Rūpavibhatti: Phân chia Sắc

Rūpavibhatti: Phân chia Sắc

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ - THERAVĀDA

    ABHIDHAMMAPIṬAKA - TẠNG DIỆU PHÁP

    DHAMMASAṄGANI
    BỘ PHÁP TỤ

    Dịch giả:
    Ðại Trưởng Lão Tịnh Sự
    Santakicca Mahā Thera

     

    Phân Chia Sắc (Rūpavibhatti)

    Xiển Minh Nhất Ðề (Ekakaniddesa)

    [514] Tất cả sắc đều là phi nhân, đều là vô nhân, đều là bất tương ưng nhân, đều là hữu duyên, đều là hữu vi, đều là hiệp thế, đều là cảnh lậu, đều là cảnh triền, đều là cảnh phược, đều là cảnh bộc, đều là cảnh phối, đều là cảnh cái, đều là cảnh khinh thị, đều là cảnh thủ, đều là cảnh phiền não, đều là vô ký, đều là bất tri cảnh, đều là phi sở hữu tâm, đều là bất tương ưng tâm, đều là pháp phi dị thục phi dị thục nhân, đều là phi phiền toái cảnh phiền não, đều là phi hữu tầm hữu tứ, đều là phi vô tầm hữu tứ, đều là phi vô tầm vô tứ,đều là phi câu hành tỷ, đều là phi câu hành lạc, đều là phi cau hành xả, đều là không đáng tri kiến đoạn trừ, đều là không đáng tu tiến đoạn trừ,(1) đều là phi hữu nhân đáng cho tri kiến và tu tiến đoạn trừ,(2) đều là phi nhân đến tích tập(3) đều là phi nhân đến tịch diệt(4) đều là phi hữu học, đều là phi vô học, đều là hy thiểu, đều là dục giới, đều là phi sắc giới, đều là phi vô sắc giới(5), đều là hệ thuộc, đều là phi bất hệ thuộc, đều là phi cố định, đều là phi dẫn xuất, đều là sanh tồn, đều là đáng cho sáu thức biết, đều là vô thường, đều là bị già chinh phục(6). Như vậy đây là yếu hiệp sắc một loại.

    Dứt Xiển Minh Nhất Ðề

    Xiển Minh Nhị Ðề (dukaniddesa)

    Phân Chia Sắc Y Sinh (upādāyabhājanīya) (1) .

    [515] - Sắc y sinh ấy là thế nào?

    Tức nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ,vị xứ, nữ quyền, nam quyền, mạng quyền, thân biểu tri, khẩu biểu tri, hư không giới, sắc khinh, sắc nhu, sắc thích nghiệp, sắc tích tụ, sắc thừa kế, sắc lão mại, sắc vô thường, đoàn thực.

    [516] - Sắc nhãn xứ (2) ấy là thế nào?

    Nhãn xứ là tinh chất nương bốn đại hiển(3) liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu;(4) nhờ mắt vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã thấy, hoặc đang thấy, hoặc sẽ thấy, hoặc có thể thấy sắc hữu kiến hữu đối chiếu, đó là nhãn, đó là nhãn xứ, đó là nhãn giới, đó là nhãn quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh ,sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là con ngươi, đó là con mắt, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhãn xứ.

    Sắc nhãn xứ ấy là thế nào?

    Nhãn nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; nơi mắt vô kiến hữu đối chiếu nào mà sắc hữu kiến hữu đối chiếu (5) đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là nhãn, đó là nhãn xứ, đó là nhãn giới, đó là nhãn quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là con ngươi, đó là con mắt, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhãn xứ.

    Sắc nhãn xứ ấy là thế nào?

    Nhãn nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; mắt nào là vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc nơi cảnh sắc hữu kiến hữu đối chiếu, đó là nhãn, đó là nhãn xứ, đó là nhãn giới, đó là nhãn quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là con ngươi, đó là con mắt, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhãn xứ.

    Sắc nhãn xứ ấy là thế nào?

