Quy y Tam bảo có 2 phép chính

Quy y Tam bảo có 2 phép chính

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN II

    QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)

    Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)

     

    QUY-Y TAM-BẢO CÓ 2 PHÉP CHÍNH

    1- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana)

    2- Phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (Lokiyasaraṇagamana)

    Trong mỗi phép quy-y Tam-bảo có nhiều thứ bậc thấp cao khác nhau tùy theo khả năng hiểu biết của mỗi người. Cho nên, người có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo cần phải hiểu biết rõ phép quy-y Tam-bảo, bởi vì, phép quy-y Tam-bảo là bước đầu tiên trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc người cận-sự-nữ (upāsikā) trong Phật-giáo.

    PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THEO PHÁP SIÊU-TAM-GIỚI NHƯ THẾ NÀO?

    Những người đã có phước duyên trong Phật-giáo, đã từng tạo và bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua nhiều đời nhiều kiếp từ Chư Phật trong thời quá-khứ, hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong quá-khứ.

    Nay kiếp hiện-tại này có phước duyên đến hầu Đức- Phật hoặc chư Thánh thanh-văn, được lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền- não, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

    Khi sát-na Thánh-đạo-tâm (maggakkhaṇacitta) phát sinh, ngay khi ấy, bậc Thánh-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới.

    Trong Chú-giải Pāḷi giải rằng:

    Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇa-saraṇagamanupakkilesasamucchedena ārammaṇato Nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. (1)

    Trong 2 phép quy-y Tam-bảo, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Thánh-đạo, khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận phiền-não ô nhiễm trong tâm. Khi ấy, bậc Thánh-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới, đồng thời mọi phận sự quy-y Tam-bảo cũng được thành-tựu trọn vẹn cùng một lúc, không trước không sau.

    Như vậy, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam- giới là:

    * Theo tâm: Đó là sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh.

    * Theo đối-tượng: Đó là đối-tượng Niết-bàn.

    * Theo cách diệt phiền-não: Đó là cách diệt tận phiền-não.

    * Theo phận sự: Khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, không phải là đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Song xét theo phận sự, khi Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối- tượng Niết-bàn, khi ấy, mọi phận sự quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới được thành tựu trọn vẹn.

    Cho nên, bậc Thánh-nhân không nói bằng lời rằng:

    “Buddham saraṇaṃ gacchāmi.

    Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

    Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi...”

    THỨ BẬC CỦA PHÉP QUY-Y TAM-BẢO

    Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu- tam-giới được căn cứ theo 4 Thánh-đạo-tâm. Do đó, phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới có 4 bậc từ thấp đến cao như sau:

    1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.

    2- Nhất-lai Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.

    3- Bất-lai Thánh-đạo-tâm phát sinh, có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.

    4- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã-mạn, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi; tất cả mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy-y Tam-bảo.

    QUẢ BÁU CỦA PHÉP QUY-Y TAM-BẢO

    THÁNH-ĐẠO-TÂM LIỀN CHO THÁNH-QUẢ-TÂM

    Phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới đó là khi 4 Thánh-đạo-tâm thuộc siêu-tam-giới thiện-tâm phát sinh rồi diệt liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm tương xứng phát sinh sau 1 sát-na-tâm, không có thời gian ngăn cách, nghĩa là Thánh-đạo-tâm nào sinh rồi diệt, liền sau đó Thánh-quả-tâm ấy phát sinh 2 hoặc 3 sát-na- tâm cũng trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy, không có thời gian ngăn cách gọi là: “Akālikadhamma” đó là 4 Thánh-đạo-tâm tương xứng với 4 Thánh-quả-tâm trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy.

    * Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Nhập- lưu Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.

    * Nhất-lai Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Nhất- lai Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.

    * Bất-lai Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là Bất-lai Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.

    * A-ra-hán Thánh-đạo-tâm diệt, liền cho quả là A-ra- hán Thánh-quả-tâm sinh, không có thời gian ngăn cách.

    NHẬP THÁNH-QUẢ ĐỂ HƯỞNG AN-LẠC NIẾT-BÀN

    Nếu bậc Thánh-nhân có khả năng đặc biệt nhập Thánh-quả-tâm (Phalasamāpatti) theo sở đắc của mình, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn, suốt khoảng thời gian quy định một giờ, hai giờ... chỉ có Thánh-quả-tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng và có đối-tượng Niết-bàn mà thôi.

    Đến khi xả Thánh-quả-tâm rồi, trở lại cuộc sống bình thường, tâm của bậc Thánh-nhân biết 6 đối-tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tuỳ theo lộ-trình-tâm.

    Bậc Thánh-quả nào, chỉ có khả năng đặc biệt nhập Thánh-quả-tâm ấy mà thôi. Bậc Thánh-quả-tâm bậc thấp không thể nhập Thánh-quả-tâm bậc cao. Bậc Thánh-quả-tâm bậc cao không thể nhập Thánh-quả-tâm bậc thấp.

    QUẢ BÁU CỦA THÁNH-NHÂN TRONG KIẾP VỊ-LAI

    - Bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn không còn sa đọa trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chỉ còn tái-sinh từ 1 kiếp, 2 kiếp, ... cho đến nhiều nhất 7 kiếp, trong cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.

    Đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh 1 kiếp nữa trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới mà thôi, trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, chỉ tái-sinh lên cõi sắc-giới (hoặc cõi vô-sắc giới) mà thôi, rồi sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    CHƯ THÁNH-NHÂN THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO

    Chư bậc Thánh-nhân đều chắc chắn thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới, ngay khi sát- na Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn, cũng đã thành-tựu mọi phận sự của phép quy-y Tam-bảo trong tâm xong rồi, đã trở thành bậc Thánh-nhân.

