Sớ giải Trưởng Lão Tăng Kệ

Sớ giải Trưởng Lão Tăng Kệ

    THERAVĀDA

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

     

    LỜI VÀNG BẬC THÁNH

    SỚ GIẢI TRƯỞNG LÃO TĂNG-NI KỆ

     

    Bhikkhu Kusalapuñño

    (Tỳ khưu Thiện Phúc)

    Ấn bản 2007

     

    PHẦN I

    SỚ GIẢI TRƯỞNG LÃO TĂNGKỆ

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI

    Trưởng lão Subhūti đã nói lên kệ ngôn:

    "Am thất ta khéo lợp
    An lạc ngăn chận gió
    Này mưa hãy mưa đi
    Tâm ta khéo định tĩnh
    Giải thoát sống tinh cần
    Này mưa hãy mưa đi"

    Tương truyền: trước khi Đức Phật Padumuttara (Liên Hoa Phật) ra đời, trong thành Haṃsavati (Thiên Nga Thành) có một gia đình Bàlamôn sanh ra một cậu bé kháu khỉnh, có tên là Nanda, Nanda rất thông minh và hiếu học.

    Khi đến tuổi trưởng thành, cậu đã học thông suốt ba tạng kinh phệ đà, nhưng vẫn không tìm thấy sự huyền nhiệm đặc biệt nào nên cậu từ bỏ đời sống thế tục vào rừng xuấg gia làm đạo sĩ. Do thiện duyên quá khứ và nỗ lực tinh cần thực hành thiền định, không bao lâu đạo sĩ Nanda đã chứng đạt bát thiền ngũ thông. Sau đó đạo sĩ Nanda tế độ cho 44.000 thanh niên khác xuất gia làm đạo sĩ, nhờ tận tâm dạy dỗ nên một thời gian không lâu, các học trò của đạo sĩ Nanda cũng đắc chứng thiền định.

    Lúc bấy giờ, Đức Chánh Đẳng Giác với hồng danh Padumuttara xuất hiện trên thế gian và ngự tại thành Haṃsavati. Một hôm Ngài dùng Phật nhãn soi rọi thế gian để tìm người hữu duyên, Ngài nhìn thấy nhóm đệ tử của đạo sĩ Nanda có duyên lành với quả vị Alahán và đạo sĩ Nanda ước nguyện thành bậc đại thinh văn, Đức Thế Tôn Padumuttara đắp y mang bát độc hành ngự đi ví như sư tử chúa ra đi một mình, Ngài ngự đến trú xứ của đạo sĩ Nanda. Bấy giờ, các học trò của đạo sĩ Nanda đã vào rừng hái trái, chỉ còn lại đạo sĩ Nanda, đạo sĩ nhìn thấy Đức Phật từ hư không ngự xuống đứng trước thảo am của mình, ông kinh ngạc, sau một thoáng ngạc nhiên, ông quan sát và thấy rõ 32 đại nhân tướng của vị Chánh Đẳng Giác. Là người thông hiểu tam phệ đà, nên đạo sĩ Nanda biết rằng: "người nào đầy đủ những đại nhân tướng này, người ấy nếu sống thế tục sẽ là vị Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia sẽ thành vị Chánh Đẳng Giác, như vậy vị sa môn này chắc chắn là Bậc Chánh Đẳng Giác, như vậy vị sa môn này chắc chắn là bậc Chánh Đẳng Giác". Sau khi suy nghĩ như thế, đạo sĩ Nanda liền đảnh lễ một cách cung kính rồi sắp đặt sàng toạ, cung thỉnh Đức Phật an toạ.

    Đức Thế Tôn ngự toạ trên chỗ ngồi mà đạo sĩ đã sắp đặt, đạo sĩ chọn một chỗ ngồi thích hợp rồi ngồi xuống một bên.

    Nói về 44.000 vị học trò sau khi vào rừng hái trái trở về, chọn lựa những quả tươi ngon mang đến am thất thầy mình. Khi nhìn thấy quang cảnh hiện tại liền bạch rằng: "Bạch thầy! chúng con nghĩ rằng trên thế gian này không có ai cao quý hơn thầy, nhưng dường như người này còn cao quý hơn thầy?".

    - Này các con! Các con vừa nói gì? Các con muốn so sánh núi Tu di sơn vương (cao 680.000 do tuần) với hạt cải à, các con chớ có lấy ta mà so sánh với Đức Chánh Đẳng Chánh Giác".

    Các đệ tử của đạo sĩ suy nghĩ rằng: "Nếu vị này là người thấp kém thì thầy đâu có so sánh như thế, nhưng chẳng biết người này cao quý như thế nào?", nghĩ thế nhưng họ vẫn cùng nhau quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật.

    Đạo sĩ Nanda bảo các học trò rằng: "Nầy các con! những vật thí tương ứng với Đức Phật thì chúng ta không có, nhưng đã đến thời Đức Thế Tôn thọ thực, vậy chúng ta sẽ cúng dường bằng những gì chúng ta có, các con hãy chọn những quả thật ngon mang đến đây". Sau khi rửa tay xong đạo sĩ tự mình đặt những trái cây ngon vào bát của Đức Phật.

    Trong lúc Đức Thế Tôn thọ nhận trái cây từ tay đạo sĩ Nanda thì chư thiên cũng đặt thiên thực cúng dường, rồi tự thân đạo sĩ Nanda lọc nước dâng đến Đức Phật.

    Khi Đức Phật thọ thực xong, đạo sĩ Nanda gọi tất cả học trò mình đến rồi nói lời sārānīya tại nơi Đức Thế Tôn ngồi.

    Đức Phật liền khởi lên tư tưởng: "Mong chư tỳ khưu tăng hãy đến đây". Một trăm ngàn vị thánh tăng Alahán cảm nhận được tư tưởng của bậc Đạo sư liền dùng thần thông bay đến đảnh lễ Đức Đạo sư, xong rồi đứng qua một bên.

    Đạo sĩ Nanda bảo các học trò rằng: "Nầy các con, sàng toạ của Đức Thế Tôn đang ngồi hãy còn thấy, huống chi là sàng toạ của trăm ngàn vị thánh thinh văn, các con nên bày tỏ sự tôn kính của các con đối với Đức Thế Tôn và đại chúng tăng đi, các con hãy đi tìm những bông hoa có đủ màu sắc và hương thơm mang về đây".

    Chỉ trong chốc lát, các đạo sĩ mang về những bông hoa có đầy đủ hương sắc của núi rừng, với năng lực thần thông của mình, các đạo sĩ kết thành sàng toạ cao khoảng một do tuần để cúng dường đến Đức Phật, làm sàng toạ cao khoảng ¾ do tuần để cúng dường đến chư đại Thinh văn, làm sàng toạ cao khoảng ½ do tuần để cúng dường đến chư thánh tăng trưởng lão và làm sàng toạ cao khoảng ¼ do tuần để cúng dường chư thánh tăng còn lại.

    Khi các đạo sĩ sắp đặt sàng toạ xong, đạo sĩ Nanda đứng chắp tay, hướng đến Đức Thế Tôn thưa rằng:

    - "Bạch Thế Tôn! Xin Ngài ngự lên sàng toạ bằng hoa này để chúng con được sự lợi ích, sự an lạc lâu dài".

    Đức Thế Tôn ngự toạ lên sàng toạ bằng hoa ấy, lần lượt chư Thánh tăng tuần tự theo hạ lạp ngự vào ngỗ ngồi của mình.

    Đạo sĩ Nanda cầm cây lọng hoa lớn đứng che trên đầu của Đức Phật. Đức Phật chú nguyện rằng: "Với hành động tôn kính này xin cho đạo sĩ được quả báo lớn", chú nguyện xong Ngài nhập diệt thọ tưởng định. Chư tỳ khưu sau khi biết bậc đạo sư đã an trú trong thiền, cũng cùng nhau nhập thiền. Trong suốt thời gian bảy ngày bậc đạo sư nhập thiền, ngoại trừ lúc đi hái trái và thọ thực, thời gian còn lại các đạo sĩ đều đứng chắp tay hướng về Đức Phật.

    Riêng đạo sĩ Nanda không thọ thực, đứng cầm lọng hoa suốt bảy ngày và sống với tâm đầy phỉ lạc. Sau khi xuất thiền diệt, bậc đạo sư phán bảo một tỳ khưu có đủ hai chi phần: "là người vô phiền và là người đáng cúng dường" rằng: "con hãy nói pháp để khích lệ, để làm hoan hỷ đến các đạo sĩ về sự cúng dường sàng toạ bằng hoa này đi".

    Vị trưởng lão ấy vô cùng hoan hỷ ví như người hầu cận được nhận ban Thuởng từ đức Chuyển Luân Vương. Khi vị trưởng lão thuyết pháp hoan hỷ xong, bậc đạo sư thuyết lên pháp thoại đến đạo sĩ Nanda cùng các đạo sĩ đệ tử. Dứt thời pháp cả 44.000 đạo sĩ đệ tử đều chứng quả vị Alahán, bậc đạo sư liền đưa tay ra phán rằng:

    - "Này các con! Hãy trở thành tỳ khưu"

    Tức thì râu tóc của các đạo sĩ ấy tự nhiên biến mất và trên người có đầy đủ tám món phụ tùng. Giống như vị trưởng lão 60 hạ đang vây quanh bậc đạo sư. Còn đạo sĩ Nanda không chứng đắc đạo quả nào cả vì có tâm phóng dật. Được nghe rằng lúc ấy đạo sĩ Nanda đang thoả thích với hình ảnh của vị trưởng lão và khởi lên ước muốn rằng: "Trong thời giáo pháp của Đức Phật vị lai, mong sao ta được thành tựu giống như vị trưởng lão này vậy".

    Do dòng tư tưởng đó, nên đạo sĩ Nanda không thể chứng đắc đạo quả, đạo sĩ Nanda tiến đến đảnh lễ bậc đạo sư rồi đứng lên thưa rằng: "Kính bạch đức Thế Tôn, vị tỳ khưu nói lời tuỳ hỷ về sàng toạ kết bằng hoa này có danh hiệu thế nào trong giáo pháp của Ngài?"

    - "Này đạo sĩ! Vị tỳ khưu ấy đạt danh hiệu là người trú trong vô phiền và là người xứng đáng được cúng dường".

    Nghe xong đạo sĩ Nanda liền phát nguyện rằng: "Kính bạch đức Thế Tôn, phước báo nào con đã tạo suốt bảy ngày qua, con không cầu mong một tài sản nào cả, chỉ ước nguyện thành tựu hai chi phần như vị trưởng lão ấy, trong giáo pháp của Đức Phật vị lai".

    Bậc Đạo Sư dùng Phật nhãn quán xét xem nguyện vọng của đạo sĩ này có thành tựu hay không, Ngài thấy rằng ước nguyện của đạo sĩ sẽ thành tựu sau 100,000 đại kiếp nữa, rồi Ngài phán rằng: "Trải qua 100.000 đại kiếp, vào thời giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác hồng danh là Gotama ước nguyện của ngươi sẽ thành tựu như ý". Rồi Ngài cùng với chư tỳ khưu tăng theo đường hư không trở về thành Haṃsavati. Đạo sĩ Nanda đứng chấp tay hướng về bậc đạo sư và chư thánh tăng cho đến khuất tầm mắt. Từ đó về sau đạo sĩ thường đến thính pháp nơi Đức Thế Tôn.

