận được.
Thật ra, phước-thiện chánh-kiến trong 10 phước- thiện puññakriyāvatthu thì chỉ có kammassakatā sammā- diṭṭhi: chánh-kiến-sở-nghiệp mà thôi.
-oo0oo-
(1) Aṅg. Pañcakanipāta, Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.
(2) Dī. Sīlakkhandhavagga, Brahmajālasutta và Sāmaññaphalasutta.
(3) Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
(4) Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.
(5) Aṅguttaranikāya, Dukanipātapāḷi, Āsāduppajahavagga.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.