    Để được chính thức công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ, bậc Thánh-nhân một lần nữa, trước sự hiện diện của Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh- văn của Đức-Phật, bậc Thánh-nhân ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.

    * Nếu người ấy là nam Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:

    - Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.

    Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

    * Nếu người ấy là nữ Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:

    - Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.

    Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.

    Trên đây là những gương quy-y Tam-bảo của bậc Thánh-nhân, dù chư bậc Thánh-nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới xong rồi, mà còn phải tự nguyện bạch với Đức-Thế-Tôn kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới.

    Kính xin Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn chứng minh và công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời, huống gì hạng phàm-nhân. Hạng phàm-nhân muốn chính thức trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ cần phải được thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, đó là điều tất yếu.

    Vấn: Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả được hay không? Nếu chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán rồi thì sẽ như thế nào?

    Đáp: Người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ có khả năng chứng đắc được đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    Sau khi đã chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán rồi sẽ có một trong hai điều sau đây xảy ra:

    * Bậc Thánh A-ra-hán ấy chắc chắn sẽ tịch diệt Niết- bàn ngay trong ngày hôm ấy.

    * Bậc Thánh A-ra-hán ấy phải xuất gia trở thành tỳ- khưu, hoặc tỳ-khưu ni, để duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.(1)

    CHỨNG ĐẮC THÁNH A-RA-HÁN TỊCH DIỆT NIẾT-BÀN

    Người cận-sự-nam chứng đắc thành bậc Thánh A-ra- hán rồi tịch diệt Niết-bàn ngay ngày hôm ấy. Trích dẫn:

    * Trường hợp Đức-vua Suddhodana, Đức-Phụ-vương của Đức-Phật, ngự tại kinh-thành Kapilavatthu. Khi ấy, Đức-vua Suddhodana lâm bệnh, nên thỉnh Đức-Phật về thuyết pháp. Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, Đức-vua Suddhodana chứng đắc A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy.

    * Trường hợp vị đại quan cận-thần Santati(1) của Đức- vua Pasenadi Kosala. Đức-vua Pasenadi Kosala ban ân huệ cho vị đại quan cận-thần Santati lên ngôi vua 7 ngày. Được lên ngôi vua, vị đại quan cận-thần Santati hưởng sự an-lạc trong ngũ-dục, uống rượu ngon, xem các vũ nữ múa hát, đến ngày thứ 7, vị đại quan cận-thần đang say đắm nhìn cô vũ nữ xinh đẹp múa hát, cô bị bệnh phong chết ngay tại vũ trường. Cái chết đột ngột của cô vũ nữ trẻ đẹp tài ba, làm cho vị quan cận-thần vô cùng khổ não.

    Vị đại quan cận-thần nghĩ: “Ngoài Đức-Phật ra, không có một ai có khả năng làm lắng dịu nỗi khổ tâm này của ta.”

    Nghĩ vậy xong, ông đại quan cùng với các quan quân đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin Đức-Phật thuyết pháp tế độ, làm lắng dịu nỗi khổ tâm sầu não. Đức-Phật thuyết dạy bài kệ như sau:

    “Yaṃ pubbe taṃ visosehi, pacchā te māhu kiñcanaṃ. Majjhe ce no gahessasi, upasanto carissasi.” ( 2)

    “Này quan cận-thần San-ta-ti! Từ trước sầu não nào đã phát sinh, Con hãy nên diệt sạch sầu não ấy.
    Về sau con không còn sầu não nữa, Giữa thời hiện-tại không còn chấp thủ, Vắng lặng sầu não rồi con sẽ đi.”

    Sau khi lắng nghe xong bài kệ, vị đại quan cận-thần Santati chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    Sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, ông thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi quán xét về tuổi thọ của mình, biết rõ tuổi thọ sắp hết, nên bậc Thánh A-ra-hán Santati thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

    - Bhante parinibbānaṃ me anujānātha.

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, cho phép con tịch diệt Niết-bàn.

    CHỨNG ĐẮC THÁNH A-RA-HÁN RỒI XIN XUẤT GIA

    * Trích dẫn tích bà Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā của Đức-vua Bimbisāra. Chánh-cung Hoàng-hậu rất xinh đẹp và say mê sắc đẹp của mình.

    Một hôm, Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā ngự đến viếng thăm ngôi chùa Veḷuvana do Đức-vua Bimbisāra xây cất, rồi dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng có Đức-Phật chủ trì.

    Biết có Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā đến, Đức- Phật gọi bà và dạy bài kệ rằng:

    “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ, passa Kheme samussayaṃ. Uggharantaṃ paggharantaṃ, bālānaṃ abbipatthitaṃ.” (1)

    “Này Khemā! Con hãy quán thân này, Hay bệnh hoạn, bất tịnh, đầy ô trược, Thường ói ra, khạc nhổ đồ dơ dáy, Cửu khiếu thường chảy ra vật nhờm gớm, Mà người si mê say đắm thân này.”

    Sau khi lắng nghe bài kệ, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Tiếp theo Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:

    “Ye rāgarattā ūnupatanti sotaṃ, Sayaṃ kataṃ makkaṭakova jālaṃ. Etampi chetvāna vajanti dhīrā, Anapekkhino sabbadukkhaṃ pahāya.” (1)

    “Này Khemā! Con hãy nên quán xét, Chúng-sinh nào dính mắc bởi tham-ái, Họ bị rơi vào trong dòng tham-ái, Cũng ví như một con nhện giăng tơ, Nằm dính trong mạng nhện do mình làm. Chư Thánh-nhân cắt đứt dòng tham-ái, Diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi, Bỏ đi mà không hề lưu luyến nữa.”

