Phước thiện và quả báu của Phước Thiện

Phước thiện và quả báu của Phước Thiện

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN V

    PHƯỚC-THIỆN (PUÑÑA-KUSALA)

    Soạn giả:
    Tỳ-khưu Hộ-Pháp
    (Dhammarakkhita Bhikkhu)
    (Aggamahāpaṇḍita)

     

    PHƯỚC-THIỆN VÀ QUẢ BÁU CỦA PHƯỚC-THIỆN

    Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước- thiện puññakriyāvatthu.

    Đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) có 8 tâm:

    1- Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    2- Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    3- Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    4- Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    5- Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    6- Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    7- Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    8- Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    8 đại-thiện-tâm này phân chia theo trí-tuệ có 2 loại: - 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

    - 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.

    Trong 10 phước-thiện này, người thiện tạo mỗi phước- thiện cần phải trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

    1- Pubbacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy (có thời gian lâu hoặc mau không nhất định).

    2- Muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm khi đang tạo phước-thiện ấy (trong thời hiện-tại).

    3- Aparacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy (với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm).

    Mỗi thời-kỳ tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tạo phước-thiện nào có vai trò quan trọng thành-tựu mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:

    NĂNG LỰC MUÑCACETANĀ

    * Thời-kỳ muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện nào được thành- tựu đại-thiện-nghiệp như sau:

    - Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời- kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước- thiện ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.

    - Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời- kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusala- kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

    NĂNG LỰC PUBBACETANĀ VÀ APARACETANĀ

    Tam-nhân đại-thiện-nghiệp và nhị-nhân đại-thiện- nghiệp phân-loại theo năng lực tác-ý trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nên mỗi loại đại- thiện-nghiệp có 2 bậc:

    - Ukkaṭṭhakusala: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

    - Omakakusala: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

    UKKAṬṬHAKUSALAKAMMA: ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP BẬC CAO NHƯ THẾ NÀO?

    Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v...trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước- thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn; và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v... trở thành ukkaṭṭha- kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao, nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc cao là:

    - Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.

    - Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao.

    OMAKAKUSALAKAMMA: ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP BẬC THẤP NHƯ THẾ NÀO?

    Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v...trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm; và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước- thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước- thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v trở thành omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc thấp là:

    - Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

    - Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

    Tuy nhiên, trong 2 thời-kỳ tác-ý (cetanā): thời kỳ: pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, để quyết-định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, thì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi có vai trò quan trọng để quyết-định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp hơn là thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước- thiện ấy, bởi vì chưa thành-tựu phước-thiện ấy.

    Thật vậy, dù cho thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm; nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà- kiến phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy vẫn trở thành ukkaṭṭhakusala- kamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

    Dù cho thời-kỳ pubbacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy trở thành omakakusalakamma: đại- thiện-nghiệp bậc thấp.

    Cho nên, thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm có tầm quan trọng quyết-định đại-thiện- nghiệp ấy trở thành loại ukkaṭṭhakusalakamma: đại- thiện-nghiệp bậc cao hoặc loại omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

    PHÂN LOẠI ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP THEO UKKAṬṬHAKUSALAKAMMA VÀ OMAKAKUSALAKAMMA

    Phân loại tihetukakusalakamma và dvihetukakusala- kamma theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusala- kamma có 4 bậc như sau:

    * Tihetukakusalakamma có 2 bậc:

    1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

    2- Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

    * Dvihetukakusalakamma có 2 bậc:

    1- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

    2- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

    Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi đại-thiện- nghiệp có tầm quan trọng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người hoặc làm vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại của loài người hoặc của chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới.

    TAM-NHÂN ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP BẬC CAO, BẬC THẤP NHỊ-NHÂN ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP BẬC CAO, BẬC THẤP

    Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp và nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp gồm có 4 bậc như sau:

    1-Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện nghiệp bậc cao.

    2- Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

    3- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao.

    4- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp.

    PAṬISANDHIKĀLA VÀ PAVATTIKĀLA

    Đại-thiện-nghiệp có 4 loại là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi bậc đại-thiện-nghiệp có cơ- hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    Đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, có 3 hạng người trong đời này, hoặc hóa-sinh làm vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, cũng có 3 hạng chư-thiên.

    Mỗi hạng người, mỗi hạng thiên-nam, hạng thiên-nữ có khả năng khác nhau do quả của mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:

    1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao

    Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ-hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

    Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, ...

    Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu- rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân(1) (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.

    - Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông (lokiya abhiññā).(2)

    - Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

    Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

    b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại có 16 quả-tâm đó là:

    - Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 quả-tâm và - Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

    Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 tâm

    Hữu-nhân đại-quả-tâm đó là đại-quả-tâm có 8 tâm mà mỗi tâm tương xứng với mỗi tâm trong 8 đại-thiện- tâm như sau:

    1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm: Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:

    1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.

    2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay đáng hài lòng.

    3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.

    4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.

    5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng hài lòng.

    6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

    7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

    8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

    Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam- nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại gồm có 16 quả-tâm là 8 đại- quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới ấy.

    2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp với

    3- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao

    -Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với

    - Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    -Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

    Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,...

    Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu- rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân(3) (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.

    - Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.

    - Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, có 12 quả-tâm đó là:

    - Hữu-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 quả-tâm và

    - Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

    Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại gồm có 12 quả-tâm là 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô- nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng không tốt không xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người nhị-nhân ấy trong cõi người, hoặc của vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân ấy trên cõi trời dục-giới ấy.

    Nhận xét về tihetuka-omakakusalakamma với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma

    Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, không đủ năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên bị tuột xuống tương đương với dvihetuka- ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) là đại- quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau làm người thuộc về hạng người dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân từ khi tái-sinh đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị- nhân trên cõi trời dục-giới.

    4- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp

    Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    a- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

    Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,...

    Sau khi người thiện ấy chết, nếu nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái- sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (4) (sugati ahetuka-puggala) là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, ... từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền,... chỉ biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

    Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân trong nhóm bhummaṭṭhadevatā: chư- thiên ở trên mặt đất thuộc về cõi trời tứ Đại-Thiên-vương.

    b- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc với các đối-tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

    Tuy nhiên, nếu đứa trẻ ấy bị đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, do ác-nghiệp nào cho quả thì không thể gọi là người vô-nhân cõi thiện-giới được, bởi vì, đứa trẻ ấy có thể có năng khiếu đặc biệt.

    Nhận xét về 3 hạng người trong đời

    Trong đời này có 3 hạng người là người tam-nhân (tihetukapuggala), người nhị-nhân (dvihetukapuggala), người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trong kiếp hiện-tại đều là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu, (hoặc tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý) trong kiếp quá-khứ của mỗi chúng-sinh.

    1- * Tihetukapuggala: Hạng người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người tam-nhân từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, hạng người tam- nhân vốn dĩ có trí-tuệ:

    - Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc- giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép thần-thông thế gian (lokiya abhiññā).

    - Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành- thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

    Tiền-kiếp của người tam-nhân

    Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã tạo đại-thiện- nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người tam-nhân như vậy?

    * Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy là người có giới của mình trong sạch trọn vẹn, đã từng tạo 10 đại-thiện- nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:

    1- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).

    2- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa, khi đang tạo phước- thiện ấy (thời gian trong lúc hiện-tại) có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ có đủ 3 thiện-nhân: vô- tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.

    3- Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại- thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, không làm cho đại- thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.

    * Sau khi tiền-kiếp của người tam-nhân ấy chết, tam- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức- tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.

    * Ví dụ: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã từng tạo 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng suốt thời gian 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất đã được đầy đủ trọn vẹn.

    * Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu cuti: chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên), sau khi chết, tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng mẫu-hậu Mahāmayādevī, Chánh-cung-hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana, vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch).

    Tròn đủ 10 tháng sau, đúng vào ngày rằm tháng 4, Đức-Bồ-tát Siddhattha đản-sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc về nước Nepal).

    Đức-Bồ-tát Siddhattha có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, đó là quả báu của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Siddhattha.

    - Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama vào ngày rằm tháng 4, tròn đúng 35 tuổi, tại cội cây Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā. (nay gọi là Buddhagayā, India).

    - Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm. Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn vào ngày rằm tháng 4, tròn đúng 80 tuổi, tại khu rừng Kusinārā nước Ấn-Độ (India).

    * Kiếp chót của chư Bồ-tát Độc-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), để trở thành Đức-Phật Độc-Giác, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn.

    * Chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành các bậc Thánh Thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi tuần tự sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Kiếp hiện-tại của người tam-nhân phàm-nhân

    * Sau khi người tam-nhân còn là phàm-nhân chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?

    Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) đã tạo nghiệp nào rồi, sau khi người tam-nhân ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau như sau:

    - Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào là hành- giả phàm-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, nếu có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chắc chắn chỉ có thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện- tâm nào cao nhất mới có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền quả-tâm cao nhất ấy đó là đệ tứ thiền vô-sắc-giới quả- tâm gọi là phi-tưởng phi-phi-tưởng xứ thiền quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Phi-tưởng phi-phi- tưởng xứ thiên tột đỉnh, chư phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới tột đỉnh này có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất lâu dài nhất trong tam-giới.

    Còn lại thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm và 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn có cơ hội cho quả được nữa.

    - Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân nếu tạo tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, sau khi người tam-nhân ấy chết, tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân trong cõi người, hoặc hóa- sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam- nhân trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy cho đến khi hết tuổi thọ.

    - Trong kiếp hiện-tại, người tam-nhân nào còn là phàm-nhân nếu tạo nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, sau khi người tam-nhân ấy chết, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy cho đến khi hết tuổi thọ.

    * Trong kiếp hiện-tại, nếu người tam-nhân nào còn là phàm-nhân thất-niệm (dể-duôi) không biết hổ-thẹn tội- lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới nào, tạo ác- nghiệp điều-giới ấy, sau khi người tam-nhân ấy chết, thì ác-nghiệp ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.

    Ví dụ: * Trường-hợp tỳ-khưu Devadatta vốn là người tam-nhân đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, nhưng về sau tỳ-khưu Deva- datta dể duôi, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội đó là ác- nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.

    Sau khi tỳ-khưu Devadatta chết, chính ác-nghiệp vô- gián trọng-tội chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi địa-ngục Avīci, bị hành hạ thiêu đốt suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.

    Đức-Phật Gotama thọ ký rằng:

    “Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta thoát ra khỏi cõi địa-ngục, có tam-nhân đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, khi sinh ra đời, lúc trưởng thành đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara (5).

    * Trường-hợp Đức-vua Ajātasattu vốn là hạng người tam-nhân dể duôi, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức-phụ-vương Bimbisāra.

    Về sau, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, Đức-Phật thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ Đức-vua Ajātasattu, sau khi nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, Đức-vua Ajātasattu kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Khi ấy, Đức-vua Ajātasattu thành tâm sám hối về tội lỗi giết Đức Phụ-vương của mình, kính xin Đức- Phật chứng minh.

    Đức-Phật truyền dạy: Nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương, thì sau khi nghe bài kinh Sāmaññaphalasutta xong, Đức- vua có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, nhưng Đức-vua Ajātasattu đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương, ác-nghiệp trọng-tội ấy ngăn cản, nên không thể trở thành bậc Thánh nhập-lưu được.

    Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự Tam-bảo.

    Thật vậy, sau khi Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết- bàn, khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất gồm có 500 vị Thánh A-ra- hán tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha.

    Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

    Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam phàm-nhân có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, phụng sự Tam- bảo cho đến trọn đời.

    Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác- nghiệp vô-gián trọng-tội (giết Đức Phụ-vương) cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ có đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo và các đại- thiện-nghiệp khác nhất là đại-thiện-nghiệp hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, có Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì, nhờ các đại-thiện-nghiệp ấy có khả năng làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi), chịu khổ trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi ấy suốt 60.000 năm.

    Đức-Phật đã từng thọ ký được tóm lược như sau:

    Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác-nghiệp vô- gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi) từ miệng chìm xuống đến đáy nồi khoảng thời gian suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi khoảng thời gian suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác- nghiệp vô-gián trọng-tội ấy.

    Do nhờ tam-nhân đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người. Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vịjitāvi (6).

    2- * Dvihetukapuggala: Hạng người nhị-nhân là người chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân mà thôi, không có vô-si, từ khi tái-sinh đầu thai làm người.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, hạng người nhị- nhân vốn dĩ không có trí-tuệ.

    - Nếu hạng người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì người ấy không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả.

    - Nếu hạng người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người ấy cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    Tiền-kiếp của người nhị-nhân

    * Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy đã tạo đại-thiện- nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người nhị-nhân như vậy?

    * Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy là người có giới của mình trong sạch trọn vẹn, đã từng tạo 10 đại-thiện- nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:

    1- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).

    2- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa, khi đang tạo phước-thiện ấy không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ, chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô- sân, không có vô-si (trí-tuệ), phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

    3- Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại- thiện-tâm phát sinh vô cùng hoan-hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, không làm cho đại- thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.