    Nhãn nào là tinh chất nương bốn đại hiển, liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; do nương mắt nào mà nhãn xứ bắt cảnh sắc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mắt nào thọ sanh từ nhãn xúc, bắt cảnh sắc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhãn thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mắt nào mà nhãn xúc có cảnh sắc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mắt nào thọ sanh từ nhãn xúc có cảnh sắc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhãn thức đã sanh, hoặ đang sanh hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là nhãn, đó là nhãn xứ, đó là nhãn giới, đó là nhãn quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là con ngươi, đó là con mắt, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhãn xứ.

    [517] - Sắc nhĩ xứ (1) ấy là thế nào?

    Nhĩ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu nhờ tai vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã nghe, hoặc đang nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc có thể nghe tiếng vô hữu kiến hữu đối chiếu; đó là nhĩ, đó là nhĩ xứ, đó là nhĩ giới, đó là nhĩ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhĩ xứ.

    Sắc nhĩ xứ ấy là thế nào?

    Nhĩ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu nơi tai vô kiến hữu đối chiếu nào mà tiếng vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là nhĩ, đó là nhĩ xứ, đó là nhĩ giới, đó là nhĩ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhĩ xứ.

    Sắc nhĩ xứ ấy là thế nào?

    Nhĩ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu tai nào là vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc, nơi cảnh thinh vô kiến hữu đối chiếu; đó là nhĩ, đó là nhĩ xứ, đó là nhĩ giới, đó là nhĩ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhĩ xứ.

    Sắc nhĩ xứ ấy là thế nào?

    Nhĩ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; do nương tai nào nhĩ xúc bắt cảnh thinh đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương tai nào thọ sanh từ nhĩ xúc, có cảnh thinh ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhĩ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương tai nào mà nhĩ xúc có cảnh thinh đã sanh hoặc đang sanh hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương tai nào mà thọ sanh từ nhĩ xúc có cảnh thinh ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhĩ thức có cảnh thinh đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là nhĩ, đó là nhĩ xứ, đó là nhĩ giới, đó là nhĩ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhĩ xứ.

    [518] - Sắc tỷ xứ (2) ấy là thế nào?

    Tỷ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu nhờ mũi vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã ngửi, hoặc đang ngửi, hoặc sẽ ngửi, hoặc có thể ngửi mùi vô hữu kiến hữu đối chiếu; đó là tỷ, đó là tỷ xứ, đó là tỷ giới, đó là tỷ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc tỷ xứ.

    Sắc tỷ xứ ấy là thế nào?

    Tỷ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu nơi mũi vô kiến hữu đối chiếu nào mà mùi vô kiến hữu đối chiếu nào đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là tỷ, đó là tỷ xứ, đó là tỷ giới, đó là tỷ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh ,sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc tỷ xứ.

    Sắc tỷ xứ ấy là thế nào?

    Tỷ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, mũi nào là vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc, nơi cảnh khí vô kiến hữu đối chiếu; đó là tỷ, đó là tỷ xứ, đó là tỷ giới, đó là tỷ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc tỷ xứ.

    Sắc tỷ xứ ấy là thế nào?

    Tỷ nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu ; do nương mũi nào tỷ xúc bắt cảnh khí đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mũi nào thọ sanh từ nhãn xúc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... tỷ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mũi nào mà tỷ xúc, có cảnh khí đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương mũi nào thọ sanh từ tỷ xúc có cảnh khí ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... tỷ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là tỷ, đó là tỷ xứ, đó là tỷ giới, đó là tỷ quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc tỷ xứ.

    [519] - Sắc thiệt xứ (1)ấy là thế nào?

    Thiệt nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, nhờ lưỡi vô kiến hữu đối chiếu mà người đã nếm, hoặc đang nếm, hoặc sẽ nếm, hoặc có thể nếm vị vô hữu kiến hữu đối chiếu; đó là thiệt, đó là thiệt xứ, đó là thiệt giới, đó là thiệt quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thiệt xứ.

    Sắc thiệt xứ ấy là thế nào?

    Thiệt nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, nơi lưỡi đã vô kiến hữu đối chiếu nào mà vị vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là thiệt, đó là thiệt xứ, đó là thiệt giới, đó là thiệt quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thiệt xứ.

    Sắc thiệt xứ ấy là thế nào?