    Khi mãn tuổi thọ, do còn giữ thiền chúng đạo sĩ Nanda được sanh lên cõi Phạm Thiên, khi dứt thọ mạng lên cõi trời Phạm Thiên, đạo sĩ Nanda sanh xuống cõi người, suốt 500 kiếp đạo sĩ đều xuất gia và nương trú trong rừng. Đến thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa (Ca diếp), Ngài cũng xuất gia và là người sống hạnh ở rừng, Ngài nỗ lực thực hành gatapaccāgata (tức là không thối chuyển hạnh nguyện) một cách đầy đủ. Được nghe rằng với người nào không thực hành pháp này thì không thể thành đạt bậc Đại Thinh Văn. Đạo sĩ Nanda đã thực hành gatapaccāgata đến 120 năm, khi mạng chung Ngài sanh lên cõi trời Đạo Lợi. Như lời Ngài nói trong Apadāna rằng:

    - "Không xa Hy mã lạp sơn có một ngọn núi tên là Nisabha, ta tạo dựng một tam thất rất xinh xắn tại đấy, lúc bấy giờ ta là đạo sĩ Koliya sống độc cư một mình tại núi Nisabha. Thửa ấy ta không dùng trái cây và khoai củ, ta chỉ dùng những lá cây rơi rụng để nuôi sống, ta không vì sinh mạng, mà từ bỏ hạnh nguyện, dù phải hy sinh tánh mạng ta cũng cam lòng. Trừ Anesanācitta (tâm tà mạng), tương ưng với tham – sân sanh lên với ta khi nào, khi ấy ta tự dạy mình rằng: "hãy nhiếp phục tâm ấy, khi ngươi tham trong cảnh tham, sân trong cảnh tham, sân trong cảnh sân và si trong cảnh si thì ngươi hãy ra khỏi khu rừng này, đây là trú xứ của người thanh tịnh ly cấu uế và sống tinh cần, ngươi chớ có hãm hại người thanh tịnh, ngươi hãy rời khỏi rừng, ví như củi thiêu tử thi không thể dùng vào việc chi được và cây ấy không thể cho là cây nhà hoặc cây rừng được như thế nào thì ngươi cũng ví như củi thiêu xác chết ấy, là cư sĩ cũng không phải, là sa môn cũng không phải, hôm nay ngươi đã rời khỏi cả hai hình tướng, ngươi hãy ra khỏi rừng đi. Tà tâm này có thích hợp với ngươi hay chăng?. Ai sẽ biết điều này của ngươi, ai sẽ giải quyết phận sự của ngươi được? do ngươi quá lười biếng, người trí sẽ chán ghét ngươi ví như dân chúng chán ghét vật ô uế, các đạo sĩ sẽ khiển trách ngươi, người trí sẽ bố cáo rằng: "ngươi đã vi phạm giáo quy", khi không được cộng trú với các bậc ấy, ngươi sẽ sống ra sao. Ví như con voi già yếu bị đuổi ra khỏi bầy, chịu sầu khổ như thế nào thì các đạo sĩ sẽ đuổi ngươi – kẻ thiếu trí – ngươi sẽ bị sầu khổ như thế ấy, ngươi sẽ phải sầu khổ ngày đêm ví như con voi già bị đuổi ra khỏi bầy vậy.

    Khuôn vàng không bị đốt cháy như thế nào, người bị hoại giới sẽ không làm cho phiền não cháy rụi được cũng như thế ấy, ngươi sẽ sống ra sao khi trở về thế tục, tài sản của cải do cha mẹ để lại nay cũng không còn, ngươi sẽ phải làm việc cực nhọc vất vả nếu ngươi không thích nghiệp lành, ta sẽ ngăn chặn không cho ngươi huân tập phiền não đâu, lúc bấy giờ, ta tự nhủ lòng như thế. Để ngăn chặn ác pháp sanh khởi, ta sống trong sự không dễ duôi suốt ba mươi ngàn năm tại rừng già. Đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara thấy ta là người hoan hỷ trong pháp không dễ duôi, dù người tìm cầu lợi ích tối thượng. Ngài ngự đến trú xứ của ta. Đức Thế tôn có hào quang như vàng ròng chiếu sáng vô lượng không ai sánh bằng, Ngài đi kinh hành trên hư không giống như cây chúa có trổ hoa rực rỡ, như tia chớp trong đám mây đen, như sư tử chúa hùng dũng, như tượng chúa uy nghi, như cọp chúa không hề run sợ. Đức Phật có hào quang như vàng singī toả sáng, như lửa than cây sáo đen, có hào quang rực rỡ như vòng ngọc Manī. Đức Phật ngự đi kinh hành trên hư không trong lúc ấy, có hào quang ví như vàng Kareyyalāsa thanh tịnh, như ánh trăng rằm, như mặt trời giữa trưa. Khi ta thấy Ngài đang đi kinh hành trên hư không bèn suy nghĩ rằng: "vị này là chư thiên hay loài người? người như vậy ta chưa từng nghe chưa từng gặp trên cõi đời này, nhờ vào phệ đa ta biết được vị ấy là Đức Thế Tôn. Sau khi biết được như thế, ta khởi lòng tịnh tín, ta nhặt lấy những bông hoa và vật thơm sắp đặt một sàng toạ xinh đẹp khả ái, khả ý, rồi ta bạch với Thế Tôn rằng: "kính bạch bậc Đại Hùng, sàng toạ xứng đáng với Ngài tôi đã sắp đặt xong, xin Ngài hãy tiếp độ cho tôi được hoan hỷ bằng cách ngự trên sàng toạ bông hoa này". Đức Thế Tôn như sư tử chúa ngự trên chỗ ngồi bông hoa thù diệu ấy suốt bảy ngày bảy đêm. Bậc đạo sư sau khi xuất thiền diệt, Ngài đã tiên đoán hạnh nghiệp của ta rồi thuyết Phật ngôn rằng: Ngươi hãy tu tiến Buddhānussati (tuỳ niệm Phật), một đề mục tu tập thù thắng hơn các đề mục khác, tu tiến tuỳ niệm Phật sẽ khiến cho tâm được an lạc trong thiên giới suốt 30.000 kiếp, sẽ được làm thiên chủ thọ hưởng thiên sản 80 lần, sẽ được làm Chuyên Luân Vương chúa của nhân loại 1.000 lần và được rất nhiều lần làm vua đại quốc, đây là quả của việc tu tiến niệm Phật và trong vòng luân hồi sanh tử sẽ làm người sung túc tài sản, không thiếu kém tài sản, đây là quả của việc tu tiến niệm Phật. Khi trải qua 100.000 kiếp, ta được sinh ra trong triều đại Okāka, đã dứt bỏ tài sản 800 triệu cùng nhiều thứ khác, khi xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn hồng danh là Gotama, có tên gọi là Subhūti. Bậc đạo sư Gotama lúc ngồi giữa chư tỳ khưu tăng đã tuyên dương ta là người thù thắng hơn chư tỳ khưu về hai chi phần:

    - Xứng đáng được cúng dường
    - Là người sống không có kẻ đối nghịch

    Đức Thế Tôn bậc Đại Hùng sau khi tiên đoán như thế đã bay lên hư không ví như khổng tước vương giữa bầu trời. Ta khắc ghi lời dạy của bậc đạo sư và luôn thoả thích trong việc tu tiến niệm Phật, với thiện nghiệp đó sau khi mạng chung ta được sanh lên cõi Đạo Lợi, 80 lần làm thiên chủ và thọ hưởng đầy đủ các thiên sản và 1000 lần làm Chuyển Luân Vương và rất nhiều lần làm vua đại quốc thọ hưởng đầy đủ những lạc thú ở đời, và trong vòng luân hồi ta là người có đầy đủ tài sản, không bị thiếu thốn về vật chất, đây là quả của việc tu tiến niệm Phật. Trong 100.000 kiếp kể từ kiếp này ta tạo thiện nghiệp nào, do quả của thiện nghiệp ấy, ta không hề biết khổ cảnh, đây là quả của việc tu tiến niệm Phật, các ân đức thù thắng như là: tứ vô ngại giải, bát giải thoát và sáu thắng trí ta đã tác chứng, lời Phật dạy ta đã làm xong.

    Được biết, trưởng lão Subhūti đã nói lên các bài kệ như thế.

    Sau khi mạng chung, đạo sĩ Nanda được sanh lên thiên giới thọ hưởng thiên sản thù thắng, sau khi mạng chung từ cõi Đạo Lợi tái sanh làm Chuyển Luân Vương sau đó sanh làm Đại Đế cả 1000 lần thọ hưởng đầy đủ mọi nhân sản thù thắng. Đến thời giáo pháp của bậc đạo sư chúng ta, tái sanh làm em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc trong gia đình trưởng giải Sumana tại thành Sāvatthī với tên gọi là Subhūti.

    Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ chuyển pháp luân, rồi Ngài tuần tự ngự đến thành Rājagaha để tiếp độ quần sanh và trú tại rừng Sītavana. Một hôm, trưởng giả Anāthapiṇdika (Cấp Cô Độc) được tin Đức Phật đã ra đời hiện đang ngự tại rừng Sītavana, trưởng giả đi đến yết kiến Đức Thế Tôn, Đức Phật thuyết pháp tế độ trưởng giả, dứt thời pháp trưởng giả Anāthapiṇdika (Cấp Cô Độc) chứng quả Dự Lưu, cũng trong dịp đó ông đã thỉnh Đức Phật ngự đến thành Sāvatthī (Xá Vệ). Từ thành Rājagaha (Vương Xá) đến thành Sāvatthī xa 45 do tuần, mỗi một do tuần trưởng giả bỏ ra 100.000 đồng vàng để xây dựng tịnh xá cho Đức Phật dừng chân và ông đã mua một khu vườn xoài của thái tử Jeta rộng khoảng 8 kārīsa bằng cách lấy vàng trải lên trên mặt đất. Trong ngày bậc đạo sư tiếp nhận Jetavanavihāra (tịnh xá Kỳ Viên), thanh niên Subhūti cũng tham dự, sau khi nghe pháp xong chàng phát khởi lòng tin rồi xin xuất gia.

    Khi thọ cụ túc giới xong vị tỳ khưu này tinh cần học pháp và đã thông hiểu nằm lòng 2 mātikā, kế đó trưởng lão vào rừng hành sa môn pháp, tu tiến thiền quán lấy từ tâm làm nền tảng và được chứng quả Alahán. Khi thuyết pháp, trưởng lão thuyết với tâm quảng đại không phân biệt, không hạn lượng nên trưởng lão được danh xưng là vị thù thắng hơn chư tỳ khưu về hạnh từ vô lượng. Khi đi khất thực, trưởng lão nhập thiền từ tâm vô lượng sau khi xả thiền mới nhận vật thực vì trưởng lão nghĩ rằng: "với cách này thí chủ sẽ được nhiều phước báu" do đó trưởng lão được danh hiệu là vị xứng đáng được cúng dường đệ nhất.

    Đức vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) được nghe những hạnh lành về trưởng lão, nên ngự đến nơi trú của Ngài, đảnh lễ thưa rằng: "Kính bạch tôn giả xin thỉnh Ngài hãy lưu trú tại đây" và trong thâm tâm của vua nghĩ rằng: "ta sẽ kiến tạo một am thất cúng dường trưởng lão". Sau khi Đức vua quay về hoàng cung vì bận nhiều quốc sự nên Đức vua quên mất lời hứa của mình. Còn về trưởng lão Bhūti sau khi nhận lời Đức vua đã ngụ tại nơi ấy nhưng vì chưa nhận được thất trưởng lão phải ngụ hành thiền ngoài trời do oai đức của trưởng lão nên trời không đổ mưa.

    Dân chúng bị khô hạn bức bách, cùng nhau kéo đến hoàng cung than van kêu nài, Đức Vua bèn suy xét rằng: "Do nhân gì trời không mưa?" và Ngài nghĩ rằng có lẽ do trưởng lão còn ở ngoài trời nên trời không mưa, rồi Ngài phán truyền cho xây am thất bằng lá để dâng đến trưởng lão, sau khi xây cất xong, Đức vua ngự đến thưa rằng: "Kính bạch tôn giả, xin thỉnh Ngài hãy ngự trong am thất này đi".

    Kế đó, trưởng lão muốn giải trừ mối lo sợ khô hạn của dân chúng, Ngài bèn tuyên bố sự không lo sợ ở bên trong và bên ngoài của mình bằng bài kệ rằng:

    "Am thất ta khéo lợp
    An lạc ngăn chận gió
    Này mưa hãy mưa đi
    Tâm ta khéo định tĩnh
    Giải thoát sống tinh cần
    Này mưa hãy mưa đi"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO KUṆDADHĀNA

    Được biết trưởng lão Kuṇḍadhāna đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Vị tỳ khưu chặt đứt
    Năm hạ phần kiết sử
    Năm thượng phần, từ bỏ
    Tu tập làm tăng trưởng
    Năm pháp trợ giác ngộ
    Năm chướng ngại vượt qua
    Được gọi vượt bộc lưu"

    Tương truyền: trong thời Đức Thế Tôn Padumut-tara, trưởng lão sanh trong một gia đình sống tại thành Haṃsavati. Một hôm lúc đến chùa nghe pháp, nhìn thấy một vị tỳ khưu được Đức Thế Tôn tán thán có sự thù thắng hơn chư tăng là được nhận thăm trước, muốn đạt được ngôi vị đó, nên chàng cố tìm cơ hội để tạo phước duyên thích ứng. Rồi cơ hội quý báu ấy đã đến, lúc bất giờ Đức Thế Tôn Padumuttara vừa xả thiền diệt chàng đã cúng dường một nải chuối to chín vàng, Đức Thế Tôn nhận nải chuối ấy rồi thọ thực.