    * Sau khi tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy chết, nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāya- rūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị- nhân(7)(dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.

    - Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- định, thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào.

    - Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    Kiếp hiện-tại của người nhị-nhân

    * Sau khi người nhị-nhân chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?

    * Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào có khả năng tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước- thiện hành-thiền, thực-hành pháp-hành thiền-định mà không thể chứng đắc bậc thiền nào, tạo tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân trong cõi người, hưởng quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi người.

    * Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào có khả năng tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước- thiện hành-thiền, thực-hành pháp-hành thiền-định mà không thể chứng đắc bậc thiền nào, tạo được nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện- tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân trong cõi người, hưởng quả an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi người.

    * Kiếp hiện-tại, nếu người nhị-nhân nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới, đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, thì sau khi người nhị-nhân ấy chết, nếu ác-nghiệp trong ác-tâm ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

    3- * Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người khi tái-sinh kiếp sau với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp, thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người đui mù, câm điếc, tật nguyền,... từ khi đầu thai làm người trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, hạng người vô-nhân cõi thiện-giới ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, ngu-muội, si-mê, ... biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

    Tiền-kiếp-của người vô-nhân cõi thiện-giới

    Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp hiện-tại này trở thành người vô-nhân cõi thiện-giới như vậy?

    * Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy là người có giới, đã từng tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc tạo phước-thiện nào trong 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý như sau:

    1- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy (thời gian lâu hoặc mau không nhất định).

    2- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ khi đang tạo phước-thiện ấy (thời gian trong lúc hiện-tại) không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành dvihetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

    3- Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước- thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nếu khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm phát sinh ít năng lực, và có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp.

    * Sau khi tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadaya- vatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người vô-nhân cõi thiện-giới (8)(sugati ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, tật nguyền, ... từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

    Khi sinh ra đời đến lúc trưởng thành, người vô-nhân cõi thiện-giới ấy là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, ... si-mê biết bình thường trong cuộc sống hằng ngày.

    * Tuy nhiên, thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) tái-sinh tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, nếu thai-nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền gì do ác-nghiệp nào cho quả trong thời- kỳ sau khi đã tái-sinh thì không thể gọi người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới, bởi vì có những đứa bé có năng khiếu đặc biệt.

    Kiếp hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới

    * Sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau như thế nào?

    Mặc dù kiếp hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới không tạo đại-thiện-nghiệp đặc biệt nào hoặc ác-nghiệp đặc biệt nào, nhưng vô số kiếp quá-khứ đã từng tạo những đại-thiện-nghiệp và những ác-nghiệp được lưu- trữ ở trong tâm của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy.

    Cho nên, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có quả-tâm của nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau như sau:

    * Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ trong kiếp quá-khứ của người vô- nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam- nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.

    * Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện- tâm không hợp với trí-tuệ trong kiếp quá-khứ của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị- nhân (dvihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên- nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục- giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.

    - Trong kiếp hiện-tại, sau khi người vô-nhân cõi thiện-giới chết, nếu có ác-nghiệp trong ác-tâm trong kiếp quá-khứ của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

    Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ nói chung, mỗi người nói riêng đều tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình đã tạo từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ từ kiếp này sang kiếp kia, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, cho đến kiếp hiện-tại này, tất cả mọi đại-thiện-nghiệp mọi ác-nghiệp dù nặng, dù nhẹ cũng đều được lưu-trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm, không hề bị mất mát một mảy may nào cả.

    Nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội thì đại-thiện- nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái- sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    Nếu ác-nghiệp nào có cơ hội thì ác-nghiệp ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    -oo0oo-

    (1) Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm đủ 3 thiện-nhân.
    (2) Xem bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX Pháp-Hành Thiền-Định; và quyển X Pháp-Hành Thiền-Tuệ.
    (3) Người nhị-nhân có tái-sinh-tâm chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô- sân (không có vô-si).
    (4) Người vô-nhân là người có tái-sinh-tâm không có thiện-nhân nào.
    (5) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Devadattavatthu.
    (6) Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, đoạn cuối Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
    (7) Người nhị-nhân là người có tái-sinh-tâm có 2 thiện-nhân.
    (8) Người vô-nhân cõi thiện-giới là người có tái-sinh-tâm không có thiện-nhân.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.