    Sau khi lắng nghe bài kệ xong, bà Chánh-cung Hoàng- hậu Khemā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, theo tuần tự chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết- bàn, cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy Đức-vua Bimbisāra rằng:

    - Mahārājā Khemāya pabbajituṃ vā parinibbāyituṃ vā vaṭṭati.

    - Này Đại-vương! Đại-vương nên cho phép Chánh- cung Hoàng-hậu Khemā xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni hay để cho Chánh-cung Hoàng-hậu tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay?

    Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài cho phép Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā xuất gia trở thành tỳ- khưu-ni, không nên để Chánh-cung Hoàng-hậu tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.

    Chánh-cung Hoàng-hậu Khemā được xuất gia thọ tỳ- khưu-ni. Về sau, Ngài Đại-đức Tỳ-khưu-ni Khemā trở thành bậc Thánh-nữ Tối-Thượng Thanh-văn-giác có trí-tuệ xuất sắc nhất trong nhóm chư tỳ-khưu-ni đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

    Tại sao người tại gia cư-sĩ không thể giữ được địa vị bậc Thánh A-ra-hán cao thượng?

    Sở dĩ người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ không thể duy trì được địa vị bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, là vì người tại gia cư-sĩ có đời sống thế-tục, ăn ở theo thế-tục, nên không xứng đáng với phạm-hạnh cao thượng của bậc Thánh A-ra-hán.

    Bởi vậy, cho nên người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi, ngay hôm ấy, bậc Thánh A-ra-hán phải xuất gia trở thành tỳ-khưu, hoặc tỳ-khưu-ni, để duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.

    Nếu bậc Thánh A-ra-hán không xuất gia thì sẽ tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không chậm trễ sang ngày hôm sau.

    BA BẬC THÁNH-NHÂN TẠI GIA

    * Trong bộ Milindapañhā giảng giải:

    Ngoài bậc Thánh A-ra-hán ra, người tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai và bậc Thánh Bất-lai và có thể duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.

    * Bậc Thánh Nhập-lưu và bậc Thánh Nhất-lai ở tại gia có thể lập gia đình, có vợ hoặc có chồng, có con.

    Như Bà Visākā đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu lúc 7 tuổi. Về sau trưởng thành, bà có chồng sinh được 20 người con (10 người con trai, 10 đứa con gái). Bà Visākā có tuổi thọ 120 tuổi, ...

    * Còn bậc Thánh Bất-lai ở tại gia cư-sĩ, chắc chắn không có vợ, không có chồng. Nếu bậc Thánh Bất-lai, trước kia đã có vợ hoặc đã có chồng, thì sau khi trở thành bậc Thánh Bất-lai chắc chắn không còn quan hệ vợ chồng như trước, bởi vì, bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái trong cõi dục-giới.

    Thời Đức-Phật còn tại thế, có hai ông cận-sự-nam cùng tên là Ugga (1), một ông ở xứ Vesāli và một ông ở làng Hatthigāma vùng Vajjī, cả hai ông đều trở thành bậc Thánh Bất-lai.

    Trước kia, ông có 4 người vợ, sau khi ông đã trở thành bậc Thánh Bất-lai, ông cho phép 4 bà vợ cũ được tự do, nếu muốn có chồng khác thì ông cho tiền bạc và của cải.

    Ông cận-sự-nam Cittagahapati (2), bà cận-sự-nữ trong xóm nhà Mātikāgāma đều đã trở thành bậc Thánh Bất-lai, có tứ-tuệ-phân-tích, có thần-thông, ...

    Trong bộ Milindapañhā giảng giải:

    Dù người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là bậc Thánh-nhân cũng phải nên tỏ lòng tôn kính, đảnh lễ, đón rước chư tỳ-khưu còn là phàm-nhân. Bởi vì, chư tỳ-khưu là một trong tứ chúng cao thượng, có thể cho phép giới tử xuất gia thọ sa-di, thọ tỳ-khưu để duy trì Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian; mà điều này các hàng tại gia cư-sĩ không thể làm được.

    PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THEO PHÁP TAM-GIỚI NHƯ THẾ NÀO?

    Những hàng thiện-trí phàm-nhân có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết rõ 9 ân- đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có ý nguyện đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo với đại- thiện-tâm của mình.

    Muốn được thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, thì người quy-y Tam-bảo cần phải hiểu biết rõ các pháp, như trong Chú-giải giảng giải:

    “Lokiyaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesa- vikkhambhanena ārammaṇato Buddhādiguṇāramma- ṇaṃ hutvā ijjhati.” (1)

    “Đối với hàng thiện-trí phàm-nhân thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân- đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, diệt bằng cách đè nén, chế-ngự phiền-não ô nhiễm phép quy-y Tam-bảo.”

    Như vậy, phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới là: * Theo tâm: Đó là đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

    * Theo đối-tượng: Đó là 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức

    Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

    * Theo cách diệt phiền-não: Đó là cách diệt đè nén, chế-ngự phiền-não ô nhiễm phép quy-y Tam-bảo, khi đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

    ĐIỀU KIỆN THÀNH TỰU PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THEO PHÁP TAM-GIỚI

    Để thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam- giới, người ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, khi thành tâm thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo theo từng mỗi câu quy-y như sau:

    * Câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.

    * Câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.

    * Câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.

    Như vậy, để thành tựu được phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới, điều trước tiên, người ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, học hỏi, ghi nhớ, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo,

    9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì, những ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ khi làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới để cho được thành tựu.

