Phước thiện hoan hỷ (Pattānumodanākusala)

Phước thiện hoan hỷ (Pattānumodanākusala)

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN V

    PHƯỚC-THIỆN (PUÑÑA-KUSALA)

    Soạn giả:
    Tỳ-khưu Hộ-Pháp
    (Dhammarakkhita Bhikkhu)
    (Aggamahāpaṇḍita)

     

    PHƯỚC-THIỆN HOAN-HỶ (PATTĀNUMODANĀKUSALA)

    Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ

    - Định nghĩa Pattānumodanā:

    “Pāpiyatī’ti: patti. Pattiṃ anumodanti sādhukāraṃ dadanti etenā’ti: pattānumodanaṃ.”

    Phần phước-thiện của người khác hồi-hướng đến gọi là patti. Những chúng-sinh phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi- hướng đến cho mình bằng cách nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hoan-hỷ gọi là pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng.

    Patti trong danh từ pattānumodanākusala này có nghĩa là phần phước-thiện của người khác hồi-hướng.

    Chúng-sinh phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hoan-hỷ, gọi là pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng đến cho mình.

    Căn cứ theo định nghĩa này:

    * Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ vô cùng hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng được trọn vẹn.

    * Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả không hoan-hỷ nhiều nhận phần phước- thiện của người khác hồi-hướng đến cho mình, dù có nói lên lời hoan-hỷ theo người khác rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng không được trọn vẹn.

    * Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ hợp với trí-tuệ vô cùng hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi- hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng được hoàn toàn trọn vẹn.

    ANUMODANĀKUSALA VỚI PATTĀNUMODANĀKUSALA

    * Anumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ.

    Ví như người nào nhìn thấy người khác đang tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ gìn giới trong sạch, phước-thiện đang thực-hành pháp-hành thiền-định, đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, v.v... hoặc nhìn thấy tên thí-chủ ghi trên vật thí dâng cúng dường đến Tam-bảo, hoặc đọc kinh sách thấy danh sách các thí-chủ tạo phước-thiện pháp-thí, rồi người ấy phát sinh đại- thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ phước-thiện pháp-thí như vậy, gọi là anumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ.

    * Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác chia cho mình.

    Ví như người thí-chủ nào đã tạo được phước-thiện bố- thí, hoặc phước-thiện xây dựng chỗ ở xong, làm lễ dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, rồi người thí-chủ ấy nói lên lời hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho bà con thân quyến đã quá vãng, và nói lời chia phần phước- thiện ấy đến cho những người đến tham dự trong buổi lễ ấy, hoặc sau đó gặp những người bà con thân quyến, bạn hữu, quen biết, v.v...

    Khi nghe người thí-chủ ấy chia phần phước-thiện của họ đến cho mình như vậy, những người nghe phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác-ý tâm- sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của thí-chủ chia cho mình, như vậy, gọi là pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác chia đến mình.

    PHƯỚC-THIỆN HỒI-HƯỚNG (PATTIDĀNA)

    Pattidāna có 2 cách:

    1- Uddissikapattidāna: Hồi-hướng phần phước-thiện đến cho chúng-sinh riêng biệt.

    2- Anuddissikapattidāna: Hồi-hướng phần phước- thiện đến chung cho tất cả chúng-sinh.

    * Hồi-hướng phần phước-thiện đến cho chúng-sinh riêng biệt như thế nào?

    Sau khi đã tạo được phước-thiện nào xong rồi, người thí-chủ hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho bà con thân quyến của họ đã quá vãng thời gian lâu hoặc mau không giới hạn.

    Nếu bà con thân quyến quá vãng nào hay biết có thân nhân tạo phước-thiện, rồi hồi-hướng phần phước-thiện ấy thì xuất hiện đến nơi ấy. Bà con thân quyến quá vãng ấy phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” nhận phần phước-thiện ấy. Ngay tức thì bà con thân quyến quá vãng ấy hưởng được quả báu của phần phước-thiện ấy, thoát khỏi kiếp khổ cực thiếu thốn ấy, được hưởng kiếp sống an-lạc đầy đủ ngay khi ấy.

    Ví dụ: Tích Tirokuḍḍapetavatthu (1) được tóm lược điểm chính như sau:

    Nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra từ thời-kỳ Đức-Phật Phussa xuất hiện trên thế gian cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama của chúng ta trải qua thời gian khoảng cách 92 đại-kiếp trái đất, có 8 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức-Phật Phussa, Đức-Phật Vipassī, Đức-Phật Sikhī, Đức-Phật V essabhū, Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana, Đức-Phật Kasspa, đến Đức-Phật Gotama.

    Những người bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra ấy vốn là những người hộ độ Đức-Phật Phussa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, họ gây gỗ với nhóm người có đức-tin khác, rồi cố ý làm trở ngại công việc bố-thí cúng dường, họ đã tự lấy các đồ ăn của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mà dùng, lại còn đốt cháy nhà bếp, nên họ đã tạo ác-nghiệp trộm cắp của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

    Sau khi nhóm người ấy chết, ác-nghiệp trộm-cắp ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục, từ cõi đại-địa ngục này đến các tiểu-địa-ngục khác, trải qua 92 đại- kiếp trái đất, đến kiếp trái đất Bhaddakappa này.

    Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế- gian, nhóm chúng-sinh ấy mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi tái-sinh làm loài ngạ-quỷ đói khát.

    Một hôm, nhóm ngạ-quỷ này đến hầu Đức-Phật Kassapa, bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhóm ngạ-quỷ chúng con đến khi nào mới có người bà con thân quyến tạo phước- thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng con, để chúng con nhận được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, mới mong thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ cực này, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc? Bạch Ngài.

    Nghe chúng ngạ-quỷ bạch hỏi như vậy, Đức-Phật Kassapa dạy bảo rằng:

    - Này các ngạ-quỷ! Bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy ráng chờ trong thời vị-lai đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

    Thuở ấy, Đức-vua Bimbisāra đã từng là bà con thân quyến của các con trước đây cách 92 đại-kiếp trái đất. Đức-vua Bimbisāra sẽ tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, rồi sẽ hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho các con.

    Nghe lời dạy của Đức-Phật Kassapa, nhóm ngạ-quỷ vô cùng hoan-hỷ trông chờ như sắp nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy nay mai.

    Thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm. Đến khi Đức- Phật Kassapa tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức- Phật cũng hoàn toàn bị tiêu hoại, thì ác-pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện-pháp từ từ suy thoái, cho nên, tuổi thọ của con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống dần cho đến khi tuổi thọ chỉ còn 10 năm.

    Khi ấy, một thảm họa khủng khiếp xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con thân quyến,...

    Một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại lẫn nhau nữa.

    Từ đó, con người bắt đầu biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn. Vì vậy, tuổi thọ con người dần dần càng ngày càng tăng trưởng lên đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm (2).

    Thời-kỳ ấy, con người sống lâu phát sinh tâm dể duôi, ác-pháp bắt đầu phát sinh, do đó, tuổi thọ của con người cũng bắt đầu giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Đức-Phật Gotama của chúng ta xuất hiện trên thế gian.

    Vào thời ấy, Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha, trị vì đất nước Māgadha, Đức-Thế-Tôn ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng. Khi ấy, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, cùng toàn thể dân chúng trong kinh-thành, Đức-Phật thuyết-pháp tế độ Đức-vua Bimbisāra và toàn thể dân chúng. Ngay ngày hôm ấy, Đức-vua Bimbisāra chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu cùng với dân chúng 110.000 người trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Đức-vua Bimbisāra có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, kính thỉnh Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng ngày hôm sau độ vật thực tại cung điện.

