VI DIỆU PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
Soạn-giả Tỳ-khưu Hộ-Pháp Dhammarakkhita Bhikkhu (Aggamahāpaṇḍita)
QUẢ CỦA ÁC-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP
Tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng còn là các hạng phàm-nhân và 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai (trừ bậc Thánh A- ra-hán) đã từng tạo mọi ác-nghiệp nào, mọi đại- thiện-nghiệp nào từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này, tất cả mọi ác- nghiệp ấy, mọi đại-thiện-nghiệp ấy dù nặng, dù nhẹ cũng đều được lưu-trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục, từ kiếp này sang kiếp kia, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài của mỗi chúng-sinh nói chung, của mỗi người nói riêng, không hề bị mất mát một mảy may nào cả, dù cho thân bị thay đổi mỗi kiếp do nghiệp và quả của nghiệp, còn tâm vẫn có phận sự giữ gìn, lưu trữ tất cả mọi ác-nghiệp ấy, mọi đại-thiện-nghiệp ấy của mỗi chúng-sinh nói chung, của mỗi người nói riêng.
Đức-Phật dạy rằng:
“Kammassako’mhi kammadāyādo, ...”
Ta có ác-nghiệp, thiện-nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả khổ của ác-nghiệp, quả an-lạc của thiện-nghiệp của ta.
Dĩ nhiên, chính ta là người thừa hưởng quả khổ của ác-nghiệp, thừa hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của ta một cách hoàn toàn bị động, không thể lựa chọn theo ý của mình được.
Trong cuộc sống hiện-tại, nếu ác-nghiệp nào của ta gặp nghịch-duyên (vipatti) thì ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ, ta phải chịu lãnh quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, ta mới thoát ra khỏi được, đó không phải là số-mệnh hoặc định-mệnh do ai an bài cả, sự-thật hiển nhiên đó chỉ là do ác-nghiệp của ta có cơ hội cho quả xấu, quả khổ mà thôi.
Nếu đại-thiện-nghiệp nào của ta gặp thuận- duyên (sampatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc, ta hưởng được quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, ta mới không còn hưởng quả an-lạc nữa, đó không phải là số-mệnh hoặc định-mệnh do ai an bài cả, sự- thật hiển nhiên đó chỉ là do đại-thiện-nghiệp của ta có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc mà thôi.
Tuy nhiên, quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp của ta, và quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp của ta không chỉ trực-tiếp riêng đối với ta, mà quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy và quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người thân và không thân khác gần gũi, thân cận với ta nữa.
Thật vậy, xin trích dẫn 2 tích để chứng minh như sau:
QUẢ KHỔ CỦA ÁC-NGHIỆP ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHỮNG NGƯỜI THÂN CẬN
Ngài Trưởng-lão Losakatissa trong tích Losakajātaka(1) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa là vị tỳ-khưu trụ-trì tại ngôi chùa làng. Vị tỳ-khưu còn là phàm-nhân có giới, thường thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Thí-chủ xây dựng ngôi chùa làng, rồi thỉnh vị tỳ-khưu về làm trụ-trì, xin hộ độ các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu trong chùa.
Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ-trì đi khất thực đến ngôi nhà thí-chủ, rồi độ vật thực xong, mới trở về chùa.
Một hôm, một vị khách Tăng là bậc Thánh A- ra-hán từ phương xa đến đứng khất thực trước nhà thí-chủ.
Khi nhìn thấy Ngài khách Tăng, thí-chủ liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng, ông ra tận nơi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão vào nhà, thỉnh Ngài Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng cúng dường vật thực đến Ngài khách Tăng.
Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, người thí- chủ kính thỉnh Ngài thuyết-pháp, sau khi lắng nghe chánh-pháp, thí-chủ phát sinh đức-tin vô cùng hoan-hỷ, kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khách Tăng đến nghỉ lại tại ngôi chùa.
Vị tỳ-khưu trụ-trì theo dõi thấy người thí-chủ lần đầu tiên gặp Ngài khách Tăng này, cung- kính đón tiếp niềm nở, khiến cho vị tỳ-khưu trụ- trì nghĩ rằng:
“Ta là vị trụ-trì ở tại ngôi chùa nhiều năm, mà ông thí-chủ không đối xử với ta một cách niềm nở như Ngài khách Tăng này”.