    Do thiện sự này, 11 lần chàng được làm thiên chủ, 24 lần làm Chuyển Luân Vương, rôi chàng tiếp tục tạo phước trong thời gian luân chuyển giữa hai cõi trời, người. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, chàng sanh làm một vị chư thiên Bhummadeva (địa cư thiên).

    Theo thông lệ, khi chư Phật có tuổi thọ dài thì không làm lễ Bố Tát trong mỗi nửa tháng như Đức Phật hiện tại, Đức Phật Vipassi sáu năm mới hành lễ Bố Tát một lần, còn thời Đức Phật Kassapa đến sáu tháng mới đọc tụng giới bổn một lần.

    Bấy giờ, trong giáo pháp Đức Phật Kassapa có hai vị tỳ khưu rất thân thiết với nhau, đang trên đường đi đến nơi hành lễ Bố Tát. Vị chư thiên Bhummadeva này nghĩ rằng: "Hai vị tỳ khưu này rất thân thiết với nhau, nếu có người gây chia rẽ, họ có chia rẽ nhau không?" nghĩ như vậy bèn chờ đợi cơ hội. Khi đi được một đoạn đường, một vị cần làm vệ sinh tay chân nên nhờ bạn mình cầm hộ y bát, rồi bước đến lùm cây chỗ có nước trong, vị chư thiên này chờ vị tỳ khưu rửa ráy xong, rời khỏi lùm cây liền biến thành một phụ nữ xinh đẹp với tóc xoã đang cột lại, phủi bụi, rồi chỉnh trang lại quần áo bước theo sau lưng vị tỳ khưu vừa rời khỏi lùm cây. Vị tỳ khưu đứng chờ ở ngoài thấy vậy, tâm phẫn nộ phát sanh, nghĩ rằng: "Tình cảm thân thiết bấy lâu nay với tỳ khưu này đến đây là hết. Nếu biết y có nhiều tham dục như vậy, ta đã không kết thân với y". Sau khi vị ấy đến, vị này bèn nói rằng: "Này hiền giả hãy nhận lại y bát, từ nay ta sẽ không đi chung với người thấp hèn như ông nữa". Nghe lời này, vị tỳ khưu cảm thấy đau nhói như bị ai cầm dao bén đâm vào người vậy, liền hỏi vị tỳ khưu bạn rằng:

    - "Này hiền giả! hiền giả nói gì tôi không hiểu, tôi có phạm tội gì chăng? Vì sao hiền giả gọi tôi là người thấp hèn!"

    - "Tôi vừa thấy ông bước ra khỏi lùm cây cùng với người phụ nữ tóc tai y phục xốc xếch, chẳng phải vậy sao?"

    - "Này hiền giả! chuyện này không có và tôi cũng không thấy người phụ nữ nào cả!"

    Mặc dù vị tỳ khưu bị oan đính chính đến ba lần nhưng vị tỳ khưu bạn vẫn không tin, cho rằng điều mình thấy là sự thật và không đồng hành với vị ấy, đã rẽ sang một con đường khác đến chỗ Đức Thế Tôn ngự.

    Đến giờ hành lễ Bố Tát, chư tăng câu hội nơi chánh điện, vị tỳ khưu bạn nhìn thấy vị kia nơi chánh điện liền đi ra ngoài với sự suy nghĩ rằng: "Vị tỳ khưu như vậy có mặt trong chánh điện thì ta sẽ không làm lễ Bố Tát chung".

    Lúc bấy giờ vị chư thiên suy nghĩ rằng: "Ta đã tạo một ác nghiệp rồi" nên hoá thành một cận sự nam đi đến chỗ vị tỳ khưu bên ngoài thưa rằng:

    - Bạch tôn giả! Vì sao Ngài lại đứng đây?

    - Này cận sự nam! Có một vị tỳ khưu thấp hèn đi vào trong chánh điện, tôi không thể hành lễ Bố Tát với vị ấy nên tôi ra đứng đây.

    - Kính bạch tôn giả! Ngài chớ nghĩ thế, vị tỳ khưu ấy có giới trong sạch, người phụ nữ ngài thấy chính là tôi hoá ra để thử tình bạn của hai vị, xem tình bạn của hai vị có vững chắc hay không.

    - Này cận sự nam! Ông là ai?

    - Kính bạch tôn giả! Tôi là một thiên nhân.

    Sau khi trình bày việc làm của mình xong, vị chư thiên quỳ dưới chân vị tỳ khưu cầu xin rằng:

    - Kính bạch tôn giả! Xin Ngài hãy tha lỗi cho tôi, vị tỳ khưu kia không hay biết chi cả, xin Ngài hãy hành lễ Bố Tát chung.

    Nói xong rồi cung thỉnh vị tỳ khưu kia vào chánh điện, vị tỳ khưu ấy đi vào chánh điện bằng lòng hành lễ Bố Tát chung nhưng không ngồi kế cận vị tỳ khưu bị oan và cũng không đề cập đến chuyện của vị ấy nữa. Vị tỳ khưu bị oan tinh cần nỗ lực hành pháp không bao lâu cũng được chứng quả Alahán.

    Do quả của hành động này, vị chư thiên phải đoạ vào khổ cảnh suốt một thời kỳ Đức Phật, đến thời giáo pháp của bậc đạo sư chúng ta, vị ấy được sanh vào gia đình Bàlamôn trong thành Sāvatthī và có tên là Dhāna. Dhāna khi lớn lên học nằm lòng tam phệ đà. Một hôm Dhāna đến nghe Đức Phật thuyết pháp, ông phát khởi niềm tin và xin xuất gia.

    Kể từ ngày ông thọ cụ túc giới xong, luôn luôn có bóng hình người phụ nữ hiện hữu sau lưng, cho dù lúc ông vào làng khất thực, lúc tại chùa, lúc trong cốc bóng hình người phụ nữ ấy vẫn theo sát bên mình, đó là do ác nghiệp cũ còn dư sót, nhưng tỳ khưu Dhāna không thấy, những người khác thì thấy. Khi trưởng lão đi khất thực, những người phụ nữ đến cúng dường vật thực họ thường nhạo rằng:

    - Bạch tôn giả! Đây là phần vật thực dành cho Ngài, đây là phần vật thực dành cho bạn của chúng tôi.

    Với sự chế nhạo như thế khiến cho trưởng lão vô cùng vất vả trong việc khất thực. Thậm chí có một số tỳ khưu trẻ và sa di chế diễu rằng "ông Dhāna tồi tệ".

    Kể từ đó trưởng lão có cái tên mới là: Kuṇḍa-dhānathera, trưởng lão cố gắng kham nhẫn, nhưng không thể chịu đựng được sự nhạo báng quá nhiều từ các vị tân tỳ khưu và sadi nên đã phẫn nộ rằng: "Hỡi bọn tồi tệ, thầy tế độ của các ngươi, thầy giáo thọ của các ngươi đều là bọn tồi tệ".

    Chư tỳ khưu đến Đức Thế Tôn bạch rằng: "kính bạch Đức Thế Tôn! Kuṇḍadhāna đã dùng ác ngữ đối với các tân tỳ khưu và sadi". Đức Thế Tôn cho gọi trưởng lão Kuṇḍadhāna đến, phán hỏi rằng:

    - Này Dhāna! Có phải ngươi đã dùng ác ngữ với các tân tỷ khưu và sadi chăng?

    - Bạch Thế Tôn sự thật là vậy.

    - Vì sao ngươi lại thốt lên những lời ấy?

    - Bạch Thế Tôn con không thể kham nhẫn nổi với những lời nhạo báng đó nên nói như thế.

    - Này Kuṇḍadhāna! Ngươi không thể làm cho ác nghiệp ngươi tạo ra trong quá khứ chấm dứt, nên mới kéo dài đến ngày nay. Ngươi chớ dùng những lời như thế nữa". Rồi ngài dạy rằng:

    "Này Dhāna! Ngươi chớ có dùng lời ác với ai, người bị ngươi mắng sẽ mắng trả lại ngươi bởi lời tranh đấu khiến cho đau khổ, hình phạt sẽ đáp lại ngươi, nếu tâm ngươi không dao động như cái chiêng bị vỡ, thì ngươi sẽ chứng đạt Nípbàn, sự tranh chấp sẽ không có với ngươi.

    Thế rồi dân chúng mang chuyện trưởng lão và người tấu trình với Đức vua Kosala. Đức vua truyền các thị vệ đến phán rằng:

    - Này các khanh, các khanh hãy đi, hãy dò xét cẩn thận rồi về tâu lại cho trẫm.

    Và Đức vua thân hành ngự đi đến chỗ ở của trưởng lão với vài thị vệ, sau khi đến Ngài đứng nép một bên để quan sát. Bấy giờ trưởng lão đang ngồi Sūcikamma (làm kim) khâu vá y, người phụ nữ cũng đứng gần đó, Đức vua thấy vậy mới suy nghĩ rằng: "Chuyện này là thế nào?", Ngài bèn đi đến chỗ người phụ nữ đang đứng, khi Đức vua ngự đến, người phụ nữ ấy đi vào thảo am của trưởng lão.

    Đức vua ngự vào thảo am, Ngài quan sát khắp nơi nhưng chẳng thấy ai cả, Ngài suy nghĩ rằng: "Đây có lẽ không phải là phụ nữ thật, chắc là do quả nghiệp của trưởng lão".

    Đức vua ngự đến cúi chào trưởng lão, ngồi xuống một nơi phải lẽ rồi hỏi rằng:

    - Kính bạch tôn giả! Ngài khất thực có dễ dàng chăng?

    - Tâu Đại Vương! Cũng vừa đủ.

    - Kính bạch tôn giả! trẫm hiểu lời nói của tôn giả rồi, với hoàn cảnh của tôn giả như vậy, thật khó có ai phát khởi tịnh tín đến Ngài, kể từ nay trở đi, tôn giả không cần phải đi đâu cả, trẫm sẽ hộ độ tứ vật dụng cho tôn giả, xin tôn giả hãy tinh cần chớ có dễ duôi".

    Từ khi được sự hộ độ cúng dường của Đức vua Kosala, tâm của trưởng lão được an ổn, trưởng lão tinh cần phát triển thiền quán, không bao lâu chứng quả Alahán, cùng lúc ấy hình bóng người nữ cũng biến mất.

    Lúc bấy giờ, nàng tín nữ Mahāsubhaddā (con gái trưởng lão Anāthapiṇḍika) được gả về làm dâu trong nhà của một gia đình tà kiến, tại thành Ugga. Một hôm vào buổi sáng, sau khi tẩy sạch thân thể, nàng lên lầu thượng, nguyện thọ trì bát quan trai giới rồi cầm các tràng hoa lên chú nguyện rằng: "Xin cho các tràng hoa này đừng rơi xuống, hãy kết thành một tràng hoa lớn che trên đầu của Đức Thế Tôn, qua dấu hiệu này, con cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng với 500 vị tỳ khưu đến thọ thực tại nhà con vào sáng ngày mai". Nguyện xong nàng ném 8 tràng hoa lài lên hư không, 8 tràng hoa kết lại bay đến che trên đầu của Đức Thế Tôn trong lúc Ngài đang thuyết Pháp. Đức Thế Tôn hiểu rõ sự việc, Ngài hướng tâm nhận lời thỉnh nguyện của nàng Mahāsubhaddā. Hôm sau, khi trời vừa sáng, Ngài phán dạy Đại Đức Ānanda rằng: "Này Ānanda! Hôm nay chúng ta sẽ đi khất thực xa ngươi chớ phát thăm đến các vị tỳ khưu phàm, hãy phát thăm đến các vị Thánh". Đại đức Ānanda thông báo với chư tỳ khưu rằng: "Này các hiền giả! Hôm nay Đức Thế Tôn đi khất thực xa, các vị còn phàm chớ nên nhận thăm hãy dành thăm cho các bậc thánh". Trưởng lão Kuṇḍadhāna đưa tay ra trước tiên và nói rằng:

    - Này hiền giả! hiền giả hãy cho tôi thăm.