    Đức-Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Bimbisāra.

    Sáng ngày hôm sau, Đức-Phật ngự cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến cung điện, Đức-vua Bimbisāra tạo phước-thiện đại-thí cúng dường đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

    Khi ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức- vua Bimbisāra cùng nhau hiện đến cung điện đứng chờ đợi với hy vọng rằng:

    “Bây giờ, Đức-vua Bimbisāra sẽ hồi-hướng phần phước-thiện đại-thí đến cho nhóm ngạ-quỷ chúng ta. Bây giờ, Đức-vua Bimbisāra sẽ hồi-hướng, ...”

    Sau khi làm lễ phước-thiện đại-thí cúng dường vật thực đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng độ xong, Đức-vua Bimbisāra mải lo suy nghĩ xây dựng ngôi chùa nơi nào thuận lợi, làm chỗ ở của Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên không hồi-hướng phần phước thiện đại-thí ấy đến cho một ai cả.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua không nhận được phần phước-thiện đại-thí ấy. Vì vậy, chúng ngạ-quỷ vô cùng thất vọng khổ tâm khôn xiết.

    Ban đêm, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức- vua dẫn nhau hiện đến lâu đài của Đức-vua, kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ.

    Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua, con nghe những âm thanh đáng kinh sợ. Vậy, có chuyện gì xảy đến với con? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

    - Này Đại-vương! Không có gì đáng cho Đại-vương lo sợ. Nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến của Đại- vương trong thời quá khứ, chúng trông đợi Đại-vương từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến nay với hy vọng Đại- vương tạo phước-thiện đại-thí rồi hồi-hướng phần phước-thiện đại-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ riêng biệt.

    Sau khi nhóm ngạ-quỷ ấy hoan-hỷ nhận được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, chúng sẽ được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ cực, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

    Ngày hôm qua, sau khi tạo phước-thiện đại-thí xong, Đại-vương không hồi-hướng phần phước-thiện đại-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ ấy.

    Vì vậy, nhóm ngạ-quỷ vô cùng thất vọng khổ tâm, nên đêm khuya nhóm ngạ-quỷ ấy hiện đến gần lâu đài của Đại-vương kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ như vậy.

    Nghe Đức-Thế-Tôn dạy như vậy, Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nếu ngày mai con tạo phước-thiện đại-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện đại-thí ấy thì nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con có nhận được phần phước-thiện đại-thí ấy hay không? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Đại-vương! Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đại-vương sẽ nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy.

    Lắng nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức- vua Bimbisāra liền bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến cung điện, để con xin tạo phước-thiện đại-thí cúng dường đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, lần này con sẽ hồi-hướng phần phước-thiện đại-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con riêng biệt, để cứu giúp chúng thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ cực ấy, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

    Đức-Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Bimbisāra.

    Đức-vua Bimbisāra thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung ngự trở về cung điện, lo sửa soạn vật thực, để tạo phước-thiện đại-thí vào ngày hôm sau.

    Sáng ngày hôm sau ấy, Đức-Phật ngự cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra, Đức-Phật ngự lên ngồi chỗ cao quý và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngồi chỗ mỗi vị.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến đứng các nơi bên ngoài chờ đợi với hy vọng rằng:

    “Hôm nay, chúng ta chắc chắn sẽ nhận được phần phước-thiện đại-thí hồi-hướng ấy, rồi sẽ hóa thành thức ăn, thức uống, v.v... cho chúng ta.”

    Đức-Phật làm cho tất cả nhóm ngạ-quỷ hiện rõ ra, để cho Đức-vua Bimbisāra nhìn thấy chúng. Mỗi khi, Đức- vua tự tay mình dâng cúng dường món ăn, thức uống nào đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Đức- vua đều hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí rằng:

    “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” phước-thiện bố-thí này, cầu mong cho được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay khi ấy, những ngạ-quỷ bà con thân quyến đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, hóa-sinh làm nhóm chư-thiên có đầy đủ món ăn, thức uống cõi trời, không còn phải chịu cảnh đói khát khổ thân nữa, chúng có nước tắm đầy đủ mát mẻ, có thân hình khỏe mạnh.

    Đức-vua Bimbisāra thành kính dâng cúng dường y và các thứ vật dụng khác đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí rằng:

    “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” phước-thiện bố-thí này, cầu mong cho được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

    Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

    Ngay khi ấy, những ngạ-quỷ bà con thân quyến đều có đầy đủ các bộ y phục đẹp đẽ lạ thường, các đồ trang sức quý giá, các lâu đài sang trọng, chỗ nằm, chỗ ngồi đẹp đẽ, v.v... như cõi trời được phát sinh đến tất cả nhóm bà con thân quyến ấy.

    Do nhờ oai lực của Đức-Phật, nên Đức-vua Bimbisāra tận mắt nhìn thấy tất cả nhóm bà con thân quyến của mình được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, được hóa-sinh làm nhóm chư-thiên hưởng được mọi sự an-lạc như nhóm chư-thiên. Đức-vua phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ.

    Sau khi độ vật thực xong, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp tích Tirokuḍḍapetavatthu này.

    Tích Tirokuḍḍapetavatthu này có 12 bài kệ, trong đó có câu hồi-hướng rằng:

    “Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của các con, cầu mong những bà con thân quyến của các con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

    * Về sau, mỗi khi người thí-chủ nào tạo phước-thiện nào rồi, người thí-chủ ấy đọc câu hồi-hướng phần phước-thiện ấy bằng câu kệ Pāḷi rằng:

    “Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

    Như vậy, thí-chủ hồi hướng phần phước-thiện của mình đến cho chúng-sinh khác gọi là pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình và chúng-sinh khác hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của thí- chủ gọi là pattānumodanakusala: phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác, nên 2 loại phước-thiện này có sự liên quan với nhau giữa người ban cho và người hoan-hỷ nhận.

    Tích Sāriputtattheramātupeta (3)

    Tích Sāriputtattheramātupeta: Ngạ-quỷ thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:

    Tiền-kiếp của nữ ngạ-quỷ này đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trong quá khứ kiếp thứ 5 kể từ kiếp hiện-tại.

    Tiền-kiếp của nữ ngạ-quỷ là vợ của ông Bà-la-môn nhà giàu có nhiều của cải. Ông Bà-la-môn là người có tâm từ, tâm bi đối với mọi người. Hằng ngày, ông tự tay tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường vật thực, y phục, vật dụng cần thiết,... đến các Sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ, người qua đường, v.v...

    Một hôm, ông Bà-la-môn có công việc phải đi khỏi nhà, nên ông dạy bảo người vợ ở nhà thay ông giữ gìn truyền thống gia đình tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường vật thực, y phục, vật dụng cần thiết,... đến các Sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ, những người qua đường, nhưng người vợ ở nhà không làm theo lời dạy bảo của chồng.

    Hễ có người đến nương nhờ thì bà buông lời mắng nhiếc rằng: “Các người hãy ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng,...”.

    Sau khi bà chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh vào loài ngạ-quỷ đói khát, ăn uống những đồ dơ bẩn như ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng,... chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác-nghiệp của mình đã tạo trong tiền-kiếp.

    Nữ ngạ-quỷ nhớ lại được tiền-kiếp của mình đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, nên bà đến nương nhờ Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm bi tế độ, nhưng vị thiên-nam giữ cổng ngăn cản không cho vào, nên nữ ngạ-quỷ thưa với vị thiên-nam rằng:

    - Thưa thiên-nam, tiền-kiếp của tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Xin thiên-nam cho tôi được phép vào đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão.