    Thiệt nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, lưỡi nào là vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc, nơi cảnh vị vô kiến hữu đối chiếu; đó là thiệt, đó là thiệt xứ, đó là thiệt giới, đó là thiệt quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thiệt xứ.

    Sắc thiệt xứ ấy là thế nào?

    Thiệt nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; do nương lưỡi nào thiệt xúc bắt cảnh vị đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương lưỡi nào mà thọ sanh từ thiệt xúc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thiệt thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương lưỡi nào mà thiệt xúc có cảnh vị đã sanh, hoặc đang sanh hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; do nương lưỡi nào mà thọ sanh từ thiệt xúc, có cảnh vị ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thiệt thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là thiệt, đó là thiệt xứ, đó là thiệt giới, đó là thiệt quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh ,sắc, đó là ruộng, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thiệt xứ.

    [520] - Sắc thân xứ(1) ấy là thế nào?

    Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, nhờ thân vô kiến hữu đối chiếu mà người đã va chạm, hoặc đang va chạm, hoặc sẽ va chạm, hoặc có thể va chạm cảnh xúc vô kiến hữu đối chiếu; đó là thân, đó là thân xứ, đó là thân giới, đó là thân quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thân xứ.

    Sắc thân xứ ấy là thế nào?

    Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, nơi thân vô kiến hữu đối chiếu nào mà cảnh xúc vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là thân, đó là thân xứ, đó là thân giới, đó là thân quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là vật, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thân xứ.

    Sắc thân xứ ấy là thế nào?

    Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu, thân nào là vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc, nơi cảnh xúc vô kiến hữu đối chiếu; đó là thân, đó là thân xứ, đó là thân giới, đó là thân quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc thân xứ.

    Sắc thân xứ ấy là thế nào?

    Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển liên hệ tự thân vô kiến hữu đối chiếu; do nương thân nào thân xúc bắt cảnh xúc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương thân nào thọ sanh từ thân xúc, bắt cảnh xúc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thân thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do nương thân nào thọ sanh từ thân xúc có cảnh xúc ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thân thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là thân, đó là thân xứ, đó là thân giới, đó là thân quyền, đó là thế gian, đó là môn, đó là biển cả, đó là bạch tịnh, sắc, đó là ruộng, đó là bờ bên nây, đó là làng bỏ trống. Ðây là sắc nhãn xứ.

    [521] - Sắc sắc xứ (1) ấy là thế nào Sắc nào là ánh sáng nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu như màu vàng, màu đỏ tươi, màu trắng, màu đen, màu tím, màu xanh lá mạ, màu xanh trái cây, màu xanh xoài sống, dài, ngắn, thô, méo, tròn, tứ giác, lục giác, bát giác, thập lục giác, lỏm, lồi, bóng, ánh nắng, sáng, tối, mây, sương, khói, bụi, ánh sắc mặt trăng, ánh sắc mặt trời, ánh sắc tinh tú, ánh sắc mặt kính, ánh sắc ngọc ước, ngọc xà cừ, ngọc trai, ngọc bích, ánh sắc vàng và bạc, hoặc là có sắc nào khác là ánh sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu; sắc hữu kiến hữu đối chiếu nào mà người đã thấy, hoặc đang thấy, hoặc sẽ thấy, hoặc có thể thấy bằng mặt vô kiến hữu đối chiếu; đó là sắc, đó là sắc xứ, đó là sắc giới. Ðây là sắc sắc xứ.

    Sắc sắc xứ ấy là thế nào?

    Sắc nào là ánh sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu, là màu xanh dương, màu vàng, màu đỏ tươi, màu trắng, màu đen, màu tím, màu xanh lá mạ, màu xanh trái cây, màu trái xoài sống, dài, ngắn, tế, thô, méo, tròn, tứ giác, lục giác, bát giác, thập lục giác, lỏm, lồi, bóng, ánh nắng, sáng, tối, mây, sương, khói, bụi, ánh sắc mặt trăng, ánh sắc mặt trời, ánh sắc tinh tú, ánh sắc mặt kính, ánh sắc ngọc ước, ngọc xà cừ, ngọc trai, ngọc bích, ánh sắc vàng và bạc, hoặc có sắc nào khác là ánh sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là sắc, đó là sắc xứ, đó là sắc giới. Ðây là sắc sắc xứ.