    Đại đức Ananda nói rằng:

    - Đức Thế Tôn không cho phát thăm đến những vị tỳ khưu như hiền giả. Ngài dạy chỉ phát thăm đến các bậc thánh.

    Vừa nói xong Đại Đức Ananda cảm thấy áy náy, bèn vào bạch với Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn dạy rằng: "Này Ānanda! Hãy phát thăm đến người xin".

    Đại đức Ānanda suy nghĩ: "Nếu thăm không thích hợp với trưởng lão Kuṇḍadhāna thì Đức Thế Tôn đã ngăn cản, trong chuyện này hẳn có nguyên nhân chi đây. Ta sẽ cho thăm đến trưởng lão Kuṇḍadhāna".

    - Này hiền giả Ānanda! Đức Thế Tôn đã biết tôi nên Ngài không ngăn cản tỳ khưu như tôi.

    Rồi đưa tay nhận lấy thăm từ Đại Đức Ānanda. Đức Thế Tôn do nhân đó làm duyên sự, Ngài tuyên bố trước chư tăng sự thù thắng của trưởng lão Kuṇḍadhāna hơn chư tăng "Người nhận được thăm trước".

    Chư tỳ khưu phàm không biết ân đức của trưởng lão là bậc Alahán, xứng đáng được nhận thăm trước nhất nên có sự thắc mắc, để giải trừ nghi hoặc của các phàm tỳ khưu ấy, trưởng lão bèn bay lên hư không, hiểu diễn thần thông và xác chứng quả Alahán của mình bằng bài kệ rằng:

    "Vị tỳ khưu chặt đứt
    Năm hạ phần kiết sử
    Năm thượng phần, từ bỏ
    Tu tập làm tăng trưởng
    Năm pháp trợ giác ngộ
    Năm chướng ngại vượt qua
    Được gọi vượt bộc lưu"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA

    Được biết trưởng lão Pilindavaccha đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Ta đến giáo pháp này
    Là việc đến tốt đẹp
    Chẳng phải không lợi ích
    Suy nghĩ để nghe pháp
    Và xuất gia với Phật
    Chẳng phải không lợi ích
    Bởi khi Ngài phân tích
    Giảng giải pháp cho ta
    Ta chứng pháp tối thượng"

    Vào thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, vị trưởng lão này sanh trong một gia đình Bàlamôn giàu có tại thành Haṃsāvātī. Một hôm, Ngài đến chùa nghe pháp, thấy Đức Thế Tôn tuyên dương một vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tỳ khưu khác: "là nơi ái kính của chư thiên". Vị Bàlamôn này khởi ước muốn ngôi vị cao quý ấy, nên đã thực hành các phận sư cho đến khi mệnh chung và luân chuyển sanh tử giữa hai cõi người, trời một thời gian dài.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, khi Đức Thế Tôn niết bàn, vị Bàlamôn này cúng dường bảo tháp của Đức Thế Tôn và cúng dường đại thí đến chư tăng. Khi mạng chung lại sanh về thiên giới. Vào thời không có giáo pháp của Đức Phật, Ngài sanh làm Chuyển Luân Vương cai trị quốc độ bằng thập vương pháp, hướng dẫn đại chúng an trú trong ngũ giới.

    Trước khi Đức Thế Tôn của chúng ta xuất hiện trong thế gian, trưởng lão tái sanh vào một gia đình Bàlamôn tại thành Sāvatthī có tên là Pilinda, Vaccha là họ, nên Ngài được gọi là Pilindavaccha. Chán ngán cuộc sống thế tục, Bàlamôn Pilindavaccha xuất gia làm du sĩ và thành tựu minh Cūlagandhāra (tên một loại chú thuật của Bàlamôn giáo), vị du sĩ này du hành trên hư không bằng minh ấy, đồng thời biết được tâm người khác nên du sĩ Pilindavaccha trở thành người thù thắng với lợi lộc và danh xưng tại thành Rājagaha.

    Khi Đức Thế Tôn của chúng ta giác ngộ khai thị pháp luân, Ngài tuần tự du hành đến thành Rājagaha, do Phật lực khiến cho minh của du sĩ Pilindavaccha bị suy giảm, không thể thành tựu theo như ý. Vị du sĩ ấy xét duyên cớ, chợt nhớ lời của các vị Bàlamôn tiền bối rằng: "Mahāgandhāra (Đại thần chú) hiện hữu ở đâu thì Cūlagandhāra (tiểu thần chú) phải suy giảm tại chỗ ấy. Kể từ khi samôn Gotama ngự đến đây, minh của ta bị suy kém, như vậy chắc chắn samôn Gotama biết đại thần chú, ta nên đến chỗ samôn Gotama để học minh ấy".

    Du sĩ Pilindavaccha đi đến yết kiến Đức Thế Tôn và thưa rằng: "Kính bạch đại sa môn! Tôi muốn học một loại minh nơi Ngài, xin Ngài hãy cho cơ hội đến tôi".

    Đức Thế Tôn phán rằng:

    - Vậy thì! Ngươi hãy xuất gia đi.

    Vị du sĩ tưởng rằng việc xuất gia là bước đầu tiên của việc học thần chú nên chấp nhận xuất gia. Đức Thế Tôn sau khi giảng pháp đến vị ấy, Ngài cho một đề mục thích hợp với cơ tánh của trưởng lão Pilindavaccha. Trưởng lão cố gắng tu tiến phát triển đề mục, không bao lâu chứng quả Alahán và Ngài là người có đầy đủ duyên lành giải thoát.

    Các vị thiên nhân nào nương vào lời giáo huấn của trưởng lão trong tiền kiếp được sanh lên thiên giới,c ác vị chư thiên nào biết được ân đức của trưởng lão nên hết lòng tôn kính, tín thành trưởng lão; đã ngự xuống hầu hạ phục vụ trưởng lão vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều. Do nhân đó, trưởng lão trở thành người thù thắng hơn chư tỳ khưu" là bậc được chư thiên ái kính". Như bài kệ trưởng lão nói trong Apadāna rằng:

    Sau khi bậc Thế y
    Hồng danh Sumedha
    Đã viên tịch niết bàn
    Ta trong sạch hoan hỷ
    Lễ bái cúng dường tháp
    Chư tỳ khưu lậu tận
    Với số lượng bao nhiêu
    Ta cung thỉnh tất cả
    Các bậc lậu tận ấy
    Đến trai tăng cúng dường
    Lúc ấy có một vị
    Thị giả Đức Thế Tôn
    Cũng tên Sumedha
    Đã nói pháp tuỳ hỷ
    Khiến tâm ta thoả thích
    Sau khi ta mệnh chung
    Được sanh lên thiên giới
    Có hàng ngàn thiên nữ
    Vây quanh phục vụ ta
    Đây chính là quả báo
    Của thiện nghiệp ta tạo
    Trong kiếp thứ 25
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Danh xưng Varuṇa
    Gạo ta dùng thanh khiết
    Không phải do gieo hạt
    Không phải do cày cấy
    Ta dùng gạo Sālī
    Chỗ tự sanh tự chín
    Vào thời ấy ta sống
    Dù chúng sanh là bạn
    Hay không phải là bạn
    Cũng không làm hại ta
    Ta là chỗ thương yêu
    Của các loài hữu tình
    Đây là quả của nghiệp
    Ta trong sạch cúng dường
    Do việc cúng dường ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Và cũng do quả ấy
    Nên trong hiền kiếp này
    Ta là vị tộc trưởng
    Có uy lực to lớn
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Ta hướng dẫn mọi người
    An trú trong năm giới
    Khiến cho những người ấy
    Được sanh lên thiên giới
    Nên hiện nay ta được
    Các chư thiên ái kính
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta tác chứng các pháp
    Cao thượng thuộc bậc Thánh...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Do nhân đó, nên Đức Thế Tôn tuyên dương trưởng lão là người được chư thiên ái kính. Đức Thế Tôn phán rằng: "này chư tỳ khưu, Pilindavaccha thù thắng hơn các Thinh văn của ta, là người được chư thiên ái kính".

    Trưởng lão, quán xét các ân đức của mình trước kia cứ ngỡ việc đến xuất gia nơi Thế Tôn là tiền tướng của thần chú nhưng lại nhân chứng đắc các pháp đặc biệt thù diệu, hoan hỷ với thành quả của mình, trưởn glão nói lên bài kệ rằng:

    "Ta đến giáo pháp này
    Là việc đến tốt đẹp
    Chẳng phải không lợi ích
    Suy nghĩ để nghe pháp
    Và xuất gia với Phật
    Chẳng phải không lợi ích
    Bởi khi Ngài phân tích
    Giảng giải pháp cho ta
    Ta chứng pháp tối thượng"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PUṆṆA

    Được biết rằng trưởng lão Puṇṇa đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Giới ở trong thế gian
    Được xem là thù thắng
    Nhưng với người có tuệ
    Được xem là tối thượng
    Ai có giới và tuệ
    Người ấy sẽ chiến thắng
    Cả thế giới nhân thiên".

    Thuở quá khứ, vào thời không có giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác, trưởng lão sanh vào gia đình Bàlamôn, khi trưởng thành vị này đã thành tựu các nghệ thuật của Bàlamôn, do thiện duyên quá khứ, Ngài cảm nhận được mối nguy hiểm của ngũ trần dục lạc nên từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia làm đạo sĩ, dựng một am thất tại vùng Hy Mã Lạp Sơn để trú ẩn.

    Tại một sườn núi, không xa chỗ đạo sĩ ở có một vị Độc giác Phật bị bệnh rồi viên tịch niết bàn. Lúc Đức Phật Độc Giác niết bàn có một vầng sáng chiếu lên. Vị đạo sĩ sau khi thấy vầng sáng ấy, hướng nhìn chung quanh với sự suy nghĩ rằng: "Tại sao có ánh sáng này phát sanh? Vậy chắc Đức Độc Giác Phật bên triền núi đã viên tịch rồi" bèn chọn lấy những loại gỗ thơm đến hoả táng kim thân của Đức Độc Giác Phật, rồi lấy những hương liệu thiên nhiên của núi rừng rưới lên. Tại triền núi ấy, có một vị thiên tử hoan hỷ với thiện sự của đạo sĩ hiện ra giữa hư không tán dương:

    - Sādhu! Sādhu! Này người hiền trí, nghiệp đưa chúng sanh đến nhàn cảnh. Người đã tạo rồi, với thiện nghiệp ấy người sẽ được tái sanh nhàn cảnh và sẽ có tên là Puṇṇa.

    Khi mạng chung, vị đạo sĩ sanh về thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi trời người. Đến thời giáo pháp của bậc đạo sư của chúng ta, vị đạo sĩ được sanh vào một gia đình tộc trưởng, tại bến cảng Suppāraka xứ Sunāparanta và có tên là Puṇṇa. Sau khi trưởng thành, Puṇṇa kế nghiệp buôn bán của thân phụ.

    Một hôm, chàng thanh niên Puṇṇa cùng với một đoàn xe đi đến thành Sāvatthī để buôn bán.

    Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngự trong thành Sāvatthī tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) của trưởng lão Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào buổi chiều, thanh niên Puṇṇa nhìn thấy từng đoàn cư sĩ, Phật tử tay cầm hương hoa cùng các lễ vật đi đến tịnh xá, thanh niên Puṇṇa cũng tháp tùng theo đoàn người ấy, sau khi nghe pháp từ Đức Thế Tôn, chàng phát khởi niềm tin và xin xuất gia. Xuất gia được một thời gian, tôn giả Puṇṇa đi đến yết kiến Đức Thế Tôn thưa rằng:

    - Kính bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài ban lời giáo huấn tóm tắt để sau khi nghe, con có thể thực hành và sống tại xứ Sunāparanta.