    Nữ ngạ-quỷ được phép vào đứng khép nép. Nhìn thấy nữ ngạ-quỷ, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có tâm bi bèn hỏi rằng:

    - Này nữ ngạ-quỷ! Ngươi là ai mà thân hình trần truồng, ốm yếu da bọc xương, đứng run rẩy thật đáng thương. Lão tăng tế độ ngươi thế nào?

    Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi, nên nữ ngạ- quỷ bạch rằng:

    - Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, tiền-kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão, do ác-nghiệp của con cho quả tái-sinh làm loài nữ ngạ-quỷ chịu cảnh khổ đói khát, đành phải ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, nước đàm, nước miếng người ta nhổ bỏ, liếm máu mủ của đàn ông, đàn bà, nước vàng từ tử thi chảy ra, sống không có nơi nương tựa trong các nghĩa địa, bãi tha ma.

    - Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão tạo phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho con. Khi con phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ nhận được phần phước-thiện bố-thí hồi-hướng ấy, may ra cứu giúp con thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ sở như thế này.

    Lắng nghe nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền-kiếp thứ 5, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh tâm bi tìm cách cứu giúp nữ ngạ-quỷ thoát khỏi cảnh khổ, nên Ngài Đại-Trưởng-lão đến bàn bạc với Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, Ngài Trưởng lão Anuruddha, Ngài Trưởng-lão Mahākappina cùng nhau cứu giúp nữ ngạ-quỷ.

    Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đi khất thực trong kinh-thành Rājagaha, vào cung điện gặp Đức-vua Bimbisāra. Đức-vua thỉnh mời, yêu cầu Ngài Đại-Trưởng-lão cần những thứ vật dụng nào, để Đức-vua dâng cúng. Nhân dịp ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão báo cho Đức-vua biết chuyện nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, sống trong cảnh đói khát khổ sở không có nơi nương tựa.

    Nghe vậy, Đức-vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư tỳ-khưu-Tăng. Sau khi xây cất xong, sắm sửa đầy đủ 4 thứ vật dụng cần thiết đối với tỳ-khưu.

    Đức-vua Bimbisāra làm lễ dâng 4 cái cốc ấy đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có Đức-Phật chủ trì.

    Một lần nữa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta làm lễ dâng 4 cái cốc có đầy đủ 4 thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu-Tăng từ bốn phương, có Đức-Phật chủ trì, rồi xin hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của mình trong tiền-kiếp.

    Nữ ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ, nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” nhận được phần phước-thiện bố-thí hồi- hướng đặc biệt ấy. Ngay tức thì, nữ ngạ-quỷ thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, hóa-sinh làm vị thiên-nữ xinh đẹp trên cõi trời, có hào quang sáng ngời, có y phục lộng lẫy trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ các thứ của cải quý giá của chư-thiên, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

    Sau đó, vị thiên-nữ hiện xuống cõi người, đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, rồi đứng một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi vị thiên-nữ đã tạo đại-thiện-nghiệp nào mà trở thành vị thiên-nữ có nhiều quả báu đặc biệt như vậy.

    Vị thiên-nữ bạch với Ngài rõ về tiền-kiếp của mình...

    HỒI-HƯỚNG THÀNH TỰU

    Phước-thiện bố-thí mà thí-chủ hồi-hướng đến hàng ngạ-quỷ bà con thân quyến của thí-chủ, hoặc hàng ngạ- quỷ khác được thành tựu cần phải hội đầy đủ 3 điều kiện cần thiết:

    * Thí-chủ có đại-thiện-tâm trong sạch hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí của mình đến cho hàng ngạ-quỷ.

    * Hàng ngạ-quỷ gồm có nhiều nhóm như: 12 nhóm, 4 nhóm, 21 nhóm. Trong tất cả các nhóm ngạ-quỷ ấy, chỉ có nhóm ngạ-quỷ sống gần gũi với loài người, gọi là paradattupajīvikapeta: ngạ-quỷ sống do nhờ người khác cho, mới có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí của thân nhân, hoặc của những người khác hồi-hướng. Còn lại các nhóm ngạ-quỷ khác không có cơ hội nhận phần phước-thiện bố-thí của thân nhân hồi-hướng, bởi vì chúng sống xa loài người.

    * Bậc thọ-thí có đầy đủ các đức cao thượng, như Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chư bậc Thánh A-ra-hán, chư Đại-đức Tỳ-khưu-Tăng có giới-đức trong sạch, thực-hành pháp-hạnh cao thượng.

    Nếu hội đầy đủ 3 điều kiện cần thiết ấy thì thí-chủ hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí đến nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của thí-chủ, hoặc hàng ngạ-quỷ khác ấy mới được thành tựu.

    HỒI-HƯỚNG THÀNH TỰU – KHÔNG THÀNH TỰU

    Trong bài kinh Jāṇussoṇīsutta(4) Đức-Thế-Tôn thuyết dạy ông Bà-la-môn Jāṇussoṇī về cách hồi-hướng phước- thiện bố-thí thành tựu và không thành tựu đến số chúng- sinh, được tóm lược như sau:

    Một thuở nọ, ông Bà-la-môn Jāṇussoṇī đến hầu đảnh lễ vấn an Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, con là Bà-la-môn tạo phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các bà con thân quyến đã quá vãng của con, với hy vọng rằng: “Các bà con thân quyến đã quá vãng ấy nhận được phần phước-thiện bố-thí mà con đã hồi-hướng”.

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, các bà con thân quyến đã quá vãng của con có nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy mà con đã hồi-hướng hay không ? Bạch Ngài.

    Đức Thế Tôn dạy ông Bà-la-môn Jāṇussoṇī rằng:

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng có cơ hội thì nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng, và nếu các bà con thân quyến đã quá vãng không có cơ hội thì không nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng.

    Jā.- Kính bạch Đức-Phật Gotama, nếu các bà con thân quyến đã quá vãng có cơ hội thì nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng như thế nào?

    Và nếu bà con thân quyến đã quá vãng không có cơ hội thì không nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng như thế nào? Bạch Ngài.

    ĐP. - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà- dâm, ác-nghiệp nói-dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác- nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp nói lời vô ích, tham lam của người khác, thù hận, có tà-kiến.

    Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm chúng-sinh trong cõi địa- ngục, sống trong cõi địa ngục.

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về loài chúng-sinh trong cõi địa-ngục thì không có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho chúng (bởi vì, chúng- sinh trong cõi địa ngục không biết, nên không có cơ hội đến nhận phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho chúng).

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác- nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà- dâm, ..., tham lam của người khác, thù hận, có tà-kiến.

    Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh, sống trong loài súc-sinh.

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về loài súc-sinh thì không có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho chúng (bởi vì, loài súc-sinh không biết, nên không có cơ hội đến nhận phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho chúng).

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo đại-thiện-nghiệp tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh-kiến.

    Sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài người, sống trong cõi người.

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về loài người thì không có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho họ (bởi vì, loài người không biết, nên không có cơ hội đến nhận phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho họ).

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo đại-thiện-nghiệp tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm,..., không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh-kiến.

    Sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ, sống trong cõi trời dục-giới.

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời dục-giới thì không có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho họ (bởi vì, vị chư-thiên cõi trời dục-giới không quan tâm, nên không có cơ hội đến nhận phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho họ).

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác- nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm, ... tham lam của người khác, thù hận, có tà-kiến.

    Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm loài ngạ-quỷ, sống trong loài ngạ-quỷ chịu quả khổ đói khát.