Vì vậy, vị tỳ-khưu trụ-trì dẫn Ngài khách Tăng về chùa, tiếp đón một cách lạnh nhạt, vị tỳ-khưu trụ-trì chỉ phòng nghỉ cho Ngài Trưởng-lão.
Ngài Trưởng-lão khách Tăng làm vệ sinh căn phòng xong, rồi Ngài ngồi nhập quả-định (phala- samāpatti) làm cho thân tâm được an-lạc.
Vào buổi chiều, người thí-chủ đi với những người nhà đem hoa, các thứ thuốc trị bệnh đến chùa, người thí-chủ vào đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ-trì, cúng dường đến vị tỳ-khưu trụ-trì một phần, rồi bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài Trưởng-lão khách Tăng nghỉ ở phòng nào? Bạch Ngài.
Vị tỳ-khưu trụ-trì chỉ cho ông thí-chủ biết căn phòng nghỉ của Ngài khách Tăng.
Ông thí-chủ đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão khách Tăng, rồi kính dâng những hoa, và các thứ thuốc trị bệnh như bơ lỏng, mật ong, dầu, v.v... rồi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khách Tăng thuyết-pháp. Ông thí-chủ và những người nhà ngồi lắng nghe chánh-pháp đến tối.
Ông thí-chủ ra đốt đèn cúng dường đến cây Đại-Bồ-đề, ngôi bảo tháp, đốt đèn xung quanh làm cho ngôi chùa sáng toả mọi nơi, rồi ông thí- chủ vào đảnh lễ Ngài trụ-trì, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, con kính thỉnh Ngài và Ngài Trưởng-lão khách Tăng ngày mai đến thọ thực tại tư gia của con. Bạch Ngài.
Kính bạch như vậy xong, ông thí-chủ đảnh lễ, xin phép trở về nhà.
Hằng ngày, ông thí-chủ thỉnh vị tỳ-khưu trụ- trì đi đến thọ thực tại nhà. Sáng hôm sau ông thí- chủ có thỉnh Ngài Trưởng-lão khách Tăng cùng đến thọ thực tại nhà ông.
Vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng:“Ông thí-chủ này mới gặp Ngài khách Tăng hôm nay, mà đối xử cung-kính đặc biệt với Ngài khách Tăng hơn cả với ta đã ở tại ngôi chùa này từ lâu. Nếu Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này thì ông thí-chủ đâu còn cung-kính ta như trước nữa”.
Do tính ganh tỵ nghĩ sai lầm như vậy, nên vị tỳ-khưu trụ-trì không hài lòng để cho Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này, nhưng chưa biết làm cách nào để Ngài khách Tăng đi ra khỏi chùa mà không làm mất lòng ông thí-chủ.
Ngài Trưởng-lão khách Tăng biết rằng: “Vị tỳ-khưu trụ-trì có thái độ không muốn ta ở lại ngôi chùa này. Sáng ngày mai, ta sẽ rời khỏi ngôi chùa này, đi đến nơi khác.”
Buổi sáng ngày hôm sau, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ-trì đánh chuông bằng cách búng ngón tay, gõ cửa bằng móng tay, rồi âm thầm mang bát đi đến tư gia của ông thí-chủ.
Người thí-chủ ra đón rước Ngài trụ-trì, hai tay nhận cái bát, thỉnh mời vào nhà, thỉnh ngồi trên toạ cụ đã trải sẵn, người thí-chủ đảnh lễ vị tỳ- khưu trụ-trì, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài Trưởng-lão khách Tăng sao không đến cùng với Ngài?
Vị tỳ-khưu trụ-trì bảo với ông thí-chủ rằng:
- Này ông thí-chủ! Ông kính trọng vị khách Tăng như thế nào không biết, còn sư đã đánh chuông, gõ cửa, mà ông ấy vẫn chưa thức dậy.
Hôm qua, vị khách Tăng độ vật thực của ông ngon miệng, còn no cho đến ngày hôm nay, sáng nay vị khách Tăng vẫn còn nằm ngủ say.
Vậy mà ông còn kính trọng vị khách Tăng như vậy sao!
Biết vị tỳ-khưu trụ-trì đã đi khất thực rồi, nên Ngài Trưởng-lão khách Tăng mặc y, mang bát bay lên hư không đến nơi khác, đi khất thực.