    THỨ BẬC CỦA PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THEO PHÁP TAM-GIỚI

    Thứ bậc của phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới được căn cứ theo dục-giới thiện-tâm, khi tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới.

    Dục-giới thiện-tâm có 8 tâm: 4 tâm hợp với trí-tuệ và 4 tâm không hợp với trí-tuệ, do đó thứ bậc của phép quy- y Tam-bảo theo pháp tam-giới có 2 bậc cao thấp.

    - Phép quy-y Tam-bảo hợp với trí-tuệ

    - Phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ.

    1- Phép quy-y Tam-bảo hợp với trí-tuệ như thế nào?

    Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Khi dục-giới thiện-tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo từng mỗi câu quy- y như sau:

    * Câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, ... Bhagavā.”

    * Câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, ... Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

    * Câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối- tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ... Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo hợp với trí- tuệ (ñāṇasampayuttasaraṇagamana).

    2- Phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ như thế nào?

    Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo nhưng không có trí-tuệ, không hiểu rõ sâu sắc 9 ân-đức Phật- bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Khi đại- thiện-tâm này làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo theo từng mỗi câu quy-y như sau:

    * Câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 ân-đức Phật-bảo ấy.

    * Câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 6 ân-đức Pháp-bảo ấy.

    * Câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng. Khi đọc câu ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 ân-đức Tăng-bảo ấy.

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo không hợp với trí-tuệ (ñāṇavippayuttasaraṇagamana).

    BỐN HẠNG NGƯỜI QUY-Y TAM-BẢO THEO PHÁP TAM-GIỚI

    Thọ phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới có 4 hạng người:

    - Attasanniyātanasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam- bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình cho Tam-bảo.

    - Tapparāyaṇasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam- bảo bằng cách nương nhờ nơi Tam-bảo.

    - Sissabhāvūpagamanasaraṇagamana: Thọ phép quy- y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng.

    - Paṇipātasaraṇagamana: Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo.

    1- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình cho Tam-bảo như thế nào?

    Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.

    Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình đến ngôi Tam-bảo cao- thượng bằng lời chân thật rằng:

    - Ajja ādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ Buddhassa niyyā- temi, Dhammassa niyyātemi, Saṃghassa niyyātemi. (1)

    - Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức-Phật cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức-Pháp cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức-Tăng cao thượng.”

    Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình nơi Tam-bảo.

    2- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo như thế nào?

    Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.

    Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến nương nhờ nơi Tam-bảo cao thượng bằng lời chân thật rằng:

    - Ajja ādiṃ katvā ahaṃ Buddhaparāyaṇo, Dhamma- parāyaṇo, Saṃghaparāyaṇo iti maṃ dhāretha.(1)

    - Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật cao thượng, xin quy- y nương nhờ nơi Đức-Pháp cao thượng, xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng cao thượng.”

    Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách đến quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo.

    3- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng như thế nào?

    Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.

    Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, của Đức-Pháp, của Đức-Tăng bằng lời chân thật rằng:

    - Ajja ādiṃ katvā ahaṃ Buddhassa antevāsiko, Dhammassa antevāsiko, Saṃghassa antevāsiko iti maṃ dhāretha.

    - Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con là người đệ- tử của Đức-Phật cao thượng, con là người đệ-tử của Đức-Pháp cao thượng, con là người đệ-tử của Đức- Tăng cao thượng.”

    Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ-tử của Đức-Phật, của Đức-Pháp, của Đức-Tăng.

    4- Thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo như thế nào?

    Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí- tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng.

    Người ấy đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, tự nguyện xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam-bảo bằng lời chân thật rằng:

    - Ajja ādiṃ katvā ahaṃ abhivādāna-paccuṭṭhāna- añjalikamma-sāmīcikammaṃ Buddhādīnaṃ yevatiṇṇaṃ vatthūnaṃ karomi iti maṃ dhāretha.

    Kính bạch Ngài, kính xin Ngài công nhận cho con rằng: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con chỉ hết lòng tôn kính chắp tay, đón rước, lễ bái, đảnh lễ Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.”

    Sau khi bạch với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật xong, người ấy trở thành cận-sự-nam hoặc cận-sự- nữ đã quy-y Tam-bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

    Như vậy, gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Tam-bảo.

    Trong 4 cách thọ phép quy-y Tam-bảo này, cách nào cũng có thể trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo.

    QUY-Y TAM-BẢO KHÔNG THÀNH TỰU VÀ THÀNH TỰU

    Trong thọ phép quy-y Tam-bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường đến Tam-bảo (Paṇipāta- saraṇagamana) có 4 trường hợp:

    - Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là thân quyến (ñātipaṇipātasaraṇagamana).

    - Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình (ācariyapaṇipātasaraṇagamana).

    - Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi vì sợ (bhayapaṇipātasaraṇagamana).

    - Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi trí-tuệ hiểu biết 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân- đức Tăng-bảo là nơi xứng đáng dâng lễ cúng dường (dakkhiṇeyyapaṇipātasaraṇagamana).

    1- Thọ phép quy-y Tam-bảo bởi do lòng tôn kính cho là thân quyến như thế nào?

    Những người nào trong dòng họ Sakya hoặc dòng họ Koliya có quan niệm rằng: “Đức-Phật Gotama cao thượng là Người thân quyến của chúng ta; chúng ta nên đến thành kính đảnh lễ, kính xin thọ phép quy-y Tam- bảo nơi Ngài.”

    Trường hợp họ xin thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là người thân quyến, thì quy-y Tam-bảo ấy không được thành tựu.

    Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    2- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình như thế nào?