    Nếu loài ngạ-quỷ ấy biết có thân quyến hoặc bạn hữu, hoặc những thí-chủ khác tạo phước-thiện bố-thí, rồi hồi- hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho loài ngạ-quỷ thì loài ngạ-quỷ ấy có cơ hội hiện đến phát sinh đại- thiện-tâm nói lên lời hoan-hỷ, nên nhận được phần phước thiện bố-thí mà thí-chủ hồi-hướng đến cho họ, mới thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát ấy, nhờ đại-thiện- nghiệp hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí cho quả tái- sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện- dục-giới ấy tuỳ theo năng lực quả của đại-thiện-nghiệp.

    - Này Bà-la-môn! Nếu các bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về loài ngạ-quỷ ấy thì có cơ hội nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng (bởi vì, loài ngạ-quỷ biết, nên có cơ hội hiện đến nơi ấy, phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ, nhận được phần phước- thiện bố-thí mà thí-chủ đã hồi-hướng đến cho họ).

    Jā. - Kính bạch Đức-Phật Gotama, nếu bà con thân quyến đã quá vãng ấy không thuộc về loài ngạ-quỷ thì ai sẽ hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy?

    ĐP. - Này Bà-la-môn! Có các bà con thân quyến khác đã quá vãng thuộc về loài ngạ-quỷ. Các bà con thân quyến ngạ-quỷ khác ấy có cơ hội đến nhận được phần phước-thiện bố-thí mà thân quyến đã hồi-hướng đến cho họ. Loài ngạ-quỷ khác ấy hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy.

    Jā. - Kính bạch Đức-Phật Gotama, nếu bà con thân quyến đã quá vãng ấy không thuộc về loài ngạ-quỷ và các bà con thân quyến đã quá vãng khác cũng không thuộc về loài ngạ-quỷ, thì ai sẽ hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy.

    ĐP. - Này Bà-la-môn! Các bà con thân quyến đã tử sinh luân-hồi trải qua vô số kiếp ấy, mà không có bà con thân quyến quá vãng nào thuộc về loài ngạ-quỷ, đó là điều không thể có được.

    Và thí-chủ đã tạo phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí của mình, thì chính thí-chủ là người hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy.

    Jā. - Kính bạch Đức-Phật Gotama, Ngài dạy: “Người thí-chủ cũng hưởng được quả báu của phước-thiện bố- thí ấy nữa. Bạch Ngài”.

    ĐP. - Này Bà-la-môn! Như-Lai dạy: “Người thí-chủ hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy nữa”.

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác- nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm, ..., tham lam của người khác, thù hận, có tà-kiến.

    Và người ấy cũng tạo phước-thiện bố-thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu, các Sa-môn, các Bà-la-môn,...

    Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau sinh làm con voi báu được người quyền quý sử dụng, nên con voi báu ấy có vật thực, nước uống đầy đủ, có các đồ trang sức quý giá,...

    - Này Bà-la-môn! Như vậy, trong đời này, người nào tạo ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm,..., tham lam của người khác, thù hận, có tà-kiến.

    Và người ấy cũng tạo phước-thiện bố-thí vật thực,nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu, các Sa-môn, các Bà- la-môn,...

    Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau sinh làm con ngựa báu, con chó tinh khôn,... Con ngựa báu, con chó tinh khôn ấy được người quyền quý nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo.

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện- nghiệp tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh-kiến.

    Và người ấy cũng tạo phước-thiện bố-thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu, các Sa-môn, các Bà-la-môn.

    Sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người. Người ấy là người giàu sang phú quý, có nhiều của cải tài sản, hưởng được mọi sự an-lạc trong cõi người.

    - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện- nghiệp tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh-kiến.

    Và người ấy cũng tạo phước-thiện bố-thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu, các Sa-môn, các Bà-la-môn.

    Sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau hóa-sinh vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng được mọi sự an-lạc vi-tế cho đến khi hết tuổi thọ trên cõi trời dục- giới ấy.

    - Này Bà-la-môn! Vì vậy, Như-lai dạy rằng: Người thí-chủ cũng hưởng được quả-báu của phước-thiện bố- thí ấy nữa.

    Jā. - Kính bạch Đức-Phật Gotama, thật phi thường! chưa từng nghe!

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, người thí-chủ cũng được hưởng được quả báu của phước-thiện bố-thí ấy.

    Như vậy, mọi người nên tạo phước-thiện bố-thí thật sự, nên có đức-tin nơi phước-thiện bố-thí thật sự.

    ĐP. - Này Bà-la-môn! Điều ấy đúng như vậy!

    Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn thuyết dạy như vậy, ông Bà-la-môn Jāṇussoṇī bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, con thật vô cùng hoan-hỷ. Đức-Phật Gotama thuyết-pháp bằng nhiều cách, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng kín, hoặc rọi đèn soi sáng vào chỗ tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ tất cả mọi vật hiện hữu.

    Con đem hết lòng thành kính xin quy-y, nương nhờ nơi Đức-Phật Gotama; xin quy-y, nương nhờ nơi Đức-Pháp- bảo; xin quy-y, nương nhờ nơi chư tỳ-khưu-Tăng-bảo.

    Kính xin Đức-Phật Gotama công nhận con là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn kiếp của con.

    PHƯỚC-THIỆN BỐ-THÍ VÀ PHƯỚC-THIỆN HỒI-HƯỚNG (DĀNAKUSALA VÀ PATTIDĀNAKUSALA)

    Phước-thiện bố-thí (dānakusala), phước-thiện hồi- hướng (pattidānakusala) và phước-thiện hoan-hỷ (pattā- numodanakusala) cả 3 loại phước-thiện này chỉ có thuận lợi nhất đối với con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (cõi người mà chúng ta đang sinh sống) mà thôi, còn đối với các chúng-sinh trong các cõi-giới khác thì khó có cơ hội, thậm chí không có cơ hội thực hiện được theo ý muốn của mình được.

    Thật vậy, nên suy xét các chúng-sinh trong 31 cõi trong tam-giới như sau:

    * Chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên chỉ có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn), nghĩa là chư phạm-thiên chỉ có tâm mà không có thân. Mỗi vị phạm-thiên đều hưởng quả an-lạc của vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên của mình.

    * Chư phạm-thiên trong 15 tầng trời sắc-giới phạm- thiên có đủ ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn), nghĩa là chư phạm-thiên có thân và tâm. Mỗi vị phạm-thiên đều hưởng quả an-lạc của sắc-giới thiện-nghiệp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên của mình.

    * Và chư phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới Vô- tưởng-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn mà thôi, nghĩa là chư phạm-thiên chỉ có thân mà không có tâm. Mỗi vị phạm-thiên đều duy trì sắc thân suốt 500 đại-kiếp trái đất trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên của mình.

    * Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong 6 tầng trời dục-giới có đủ ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn). Mỗi vị thiên-nam, vị thiên-nữ đều hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp trong tầng trời dục-giới của mình.

    * Những chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), đang chịu quả khổ của ác- nghiệp trong cõi ác-giới của mình.

    * Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (cõi người mà chúng ta đang sinh sống), khi thì đại-thiện-nghiệp cho quả an-lạc, khi thì ác-nghiệp cho quả khổ.

    Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có tính chất đặc biệt hơn các chúng-sinh trong các cõi-giới khác như sau:

    - Con người chúng ta có nhiều cơ hội thuận lợi tạo các pháp-hạnh ba-la-mật tuỳ theo ý nguyện của mỗi Đức-Bồ-tát.

    - Nếu Đức-Bồ-tát có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng.

    - Nếu Đức-Bồ-tát có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác, thì Đức-Bồ-tát Độc-Giác cần phải tạo đầy đủ 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.