    Đức Thế Tôn ban lời giáo giới đến tôn giả rằng:

    - Này Puṇṇa, các sắc do mắt nhận thực...

    Tôn giả đảnh lễ cáo từ Đức Thế Tôn và đi đến xứ Sunāparanta tại bến cảng Suppāraka, do nhiệt tâm tinh cần thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn nên không bao lâu tôn giả đã chứng đạt Tam minh, như bài kệ tôn giả đã nói trong Apadāna rằng:

    "Có vị Phật Độc Giác
    An ngự nơi triền núi
    Lúc ấy có tiếng động
    Vang quanh am thất ta
    Như là một điềm báo
    Đức Độc Giác niết bàn
    Có một vầng ánh sáng
    Chiếu lên tận hư không
    Các loài thú tại đó
    Như gấu, sói, sư tử...
    Tất cả đều rống lên
    Ta thấy sự kỳ diệu
    Bèn đi đến chỗ ấy
    Ta nhìn thấy Đức Phật
    Đã viên tịch niết bàn
    Ví như loài cây chúa
    Có hoa thơm nở rộ
    Như mặt trời hừng đông
    Như lửa than không ngọn
    Ta nhặt lấy cây cỏ
    Chất thành một đống lớn
    Làm giàn hoả đặt lên
    Ta đã cúng dường lửa
    Thiêu kim thân Đức Phật
    Sau khi hoả táng xong
    Lấy nước thơm rưới lên
    Bấy giờ có vị trời
    Xuất hiện giữa hư không
    Đã nói lên lời rằng
    Khi nào ngươi xuất gia
    Khi ấy tên Puṇṇa
    Do thiện nghiệp ngươi làm
    Đến Đức Phật Độc Giác
    Từ đây ngươi mạng chung
    Sẽ được sanh thiên giới
    Tại trên thiên giới ấy
    Cũng tên là Puṇṇa
    Ta khiến cho Thế tôn
    Hồng danh Gotama
    Hoan hỷ điều ta làm
    Kể từ hiền kiếp này
    Đến kiếp thứ 91
    Thiện nghiệp nào ta làm
    Chính do thiện nghiệp đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là quả báo
    Việc hoả táng Đức Phật
    Cho đến kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão Puṇṇa đã tế độ cho khoảng 500 người quy y Tam Bảo trở thành cận sự nam và khoảng 500 người quy y Tam Bảo trở thành cận sự nữ. Trưởng lão cho Phật tử xây cất một hương thất bằng gỗ chiên đàn đỏ tên là Candnamālā tại xứ Sunāparanta, Ngài cung thỉnh Đức Thế Tôn và chư tăng ngự đến hương thất, bằng cách lấy tràng hoa làm sứ giả rằng: "Xin Đức Thế Tôn! Nhận tràng hoa cúng dường này, xin thỉnh Ngài ngự đến đây cùng với 500 vị tỳ khưu".

    Đức Thế Tôn cùng với chư tỳ khưu ngự đến Sunāparanta bằng thần thông lực Ngài thọ nhận hương thất Candnamālā, rồi Ngài cùng với chư tăng trở về Jetavana (Kỳ Viên).

    Khi trưởng lão sắp viên tịch niết bàn đã nói lên lời chánh trí của mình với bài kệ rằng:

    "Giới ở trong thế gian
    Được xem là thù thắng
    Nhưng với người có tuệ
    Được xem là tối thượng
    Ai có giới và tuệ
    Người ấy sẽ chiến thắng
    Cả thế giới nhân thiên".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SOPĀKA

    Được biết trưởng lão Sopāka đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Ví như người mẹ hiền
    Thương đứa con độc nhất
    Cũng vậy hãy mát mẻ
    Với mọi loài chúng sanh
    Trong mọi chỗ mọi nơi".

    Trưởng lão đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát trong thời chư Phật quá khứ, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kakusandha, trưởng lão đã tái sanh trong một gia đình nghèo khổ, phải làm lụng vất vả mới được no lòng. Một hôm chàng thanh niên nghèo nhìn thấy Đức Thế Tôn Kakusandha đang trì bình khất thực với dáng vẻ từ hoà khả kính, khiến cho chàng khởi tâm hoan hỷ tịnh tín nơi Đức Thế Tôn, bèn mang những hạt đậu ván đến dâng vào bát; Đức Thế Tôn đã từ bi tiếp nhận và thọ dụng những hạt đậu ván ấy khiến chàng tăng trưởng tâm hoan hỷ. Sau đó, chàng làm việc cần mẫn và cật lực hơn dành dụm được một số tiền. Chàng sắp đặt một bữa ăn thịnh soạn với món cơm đề hồ và món ăn thượng vị bấy giờ, chàng đi đến tịnh xá cung thỉnh được ba vị tỳ khưu về nhà cúng dường bữa ăn thượng vị đó, với tác ý là cúng dường đến tăng.

    Do phước báu của các thiện sự, khi mạng chung chàng được tái sanh về thiên giới, thọ hưởng đầy đủ những thiên lạc trên cõi ấy và luân chuyển giữa hai cõi trời - người. Có một kiếp khi tái sanh trong cõi người, chàng thành niên này đã cúng dường cơm đề hồ đến một vị Phật Độc Giác. Đến kiếp cuối cùng trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng tái sanh vào bào thai của một người đàn bà nghèo khổ trong thành Sāvatthī. Bào thai đã tròn 10 tháng nhưng người mẹ không sanh được, đau đớn và mệt mỏi nên bà ngất lịm một thời gian khá lâu giống như người đã chết, quyến thuộc ngỡ rằng bà đã chết nên đem bà ra mộ địa, đưa lên giàn hoả định hỏa táng thi thể bà. Bấy giờ, có một thiên nhân làm cho mưa gió nổi lên để không thể châm lửa được và khiến cho những người ấy phải giải tán ra về. Do thần lực của chư thiên nên hài tử chào đời một cách an toàn và vì là kiếp chót nên hài tử ấy không thể chết trước khi thành tựu Alahán, riêng người mẹ thì đã mệnh chung.

    Vị chư thiên bế đứa bé đem đặt trong nhà người giữ mộ địa, người giữ mộ địa đã nuôi dưỡng đứa bé ấy và nhận làm con nuôi, vì được sanh ra trong mộ địa nên đứa bé có tên là Sopāka. Ở đây, cậu bé Sopāka có một người bạn đồng lứa với mình tên là Suppīya là con người giữ mộ địa, hai cậu cùng chơi cùng lớn lên bên nhau.

    Một hôm, vào lúc rạng sáng, Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quan sát thế gian, xem chúng sanh nào có duyên lành giác ngộ, cậu bé Sopāka lọt vào lưới tuệ của Đức Thế Tôn. Ngài bèn ngự đến nơi mộ địa. Do tích trữ nhiều thiện duyên trong quá khứ, nên khi Sopāka nhìn thấy Đức Thế Tôn, cậu rất hoan hỷ quỳ xuống đảnh lễ Ngài, rồi đứng một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết pháp đến cho cậu. Sau khi nghe pháp, Sopāka xin Ngài được xuất gia, Đức Thế Tôn phán hỏi rằng:

    - "Vậy chứ con có xin phép cha mẹ chưa?"

    Sopāka bèn chạy về nhà dẫn cha đi đến chỗ Đức Thế Tôn, sau khi đảnh lễ xong rồi ông bạch với Đức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ngài! Xin Ngài hãy tiếp độ cho hài tử này được xuất gia.

    - Lành thay! Này cận sự nam.

    Sau khi làm lễ xuất gia cho Sopāka xong, Đức Thế Tôn dạy đề mục tâm từ cho sadi Sopāka.

    Học xong đề mục tâm Từ nơi Đức Thế Tôn, sa di Sopāka đi đến mộ địa tinh cần tu tập đề mục ấy, không bao lâu sadi Sopāka chứng được thiền, lấy thiền làm nền tảng, Ngài phát triển minh sát và chứng đạt Alahán quả, như bài kệ trong Apadāna rằng:

    "Thuở ấy Đức Thế Tôn
    Bậc tinh cần dõng mãnh
    Liễu tri tất cả pháp
    Danh Kakusandha
    Ngài độc hành ngự đến
    Khu rừng trước mặt ta
    Ta đang cầm hạt đậu
    Nhìn thấy Đức Thế Tôn
    Ta phát tâm hoan hỷ
    Cúng dường những hạt đậu
    Vào bát Đức Thế Tôn
    Bậc xứng đáng cúng dường
    Chính do thiện sự đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Được tái sanh thiên giới
    Đây chính là kết quả
    Của việc dâng hạt đậu
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, một dịp nọ, khi trình bày phương pháp tu tiến đề mục tâm Từ đến các vị tỳ khưu trú nơi mộ địa, tôn giả Sopāka đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ví như người mẹ hiền
    Thương đứa con độc nhất
    Cũng vậy hãy mát mẻ
    Với mọi loài chúng sanh
    Trong mọi chỗ mọi nơi".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VIMALA

    Được biết trưởng lão Vimala nói lên bài kệ rằng:

    "Mặt đất thấm nước mưa
    Gió thổi làm mát dịu
    Sấm chớp khắp bầu trời
    Các tầm được yên tịnh
    Tâm ta khéo định tĩnh".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, trưởng lão được sanh ra trong gia đình của người thổi nhạc bằng vỏ ốc, mặc dầu nhà nghèo nhưng cậu bé rất thông minh và chăm chỉ, khi vừa lớn lên đã thành tựu nghệ thuật thổi nhạc bằng vỏ ốc.

    Một hôm, chàng tình cờ gặp Đức Thế Tôn Vipassī, do duyên lành kiếp trước, nên sau khi gặp Đức Phật, chàng rất hoan hỷ và thoả thích, nhưng vì nhà nghèo không có chi xứng đáng để cúng dường, ngoại trừ tài năng của mình, chàng lấy vỏ ốc ra thổi lên những khúc nhạc cúng dường Ngài và kể từ đó chàng thanh niên luôn tìm cơ hội để hộ độ phục vụ Đức Thế Tôn.

    Khi mạng chung, do phước báu của những thiện sự này, chàng được tái sanh lên thiên giới, là vị thiên tử có nhiều thần lực, có nhiều thiên nữ phục vụ và hưởng đầy đủ những thiên lạc thù diệu trong cõi trời ấy. Sau khi luân chuyển giữa hai cõi trời - người, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, chàng được tái sanh vào một gia đình Bàlamôn trưởng giả, rất tịnh tín với Tam bảo và là một người cận sự nam nhiệt tình với Tam bảo.

    Một hôm, sau khi trai tăng cúng dường thực phẩm đến Đức Phật Kassapa cùng tăng chúng, chàng quỳ dưới chân Đức Thế Tôn Kassapa chú nguyện: "Do phước báu nào mà con đã trong sạch phục vụ hộ độ cúng dường Đức Thế Tôn và tăng chúng, trong các kiếp vị lai cho con hãy là người có thân thể thanh khiết, sạch sẽ, ly bụi bặm và uế trược.

    Từ đó về sau, chàng hết lòng phục vụ Tam bảo, đã làm các công việc như: tưới nước thơm cây bồ đề, lau rửa chỗ ngồi nơi bảo tháp và cội bồ đề, tẩy rửa những đồ phụ tùng bẩn uế của chư tăng.

    Mạng chung, người cận sự nam ấy được sanh lên thiên giới trong những kiếp luân chuyển giữa cõi người và cõi trời, chàng luôn được đầy đủ sung túc về lợi lộc và tài sản, không bị vất vả, không bị thiếu kém về vật chất.

    Đến kiếp cuối cùng, trong thời giáo pháp Đức Thế Tôn của chúng ta, người cận sự nam này được tái sanh trong một gia đình trưởng giả tại thành Rājagaha. từ khi còn ở trong bụng mẹ và khi lọt lòng mẹ, thân thể không hề dính uế trược, trong sáng như những giọt sương đọng trên lá sen, là người có thân thể sạch sẽ thanh khiết giống như vị Bồ Tát sanh kiếp chót, vì vậy cậu bé được đặt tên là Vimala.

    Một hôm, Đức Thế Tôn đang ngự đi trong thành Rājagaha (Vương Xá), Vimala nhìn thấy dáng vẻ uy nghi từ hoà khả kính của Ngài, Vimala phát khởi tâm tịnh tín và do duyên lành chín muồi nên Vimala quyết định xuất gia nơi Đức Thế Tôn.