    Sắc sắc xứ ấy là thế nào?

    Sắc nào là ánh sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu, là màu xanh dương, màu vàng, màu đỏ tươi, màu trắng, màu đen, màu tím, màu xanh lá mạ, màu xanh trái cây, màu trái xoài sống, dài, ngắn, tế, thô, méo, tròn, tứ giác, lục giác, bát giác, thập lục giác, lỏm, lồi, bóng, ánh nắng, sáng, tối, mây, sương, khói, bụi, ánh sắc mặt trăng, ánh sắc mặt trời, ánh sắc tinh tú, ánh sắc mặt kính, ánh sắc ngọc ước, ngọc xà cừ, ngọc trai, ngọc bích, ánh sắc vàng và bạc, hoặc có sắc nào khác là ánh sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu; là sắc hữu kiến, hữu đối chiếu mà đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc nơi mắt vô kiến hữu chiếu; đó là sắc, đó là sắc xứ, đó là sắc giới. Ðây là sắc sắc xứ.

    Sắc sắc xứ ấy là thế nào?

    Sắc nào là ánh sắc nương vào bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu, là màu xanh dương, màu vàng, màu đỏ tươi, màu trắng, màu đen, màu tím, màu xanh lá mạ, màu xanh trái cây, màu trái xoài sống, dài, ngắn, tế, thô, méo, tròn, tứ giác, lục giác, bát giác, thập lục giác, lỏm, lồi, bóng, ánh nắng, sáng, tối, mây, sương, khói, bụi, ánh sắc mặt trăng, ánh sắc mặt trời, ánh sắc tinh tú, ánh sắc mặt kính, ánh sắc ngọc ước, ngọc xà cừ, ngọc trai, ngọc bích, ánh sắc vàng và bạc, hoặc có sắc nào khác là sắc nương bốn đại hiển hữu kiến hữu đối chiếu, do bắt cảnh sắc nào mà nhãn xúc nương mắt ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhãn thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh... (trùng) ... có cảnh sắc nàomà nhãn xúc nương maàu7855?t đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh, ... (trùng) ... có cảnh sắc nào mà thọ sanh từ nhãn xúc nương mắt ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhãn thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là sắc, đó là sắc xứ, đó là sắc giới. Ðây là sắc sắc xứ.

    [522] - Sắc thinh xứ ấy là thế nào? [1]

    Thinh nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như tiếng trống chầu, tiếng trống cơm, tiếng tù và, tiếng chập chỏa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng chiêng, tiếng vỗ tay, tiếng kêu la của chúng sanh, tiếng va chạm của các chất, tiếng gió, tiếng nước, tiếng người, tiếng phi nhơn, hoặc là có tiếng nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu tiếng vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã nghe, hoặc đang nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc có thể nghe bằng tai vô kiến hữu đối chiếu; là thinh, đó là thinh xứ, đó là thinh giới. Ðây là sắc thinh xứ.

    Sắc thinh xứ ấy là thế nào?

    Thinh nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như tiếng trống chầu, tiếng trống cơm, tiếng tù và, tiếng chập chỏa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng chiêng, tiếng vỗ tay, tiếng kêu la của chúng sanh, tiếng va chạm của các chất, tiếng gió, tiếng nước, tiếng người, tiếng phi nhơn, hoặc là có tiếng nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc có thể dược tiếp xúc; đó là thinh, đó là thinh xứ, đó là thinh giới. Ðây là sắc thinh xứ.

    Sắc thinh xứ ấy là thế nào?

    Thinh nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như tiếng trống chầu, tiếng trống cơm, tiếng tù và, tiếng chập chỏa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng chiêng, tiếng vỗ tay, tiếng kêu la của chúng sanh, tiếng va chạm của các chất, tiếng gió, tiếng nước, tiếng người, tiếng phi nhơn, hoặc là có tiếng nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu là tiếng vô kiến hữu đối chiếu mà người đã tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc nơi tai vô kiến hữu đối chiếu; là thinh, đó là thinh xứ, đó là thinh giới. Ðây là sắc thinh xứ.

    Sắc thinh xứ ấy là thế nào?