    - Nếu Đức-Bồ-tát có ý nguyện muốn trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác, thì Đức-Bồ-tát thanh-văn-giác cần phải tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ.

    Cho nên, con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có khả năng trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh thanh-văn-giác tuỳ theo ý nguyện của mỗi Đức-Bồ-tát.

    - Con người này có cơ hội tạo mọi thiện-nghiệp tuỳ theo khả năng của mình, và cũng có cơ hội tạo mọi ác- nghiệp theo khả năng của mình.

    - Con người này có cơ hội tốt tạo mọi phước-thiện rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho những người bà con thân quyến đã quá vãng, hoặc chia phần phước- thiện ấy đến cho những người thân hiện hữu trong đời.

    Ví dụ: Người thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí (dāna- kusala), cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, rồi tạo phước-thiện hồi-hướng (pattidānakusala) phần phước- thiện bố-thí ấy đến cho bà con thân quyến đã quá vãng, nhất là loài ngạ-quỷ, đọc câu hồi-hướng như sau:

    “Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    Phước-thiện bố-thí này, xin hồi-hướng đến tất cả bà con thân quyến của chúng con từ kiếp hiện-tại cho đến vô số kiếp trong quá-khứ, cầu mong quý vị nhận phần phước-thiện bố-thí này, để thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an-lạc lâu dài.

    Nếu bà con thân quyến đã quá vãng thuộc về loài ngạ-quỷ nào hay biết, thì loài ngạ-quỷ ấy xuất hiện đến, phát sinh đại-thiện-tâm nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” gọi là phước-thiện hoan-hỷ (pattānumodanakusala) nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy, thì ngay khi ấy, bà con thân quyến ấy được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ đại-thiện- nghiệp hoan-hỷ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc của đại- thiện-nghiệp ấy trong cõi thiện-giới ấy.

    Đó là điều hạnh phúc an lành biết dường nào!

    Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng có 2 cách:

    1- Uddissikapattidānakusala: Hồi-hướng phần phước-thiện đến cho chúng-sinh riêng biệt:

    Người thí-chủ có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm tạo phước-thiện hồi-hướng đến cho các bà con thân quyến quá vãng riêng biệt như sau:

    Dựa theo bài kệ trong tích Tirokuḍḍapetavatthu, các Ngài Đại-Trưởng-Lão dạy câu kệ hồi-hướng rằng:

    “Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

    “Xin hồi-hướng phần phước-thiện này đến cho những bà con thân quyến của chúng con từ kiếp hiện-tại cho đến vô số kiếp quá-khứ, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con hoan-hỷ nhận phần phước-thiện này, để thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.”

    2- Anuddissikapattidānakusala: Hồi-hướng phần phước-thiện đến chung cho tất cả chúng-sinh:

    Người thí-chủ có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm tạo phước-thiện hồi-hướng chung đến cho tất cả chúng-sinh như sau:

    “Imaṃ puññabhāgaṃ sabbasattānaṃ demi (dema).”

    “Con (chúng con) xin hồi-hướng phần phước-thiện này đến cho tất cả chúng-sinh muôn loài.”

    * Nếu các thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí nào, phước- thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, nhất là phước- thiện nghe chánh-pháp rồi, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tạo phước-thiện hồi-hướng đến riêng cho các bà con thân quyến cùng chung với tất cả chúng- sinh muôn loài, thì nên đọc câu hồi hướng rằng:

    “Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mitta-samūhānañceva sesasabbasattānañca devatānañca ārakkhadevatānañca visesato guṇavantānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.”

    “Chúng con thành tâm hồi-hướng, kính dâng phần phước-thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bà con thân quyến, bạn hữu cả thảy, cùng với tất cả chúng-sinh muôn loài, toàn thể chư-thiên, các vị chư- thiên hộ trì mỗi chúng con, đặc biệt đến các bậc ân nhân. Sau khi quý vị phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này rồi, cầu mong tất cả quý vị đều hưởng được mọi sự an-lạc, được thoát khỏi mọi cảnh khổ trong khắp mọi nơi.”

    Những loài chúng-sinh nào có cơ hội phát sinh đại- thiện-tâm hoan-hỷ nhận được phần phước-thiện mà thân quyến hoặc các thí-chủ khác đã hồi-hướng đến cho tất cả chúng-sinh, gọi là pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện của thí-chủ hồi hướng đến cho họ. Những loài chúng-sinh ấy nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của thí-chủ, đó là những loài chúng-sinh sống gần gũi với loài người như sau:

    - Paradattupajīvikapeta: loài ngạ-quỷ duy trì sinh mạng do nhờ người khác ban đến cho họ.

    - Vemānikapeta: ngạ-quỷ chịu quả khổ nhẹ của ác- nghiệp ban ngày, đến ban đêm hưởng quả an-lạc của đại- thiện-nghiệp của họ.

    - Vinipātika asura: Loài a-su-ra vinipātika như chư thiên ở trên mặt đất gần gũi với loài người.

    - Những người thân sống gần gũi thân cận với thí-chủ hoặc những người cùng nhau tạo phước-thiện ấy.

    Những loài chúng-sinh ấy có cơ hội phát sinh đại- thiện-tâm nói lên lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” nhận được phần phước-thiện ấy.

    Ngay khi ấy, đối với các loài ngạ-quỷ, nhờ đại-thiện- nghiệp hoan-hỷ phần phước-thiện ấy cho quả thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, đồng thời liền tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng được mọi sự an-lạc trong cõi trời dục-giới ấy.

    Còn các loài chúng-sinh khác ở cách xa loài người không hay biết, nên không có cơ hội phát sinh đại-thiện- tâm hoan-hỷ phần phước-thiện ấy.

    QUẢ BÁU CỦA PATTĀNUMODANĀKUSALA

    Tích Vihāravimāna (4) được tóm lược những điểm chính như sau:

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, đại cận-sự-nữ Visākhā (Visākhā mahā-upāsikā) cùng với các bạn và đoàn thuộc hạ đông đảo đều trang điểm lộng lẫy có ý định đi du ngoạn công viên.

    Đại cận-sự-nữ Visākhā trang điểm với đồ trang sức tấm choàng mahālatā cùng với 500 người bạn gái và đoàn thuộc hạ ngồi trên xe đang trên đường đi đến công viên, bà Visākhā nghĩ rằng:

    “Ta đi du ngoạn công viên có lợi ích gì đâu! Vậy, ta nên đi đến ngôi chùa Jetavana, đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi nghe Đức-Phật thuyết- pháp thì hạnh phúc biết dường nào!”

    Sau khi nghĩ như vậy, đại cận-sự-nữ Visākhā dẫn đoàn đi đến gần ngôi chùa, dừng lại một nơi, bà cởi đồ trang sức tấm choàng mahālatā ra, rồi trao cho một tỳ nữ cầm.

    Đại cận-sự-nữ Visākhā đi vào giảng đường đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp tế độ đại cận- sự-nữ Visākhā cùng với 500 bạn gái và đoàn thuộc hạ.

    Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp xong, đại cận-sự-nữ Visākhā đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, xin phép trở về nhà.

    Trên đường đi về, đại cận-sự-nữ Visākhā bảo cô nữ tỳ trao tấm choàng mahālatā lại cho bà, thì cô tỳ nữ thưa với bà rằng:

    - Kính thưa bà chủ, con để quên tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Con xin phép trở lại giảng đường lấy tấm choàng mahālatā cho bà.