    Sau khi xuất gia xong, tôn giả Vimala học thông suốt một đề mục nghiệp xứ, đi đến một hang núi tại xứ Kosala để nỗ lực tu tập.

    Một hôm, trời chuyển mưa, giông gió nổi lên, mây đen phủ kín cả bầu trời và mưa bắt đầu đổ hạt. Lúc bấy giờ, sức nóng thiêu đốt được những cơn gió và những hạt mưa xoa dịu với thời tiết mát mẻ thích hợp, tâm của tôn giả Vimala dễ dàng lắng đọng trên đề mục. Với tâm an tịnh, tôn giả đã phát triển thiền quán chứng đạt Alahán.

    Như trong Apadāna trưởng lão Vimala đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta đã gặp Thế Tôn
    Hồng danh Vipassī
    Ta đã thổi vỏ ốc
    Theo điệu nhạc thánh thót
    Cúng dường Đức Thế Tôn
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp 91
    Ta đã hộ độ Ngài
    Bậc Thế Tôn tối thượng
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Trong kiếp thứ 24
    Mười sáu lần ta được
    Sanh làm Chuyển Luân Vương
    Tên Mahānighosa
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Mặt đất thấm nước mưa
    Gió thổi làm mát dịu
    Sấm chớp khắp bầu trời
    Các tầm được yên tịnh
    Tâm ta khéo định tĩnh".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO ADHIMUTTA

    Được biết trưởng lão Adhimutta đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Đối với người lười biếng
    Đam mê trong thân lạc
    Sau thân hoại mạng chung
    Từ đâu thành tựu được
    Hạnh của bậc Sa môn?"

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão được sanh vào một gia đình Bàlamôn, khi trưởng thành, vị này đã học và luyện thành tựu các chú thuật của Bàlamôn, do duyên lành quá khứ nên Ngài này cảm thấy chán ngán ngũ trần dục lạc, từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia làm đạo sĩ sống trong rừng.

    Một hôm, tình cờ đạo sĩ nghe tin Đức Phật đã xuất hiện cùng với những danh thơm về Ngài, đạo sĩ rời trú xứ của mình đi đến kinh thành với mục đích được diện kiến Đức Thế Tôn. Đạo sĩ nhìn thấy Đức Phật cùng với chư tỳ khưu tăng đang ngự đi khất thực, với uy hạnh của bậc Chánh Đẳng Giác khiến đạo sĩ khởi tâm tịnh tín, cởi chiếc y làm bằng vỏ cây của mình trải dưới chân của Đức Thế Tôn để cúng dường. Đức Thế Tôn biết được tâm ý đạo sĩ, Ngài ngự lên tâm y bằng vỏ cây ấy, đạo sĩ thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và tán thán Ngài với mười bài kệ. Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán xét, rồi Ngài thọ ký rằng "trong tương lai sau 100.000 kiếp, đạo sĩ này sẽ xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Gotama và sẽ chứng đạt lục thông".

    Rồi Ngài ngự khỏi chỗ ấy, đạo sĩ khi nghe được những lời tiên tri của Đức Phật, ông vô cùng hoan hỷ, trở về trú xứ của mình, mạng chung ông được sanh về thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi nhân thiên. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, ông được sanh vào gia đình Bàlamôn tại thành Sāvatthi có tên là Adhimutta. Khi trưởng thành đã học thành tựu các chú thuật của Bàlamôn, nhưng chàng Adhimutta vẫn không thấy được sự huyền diệu gì từ các chú thuật đó. Do duyên lành đã chín muồi, trong lúc Adhimutta đang đi tìm con đường cứu cánh, thì chàng gặp Đức Phật, lúc Ngài thọ nhận Kỳ Viên tịnh xá, được cảm hoá bởi uy đức của Thế Tôn, chàng khởi niềm tin và xin xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

    Sau khi xuất gia, tôn giả Adhimutta đã tinh cần thực hành samôn pháp, không bao lâu chứng đạt Alahán.

    Như bài kệ đã nói lên trong Apadāna rằng:

    "Ta là Bàlamôn
    Bệnh tóc, mặc da thú
    Chơn chánh có tinh cần
    Ta nhìn thấy Đức Phật
    Bậc đạo sư thế gian
    Rực rỡ như hoa Kannikāra
    Toả sáng như vòng lửa
    Lấp lánh như sao mai
    Như tia chớp trên trời
    Không run sợ kinh hãi
    Ví như sư tử chúa
    Ngài rọi sáng thế gian
    Với ngọn đuốc trí tuệ
    Nhiếp phục các ngoại đạo
    Tiếp độ các quần sanh
    Chặt đứt mọi nghi hoặc
    Ta cầm y vỏ cây
    Trải ra gần chân Phật
    Rồi tán thán Ngài rằng
    Kính bạch Đại Ẩn sĩ
    Bậc vượt qua bộc lưu
    Giúp thế gian vượt qua
    Ngài soi sáng thế gian
    Với ngọn đuốc trí tuệ
    Bậc trí tuệ tột đỉnh
    Chuyển bánh xe chánh pháp
    Nhiếp phục các ngoại đạo
    Bậc đại hùng đại lực
    Đã chiến thắng tất cả
    Khiến rung động địa cầu
    Làm đại dương nổi sóng
    Vỡ tan chỗ cuối bờ
    Cũng vật tất cả Kiến
    Bị vỡ tan trước Tuệ
    Của Ngài dường thế ấy
    Tấm lưới có mắt nhỏ
    Được tung rải xuống ao
    Các chúng sanh trong ao
    Đều bị trùm bởi lưới
    Kính bạch Bậc ly khổ
    Nhóm ngoại đạo trong đời
    Si mê không chân thật
    Bị lưới tuệ của Ngài
    Phủ kín dường thế ấy
    Ngài là chỗ nương tựa
    Của người ở giữa dòng
    Ngài là chỗ nương tựa
    Của người đang neo đơn
    Ngài là chỗ nương tựa
    Của người đang kinh sợ
    Ngài là bậc đạo sư
    Của người muốn giải thoát
    Ngài độc hành từ tốn
    Không ai có thể sánh
    Ngài là đấng từ bi
    Không có ai bì kịp
    Ngài là bậc tịch tịnh
    Thuần thục và chiến thắng
    Ngài là bậc trí tuệ
    Đã rời bỏ si mê
    Không dao động do dự
    Là bậc đã đoạn sân
    Vô cấu và tự chủ
    Thanh tịnh, vượt chướng ngại
    Có đầy đủ tam minh
    Đạt tận cùng ba cõi
    Lợi ích đã thành đạt
    Ngài ban rải lợi ích
    Đưa chúng sanh vượt qua
    Ví như chiếc tàu lớn
    Là hiện thân kho báu
    Khiến cho tâm an ổn
    Không hề biết run sợ
    Như loài chúa sơn lâm
    Như tượng chúa thuần tánh
    Lúc ấy ta tán thán
    Bậc ẩn sĩ vĩ đại
    Padumuttara
    Với mười bài kệ này
    Đảnh lễ dưới chân Ngài
    Rồi đứng yên tại đó
    Đức Thế Tôn hồng danh
    Padumuttara
    Bậc thông suốt thế gian
    Xứng đáng được cúng dường
    Ngự giữa hàng tăng chúng
    Nói lên bài kệ rằng
    Với người nào tán thán
    Giới, tuệ và diệu pháp
    Ta tuyên bố người ấy
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Người ấy sẽ an lạc
    Trong cõi trời dục giới
    Suốt sáu mươi ngàn kiếp
    Sẽ được sự thù diệu
    Hơn các thiên nhân khác
    Và chính thiện căn này
    Thúc đẩy hắn xuất gia
    Trong giáo pháp của Phật
    Hồng danh Gotama
    Sau khi xuất gia xong
    Sẽ từ bỏ ác pháp
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Chứng đạt pháp tịch tịnh
    Kính bạch bậc Đại Hùng
    Ví như cơn mưa lớn
    Làm mặt đất no đầy
    Cũng vậy Ngài cho con
    Được no đầy với pháp
    Chính vào thời bấy giờ
    Ta đã tán thán Phật
    Giới, tuệ cùng diệu pháp
    Của Đức Thế Tôn ấy
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui 100.000 kiếp
    Với sự tán thán nào
    Chính do thiện nghiệp đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc tán thán Phật
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta nhổ tên sanh hữu
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Thiêu đốt các phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, lúc giáo giới các tỳ khưu lười biếng ở chung, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đối với người lười biếng
    Đam mê trong thân lạc
    Sau thân hoại mạng chung
    Từ đâu thành tựu được
    Hạnh của bậc Sa môn?"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PĀRĀPARIYA

    Được biết trưởng lão Pārāpariya đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Từ bỏ sáu xúc xứ
    Các căn khéo phòng hộ
    Bứng tận gốc phiền não
    Ta chứng đạt lậu tận".

    Trưởng lão đã tích trữ nhiều thiện duyên trong các kiếp quá khứ, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Piyadassī, trưởng lão tái sanh trong một gia đình thợ săn, sau khi trưởng thành nối nghiệp cha làm nghề săn thú.

    Một hôm, Đức Thế Tôn Piyadassī dùng Phật nhãn quán xét thế gian, tìm chúng sanh hữu duyên để tế độ, chàng thợ săn lọt vào lưới nhãn của Đức Thế Tôn, Ngài ngự đến khu rừng ấy và ngồi nhập đại định dưới cội cây đại thọ.

    Chàng thợ săn đi tìm thú nhìn thấy Đức Thế Tôn đang an nhiên tịnh toạ, với màu da tươi sáng, lục căn thanh tịnh, gương mặt đầy từ hoà khả kính, khiến chàng khởi tâm tịnh tín, đi nhặt lấy những cành cây cùng nhiều hoa sen mang về dựng lên mái che cho Đức Thế Tôn, sau khi làm xong, chàng vô cùng hoan hỷ thoả thích, đứng chắp tay hầu Đức Thế Tôn suốt bảy ngày, ngoại trừ những lúc đi tìm hoa tươi về thay cho những cánh hoa đã héo và cứ như thế với tâm đầy phỉ lạc.

    Vừa đủ bảy ngày, Đức Thế Tôn xả thiền diệt, Ngài khởi lên tác ý muốn chư tăng đến, tức thì 80.000 vị Thánh tăng với thần thông liền có mặt tại nơi ấy, vây quanh Đức Thế Tôn, chàng thấy chư tăng xuất hiện kỳ diệu như thế vô cùng kinh ngạc, thán phục hoà lẫn với niềm hoan hỷ dâng trào. Bấy giờ chư thiên cũng vân tập tại nơi ấy với tư tưởng rằng chúng ta sẽ được nghe pháp thoại vi diệu từ nơi Đức Thế Tôn.

    Đức Thế Tôn sau khi dùng Phật nhãn quán xét hạnh nghiệp vị lai của chàng thợ săn, Ngài tuyên bố rằng:

    - Với người nào có tâm cung kính cúng dường Như Lai trong suốt bảy ngày qua, người ấy sẽ được sanh lên thiên giới và đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Gotama người ấy sẽ xuất gia và được thành tựu quả vị giải thoát.

    Đức Thế Tôn sau khi tiên tri như thế, Ngài thuyết một thời pháp thoại, tạo lợi ích cho hội chúng ở nơi ấy, xong rồi Ngài cùng với chư tăng ngự trở về tịnh xá.

    Do thiện nghiệp đó, khi mạng chung, người thợ săn được sanh lên thiên giới, trở thành vị thiên tử đại oai lực, có nhiều thiên nữ vây quanh hầu hạ. Sau khi luân chuyển giữa hai cõi nhân – thiên, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị ấy được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Rājagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Pārāpariya vì là con của dòng họ Parāpara, khi trưởng thành Bàlamôn Pārāpariya học nằm lòng tam phệ đà và dạy chú thuật cho rất nhiều thanh niên Bàlamôn.