    Người nào đã từng làm học trò của Đức-Bồ-Tát Siddhattha, nay Ngài đã là Đức-Phật Gotama. Trường hợp người ấy nhớ đến vị Thầy cũ của mình, đến thành kính đảnh lễ Đức-Phật, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo, bởi do lòng tôn kính cho là vị Thầy cũ của mình, thì quy- y Tam-bảo ấy không được thành tựu.

    Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    3- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính bởi vì sợ như thế nào?

    Người dân nào trong nước có quan niệm rằng: “Đức- Phật Gotama là bậc cao thượng mà Đức-vua, các quan của chúng ta đều đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo.

    Nếu ta không chịu đến đảnh lễ Đức-Phật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo thì ta có thể bị tội hoặc bị mất nhiều lợi lộc.”

    Trường hợp những người ấy đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo bởi vì sợ, thì quy-y Tam-bảo ấy không được thành tựu.

    Những người ấy không trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    Ba cách thọ phép quy-y Tam-bảo này có quan niệm sai lầm, do phiền-não tham, sân, si, thiên vị, v.v... nên quy-y Tam-bảo không thành tựu.

    Do đó, người ấy không chính thức được gọi là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.

    4- Thọ phép quy-y Tam-bảo do lòng tôn kính, có trí- tuệ hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo là nơi xứng đáng dâng lễ cúng dường như thế nào?

    Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức-Phật-bảo cao thượng nhất, Đức-Pháp-bảo cao  thượng nhất, Đức-Tăng-bảo cao thượng nhất, là nơi xứng đáng dâng lễ, cúng dường đối với tất cả chúng-sinh.

    Trường hợp những người ấy đến hầu đảnh lễ Đức- Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo (9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo) thì quy-y Tam- bảo ấy được thành tựu và những người ấy trở thành người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    Như vậy, để thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới không phải dễ dàng, cho nên, người đến xin thọ phép quy-y Tam-bảo không những bằng đức-tin, mà còn phải có trí-tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng ân-đức Tam-bảo và cần phải có sự hiện diện của bậc thiện-trí thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật hiểu biết Phật-giáo, để chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời.

    Khi những người ấy đã trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ được gần gũi thân cận với Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì họ sẽ có được nhiều cơ hội trở thành người cao thượng, có được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện- pháp cao thượng, từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện- pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng; sự an-lạc cao thượng trong cõi người, cõi chư-thiên, cõi phạm-thiên, cuối cùng là sự an- lạc Niết-bàn cao thượng.

    Cũng như những thí sinh đã trúng tuyển trong kỳ thi vào trường đại-học, thí sinh ấy trở thành sinh viên của trường đại-học ấy, họ có quyền theo học các nghành và thi tốt nghiệp ra trường, để có tương lai xán lạn hơn.

    Đối với hạng phàm-nhân được thành tựu phép quy-y Tam-bảo là điều khó, mà giữ gìn, duy trì quy-y Tam-bảo cho được hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, không bị đứt, thật là một điều khó hơn nữa, bởi vì, trong cuộc sống ở đời có lắm điều phiền phức ràng buộc. Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt mới có thể giữ gìn, duy trì quy-y Tam-bảo của mình được hoàn toàn trong sạch.

    QUY-Y TAM-BẢO BỊ ĐỨT - KHÔNG BỊ ĐỨT

    Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch, vững chắc, không lay chuyển nơi Tam-bảo, thì chỉ có chư bậc Thánh-nhân mà thôi. Còn các hàng cận-sự- nam, cận-sự-nữ là hạng phàm-nhân, tuy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo nhưng không vững chắc, dễ bị lay chuyển khi gặp những trường hợp khó xử.

    Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ không giữ vững đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo thì quy-y Tam-bảo dễ bị đứt, như những trường hợp sau:

    * Trường hợp cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến của mình là tu-sĩ ngoại đạo, thì quy-y Tam-bảo bị đứt hay không?

    - Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

    Dù người ấy lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến của mình là tu-sĩ ngoại đạo, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt. Thậm chí người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn phải có bổn phận lễ bái, dâng cúng đến cha mẹ, ông bà, 

    Thầy tổ, những bậc hữu ân, các bô lão trong dòng họ và trong đời nữa.

    Mặc dù người cận-sự-nam, cận-sự-nữ kính trọng lễ bái dâng cúng đến các bậc ấy, mà vẫn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo, thì quy-y Tam-bảo không bị đứt.

    - Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy nghĩ rằng: “Người thân quyến là tu-sĩ ngoại đạo này thật cao thượng, ta nên đến nương nhờ nơi người ấy, đồng thời ta nên bỏ nương nhờ nơi Tam-bảo.”

    Nếu người ấy lễ bái, dâng cúng đến người thân quyến là tu-sĩ ngoại đạo, rồi xin nương nhờ nơi vị tu-sĩ ngoại đạo ấy, không còn nương nhờ nơi Tam-bảo nữa thì chắc chắn quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì, tâm của người ấy đã từ bỏ Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, để đi theo ngoại đạo.

    * Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình là tu-sĩ ngoại đạo, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?

    - Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

    Dù người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình là tu-sĩ ngoại đạo, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ của mình do lòng biết ơn đối với vị thầy cũ. Vả lại, người ấy vẫn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì quy-y Tam-bảo không thể bị đứt.

    - Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy nghĩ rằng: “Vị thầy cũ của mình là ngoại đạo thật là cao thượng, ta nên đến xin nương nhờ nơi vị thầy cũ ấy, đồng thời ta nên bỏ nương nhờ nơi Tam-bảo.”