    Nghe cô nữ tỳ thưa như vậy, đại cận-sự-nữ Visākhā bảo rằng:

    - Này con! Nếu con đã để quên tấm choàng mahālatā tại giảng đường thì con không nên trở lại lấy nó. Ta sẽ kính dâng tấm choàng mahālatā ấy để bán lấy tiền xây dựng ngôi chùa.

    Đại cận-sự-nữ Visākhā đi trở lại đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con kính dâng tấm choàng mahālatā trị giá 90 triệu 100 ngàn đồng tiền vàng.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, với số tiền ấy, Đức-Thế-Tôn cho phép con xây dựng một ngôi chùa to lớn thích hợp làm chỗ ở của Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

    Nghe đại cận-sự-nữ Visākhā bạch như vậy, Đức-Thế- Tôn chấp thuận bằng cách làm thinh.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, người có khả năng mua nổi tấm choàng mahālatā này không có. Vậy, con xin mua lại tấm choàng mahālatā với giá ấy.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nên xây dựng ngôi chùa tại nơi nào? Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn dạy đại cận-sự-nữ Visākhā rằng:

    - Này Visākhā! Con nên xây dựng một ngôi chùa gần phía Đông cửa thành Sāvatthi.

    Vâng lời dạy của Đức-Thế-Tôn, đại cận-sự-nữ Visākhā mua đất, rồi xây dựng một ngôi chùa to lớn do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trông coi xây dựng ngôi chùa ấy.

    Một ngôi chùa như lâu đài đồ sộ có 2 tầng gồm có 1000 phòng: tầng trên có 500 phòng và tầng dưới cũng có 500 phòng thật là nguy nga như cõi trời.

    Xung quanh ngôi chùa xây cất 1000 cốc nhỏ riêng biệt vắng vẻ, đường đi kinh hành, và đầy đủ mọi tiện nghi khác cho chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

    Công trình xây dựng ngôi chùa ấy suốt 9 tháng mới hoàn thành, làm lễ khánh thành ngôi chùa đặt tên ngôi chùa là Pubbārāma chi phí thêm số tiền 90 triệu đồng vàng nữa.

    Đại cận-sự-nữ Visākhā kính dâng cúng dường ngôi chùa Pubbārāma đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tứ phương có Đức-Phật chủ trì.

    Đại cận-sự-nữ Visākhā và 500 người bạn gái nhìn thấy ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga nên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ. Khi ấy, đại cận-sự- nữ Visākhā nói với các người bạn gái rằng:

    “Imaṃ evarūpaṃ pasādaṃ kārentiyā yaṃ mayā puññaṃ pasutaṃ, taṃ anumodatha, pattidānaṃ vo dammi.”

    - Này các bạn gái thân mến! Tôi đã cho xây dựng ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ như một lâu đài nguy nga thế này, đã kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tứ phương có Đức-Phật chủ trì, nên đã tạo được phước- thiện bố-thí lớn này.

    Tôi xin thành tâm chia phần phước-thiện thanh cao này đến cho quý bạn. Xin quý bạn nên phát sinh đại- thiện tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện bố-thí này.

    Nghe đại cận-sự-nữ Visākhā chia phần phước-thiện bố-thí đến cho mình, nên tất cả những người bạn gái phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Aho sādhu! Aho sādhu!” “Ô lành thay! Ô lành thay!” với đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ.

    Trong nhóm những người bạn gái thân thiết ấy, có một người bạn gái phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan- hỷ đến phần phước-thiện bố-thí của bạn đại cận-sự-nữ Visākhā.

    Về sau, người bạn gái thân thiết của đại cận-sự-nữ Visākhā chết, đại-thiện-nghiệp hoan-hỷ phần phước- thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā cho quả tái-sinh làm vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ cao 16 do-tuần, tỏa ra ánh sáng 100 do-tuần, có hồ nước rộng lớn nhiều hoa sen, hoa súng đủ loại rất xinh đẹp lạ thường.

    Một hôm nọ, Ngài Trưởng-lão Anuruddha bay lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, nhìn thấy vị thiên-nữ bạn thân của đại cận-sự-nữ Visākhā nên hỏi rằng:

    - Này thiên-nữ! Cô có thân hình rất xinh đẹp, hào quang sáng ngời tỏa ra khắp mọi phương hướng, như ngôi sao sáng trên hư không, có các tiếng trời du dương, có hương trời tỏa ra quanh cô.

    - Này thiên-nữ! Tiền-kiếp của cô khi ở cõi người, cô đã tạo đại-thiện-nghiệp như thế nào, mà nay kiếp hiện- tại này là vị thiên-nữ có nhiều oai lực như vậy?

    Nghe Ngài Trưởng-lão Anuruddha hỏi như vậy, vị thiên-nữ hoan-hỷ bạch với Ngài Trưởng-lão rằng:

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, tiền-kiếp của con, khi ở cõi người, con là người bạn thân của đại cận-sự-nữ Visākhā. Đại cận-sự-nữ Visākhā cho xây dựng ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga như lâu đài, làm lễ dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tứ phương có Đức-Phật chủ trì.

    Con nhìn thấy ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga được dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mà con kính trọng, nên con phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ phước-thiện bố-thí cúng dường ấy.

    Khi ấy, đại cận-sự-nữ Visākhā vô cùng hoan-hỷ nói với chúng con, bạn của bà rằng:

    “- Này các bạn gái thân mến! Tôi đã cho xây dựng ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ như một lâu đài nguy nga thế này, đã kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tứ phương có Đức-Phật chủ trì, nên đã tạo được phước- thiện bố-thí lớn này.

    Tôi xin thành tâm chia phần phước-thiện này đến cho quý bạn. Xin quý bạn nên phát sinh đại-thiện-tâm hoan- hỷ nhận phần phước-thiện bố-thí này”.

    Khi ấy, con là một trong nhóm bạn của đại cận-sự-nữ Visākhā, con phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lên lời hoan-hỷ rằng:

    “Aho, sādhu! Aho, sādhu!”“Ô lành thay! Ô lành thay!” với đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ.

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, sau khi tiền-kiếp của con chết, đại-thiện-nghiệp hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nữ trong lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên này. Con có ánh sáng hào quang sáng ngời tỏa ra khắp mọi phương hướng, các thiên-nữ khác hầu hạ đàn ca múa hát. Xung quanh lâu đài có các nhạc trời đường dương, các hương trời tỏa ra thơm tho, có hồ nước lớn với nhiều loại hoa sen, hoa súng xinh đẹp, có khu vườn với nhiều loại cây có quả quanh năm, suốt tháng.

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, tất cả những gì mà con đang hưởng trong kiếp hiện-tại thiên-nữ này, đó là quả báu của phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā, mà trong tiền-kiếp của con đã nói lên lời hoan-hỷ trong lễ dâng cúng dường ngôi chùa Pubbārāma đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tứ phương có Đức-Phật chủ trì.

    Nghe vị thiên-nữ bạch về tiền-kiếp của cô đã phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā, nên kiếp hiện-tại là vị thiên-nữ như vậy.

    Ngài Trưởng-lão Anuruddha hỏi về đại cận-sự-nữ Visākhā sinh cõi trời nào rằng:

    - Này thiên-nữ! Cô có được những quả báu của đại- thiện-nghiệp đáng hài lòng này là nhờ phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā.

    Vậy, xin cô nói cho biết, sau khi đại cận-sự-nữ Visākhā chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi trời dục-giới nào?

    Vị thiên-nữ bạch với Ngài Trưởng-lão Anuruddha rằng

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, sau khi đại cận-sự-nữ Visākhā là bạn thân của con chết, đại-thiện-nghiệp cho quả hóa-sinh làm vị thiên-nữ Visākhā, trở thành Chánh- cung Hoàng-hậu của Đức-vua trời Sunimmita trên cõi trời Nimmānaratī (Hóa-lạc-thiên). Còn các quả báu của đại-thiện-nghiệp của đại cận-sự-nữ Visākhā thì con không thể nào biết được.