    Một hôm, Bàlamôn Pārāpariya nhìn thấy uy nghi đức độ của bậc Chánh Đẳng Giác khi Ngài ngự đến thành Rājagaha, vị Bàlamôn khởi niềm tin và xin được xuất gia nơi Thế Tôn. Sau khi xuất gia, tôn giả Pārāpariya tinh cần tu tập theo lời dạy của Đức Phật, không bao lâu chứng đạt quả vị Alahán.

    Như bài kệ được nói lên trong Apadāna rằng:

    "Thuở ấy Đức Thế Tôn
    Hồng danh Piyadassī
    Bậc đạo sư thế gian
    Đã tự mình giác ngộ
    Ngài thích sống viễn ly
    Thiện xảo trong thiền định
    Là bậc Đại Ẩn sĩ
    Ngài ngự đến khu rừng
    Trải chiếc y phấn tảo
    An tọa nhập thiền diệt
    Bấy giờ, ta là người
    Sống với nghề săn thú
    Một hôm ta đang đi
    Tìm thú tại khu rừng
    Ta nhìn thấy Đức Phật
    Bậc đã vượt bộc lưu
    Bậc không còn lậu hoặc
    Như cây chúa trổ hoa
    Như mặt trời mới mọc
    Sau khi nhìn thấy Ngài
    Ta đi đến ao sen
    Chọn những đoá hoa đẹp
    Cùng các nhánh cây rừng
    Mang về dựng mái che
    Cúng dường Đức Thế Tôn
    Hồng danh Piyadassī
    Là bậc Đại Ẩn sĩ
    Bậc có lòng bi mẫn
    Đang an toạ thiền định
    Ta thay hoa sen héo
    Bằng những đoá sen tươi
    Xong rồi ta chắp tay
    Đứng hầu bậc Đại sĩ
    Sau khi đủ bảy ngày
    Thế Tôn xả thiền diệt
    Ngài nhìn quanh các hướng
    Bấy giờ vị thị giả
    Tên Sudassana
    Vị có đại thần lực
    Hiểu được ý Thế Tôn
    Hồng danh Piyadassī
    Bậc Đạo sư muôn loài
    Đang ngự nơi khu rừng
    Cùng với người thợ săn
    Bấy giờ các thiên nhân
    Ở tại khu rừng này
    Cũng hiểu được ý Ngài
    Cùng nhau vân tập lại
    Và khi chư tỳ khưu
    Đã quang lâm đầy đủ
    Bấy giờ bậc Chiến Thắng
    Đã phán bài kệ rằng
    Người nào cúng dường ta
    Suốt trong bảy ngày qua
    Và tạo dựng mái che
    Ta tuyên bố người ấy
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Điều khó thấy, sâu kín
    Phải khéo hiểu bằng Tuệ
    Người ấy hưởng thiên sản
    Trong suốt mười bốn kiếp
    Tại trên cõi trời ấy
    Phát sanh ngôi trùng các
    Che lợp bằng hoa sen
    Đến cho người ấy ở
    Đây quả của thiện nghiệp
    Đã cúng dường hoa sen
    Như nước không thể dính
    Trên lá sen thế nào
    Phiền não cũng không đọng
    Trên trí tuệ người ấy
    Người này sẽ rời xa
    Đối với năm triền cái
    Khiến tâm hướng xuất ly
    Rồi từ bỏ xuất gia
    Khi người ấy có Niệm
    Có Tuệ nơi cây nào
    Thì tại cội cây ấy
    Thiên cung bằng hoa sen
    Ở trên đầu người ấy
    Đây là quả của nghiệp
    Cúng dường hoa đến Phật
    Xuất gia không bao lâu
    Người ấy sẽ chứng đạt
    Pháp vô thượng giải thoát
    Kể từ hiền kiếp này
    Lui 1.800 kiếp
    Ta cúng dường Phật nào
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão quán xét lại pháp hành, phát sanh sự hoan hỷ, đã nói lên bài kệ rằng:

    "Từ bỏ sáu xúc xứ
    Các căn khéo phòng hộ
    Bứng tận gốc phiền não
    Ta chứng đạt lậu tận".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO DABBA

    Được biết trưởng lão Dabba đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Người nào khó nhiếp phục
    Nay đã được nhiếp phục
    Dabba tự biết đủ
    Nghi ngờ được vượt qua
    Chiến thắng giặc phiền não
    Viễn ly mọi lo sợ
    Với tâm tư định tĩnh
    Dabba trú tịch tịnh".

    Tiền thân của trưởng lão Dabba như vầy:

    Thuở quá khứ, trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão được sanh vào một gia đình trưởng giả danh tiếng ở thành Haṃsavatī. Một hôm, Ngài đến chùa nghe pháp, thấy Đức Thế Tôn tán thán vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tăng về hạnh sắp đặt trú xứ cho chư tăng, nên thoả thích với vị trí ấy, trưởng lão tích cực làm các thiện sự và được Thế Tôn Padumuttara tiên đoán sẽ thành tựu ước nguyện. Trưởng lão luân chuyển sinh tử trong hai cõi trời người, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, trưởng lão được duyên lành xuất gia.

    Vào thời ấy, có sáu vị tỳ khưu với trưởng lão là bảy vị, khi thấy giáo pháp đến thời hỗn loạn cùng với những hiểm hoạ thiên tai, bảy vị bàn với nhau rằng: "Này chư hiền giả! Chúng ta không thể ở đây tu tập được, chúng ta hãy tìm chỗ khác yên tịnh để thực hành sa môn pháp".

    Bảy vị làm một cái thang leo lên đỉnh núi, khi lên tới đỉnh núi, nói với nhau rằng:

    - Chúng ta đã quyết tâm lên đây hành pháp, chúng ta không nên luyến tiếc sinh mạng này và đừng lo sợ chi cả, vậy chúng ta hãy xô thang này đi.

    Bảy vị cùng nhau xô thang rơi xuống và sách tấn nhau rằng:

    - Này các hiền giả! Chúng ta hãy tinh cần chớ có dễ duôi, mỗi người hãy tự tìm cho mình một chỗ thích hợp và thực hành samôn pháp.

    Vào ngày thứ năm, một vị trưởng lão chứng quả Alahán, trưởng lão suy nghĩ: "phận sự nên làm ta đã làm xong, ta sẽ làm gì tại chỗ này?" Ngài dùng thần thông đến Bắc Cưu Lưu Châu khất thực mang về nói với các vị kia rằng:

    - Này chư hiền giả! Hãy dùng vật thực này, việc khất thực hãy để cho tôi, các hiền giả hãy hành phận sự sa môn của mình.

    Các vị tỳ khưu hỏi trưởng lão rằng:

    - Này hiền giả! Lúc chúng ta xô thang xuống, có phải chúng ta giao ước rằng: "người nào chứng quả trước người ấy sẽ khất thực mang về, các vị còn lại sẽ dùng vật thực ấy rồi hành sa môn pháp chăng?"

    - Không có giao ước như thế thưa các hiền giả.

    - Ngài chứng quả trước do duyên lành của Ngài, chúng tôi cũng chịu được sự tận cùng của đau khổ, vậy Ngài hãy rời khỏi đây đi.

    Vị trưởng lão không thể khiến cho các tỳ khưu chấp nhận thọ thực nên Ngài thọ thực xong rồi dùng thần thông ra đi. Đến ngày thứ bảy, có một vị tỳ khưu chứng quả Anahàm, sau khi mạng chung vị ấy được sanh lên cõi Phạm thiên tịnh cư.

    Năm vị còn lại không chứng đắc chi cả, khi mệnh chung sanh về cõi trời, rồi luân chuyển giữa hai cõi trời - người suốt một thời Đức Phật.

    Đến thời giáo pháp của bậc đạo sư chúng ta, một vị sanh vào hoàng tộc trong thành Takkasilā xứ Gandhāra có tên là Pukkusāti. Một vị sanh vào thai bào của nữ du sĩ trong xứ Majjhantika có tên là Sabhiya. Một vị sanh vào nhà của một gia trưởng xứ Bāhiya có tên là Bāhiya. Một vị sanh vào thai bào của vị tỳ khưu ni có tênb là Kumārakassapa. Còn trưởng lão Dabba tái sanh trong giòng hoàng tộc tại thành Anupiya xứ Malla,

    Mẹ của trưởng lão đã chết khi Ngài còn trong thai bào, người ta đem thi hài của bà ra nghĩa địa để hoả táng. Do sức nóng của lửa khiến cho bụng người mẹ nứt ra làm hai, đứa bé vọt ra do phước lành của mình rồi rơi vào đống cây. Người ta bế hài tử mang về giao cho bên ngoại nuôi dưỡng. Vào ngày đặt tên, bà đặt tên là Dabba (nghĩa là cây gỗ, lõi cây) vì rơi bên một khúc lõi cây, mới được tồn tại.

    Thấm thoát, hài tử tròn bảy tuổi, bấy giờ Đức Thế Tôn cùng chư tăng du hành đến xứ Malla, ngự trong rừng Anupiyamba. Cậu bé Dabba tình cờ thấy Thế Tôn và tăng chúng, cậu phát tâm tịnh tín, do duyên lành quá khứ thúc đẩy cậu có ý muốn xuất gia liền chạy về nhà xin bà ngoại rằng:

    - Dạ thưa ngoại, con muốn xuất gia nơi Đức Thế Tôn.

    - Lành thay! Cháu thân.

    Rồi bà dẫn cậu bé Dabba đến nơi ngự của Thế tôn, bạch rằng:

    - Bạch Ngài! Xin Ngài hãy thâu nhận đứa bé này cho xuất gia.

    - Lành thay!

    Đức Thế Tôn truyền gọi một vị trưởng lão đến dạy rằng:

    - Này tỳ khưu! Ngươi hãy làm lễ xuất gia cho đứa bé này.

    Vị trưởng lão vâng lời Đức Thế Tôn, cho hài tử Dabba xuất gia.

    Do túc duyên viên mãn khi đường cạo tóc thứ nhất vừa dứt, Dabba chứng quả Tu Đà Hườn, khi đường cạo thứ nhì vừa dứt, Dabba chứng quả Tư Đà Hàm, dứt đường cạo thứ ba, Dabba chứng quả Anahàm và khi mớ tóc cuối cùng rụng xuống thì Dabba cũng vừa thành tựu Alahán quả.

    Đức Thế Tôn ngự tại xứ Malla vừa thích hợp rồi, Ngài du hành đến thành Rājagaha và ngự tại Veḷuvanavihāra (Trúc lâm tịnh xá).

    Đến thành Rājagaha, sadi Sabba tìm một nơi yên tĩnh quán xét xem mình cần phải làm gì? Ngài thấy được hạnh nguyện phục vụ chư tăng của mình: là sắp xếp liêu cốc, sắp đặt phiếu vật thực cho chư Tăng. Sadi Sabba liền đến chỗ Đức Thế Tôn bảy tỏ ý nghĩ của mình, Đức Thế Tôn hoan hỷ nhận lời, Ngài giao công việc quét dọn liêu cốc và Bhattuddesaka (là phát phiếu nhận vật thực đến chư tăng) cho sadi Dabba.

    Đức Thế Tôn suy nghĩa rằng: "Sadi Dabba này! Tuy còn nhỏ nhưng giữ một vị trí quan trọng". Nên Ngài cho Dabba thọ cụ túc giới trong lúc chỉ mới bảy tuổi, sau khi thọ giới cụ túc, trưởng lão sắp xếp trú xứ và phân phát phiếu thực đến tất cả chư tăng cư trú tại thành Rājagaha. Việc cắt đặt trưởng lão là người sắp xếp trú xứ được lan truyền đi khắp nơi rằng:

    - Trưởng lão Dabbamallaputta sắp đặt chu đáo trú xứ cho chư tăng, những vị đồng hạnh thì ở cùng một khu vực với nhau, có khi trưởng lão phải sự dụng thần thông trong lúc ban đêm và những chỗ xa.

    Đôi khi có các vị tỳ khưu vì muốn chứng kiến thần thông của trưởng lão Dabba nên đã đến xin trưởng lão rằng:

    - Này hiền giả! Hãy sắp xếp chỗ ngụ cho chúng tôi trong rừng xoài Jīvaka... "hiền giả hãy sắp xếp chỗ ngụ cho chúng tôi trong rừng Madhakucchimiga-dāya"... và khi chứng kiến được thông lực của trưởng lão rồi mới đi.