Mặc dù nghe Ngài trụ-trì nói về Ngài Trưởng- lão khách Tăng như vậy, nhưng ông thí-chủ vẫn hoàn toàn không tin đó là sự-thật, mà có đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng-lão khách Tăng là Bậc đáng tôn kính.
Cho nên, sau khi Ngài trụ-trì độ vật thực với món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa (nấu bằng sữa, bơ, mật ong, đường thốt nốt rất công phu) xong, người thí-chủ đem cái bát rửa sạch, rồi bỏ món ăn pāyāsa vào đầy bát, đem đến bạch với Ngài trụ-trì rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài Trưởng-lão khách Tăng ấy có lẽ đi đường xa vất vả, nên còn mệt. Kính xin Ngài đem phần vật thực này về chùa, dâng đến Ngài Trưởng-lão khách Tăng. Bạch Ngài.
Kính bạch xong, ông thí-chủ kính dâng bát vật thực ấy đến Ngài trụ-trì. Ngài trụ-trì nhận cái bát, không hề nói lời nào.
Trên đường đi trở về chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng: Nếu vị khách Tăng ấy được ăn món pāyāsa ngon miệng này, dù ta nắm cổ lôi ra khỏi chùa, không dễ gì mà chịu đi ra khỏi chùa.
Nếu ta đem cho món ăn pāyāsa đến người khác thì chắc chắn sẽ bị lộ ra nhiều người biết, hoặc nếu ta đổ món ăn pāyāsa xuống nước thì dầu bơ nổi trên mặt nước, hoặc nếu ta đổ bỏ trên mặt đất, các bầy chim bay lại ăn thì sẽ bị lộ ra nhiều người biết.
Vậy, ta nên đổ bỏ món ăn pāyāsa này nơi nào?
Vừa đi vừa nghĩ, chợt nhìn thấy đám cháy, vị tỳ-khưu trụ-trì đi thẳng đến gần đám cháy, ngồi xuống đào đất, đổ bỏ món ăn pāyāsa xuống lỗ, lấp đất, cào đống than hồng phủ lên, chất thêm củi đốt cháy, rồi đứng dậy, như trút bỏ được gánh nặng, chắc chắn không có ai hay biết được việc làm của mình. Vị tỳ-khưu trụ-trì nhẹ nhõm đi trở về chùa.
Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì không thấy Ngài Trưởng-lão khách Tăng, nên nghĩ rằng: “Ngài khách Tăng ấy có lẽ là bậc Thánh A-ra- hán biết được ác-tâm xấu xa đê tiện của ta, nên Ngài đã bỏ đi đến nơi khác rồi! Ôi! Ta đã tạo ác-nghiệp nặng nề tồi tệ quá!”
Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ-trì vô cùng ăn năn hối hận, nên lâm bệnh nặng, không lâu vị tỳ- khưu trụ-trì ấy chết, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu thiêu đốt trong cõi địa-ngục suốt thời gian 100 ngàn năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, năng lực của ác-nghiệp còn dư sót, nên tiếp tục cho quả tái- sinh kiếp sau làm dạ-xoa suốt 500 kiếp, mỗi kiếp đều chịu cảnh đói khổ, đến gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, sinh kiếp nào thuộc về loại chúng-sinh nào không chỉ một mình chịu cảnh đói khát, mà còn làm cho những chúng-sinh gần gũi khác cũng bị ảnh hưởng quả của ác-nghiệp làm cho đói khổ, nên kiếp nào cũng bị xua đuổi ra khỏi nhóm.
Mỗi hậu-kiếp của vị trụ-trì, đều bị đói khổ cho đến khi gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Kiếp chót của vị tỳ-khưu trụ-trì
Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ-trì kiếp chót, đại-thiện-nghiệp cho quả là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai thuộc hạng người tihetukapuggala: người tam-nhân vào gia đình nghèo trong xóm nhà gồm có 1,000 gia đình dân chài trong vùng Kosala.
Trong ngày đầu thai vào lòng mẹ, những người trong một ngàn gia đình dân chài đem lưới đi bắt cá trong sông, hồ, mọi nơi, đều không bắt được con cá nhỏ nào cả, những ngày tiếp theo cũng như vậy.
Trong khi người đàn bà mang thai, xóm 1.000 gia đình dân chài bị cháy nhà liên tiếp 7 lần, bị phạt vạ 7 lần. Xóm nhà gồm có 1,000 gia đình phải chịu bao nhiêu nỗi đói khổ, thiếu thốn, không có nơi nương tựa.