    Nếu người ấy lễ bái, dâng cúng đến vị thầy cũ là tu-sĩ ngoại đạo, rồi xin nương nhờ nơi vị thầy cũ tu-sĩ ngoại đạo ấy, không còn nương nhờ nơi Tam-bảo nữa, thì chắc chắn quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì tâm người ấy từ bỏ Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, để đi theo ngoại đạo.

    * Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ lễ bái Đức-vua, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?

    - Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn còn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

    Dù người ấy lễ bái Đức-vua, người có uy quyền trong một nước, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, mỗi người dân đều nương nhờ nơi Đức-vua, phải kính trọng và biết ơn Đức-vua.

    * Trường hợp cận-sự-nam, cận-sự-nữ cúng dường đến chư-thiên, cầu xin chư-thiên hộ trì cho mình, thì quy-y Tam-bảo có bị đứt hay không?

    - Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, vẫn có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

    Dù người ấy kính dâng lễ vật cúng dường đến chư- thiên, cầu xin chư-thiên hộ trì cho mình, giúp công việc gì đó được thành tựu, quy-y Tam-bảo vẫn không bị đứt, bởi vì, người ấy vẫn có đức-tin nơi Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

    Trong Chi-bộ-kinh, Đức-Phật dạy pháp balī: cúng dường, dâng lễ, bố-thí, ... có 5 pháp như sau:

    - Ñātibalī: Bố-thí, cúng dường đến người thân quyến.

    - Atithibalī: Tiếp đãi khách quý.

    - Pubbapetabalī: Bố-thí hồi hướng phước-thiện đến người thân quyến đã quá vãng.

    - Rājabalī: Dâng lễ, đóng thuế cho Đức-vua.

    - Devatābalī: Dâng phước-thiện đến chư-thiên, ...

    Người nào kính yêu chư-thiên, thì chư-thiên cũng kính yêu, hộ trì lại người ấy. Như vậy, nếu những người nào có đức-tin nơi Tam-bảo, tạo mọi phước-thiện như bố-thí, giữ gìn giới trong sạch hoàn toàn, thuyết-pháp, nghe-pháp, thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, v.v ... rồi dâng phần phước-thiện ấy đến chư-thiên. Tất cả chư-thiên rất hoan hỷ phần phước-thiện mà người dâng, cúng dường đến chư-thiên, thì chư-thiên luôn luôn hộ trì cho những người ấy.

    Nhưng trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào nghĩ rằng: “Ta nên nương nhờ chư-thiên, dâng lễ vật cúng dường đến chư-thiên, thì chư-thiên sẽ hộ trì giúp đỡ cho ta, hỗ trợ mọi công việc làm ăn được phát đạt, ta không nên nương nhờ nơi Tam-bảo nữa.”

    Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy thực-hành theo ý nghĩ của mình, từ bỏ quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật- bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, mà theo nương nhờ chư-thiên, hằng ngày dâng lễ cúng dường đến chư-thiên, thì chắc chắn quy-y Tam-bảo của người ấy bị đứt.

    QUY-Y TAM-BẢO VỮNG CHẮC VÀ KHÔNG VỮNG CHẮC

    * Quy-y tam-bảo vững chắc

    Đối với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đã thành tựu quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới (Lokuttarasaraṇagamana), trong kiếp hiện-tại, chư Thánh thanh-văn ấy là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo, không hề lay chuyển, chỉ có nhất tâm thành kính quy-y Tam-bảo cho đến trọn đời trọn kiếp mà thôi, không bao giờ từ bỏ Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, bởi vì trong tâm của chư Thánh-nhân không còn phiền-não nào hoài- nghi nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, nên quy-y Tam-bảo không bị ô nhiễm.

    Vì vậy, kiếp hiện-tại quy-y Tam-bảo của chư bậc Thánh-nhân là cận-sự-nam, cận-sự-nữ không bao giờ bị đứt.

    Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, sau khi chết chắc chắn không thể tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) mà chỉ có thiện- nghiệp cho quả tái-sinh làm người, hoặc làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới hoặc làm phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới, tùy theo năng lực của thiện-nghiệp của bậc Thánh-nhân ấy cho quả.

    Những kiếp sau của bậc Thánh-nhân ấy vẫn còn nguyên vẹn quy-y Tam-bảo theo pháp siêu-tam-giới vững chắc, khắng khít ở trong tâm, trong mọi kiếp cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết- bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    * Quy-y Tam-bảo không vững chắc

    Đối với các hạng-phàm nhân đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới (lokiyasaraṇagamana), trong kiếp sống hiện-tại, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy có hai nhóm:

    * Số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, chỉ có nhất tâm giữ gìn duy trì quy-y Tam-bảo trọn vẹn đến trọn đời, cho đến khi chết mà thôi, đồng thời cũng là lúc quy-y Tam-bảo bị đứt, bởi vì quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới chỉ có hiệu lực trong kiếp hiện-tại mà thôi.

    Vì vậy, trường hợp quy-y Tam-bảo bị đứt này vô tội (anavajja). Sau khi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ chết, thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi thiện-giới (cõi người, cõi trời dục-giới, ...) nào, kiếp sau làm người hoặc chư-thiên, hoặc phạm-thiên có gặp được Phật-giáo hay không, điều đó không chắc chắn.

    Cho nên, trong kiếp hiện-tại, người cận-sự-nam, cận- sự-nữ phải luôn phát nguyện rằng:

    - Do nhờ năng lực phước-thiện quy-y Tam-bảo này, kiếp vị-lai gặp được Đức-Phật, hoặc các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được nghe chánh-pháp của Đức- Phật, hết lòng thành kính xin quy-y Tam-bảo.