    Thinh nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như tiếng trống chầu, tiếng trống cơm, tiếng tù và, tiếng chập chỏa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng chiêng, tiếng vỗ tay, tiếng kêu la của chúng sanh, tiếng va chạm của các chất, tiếng gió, tiếng nước, tiếng người, tiếng phi nhơn, hoặc là có tiếng nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu do bắt cảnh thinh nào mà nhĩ xúc nương tai đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do bắt cảnh thinh nào mà thọ sanh từ nhĩ xúc nương tai ... tưởng... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhĩ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... có cảnh thinh nào mà nhĩ xúc nương tai đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... có cảnh thinh nào mà thọ sanh từ nhĩ xúc nương tai ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... nhĩ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là thinh, đó là thinh xứ, đó là thinh giới. Ðây là sắc thinh xứ.

    [523] - Sắc khí xứ ấy là thế nào? (1)

    Khí nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như mùi rễ cây, mùi lỏi cây, mùi vỏ cây, mùi lá cây, mùi hoa, mùi trái cây, mùi tanh, hơi độc, mùi thơm, mùi thối, hoặc là có khí nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu là mùi vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã ngửi, hoặc đang ngửi, hoặc sẽ ngửi, hoặc có thể ngửi bằng tỷ vô kiến hữu đối chiếu; đó là khí, đó là khí xứ, đó là khí giới. Ðây là sắc khí xứ.

    Sắc khí xứ ấy là thế nào?

    Khi nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như mùi rễ cây, mùi lỏi cây, mùi vỏ cây, mùi lá cây, mùi hoa, mùi trái cây, mùi tanh, hơi độc, mùi thơm, mùi thối, hoặc là có khí nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu nơi mùi vô kiến hữu đối chiếu nào mà mũi vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc; đó là khí, đó là khí xứ, đó là khí giới. Ðây là sắc khí xứ.

    Sắc khí xứ ấy là thế nào?

    Khi nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như mùi rễ cây, mùi lỏi cây, mùi vỏ cây, mùi lá cây, mùi hoa, mùi trái cây, mùi tanh, hơi độc, mùi thơm, mùi thối, hoặc là có khí nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu là mùi vô kiến hữu đối chiếu mà đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc nơi mũi vô kiến hữu đối chiếu; đó là khí, đó là khí xứ, đó là khí giới. Ðây là sắc khí xứ.

    - Sắc khí xứ ấy là thế nào?

    Khi nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu như mùi rễ cây, mùi lỏi cây, mùi vỏ cây, mùi lá cây, mùi hoa, mùi trái cây, mùi tanh, hơi độc, mùi thơm, mùi thối, hoặc là có khí nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu do bắt cảnh khí nào mà tỷ xúc nương mũi đã sanh hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do bắt cảnh khí nào mà thọ sanh từ tỷ xúc nương mũi ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... tỷ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... có cảnh khí nào mà tỷ xúc nương mũi đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc có thể sanh có cảnh khí nào mà thọ sanh từ tỷ xúc nương mũi ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... tỷ thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó là khí, đó là khí xứ, đó là khí giới. Ðây là sắc khí xứ.

    [524] - Sắc vị xứ ấy là thế nào? (2)

    Vị nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu, như vị rễ cây, vị thân cây, vị vỏ cây, vị lá cây, vị hoa, vị quả, vị chua, vị ngọt, vị đắng, vị cay, vị mặn, vị bùi, vị nhẫn, vị chát, vị ngon, vị dở, hoặc là có vị nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu là vị vô kiến hữu đối chiếu nào mà người đã nếm, hoặc đang nếm, hoặc sẽ nếm, hoặc có thể nếm bằng lưỡi vô hữu kiến hữu đối chiếu; đó làvị, đó là vị xứ, đó là vị giới. Ðây là sắc vị xứ.

    Sắc vị xứ ấy là thế nào?

    Vị nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu, như vị rễ cây, vị thân cây, vị vỏ cây,vị lá cây, vị hoa, vị quả, vị chua, vị ngọt, vị đắng, vị cay, vị mặn, vị bùi, vị nhẩn, vị chát, vị ngon, vị dở, hoặc là có vị nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu nơi vị vô kiến hữu đối chiếu nào mà lưỡi vô kiến hữu đối chiếu đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc, đó làvị, đó là vị xứ, đó là vị giới. Ðây là sắc vị xứ.