Khi ấy, vị trưởng xóm thông báo các gia đình trong xóm họp lại, rồi nói rằng:
- Thưa quý bà con! Trong xóm 1,000 gia đình chúng ta từ trước đến nay, chưa có xảy ra những tai nạn liên tiếp như thế này, chưa từng gặp cảnh đói khổ như thế này!
Trong 1.000 gia đình chúng ta chắc có “kālakaṇṇī: người xúi quẩy”.
Vậy, chúng ta nên chia ra làm 2 nhóm riêng biệt, mỗi nhóm có 500 gia đình.
* Nhóm 500 gia đình không có người mẹ mang thai thì làm ăn bình thường như trước.
* Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên, chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 250 gia đình.
* Nhóm 250 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 125 gia đình.
* Và cứ chia 2 nhóm như vậy, cuối cùng chỉ còn 2 gia đình. Mọi người biết gia đình có người mẹ mang thai là gia đình có người“kālakaṇṇī: người xúi quẩy”, nên họ xua đuổi gia đình này ra khỏi nhóm dân chài. nên họ
* Gia đình có người mẹ mang thai hằng ngày chịu cảnh đói khổ, nhưng thai nhi trong bụng mẹ là kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cho nên, dù đói khổ thế nào cũng không thể ảnh hưởng đến sinh mạng của thai nhi được.
Thai nhi đủ tháng, người mẹ sinh ra đứa bé trai, mẹ cha nuôi dưỡng đứa con rất vất vả khổ cực, cho đến khi đứa con khôn lớn đi lại được.
Một hôm, người mẹ dẫn đứa con vào kinh- thành đi xin ăn, người mẹ trao cho đứa con cái bát đất nung, dạy bảo đứa con trai rằng:
- Này con đáng thương! Mẹ đã khổ vì con suốt mấy năm qua, thân mẹ gầy yếu không thể lo nuôi dưỡng con được nữa. Con nên cầm bát đi xin ăn nhà đằng kia.
Dạy bảo đứa con trai như vậy xong, người mẹ lánh đi nơi khác. Từ đó, đứa bé trai một mình đi xin ăn bữa có bữa không, chưa có bữa nào được no bụng cả, sống lay lắt qua ngày.
Đứa bé trai sống lang thang vất vưởng, nằm ngủ nơi này nơi khác, không tắm giặt, thân thể dơ dáy đáng ghê tởm, miễn sao kiếm sống lay lắt qua ngày là được.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tế độ bé trai
Năm lên 7 tuổi, đứa bé trai ngồi bên cạnh nhà, lượm từng hạt cơm mà người ta rửa nồi đổ bỏ, như loài quạ.
Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, nhìn thấy đứa bé trai đáng thương, Ngài Đại-Trưởng-lão phát sinh tâm bi muốn cứu khổ, nên gọi rằng:
- Này đứa bé đáng thương! Hãy đến đây!
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão gọi, đứa bé ngoan ngoãn đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi chắp hai tay lại.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
-Này đứa bé đáng thương! Mẹ cha con ở đâu?
Đứa bé cung-kính bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Mẹ của con nói với con rằng: “Bởi vì con làm cho mẹ cha phải chịu cảnh đói khổ” nên mẹ bỏ con lánh đi rồi. Bạch Ngài.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
- Này bé đáng thương! Con muốn xuất gia hay không?
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con rất tha thiết muốn xuất gia, nhưng đứa bé mồ côi như con, ai mà cho phép con xuất gia được.
- Này đứa bé đáng thương! Sư sẽ cho phép con xuất gia.
Đứa bé vô cùng hoan-hỷ bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm bi tế độ cho phép con xuất gia.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lấy vật thực cho đứa bé ăn, rồi dẫn đứa bé trở về đến chùa, cho tắm sạch sẽ, cạo tóc, mặc y, rồi làm lễ xuất gia trở thành Sāmaṇera: Sa-di có tên là Losakatissa.
Vị sa-di Losakatissa có ít tài lộc nhất, hằng ngày, vị sa-di Losakatissa đi khất thực, thí-chủ để vào bát một vài vá cơm, nhìn thấy giống như đã đầy bát rồi, nên không để thêm vào bát nữa.
Vì vậy, hằng ngày vị sa-di Losakatissa độ vật thực không đủ no, chỉ đủ sống qua ngày thực- hành phạm hạnh cao thượng mà thôi.