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con đã bạch cho Ngài biết, sau khi đại cận-sự-nữ Visākhā chết, đại-thiện- nghiệp cho quả hóa-sinh làm vị thiên-nữ trong cõi trời Nimmānaratī là đúng sự thật vậy.

    Vấn: Vị thiên-nữ cõi trời Tam-thập-tam-thiên biết vị thiên-nữ Visākhā cõi trời Hóa-lạc-thiên bằng cách nào?

    Đáp: Vị thiên-nữ Visākhā từ cõi trời Hóa-lạc-thiên hiện xuống thăm vị thiên-nữ cõi trời Tam-thập-tam-thiên nói cho biết về cõi trời của mình.

    Khi ấy, cô thiên-nữ bạch thỉnh cầu Ngài Trưởng-lão Anuruddha rằng:

    - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, khi Ngài trở lại cõi người, kính xin Ngài khuyên dạy mọi người nên có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, tạo phước-thiện bố-thí đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, bởi vì:

    “Sudullabho laddho manussalābho, ...” Được sinh làm kiếp người là điều khó lắm, ...

    Đã được làm người rồi, thật vô cùng diễm phúc gặp thời-kỳ Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, Đức-Pháp-bảo, và Đức-Tăng-bảo đã xuất hiện trên thế gian. Xin quý vị phát sinh đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, cố gắng tạo mọi phước-thiện bố-thí, cúng dường đến chư Thánh- Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, có 4 bậc Thánh- nhân là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

    Cho nên, những thí-chủ nào tạo phước-thiện bố-thí, cúng dường những thứ vật dụng cần thiết đến chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, dù ít, dù nhiều, chắc chắn những thí- chủ ấy được phước-thiện bố-thí lớn lao vô lượng, có quả báu lớn lao vô lượng, cũng ví như nước biển đại dương không thể biết được số lượng nhiều bao nhiêu.

    Sau khi những thí-chủ ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

    Vị thiên-nữ đã hưởng được mọi quả báu thật đáng hài lòng của phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của đại cận-sự-nữ Visākhā, nên cô nhắn lời khuyên bảo mọi người nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên tạo phước- thiện bố-thí những thứ vật dụng cần thiết đến chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, để có được nhiều phước-thiện vô lượng, có quả báu cũng vô lượng, được hưởng sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt còn làm duyên lành để giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    ĐỨC-VUA TRỜI SAKKA BẠCH HỎI 4 CÂU HỎI

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-vua trời Sakka ngự cùng đoàn chư-thiên đông đảo đến hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn. Đức-Thế-Tôn truyền hỏi Đức-vua trời Sakka rằng:

    - Này Thiên-vương! Do nhân nào mà Thiên-vương ngự đến cùng với đoàn chư-thiên đông đảo như vậy?

    Đức-vua trời Sakka bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, toàn thể chư-thiên hội họp, đàm đạo với nhau có đặt ra 4 câu hỏi mà suốt 12 năm qua không một vị nào có khả năng giải đáp được.

    Đó là nguyên nhân mà con ngự cùng với đoàn chư- thiên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn như thế này.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có 4 câu hỏi:

    1- Trong tất cả các sự bố-thí, bố-thí nào bậc thiện-trí gọi là bố-thí cao thượng nhất?

    2- Trong tất cả các loại vị, thứ vị nào bậc thiện-trí gọi là thứ vị cao thượng nhất?

    3- Trong tất cả các sự hỷ-lạc, hỷ-lạc nào bậc thiện-trí gọi là sự hỷ lạc cao thượng nhất?

    4- Sự diệt tận mọi tham-ái, tại sao bậc thiện-trí gọi là cao thượng nhất?

    Nghe Đức-vua trời Sakka bạch hỏi 4 câu hỏi như vậy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Thiên-vương! Như-Lai đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, đã trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác cốt để giải đáp mọi thắc mắc của tất cả chúng-sinh như Thiên-vương bây giờ.

    Xin Thiên-vương lắng nghe Như-Lai giải đáp:

    1- Trong tất cả các sự bố-thí, thì pháp-thí là sự bố-thí cao thượng nhất.

    2- Trong tất cả loại vị, thì pháp-vị là vị cao thượng nhất.

    3- Trong tất cả các sự hỷ-lạc, thì pháp-hỷ-lạc là cao thượng nhất.

    4- Sự diệt tận mọi tham-ái là cao thượng thật sự, bởi vì trở thành bậc Thánh A-ra-hán giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Đức-Phật thuyết câu kệ Dhammapadagāthā số 354:

    “Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti. Sabbarasaṃ dhammaraso jināti. Sabbaratiṃ dhammaratiṃ jināti. Taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti.”(6)

    Pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự bố-thí. Pháp-vị là cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị. Pháp-hỷ-lạc là cao thượng hơn tất cả mọi sự hỷ-lạc. Sự diệt tận mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán là cao thượng thật sự, vì giải thoát mọi sự khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Giảng Giải:

    * Sabbadāna: tất cả mọi sự bố-thí:

    Sự bố-thí cúng dường những tấm y quý giá, những vật thực ngon lành, những chỗ ở đầy đủ tiện nghi, những thuốc trị bệnh hay, v.v... thuộc về āmisadāna. Sự bố-thí cúng dường các vật thí này đến Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, đến Đức-Phật Độc-Giác, đến chư Thánh Thanh- văn-giác,... những phước-thiện bố-thí đều thuộc về āmisadāna, các vật thí này sẽ cho quả báu có nhiều của cải đầy đủ, giàu sang phú quý trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

    * Dhammadāna: pháp-thí là bố-thí chánh-pháp của Đức-Phật đó là thuyết dạy chánh-pháp, đàm đạo chánh- pháp, sự ấn hành sách học chánh-pháp, phân phát sách dạy chánh-pháp, ... đều gọi là dhammadāna: pháp-thí.

    Chánh-pháp có 10 pháp là:

    - Pháp-học chánh-pháp đó là học Tam-tạng Pāḷi.

    - 9 pháp siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn.

    Dhammadāna: pháp-thí là bố-thí các chánh-pháp của Đức-Phật là nhân phát sinh các loại trí-tuệ như:

    - Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các sắc-pháp, danh-pháp.

    - Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

    - Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

    - Trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Vì vậy, tất cả mọi sự bố-thí thuộc về āmisadāna, các vật thí dù nhiều đến bao nhiêu cũng không thể sánh với dhammadāna: pháp-thí được.

    Thật vậy, thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí thuộc về āmisadāna chỉ có thể giúp cho người thọ-thí bớt khổ trong kiếp hiện-tại, được sự an-lạc có giới hạn mà thôi.

    Còn bậc thiện-trí tạo phước-thiện bố-thí thuộc về dhammadāna dù chỉ một bài kệ gồm có 4 câu, mà người hiểu biết rõ ý nghĩa bài kệ ấy, rồi thực-hành đúng theo chánh-pháp cũng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Thật vậy, như trường hợp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vốn là bậc đại-trí-tuệ, khi Ngài còn là tu-sĩ tên Upatissa đệ-tử của vị Đạo-sư ngoại đạo Sañcaya, tu-sĩ Upatissa không thể tự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    Đến khi tu-sĩ Upatissa nghe Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết dạy bài kệ gồm có 4 câu, mới nghe 2 câu đầu, tu- sĩ Upatissa liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết- bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Cho nên, pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự thí.