    Sắc vị xứ ấy là thế nào?

    Vị nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu, như vị rễ cây, vị thân cây, vị vỏ cây,vị lá cây, vị hoa, vị quả, vị chua, vị ngọt, vị đắng, vị cay, vị mặn, vị bùi, vị nhẫn, vị chát, vị ngon, vị dở, hoặc là có vị nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu mà đã được tiếp xúc, hoặc đang được tiếp xúc, hoặc sẽ được tiếp xúc, hoặc có thể được tiếp xúc nơi lưỡi vô kiến hữu đối chiếu; đó làvị, đó là vị xứ, đó là vị giới. Ðây là sắc vị xứ.

    Sắc vị xứ ấy là thế nào?

    Vị nào nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu, như vị rễ cây, vị thân cây, vị vỏ cây,vị lá cây, vị hoa, vị quả, vị chua, vị ngọt, vị đắng, vị cay, vị mặn, vị bùi, vị nhẫn, vị chát, vị ngon, vị dở, hoặc là có vị nào khác nương bốn đại hiển vô kiến hữu đối chiếu do bắt cảnh vị nào mà thiệt xúc nương lưỡi đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... do bắt cảnh vị nào thọ sanh từ thiệt xúc nương lưỡi ... (trùng) ... tưởng ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thiệt thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... có cảnh vị nào mà thiệt xúc đã sanh hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh ... (trùng) ... có cảnh vị nào mà thọ sanh từ thiệt xúc nương lưỡi ... (trùng) ... tư ... (trùng) ... thiệt thức đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc có thể sanh; đó làvị, đó là vị xứ, đó là vị giới. Ðây là sắc vị xứ.

    [525] - Sắc nữ quyền ấy là thế nào?(1)

    Sắc nào của nữ, là căn nữ, tướng nữ, nết nữ, thái độ nữ, tánh hạnh nữ, trạng thái nữ. Ðây là sắc nữ quyền.

    [526] - Sắc nam quyền ấy là thế nào? (2)

    Sắc nào của nam, là căn nam, tướng nam, nết nam, thái độ nam, tánh hạnh nam, trạng thái nam. Ðây là sắc nam quyền.

    [527] - Sắc mạng quyền ấy là thế nào? (3)

    Sắc nào là sự thọ mạng, sự duy trì, sự nuôi sống, sự nuôi dưỡng, sự tiếp diễn, sự tồn tại, sự gìn giữ, sự sống còn, quyền sống còn của các pháp sắc kia. Ðây là sắc mạng quyền.

    [528] - Sắc thân biểu tri ấy là thế nào?

    Sắc nào là sựlay động, sự cử động, sự biểu tri, cách biểu tri, trạng thái biểu tri của thân có tâm thiện, hoặc tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký, bước tới, bước lui, ngó qua, ngó lại, co vào, duỗi ra. Ðây là sắc thân biểu tri.

    [529] - Sắc khấu biểu tri (1)ấy là thế nào?

    Sắc nào là lời nói, phát biểu, chuyện vãn, thuật sự, phát âm, hành vi phát âm, ngôn ngữ, phát ngôn của người có tâm thiện, hoặc tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký; đây gọi là ngôn ngữ, pháp là sự biểu tri, cách biểu tri, trạng thái biểu tri bằng ngôn ngữ ấy. Ðây là sắc khẩu biểu tri.

    [530] - Sắc hư không giới (2)ấy là thế nào?

    Sắc nào là khoảng trống, hiện tượng khoảng trống, trống rỗng, hiện tượng trống rỗng, kẻ hở, hiện tượng kẻ hở, không xúc chạm với bốn đại hiển. Ðây là sắc hư không giới.

    [531] - Sắc sắc khinh (3)ấy là thế nào?

    Sắc nào là sự nhẹ nhàng của sắc, cách biến đổi nhẹ nhàng, sự không chậm chạp, sự không chần chờ. Ðây là sắc sắc khinh.

    [532] - Sắc sắc nhu (4)ấy là thế nào?