Khi vị sa-di Losakatissa đủ 20 tuổi, Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta cho phép làm lễ hành tăng-sự (saṃghakamma) upasampadā nâng lên trở thành bhikkhu: tỳ-khưu trong Phật-giáo.
Mặc dù hằng ngày tỳ-khưu Losakatissa độ vật thực không đủ no, nhưng vẫn tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Tỳ-khưu Losakatissa đã là bậc Thánh A-ra-hán, hằng ngày, Ngài Trưởng-lão vẫn không có vật thực đủ no, làm cho thân thể của Ngài Trưởng- lão ngày một gầy yếu, đến ngày Ngài Trưởng- lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn, nên nghĩ rằng:
“Hôm nay, để cho Trưởng-lão Losakatissa độ vật thực no đủ, trước khi tịch diệt Niết-bàn”.
Hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn Ngài Trưởng-lão Losakatissa theo sau đi vào khất thực trong kinh-thành Sāvatthī có dân chúng đông đảo, mà không có một ai cúng dường để bát một vá cơm nào cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cả.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ nguyên nhân, nên dẫn Trưởng-lão Losakatissa trở về chùa, rồi dạy bảo Trưởng-lão ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ cho người đem vật thực đến cúng dường.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở lại đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ vô cùng hoan-hỷ đón tiếp Ngài Đại- Trưởng-lão, kính dâng cúng-dường những thứ vật thực đầy đủ.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền bảo một người đem một phần vật thực đến chùa, gặp Ngài Trưởng-lão Losakatissa tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, rồi dâng cúng dường những thứ vật thực ấy đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
Người nhận đem những thứ vật thực ấy, trên đường đi quên hẳn, không còn nhớ đến ai cả, cho nên Ngài Trưởng lão Losakatissa ngồi đợi mà không nhận được vật thực ấy.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta độ vật thực xong, trở về chùa. Trưởng-lão Losakatissa đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền hỏi:
- Này Losakatissa! Con đã nhận được những vật thực rồi phải không?
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão. Con không nhận được những vật thực nào cả. Bạch Ngài.
Nghe Trưởng-lão Losakatissa bạch như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh động tâm, biết thời gian vẫn còn, nên Ngài Đại- Trưởng-lão dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con nên trở lại ngồi chỗ cũ, đợi sư phụ trở về nhé con!
Vâng lời dạy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa trở lại ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi thẳng vào cung điện của Đức-vua Pasenadi Kosala. Đức- vua ngự ra nhận bát của Ngài, suy xét không phải là thời gian để những món vật thực, nên Đức-vua để bát 4 thứ đồ ngọt là bơ lỏng, mật ong, dầu mè, đường thốt nốt đầy bát, rồi đem đến kính dâng bát lên Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Sau khi nhận cái bát đầy 4 thứ đồ ngọt xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi trở về chùa, Ngài Đại-Trưởng-lão vẫn ôm cái bát, gọi Trưởng-lão Losakatissa đến dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con hãy lấy 4 thứ đồ ngọt mà dùng cho no đủ hôm nay.
Tỳ-khưu Losakatissa không dám lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà Ngài Đại-Trưởng-lão đang ôm trên tay để dùng, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con cứ tự nhiên lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà dùng. Nếu sư phụ để cái bát rời khỏi tay thì chẳng còn thứ gì cho con dùng hôm nay cả.
Vâng theo lời dạy bảo, Ngài Trưởng-lão Losakatissa đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi xin lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát dùng no đủ ngày hôm ấy.
Ngay ngày hôm ấy, Ngài Trưởng-lão Losaka- tissa tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác- nghiệp và mọi thiện-nghiệp đã lưu trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả- nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu làm lễ hoả táng thi thể của Ngài Trưởng-lão Losakatissa, rồi xây ngôi tháp tôn thờ phần Xá- lợi của Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
QUẢ AN-LẠC CỦA THIỆN-NGHIỆP ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHỮNG NGƯỜI THÂN CẬN
Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali(2) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Sīvali là một người cận-sự-nam trong một gia đình giàu có trong kinh-thành Haṃsavatī.
Một hôm, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đi đến chùa nghe Đức-Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức-Phật tuyên dương một vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử tên Sudassana có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Người cận-sự-nam, tiền-kiếp của Ngài Trưởng lão Sīvali thấy Ngài Trưởng-lão Sudassana, liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật vị-lai, như Ngài Trưởng-lão Sudassana ấy.