    * Số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo rồi, trong kiếp sống hiện-tại, do năng lực phiền-não xui khiến họ từ bỏ Đức-Phật-bảo, từ bỏ Đức-Pháp-bảo, từ bỏ Đức-Tăng-bảo, để theo nương nhờ nơi đạo khác.

    Như vậy, quy-y Tam-bảo bị đứt ngay khi đó, không phải chờ đến lúc chết. Đó là trường hợp quy-y Tam-bảo bị đứt mà có tội (sāvajja).

    Như vậy, quy-y Tam-bảo theo pháp tam-giới đối với các cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là phàm-nhân, là quy-y Tam-bảo không vững chắc.

    NHÂN LÀM Ô NHIỄM QUY-Y TAM-BẢO

    Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là hạng phàm- nhân, có đức-tin nơi Tam-bảo không vững chắc, bởi vì họ vẫn còn có những phiền-não nặng nề trong tâm.

    Những phiền-não là nhân làm ô nhiễm quy-y Tam- bảo như:

    - Phiền-não si (moha): Tâm-si không hiểu rõ 9 ân- đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.

    Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.

    - Phiền-não hoài-nghi (vicikicchā): Tâm hoài-nghi về Đức-Phật là hoài-nghi về 9 ân-đức Phật-bảo; hoài-nghi về Đức-Pháp là hoài-nghi về 6 ân-đức Pháp-bảo; hoài- nghi về Đức-Tăng là hoài-nghi về 9 ân-đức Tăng-bảo.

    Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo.

    - Phiền-não tà-kiến (michādiṭṭhi): Tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức-Phật, về 9 ân-đức Phật- bảo; tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức- Pháp, về 6 ân-đức Pháp-bảo; tâm tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức-Tăng, về 9 ân-đức Tăng-bảo.

    Đó là nhân làm ô nhiễm quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo, v.v...

    PHIỀN-NÃO PHÁT SINH TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP

    Trong khi đang thọ phép quy-y Tam-bảo, nếu hạng phàm-nhân có những loại phiền-não si-mê, hoài-nghi, tà-kiến ấy phát sinh, thì người ấy không thành tựu phép quy-y Tam-bảo, cũng không chính thức trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.

    Hạng phàm-nhân nào chỉ có đức-tin nơi Tam-bảo, mà không có trí-tuệ hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, thì trong khi người ấy đang thọ phép quy-y Tam-bảo với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, tuy có đối-tượng ân-đức Tam-bảo, nhưng không hiểu rõ sâu sắc về 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, nên người ấy cũng thành tựu được phép quy-y Tam-bảo nhưng không hợp với trí-tuệ, cũng trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    Tuy nhiên, về sau nếu người cận-sự-nam hoặc cận- sự-nữ này có những phiền-não phát sinh ở trong tâm sẽ là nhân làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo của người ấy.

    NHÂN LÀM TRONG SẠCH LẠI QUY-Y TAM-BẢO

    Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ là hạng phàm-nhân đã thọ phép quy-y Tam-bảo xong rồi, về sau do phiền-não si-mê, hoài-nghi, tà-kiến làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo của họ.

    Nhờ có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí khuyên nhủ, chỉ bảo, người ấy ý thức được rằng: “Phiền-não làm ô nhiễm quy-y Tam-bảo, đó là điều bất-lợi, thoái hóa trong mọi thiện-pháp, khổ não.”

    Người ấy tìm đến bậc thiện-trí có giới-đức thanh-tịnh, tinh thông pháp-học Phật-giáo, giàu kinh nghiệm về pháp-hành Phật-giáo, ... thỉnh Ngài thuyết giảng ân-đức Tam-bảo, quả báu của quy-y Tam-bảo.

    Người ấy lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, hiểu rõ về 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân- đức Tăng-bảo, ...

    Đó là những pháp làm cho dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ nhận thức đúng đắn rằng: “Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức- Tăng cao thượng”, được quy-y nương nhờ nơi Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là nương nhờ nơi cao thượng, sẽ có được quả báu cao thượng, sẽ có được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện- pháp cao thượng, sự an-lạc Niết-bàn cao thượng.

    Trước kia, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy đã quy- y Tam-bảo nhưng quy-y Tam-bảo của người ấy bị ô nhiễm do bởi phiền-não. Nay, người ấy đến gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, phát sinh trí-tuệ hiểu rõ ân-đức Tam-bảo, ... phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, rồi kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo lại một lần nữa, làm cho quy-y Tam-bảo của họ không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não, quy-y Tam-bảo của họ trở nên xán lạn, càng tăng trưởng đức-tin nơi Tam-bảo.

    Đó là cách làm trong sạch lại quy-y Tam-bảo.

    QUY-Y TAM-BẢO VỚI ĐỨC-TIN TRONG SẠCH

    Trong bài kinh Kāraṇapāḷisutta (1) được tóm lược như sau:

    Ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi là vị quan trông coi công việc trong Hoàng tộc Licchavi xứ Vesāli và ông Bà-la- môn Piṅgiyāni là bậc Thánh Bất-lai thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật. Hai người gặp và đàm thoại với nhau, ông Bà-la-môn Piṅgiyāni tán dương ca tụng giáo-pháp của Đức-Phật.

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn gần thành Vesāli. Khi ấy, ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi đi trông coi công việc bên ngoài cửa thành, nhìn thấy ông Bà-la-môn Piṅgiyāni từ xa đến hỏi rằng:

    Kā(2):Thưa ông Piṅgiyāni, ông đi đâu trở về trưa vậy?

    Piṅ(3): Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi đến hầu Đức-Phật Gotama trở về.

    Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, ông biết trí-tuệ của Sa-môn Gotama, Bậc đại-trí cao thượng có phải không?

    Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi chỉ là người tầm thường làm sao biết được trí-tuệ của Đức-Phật Gotama, bậc nào biết được trí-tuệ của Đức-Phật Gotama, chắc chắn bậc ấy phải là Đức-Phật như Đức-Phật Gotama.

    Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, tôi nghe nói rằng: Ông thường tán dương ca tụng Sa-môn Gotama lắm phải không?

    Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, tôi chỉ là người tầm thường có biết gì về Đức-Phật Gotama mà dám tán dương ca tụng Ngài, chỉ có chư-thiên, chư phạm-thiên, các bậc thiện-trí thường tán dương ca tụng Đức-Phật Gotama là Bậc Tối- Thượng trong tất cả mọi chúng-sinh, nhân-loại, chư- thiên, chư phạm-thiên, chư Sa-môn, Bà-la-môn cả thảy.

    Kā: Thưa ông Piṅgiyāni, ông đã nhận thấy sự lợi ích thế nào mà ông có đức-tin trong sạch nơi Sa-môn Gotama đến như thế ấy?

    Piṅ: Thưa ông Kāraṇapāḷi, ví như một người đã ăn uống no đủ những món vật thực ngon lành có hương vị hảo hạng rồi, thì người ấy không còn thèm muốn những món vật thực dở như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy không còn muốn nghe lời dạy của Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng như thế ấy.

    Cũng ví như người đang đói khát, mệt lả, gặp một tổ ong đầy mật, người ấy uống mật ong nguyên chất không pha trộn thứ khác, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi, hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy phát sinh tâm hỷ lạc, có đức- tin trong sạch nơi Đức-Phật Gotama, cũng như thế ấy.

    Cũng ví như người đi tìm được cây trầm vàng hoặc cây trầm đỏ, người ấy ngửi rễ trầm, thân cây trầm, ngọn cây trầm cảm thấy mùi thơm tho, mát dịu, dễ chịu như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy cảm thấy hài lòng tâm vô cùng hoan hỷ, cũng như thế ấy.

    Cũng ví như người mắc phải bệnh trầm kha lâu năm đau khổ, nhưng diễm phúc gặp được vị lương y tài giỏi điều trị khỏi căn bệnh ấy, người ấy sống được an-lạc, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy diệt được sự sầu não, khóc than, khổ tâm, khổ thân, sự thống khổ cùng cực, cũng như thế ấy.

    Cũng ví như một hồ nước trong trẻo, sạch sẽ, mát mẻ, bến nước lài thoai thoải, cảnh đẹp nên thơ, một người đi đường xa, trời nắng, mệt mỏi, khát nước, đi lần đến hồ nước ấy, xuống hồ uống nước, tắm rửa sạch sẽ, hết khát, hết mệt, diệt được sự nóng nảy như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Gotama như bài kinh, bài kệ, bài pháp xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy cảm thấy diệt được phiền-não nóng nảy trong tâm, tâm được thanh-tịnh vắng lặng cũng như thế ấy, ...

    Lắng nghe ông Bà-la-môn Piṅgiyāni thuyết giảng sự lợi ích chánh-pháp của Đức-Phật Gotama, ông Bà-la- môn Kāraṇapāḷi đứng dậy mặc áo chừa vai bên phải, quỳ xuống đất chắp hai tay hướng về Đức-Thế-Tôn đang ngự, thốt lên lời tôn kính 3 lần:

    - Namo Tassa Bhagavato Arahato Samāsambuddhassa.

    - Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ...

    Ông ca tụng ông Bà-la-môn Piṅgiyāni rằng:

    - Thưa ông Piṅgiyāni, lời giảng giải của ông thật rõ ràng quá, làm tôi vô cùng hoan hỷ. Ông đã giảng giải bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.

    Tiếp theo ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời chân thật rằng:

    - Esāhaṃ Bho Piṅgiyāni taṃ Bhagavantaṃ Gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakam maṃ bhavaṃ Piṅgiyāni dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

    - Kính thưa ông Piṅgiyāni, xin ông chứng minh lời chân thật của tôi rằng: “Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn Gotama, xin quy-y Đức-Pháp- bảo, xin quy-y chư tỳ-khưu Tăng-bảo.”

    Kính xin ông Piṅgiyāni công nhận tôi là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo cao thượng, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

    Sau khi ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi xin thọ phép quy- y Tam-bảo trước sự hiện diện chứng minh, công nhận của Ông Bà-la-môn Piṅgiyāni, như vậy, ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo, đã trở thành người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo ngay khi ấy.

     

    -oo0oo-

    (1) Khuddakanikāya, bộ Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.

    (1) Chú-giải Aṅguttaranikāya, trong tích Mahāpajāpatigotamītherīvatthu.

    ---

    (1) Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Santatimahāmattavatthu.

    (2) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Santatimahāmattavatthu.

    ---

    (1) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Khemātherīvatthu.

    ---

    (1) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Khemātherīvatthu.

    ---

    (1) Aṅguttaranikāya phần Aṭṭhakanipāta Uggasutta.

    (2) Dha. Aṭṭhakathā, tích Cittagahapativatthu, tích Aññatra bhikkhuvatthu.

    ---

    (1) Khuddakanikāya, Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttvaṇṇanā.

    ---

    (1) Khud: Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.

    (1) Khud: Itivuttakaṭṭhakathā, kinh Puttasuttavaṇṇanā.

    ---

    (1) Aṅguttaranikāya, phần Pañcakanipāta, kinh Kāraṇapāḷisutta.

    (2) Kā viết tắt tên ông Bà-la-môn Kāraṇapāḷi.

    (3) Piṅ viết tắt tên ông Bà-la-môn Piṅgiyāni.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.