    * Sabbarasa: tất cả mọi thứ vị đó là các thứ vị ngon của các món ăn, thức uống của con người, hoặc của chư- thiên trong các cõi trời dục-giới, ...Tất cả mọi thứ vị ngon bổ dưỡng ấy làm nhân-duyên cho chúng-sinh dễ phát sinh tâm tham-ái trong vị (rasataṇhā), say đắm trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    * Dhammarasa: pháp-vị đó là vị của chánh-pháp 37 pháp gọi là bodhipakkhiyadhamma dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, gọi là 9 pháp siêu-tam-giới, diệt tận được mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Đức-Phật dạy rằng:

    “Seyyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇa- raso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso. Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso,... (7)”

    - Này Pahārāda! Như đại dương chỉ có vị duy nhất là vị mặn mà thôi.

    - Này Pahārāda! Cũng như vậy, pháp và luật này của Như-Lai chỉ có vị duy nhất là “vị giải-thoát-khổ” mà thôi. Cho nên, dhammarasa pháp-vị đó là vimuttirasa: vị giải-thoát-khổ là vị cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị.

    * Sabbarati: tất cả mọi thọ hỷ-lạc là thọ hỷ-lạc trong của cải, trong danh vọng, trong con cái thành đạt, trong các trò chơi trong đời. Tất cả mọi thọ hỷ-lạc ấy làm nhân-duyên để cho chúng-sinh dễ phát sinh tâm tham-ái trong thọ hỷ-lạc, say đắm trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    * Dhammarati: pháp-lạc như hành-giả thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ trong phần thọ-lạc niệm-xứ, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có đối-tượng thiền-tuệ là thọ-lạc (sukhavedanā) thuộc về danh-pháp, trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của danh-pháp (thọ-lạc), trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp (thọ lạc) ấy, thấy rõ, biết rõ 3 trạng- thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của danh-pháp (thọ lạc), sắc-pháp ấy dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán hưởng an-lạc tịch tịnh Niết-bàn.

    “Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ.”

    Niết-bàn là pháp an-lạc tuyệt đối, bởi vì hoàn toàn không còn có khổ nữa.

    Đến khi hết tuổi thọ, bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Cho nên, Niết-bàn là pháp an-lạc là cao thượng hơn tất cả mọi sự hỷ-lạc trong đời.

    * Taṇhakkhaya: Diệt tận được tham-ái thì chỉ có 4 Thánh-đạo-tuệ mới có khả năng đặc biệt diệt tận được tham-ái mà thôi. Mỗi bậc Thánh-đạo-tuệ diệt tận được tham-ái theo khả năng mỗi Thánh-đạo-tuệ.

    - Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được tham-ái trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

    Cho nên, bậc Thánh Nhập-lưu ấy vĩnh viễn không còn khổ tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) nữa, mà chỉ còn tái-sinh trong 7 cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa.

    Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được tham-ái loại thô trong cõi dục-giới trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến.

    Cho nên, bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh trong cõi thiện-giới: cõi người hoặc cõi trời dục-giới một kiếp duy nhất nữa mà thôi.

    Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai ấy chắc chắn sẽ diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được tham-ái loại vi-tế trong cõi dục-giới trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến.

    Cho nên, bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại trong cõi dục-giới, mà chỉ còn tái-sinh trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên. Vị phạm-thiên Thánh Bất-lai ấy chắc chắn sẽ diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi tịch diệt Niết- bàn tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới .

    - A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được tham-ái còn lại trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến không còn dư sót.

    Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.

    Taṇhakkhaya: diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót thì chắc chắn là bậc Thánh A-ra-hán.

    Sabbadukkha: tất cả mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới đều không còn nữa, bởi vì bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Cho nên, sự diệt tận được mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán là cao thượng thật sự, vì giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    ĐỨC-VUA TRỜI SAKKA THỈNH CẦU ĐỨC-PHẬT BAN PHƯỚC

    Sau khi Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kệ như vậy, Đức-vua trời Sakka đảnh lễ Đức-Thế-Tôn bạch rằng:

    “Bhante evaṃ jeṭṭhake nāma dhammadāne kimatthaṃ amhākaṃ pattiṃ na dāpetha, ito paṭṭhāya no bhikkhu- saṃghassa kathetvā pattiṃ dāpetha Bhante.” (8)

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, phước-thiện pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi phước-thiện bố-thí khác như vậy. Đức-Thế-Tôn không truyền bảo chư tỳ-khưu- Tăng ban phần phước-thiện pháp-thí cao thượng ấy cho chúng con.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, từ nay về sau, kính xin Ngài truyền bảo chư tỳ-khưu-Tăng ban phần phước- thiện pháp-thí cao thượng ấy cho chúng con. Bạch Ngài.

    Nghe lời thỉnh cầu của Đức-vua trời Sakka như vậy, nên Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư Đại-đức tỳ-khưu rằng:

    “Bhikkhave, Ajjādiṃ katvā mahādhammassavanaṃ vā pākatikadhammassavanaṃ vā upanisinnakathaṃ vā antamaso anumodanampi kathetvā sabbasattānaṃ pattiṃ dadeyyātha.”

    - Này chư tỳ-khưu! Từ nay về sau, các con nghe chánh-pháp nhiều hoặc nghe chánh-pháp thường ngày hoặc ngồi đàm đạo chánh-pháp, dù ít nhất nói lời hoan-hỷ, thì các con cũng nên ban phần phước-thiện pháp-thí cao thượng ấy đến cho tất cả chúng-sinh.

    Như vậy, pattidānakusala, phước-thiện hồi-hướng (biếu, dâng, phân phát) phần phước-thiện của mình đến cho người khác, và pattānumodanakusala, phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác biếu cho (dâng cho, phân phát cho) đến mình có liên quan với nhau.

    * Nếu người thí-chủ nào đã tạo phước-thiện bố-thí (dānakusala), rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho tất cả chúng-sinh, thì người thí-chủ ấy có thêm được phước-thiện hồi-hướng (pattidānakusala).

    * Và nếu chúng-sinh nào phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác đã hồi- hướng đến cho mình, thì chúng-sinh ấy có được phước- thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác (pattānumodanākusala).

    Cho nên, nếu người nào đã tạo phước-thiện nào rồi, nên hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho nhiều chúng-sinh khác, thì người ấy càng làm tăng thêm được nhiều phước-thiện hồi-hướng nữa.

    Cũng ví như người có ngọn đèn đang cháy sáng, rồi cho nhiều người mồi thắp sáng nhiều cây đèn khác, thì ánh sáng đèn của mình không giảm mà còn làm cho ánh sáng lan toả rộng thêm nữa.

    Cũng như vậy, người nào đã tạo phước-thiện nào rồi, người ấy nên hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho tất cả mọi chúng-sinh, thì làm cho phước-thiện ấy của mình càng thêm xán lạn.

    (Xong phần phước-thiện hồi-hướng, phước-thiện hoan-hỷ)

    -oo0oo-

    (1) Bộ Chú-giải Petavatthu, tích Tirokuḍḍapetavatthuvaṇṇanā.
    (2) Asaṅkheyya tính theo số lượng số 1 đứng trước 140 số 0 (số không).
    (3) Bộ Petavatthu, tích Sāriputtattheramātupetavaṇṇanā.
    (4) Bộ Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Jāṇussoṇīsutta.
    (5) Bộ Chú-giải Vimānavatthu, tích Vihāravimānavatthu.
    (6) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Sakkapañhavatthu.
    (7) Bộ Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, Pahārādasutta.
    (8) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Sakkapañhavatthu.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.