    Sắc nào là sự nhu nhuyễn của sắc, sự mền mại, cách không thô cứng cách không cương ngạnh. Ðây là sắc sắc nhu.

    [533] - Sắc sắc thích nghiệp ấy là thế nào? (5) Sắc nào là sự thích hợp với việc làm của sắc, cách thích hợp với việc làm, trạng thái thích hợp với việc làm. Ðây là sắc sắc thích nghiệp.

    [534] - Sắc tích tụ ấy là thế nào? (6)

    Sắc nào là sự tích tập các xứ, sắc ấy là tích tụ sắc. Ðây là sắc tích tụ.

    [535] - Sắc sắc thừa kế (7)ấy là thế nào?

    Sắc nào là tích tụ sắc, sắc ấy là thừa kế của sắc. Ðây là sắc thừa kế.

    [536] - Sắc sắc lão mại (8)ấy là thế nào?

    Sắc nào là sự cũ kỷ của sắc, già nua, răng long, tóc bạc, da nhăn, giảm thọ, chín muồi các căn. Ðây là sắc sắc lão mại.

    [537] - Sắc sắc vô thường ấy là thế nào? (1)

    Sắc nào là sự hoại tận của sắc, sự biến hoại, sự tiêu tán, sự phân tán, trạng thái không thường còn, sự biến mất. Ðây là sắc sắc vô thường.

    [538] - Sắc đoàn thực ấy là thế nào?

    Tức cơm, bánh ướt, bánh khô, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông, bơ lỏng, bơ tươi, dầu, mật ong, nước mía, hoặc là có sắc nào khác là thức nhai răng, đáng miệng ăn, vật no bụng, đáng nuốt khỏi cổ của từng nhóm chúng sanh trong mỗi mỗi xứ; các chúng sanh nuôi sống bằng bất luận dưỡng tố nào. Ðây là sắc đoàn thực.

    Dứt Phần Chia Sắc Y Sinh.

    Dứt Phần Thứ Nhất Bát Thiên Tự - Chương Sắc.

    -oo0oo-

    (1) Sắc không phải là pháp đáng cho sơ đạo, hay đạo cao đoạn trừ.

    (2) Sắc không phải là pháp hữu nhân đáng cho sơ đạo, hay đạo cao đoạn trừ.

    (3) Sắc không phải là nhân tố làm cho luân hồi.

    (4) Sắc không phải là nhân tố để đạt đến Níp Bàn.

    (5) Sắc không phải là pháp đem ra khỏi luân hồi.

    (6) Ðây là 45 danh nghĩa của sắc pháp.

    ---

    (1) Sắc y sinh (upādāyarūpa) . Upādayati nissiyatī’ ti upādāyaṃ: Nương vào mà sanh ra, gọi là y sinh. Sắc y sinh là sắc phải nương vào tứ đại mới có được.

    (2) Cakkhāyatana (cakkhu + āyatana).

    (3)Mahābhūtarūpa - sắc đại hiển là: Ðất, nước, lửa, gió.

    (4) Anidassanasappaṭigha: vật chất không thấy được nhưng đối chiếu được.

    (5) Sanidassanasappaṭigha: vật chất thấy được và có đối chiếu được.

    ---

    (1) Sotāyatanaṃ (sota + āyatana).

    ---

    (1) Ghānāyatana (ghāna + āyatana).

    (2) Jivhāyatana (jīvha + āyatana).

    ---

    (1) Kāyāyatana (kāya + āyatana).

    ---

    (1) Rūpāyatana (rūpā + āyatana).

    ---

    (1) Saddāyatana (sadda + āyatana).

    ---

    (1) Gandhāyatana (gandha + āyatana).

    ---

    (1) Rasāyatana (rasa + āyatana).

    (2Itthindriya.

    (3) Purisindriya.

    ---

    (1) Jīvitindriya.

    (2) Kāvaviññatti.

    (3) Akāsadhātu.

    (4) Akāsadhātu.

    (5) Mudutā.

    (6) Tâm vô ký tố này là tâm khai ý môn (manodvārāvajjanacitta).

    (7) Upacaya.

    (8) Santati.

    (9) Jāratā.

    ---

    (1) Aniccatā

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.