Người cận-sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Padumuttara, rồi kính thỉnh Đức-Phật ngự đến tư gia cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo phước-thiện đại thí suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, người cận-sự-nam cúng dường bộ y đến Đức-Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mỗi vị 1 bộ.
Sau khi dâng bộ y xong, người cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Phước-thiện bố- thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như Ngài Đại-đức Sudassana của Đức-Thế-Tôn bây giờ.
Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận-sự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị-lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:
- “Này chư tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị-lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, người cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Đại-Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama(3)như Sudassana là bậc Thánh Đại- thanh-văn đệ-tử của Như Lai bây giờ”.
Lắng nghe lời thọ ký xác định của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan- hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến trọn đời.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, do đại-thiện- nghiệp ấy chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên-nam cao quý trong cõi trời dục-giới, hoặc khi thì sinh làm người cao quý trong cõi người mà thôi. Khi sinh làm người có đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật nhất là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali, sinh trong ngôi làng không xa kinh-thành Bandhumatī. Khi ấy, dân chúng kinh-thành Bandhumatī sửa soạn chuẩn bị tạo phước-thiện đại-thí cúng-dường vật thực lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn ấy còn thiếu món bơ đặc và mật ong.
Khi ấy, người dân làng (tiền-kiếp Ngài Trưởng lão Sīvali) đi đến kinh-thành, có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong.
Nhìn thấy người dân làng có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong, người dân kinh-thành muốn mua 2 món ấy với giá cao là 1 kahāpana. Người dân làng suy nghĩ rằng: “Hai món này của ta đâu có đáng giá đến 1 kahāpana, sao người ấy dám mua với giá cao như vậy. Ta nên dò xét để biết sự thật”.
Người dân làng giả làm bộ không chịu bán với giá 1 kahāpana, thì người ấy tăng lên 2 kahāpana, 5 kahāpana,... 10 kahāpana,... 100 kahāpana, cuối cùng lên đến giá 1000 kahāpana.
Khi ấy, người dân làng muốn biết sự thật nên hỏi người ấy rằng:
- Này bạn thân mến! Hai món bơ đặc và tổ mật ong này không đáng giá là bao nhiêu, vì sao bạn trả giá cao như vậy, bạn cần 2 món này để sử dụng vào công việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?
Người dân kinh-thành nói rằng:
- Này bạn thân mến! Dân kinh-thành chúng tôi đồng nhau cùng tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong. Vì vậy, với giá nào, chúng tôi cũng mua cho được 2 món ấy.
Người dân làng thưa rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Việc tạo phước- thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, còn người khác tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường được hay không? làm
Người kinh-thành thưa rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Việc tạo phước- thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, không chỉ dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhu- matī, mà còn những người khác cũng làm phước- thiện bố-thí cúng-dường được vậy.
Người dân làng thưa khẳng định rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay, việc tạo phước- thiện bố-thí cúng dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món bơ đặc và mật ong lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Xin bạn làm chứng tôi đem 2 món bơ đặc và mật ong đến cúng dường lên Đức-Phật Vipassī hôm nay.
Người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Sīvali) cảm thấy vô cùng hoan-hỷ có được cơ hội tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī, nên đi tìm thêm những gia vị vắt lấy nước trộn vào mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đi đến ngồi chờ không xa Đức-Phật.
Những người đến cúng dường các món vật thực lên Đức-Phật xong, đến cơ hội người dân làng đến hầu Đức-Phật bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Đây là món ăn đạm bạc của con kính dâng đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng có Đức-Thế-Tôn chủ trì. Kính xin Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi tế độ nhận món ăn này của con.
Đức-Phật Vipassī có tâm đại-bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ đại- thiên-vương kính dâng, rồi Đức-Phật phát nguyện món ăn đạm bạc ấy ra thành nhiều đủ chia đến 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Thấy Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ thực xong, người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Hôm nay, dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī đem các món vật thực đến cúng dường lên Đức-Thế-Tôn, và con cũng cúng-dường món ăn đặc biệt ấy lên Đức-Thế-Tôn, do năng lực của quả đại-thiện- nghiệp bố-thí cúng dường này, xin cho con kiếp nào con cũng có tài lộc bậc nhất.
Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức-Phật Vipassī truyền dạy rằng:
- Này con! Xin cho lời nguyện cầu của con sẽ được thành tựu như ý.
Sau đó, Đức-Phật Vipassī thuyết-pháp tế độ dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho đến trọn kiếp.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, chỉ có đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới. Kiếp làm người cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Hoàng-tử Sīvali kiếp chót
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của người cận-sự-nam trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara, đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót vào lòng bà Hoàng-hậu Suppavāsā đất nước Koliya.
Từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng bà Hoàng-hậu Suppavāsā, do năng lực đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng, bà Hoàng-hậu Suppavāsā từ sáng đến chiều, nhận những phẩm vật quý giá từ mọi nơi đem đến làm quà quý báu kính dâng lên bà Hoàng-hậu.
Khi ấy, hoàng-tộc muốn biết bà Hoàng-hậu có nhiều phước như thế nào, nên mời bà Hoàng- hậu đến kho lương thực, mời Bà chạm tay vào cửa kho, thì kho đầy lương thực, Bà chạm tay vào cửa kho nào, thì kho ấy đầy của cải. Cho nên, mọi người trong hoàng tộc đều tán dương ca tụng rằng:
“Bà Hoàng-hậu là người có nhiều phước”.
Một hôm, thị-nữ đem nồi cơm đầy dâng đến bà Hoàng-hậu, mời Bà chạm tay vào cái nồi, dù có bao nhiêu người xới cơm ra ăn, nồi cơm vẫn không vơi chút nào cả.
Đó là quả đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng của Mẫu-hậu.
Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng Mẫu-hậu
Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng bà Hoàng- hậu Suppavāsa suốt 7 năm, trong 7 ngày(4) sắp sinh ra đời, bà Hoàng-hậu Suppavāsa chịu nỗi đau đớn đến cùng cực vì cái thai nhi trong bụng không sinh ra được cho đến ngày thứ 7, tưởng chừng không thể sống nổi, nên bà Hoàng-hậu Suppavāsa tâu với Đức-vua phu quân rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn tạo phước-thiện bố-thí trước khi chết.
Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch về chuyện thần thiếp đang chịu đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Kính thỉnh Đức- Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, để cho Hoàng-hậu Suppavāsā tạo phước-thiện bố-thí.
Nghe Đức-Phật truyền dạy thế nào, xin Hoàng thượng ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung truyền lại cho thần thiếp biết.
Nghe lời tâu của bà Hoàng-hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời của bà Hoàng-hậu Suppavāsā.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu”.
Mong cho Suppavāsā công-chúa dòng Koliya được thân tâm an-lạc, không có bệnh, sinh ra đứa con cũng được an toàn.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung.
Tại cung điện, hoàng-tử sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
Mọi người trong hoàng-tộc vô cùng hoan-hỷ thấy hoàng-tử sinh ra đời an toàn, cùng nhau đến chờ chầu Đức-vua tâu tin lành này.
Đức-vua ngự về đến cung điện, thấy mọi người hân hoan vui mừng, tâu với Đức-vua tin lành là hoàng-tử sinh ra đời được an toàn.
Khi ấy, Đức-vua suy nghĩ rằng:
“Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn đúng quá!”
Đức-vua ngự đến gặp Hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại y theo lời của Đức-Thế-Tôn cho Hoàng-hậu nghe.
Bà Hoàng-hậu Suppavāsā tâu với Đức-vua phu-quân rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.
Đức-vua chấp thuận lời tâu của Hoàng-hậu.
Hoàng-tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng-tộc, nên làm lễ đặt tên hoàng-tử là Sīvali nghĩa là mát mẻ, nên gọi là hoàng-tử Sīvali.
Đức-vua kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, để tạo phước- thiện bố-thí cúng dường vật thực suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāri- putta hỏi hoàng-tử Sīvali rằng:
- Này hoàng-tử Sīvali! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng mẫu-hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?
Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.
Thấy hoàng-nhi bạch chuyện với Ngài Đại- Trưởng-lão, bà Hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Hoàng- nhi của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng- lão vậy?
- Này Hoàng-hậu! Hoàng-tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép”.
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão thuật lại như vậy, nên Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan-hỷ đồng ý cho phép hoàng-nhi Sīvali đi xuất gia, Bà Hoàng-hậu Suppavāsā bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ cho phép hoàng-nhi của con được xuất gia. Bạch Ngài.
Hoàng-tử Sīvali làm lễ cạo tóc
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng-tử Sīvali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại- Trưởng-lão truyền dạy hoàng-tử Sīvali thực- hành niệm đề-mục “tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco,... taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā,... (tóc, lông, móng, răng, da,... da, răng, móng, lông, tóc,...) theo chiều thuận, theo chiều nghịch.
Hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục thiền- định nhóm tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc:
* Khi những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng một lúc với lễ cạo tóc không trước không sau.
Khi ấy, Hoàng-tử Sīvali, kể từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-hậu Suppavāsā suốt 7 năm và chịu khổ suốt 7 ngày, mới sinh ra đời được 7 ngày, vì vậy, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán lúc 7 năm và 14 ngày(5).
Kể từ ngày Ngài Đại-đức Sīvali trở thành Sa- di, hằng ngày các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ dâng cúng dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng càng ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.
* Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, được làm lễ nâng lên bậc tỳ-khưu, những thứ vật dụng lại càng được phát sinh đầy đủ, sung túc đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nhiều hơn nữa.
Hễ mỗi khi có đoàn chư tỳ-khưu đông đảo phải đi tế độ chúng-sinh từ xứ này sang xứ khác trên con đường dài, đi qua vùng hẻo lánh, không có dân cư; nếu có Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng đi trong đoàn, đến giờ khất thực, do năng lực của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Trưởng-lão Sīvali, khiến cho chư-thiên hóa ra xóm làng, thành thị, hiện ra dân cư đông đảo cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Khi đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đi khỏi vùng ấy, thì xóm làng, thành thị kia biến mất.
Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp bàn về Ngài Trưởng-lão Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt không chỉ được phát sinh đến cho Ngài Trưởng- lão Sīvali, mà còn đến tất cả chư tỳ-khưu, dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Thật là điều phi thường, không những các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ là thí chủ, mà còn có chư-thiên, Long-vương cũng đem lễ vật, các thứ vật dụng dâng cúng dường đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng tất cả chư tỳ-khưu bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Trong khi chư tỳ-khưu đang bàn về lợi lộc đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali, thì Đức- Thế-Tôn ngự đến, Ngài truyền dạy rằng:
“Các con đang bàn về chuyện gì vậy?”.
Chư tỳ-khưu bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn về quả phước-thiện đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali. Bạch Ngài.
Nhân dịp ấy, Đức-Phật chủ trì buổi hội chư tỳ-khưu-Tăng, tuyên dương Ngài Trưởng-lão Sīvali trước các hàng thanh-văn đệ- tử rằng:
“Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”
- Này chư tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại- thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Ngài Trưởng-lão Sīvali là bậc Thánh Đại- thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là kết quả thành tựu như ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã từng phát nguyện, đã được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký đúng sự-thật như vậy.
Định mệnh hoặc số mệnh có thật hay không?
Sự thật, tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong tam-giới là dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới gồm có 31 cõi-giới; bốn loài là thai-sinh, noãn- sinh, thấp-sinh, hoá-sinh hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng- sinh mà thôi, chắc chắn không có định-mệnh hoặc số-mệnh nào cả.(6)
Giả thử, nếu mỗi chúng-sinh có định-mệnh hoặc có số-mệnh thật sự, thì ai có khả năng an bài được định-mệnh hoặc số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới và bốn loài chúng-sinh ấy được???
-oo0oo-
(1) Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Atthakāmavagga, tích Losakajātaka.
(2) Aṅg, Aṭṭhakathā, Etadaggapadavaṇṇanā, Sīvalittheravatthu.
(3) Từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara đến Đức-Phật Gotama trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất, có 15 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.
(4) Dha. aṭṭhakāthā, tích Khadiravaniyarevatattheravatthu, hoàng- tử Sīvali nằm trong bụng Mẫu hậu suốt 7 năm 7 tháng, 7 ngày.
(5) Bộ Dhammapadaṭṭhakathā và bộ Apadānaṭṭhakathā, Sīvalitthera apadāna, hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng mẫu-hậu suốt 7 năm 7 tháng 7 ngày.
(6) Tìm hiểu rõ thêm quyển “Ngũ Giới Là Thường Giới Của Mọi Người” cùng soạn giả.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.