    Một hôm trong dịp hội họp chư tăng, Đức Thế Tôn đã tuyên bố đức hạnh của trưởng lão rằng:

    - Này các tỳ khưu Dabbamallaputta thù thắng hơn các Thinh văn về hạnh sắp đặt trú xứ.

    Do ác nghiệp trong quá khứ, tiền thân trưởng lão Dabba đã vu oan vị trưởng lão Alahán nên Ngài phải rơi vào địa ngục nhiều trăm ngàn năm, quả còn dư sót nên trưởng lão Dabba bị các vị tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka vu khống và làm hại, nhưng được chư tăng che chở hoà giải. Để bày tỏ công hạnh của mình, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Người nào khó nhiếp phục
    Nay đã được nhiếp phục
    Dabba tự biết đủ
    Nghi ngờ được vượt qua
    Chiến thắng giặc phiền não
    Viễn ly mọi lo sợ
    Với tâm tư định tĩnh
    Dabba trú tịch tịnh".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NIRODHA

    Được biết trưởng lão đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Đối với ta sợ hãi
    Không làm ta sợ hãi
    Bậc đạo sư chúng ta
    Thiện xảo pháp bất tử
    Sợ hãi không hiện hữu
    Ở trên đạo lộ nào
    Chư tỳ khưu hiện đi
    Ở trên đạo lộ ấy".

    Ngược dòng thời gian, cách hiền kiếp (Bhadda-kappa) này 118 đại kiếp, trưởng lão sanh vào một gia đình Bàlamôn trưởng giả. Khi trưởng thành, ngài nhìn thấy sự nguy hiểm của ngũ trần dục lạc và quả báo của sự xuất gia, nên từ bỏ mọi ràng buộc của thế tục, đi vào rừng dựng một thảo am giữa nhóm cây sāla xuất gia làm đạo sĩ, lượm trái cây làm vật thực. Bấy giờ là thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Piyadassī, Ngài đem nước cam lồ chánh pháp ban rải khắp nơi để xua tan những phiền não của thế gian.

    Một hôm, Đức Thế Tôn thấy được duyên lành của đạo sĩ, Ngài ngự đến tế độ, Ngài đi thẳng đến khóm cây sāla ấy rồi ngồi xuống nhập đại định.

    Đạo sĩ đi tìm trái cây trở về, nhìn thấy Đức Thế Tôn đang toạthiền, Ngài phát tâm tịnh tín, tìm những cành cây có đầy hoa thơm mang về làm thành mái che, che phủ quanh chỗ ngồi của Đức Thế Tôn, với tâm thành kính cúng dường Đức Phật, rồi đạo sĩ đứng chấp tay hầu Ngài với tâm đầy phỉ lạc trong suốt thời gian Đức Thế Tôn nhập thiền diệt. Đức Thế Tôn sau khi xả thiền, để tiếp độ đạo sĩ và để đạo sĩ phát tâm tịnh tín nơi chư tăng nên Ngài khởi tác ý rằng:

    - Chư tỳ khưu hãy đến đây.

    Một trăm ngàn vị thánh tăng Alahán liền đến ngay tức khắc, đạo sĩ nhìn thấy uy nghi của chư thánh tăng liền phát tâm tịnh tín, quỳ xuống đảnh lễ rồi đứng chấp tay hầu.

    Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi giữa chư thánh đệ tử, Ngài mỉm cười, trưởng lão Anurudda - vị thị giả của Đức Thế Tôn đắp lại y vai trái chỉnh tề rồi quỳ xuống bạch hỏi rằng:

    - Kính bạch Đức Thế Tôn! Do duyên cớ gì khiến Đức Thế Tôn mỉm cười?

    - Này Anuruddha! người nào làm mái che bằng bông hoa, đứng hầu suốt bảy ngày, Như Lai nghĩ đến thiện sự của người ấy nên mỉm cười. Này chư tỳ khưu! Như Lai quán thấy rằng: "suốt hai cõi nhân – thiên, không một lúc nào, một dịp nào thiện sự này không cho quả, khi sanh lên cõi trời, người ấy sẽ hưởng đầy đủ những thiên lạc thù diệu của cõi trời, cung điện của người ấy được phủ đầy những bông hoa hương sắc, mùi thơm của hoa toả ra cùng khắp và mưa hoa rơi xuống từng đợt, từng đợt nối tiếp nhau. Người ấy sau khi mãn tuổi thọ ở thiên giới, sanh xuống cõi người, mái che bằng bông hoa cũng khởi lên cho người ấy và được hưởng đầy đủ những nhân lạc của cõi người, đây là quả của sự trong sạch cúng dường Đức Phật và khi mặt trời mọc lên, mưa hoa cũng rơi xuống liên tục không ngớt. Đến kiếp thứ 1800, bấy giờ Đức Thế Tôn có hồng danh Gotama xuất hiện trên thế gian, đạo sĩ này sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, sẽ đoạn trừ tất cả lậu hoặc và trong lúc giác ngộ cũng có mái che bằng bông hoa phủ bên trên".

    Đức Thế Tôn Piyadassī sau khi nói lên quả dị thục của thiện sự ấy xong, Ngài thuyết pháp đến hội chúng, làm cho hội chúng an vui trong mưa pháp, rồi Ngài cùng với chư thánh thinh văn trở về trú xứ của mình.

    Do thiện sự ấy đạo sĩ được sanh làm thiên vương trong hội chúng chư thiên suốt 30 kiếp, được sanh làm Chuyển Luân vương 67 lần và được hưởng đầy đủ dục lạc trong cõi người. Đặc biệt, trong các kiếp tái sanh giữa hai cõi nhân – thiên, mái che bằng bông hoa luôn luôn xuất hiện cho vị ấy, đây là quả báo của sự thành kính cúng dường đến Đức Phật.

    Như trưởng lão đã nói lên trong một đoạn kệ sau:

    "Đến kiếp cuối cùng, mái che bằng hoa cũng xuất hiện cho ta, ta sẽ làm cho Đức Thế Tôn Gotama hoan hỷ, ta đã từ bỏ sự thắng bại, thiêu đốt tất cả phiền não, nhổ tận gốc sanh hữu, đoạn trừ tất cả lậu hoặc, tam minh ta chứng đạt, lời Phật dạy làm xong".

    Và trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

    "Đối với ta sợ hãi
    Không làm ta sợ hãi
    Bậc đạo sư chúng ta
    Thiện xảo pháp bất tử
    Sợ hãi không hiện hữu
    Ở trên đạo lộ nào
    Chư tỳ khưu hiện đi
    Ở trên đạo lộ ấy".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SĀNU

    Được biết trưởng lão Sānu nói lên bài kệ như vầy:

    "Thưa mẫu thân!
    Người ta khóc vì người đã chết
    hay khóc vì người sống biệt ly,
    còn con vẫn đang sống và đang hiện diện,
    vì sao mẫu thân lại khóc cho con?"

    Trong quá khứ trưởng lão Sānu tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát, khởi đầu là kiếp thứ 94 kể từ hiền kiếp này trở về trước, trưởng lão mang nước đến cúng dường Đức Thế Tôn hồng danh Siddhattha để Ngài rửa tay, rửa chân trước khi Ngài thọ thực và đứng một bên hầu Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn thọ thực xong, trưởng lão dâng nước để Ngài xúc miệng, do thiện sự đó khi mệnh chung trưởng lão được tái sanh lên thiên giới.

    Ở kiếp thứ sáu mươi mốt, trưởng lão được sanh làm vua Chuyển Luân tên là Vimala thành tựu đầy đủ bảy báu.

    Sau khi luân chuyển giữa hai cõi trời - người, vào kiếp cuối cùng trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, trưởng lão tái sanh vào một gia đình thiện nam tại thành Sāvatthī, trong thời gian mang thai trưởng lão, người cha đã bỏ đi xứ khác, vừa tròn 10 tháng người mẹ đã hạ sanh một cậu bé kháu khỉnh và đặt tên là Sānu. Khi Sānu tròn bảy tuổi, người mẹ suy nghĩ rằng:

    "Ta sẽ cho Sānu xuất gia, vì với đời sống xuất gia, Sānu sẽ không gặp hiểm hoạ và sẽ lớn lên trong sự an lạc". Bà dặn Sānu đến chỗ chư tỳ khưu xin cho cậu bé được xuất gia. Từ đó cậu có thêm tên mới là Sānusāmaṇera – sadi Sānu. Sadi Sānu là người có trí tuệ, là bậc đa văn, là vị pháp sư giỏi, là người sống với tâm từ đối với mọi loài, là chỗ thương mến, vừa lòng của chư thiên và nhân chúng. Người mẹ trong quá khứ của sadi Sānu hiện là một nữ dạ xoa cõi Tứ đại vương (Mahārāja), từ khi Sānu xuất gia là chỗ thương miến kính trọng của nhân-thiên như thế nên nữ dạ xoa này cũng được các chư thiên dạ xoa cung kính, tôn trọng, ngưỡng mộ vì nghĩ rằng: "Nữ dạ xoa này là mẹ của sadi Sānu". Thời gian sau, sadi Sānu giải đãi, lui sụt, thối thất, có ý muốn hoàn tục. Nữ dạ xoa biết được chuyện ấy, thông báo cho người mẹ hiện tại biết rằng: "Này bạn, sadi Sānu con của bạn khởi ý muốn hoàn tục, vậy bạn hãy khuyên bảo, sách tấn sadi Sānu và đọc lại lời nói của các dạ xoa rằng: "Chớ hành ác, dù ở nơi trống trải hay nơi khuất lấp, nếu người sẽ hoặc đang làm điều ác, người có muốn chạy trốn cũng không thoát khỏi khổ đau". Sau khi nói như thế, dạ xoa biến mất tại chỗ ấy, còn người mẹ khi nghe được những lời này, bà cảm thấy sầu muộn đau khổ vô cùng. Vào buổi sáng hôm sau, sadi Sānu đắp y mang bát về nhà, thấy mẹ đang khóc, bèn hỏi rằng: "Thưa mẫu thân, vì sao mẫu thân khóc?" Bà đáp: "Vì con đó, con thân". Sadi Sānu bèn nói lên bài kệ với mẹ rằng: "Thưa mẫu thân! người ta khóc vì người đã chết hay khóc vì người sống biệt ly, còn con vẫn đang sống và đang hiện diện ở đây, tại sao mẫu thân lại khóc cho con?"

    Mẹ của sadi Sānu, sau khi nghe những lời ấy rồi, bà nói rằng: "Này con thân! sự hoàn tục được xem là chết trong giới luật của bậc thánh, như câu kinh rằng: 'Này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu nào từ bỏ học giới, trở về thế tục, đó là sự chết của kẻ ấy'".

    Rồi bà nói lên bài kệ rằng:

    - "Này con thân! quyến thuộc và bạn bè thường khóc cho những người chết hoặc khóc cho người sống biệt ly, nhưng những ai đã từ bỏ dục vọng lại trở về với dục vọng. Này con thân! quyến thuộc và bạn bè sẽ khóc cho người ấy, vị họ tuy còn sống cũng giống như đã chết. Này con thân! Ta đưa con lên khỏi hầm than rực lửa, con lại muốn rơi vào hầm lửa ấy nữa sao?"

    Sadi Sānu sau khi nghe bài kệ ấy, lấy làm xấu hổ, dao động tâm, trở lại tinh tấn và phát triển thiền quán, ít lâu sau Ngài chứng quả Alahán. Sau khi chứng quả sadi nghĩ rằng: "Sở dĩ ta phát triển thiền quán và đắc quả Alahán là do tác động của những bài kệ này", nên đã lấy những bài kệ này thành những bài kệ Udāna và trong Apadāna, trưởng lão đã nói lên bài kệ Udāna rằng:

    "Ta thấy Đại Samôn
    Thật trong sáng thanh tịnh
    Đang từ tốn thọ thực
    Ta lấy nước trong bình
    Đến dâng Đức Thế Tôn
    Hồng danh Siddhattha
    Hôm nay ta thành người,
    Vô ưu, ly bụi trần
    Chấm dứt mọi nghi hoặc
    Đây chính là kết quả
    Từ việc cúng dường nước
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp 94
    Ta đã cúng dường nước
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Trong kiếp thứ 61
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Danh xưng Vimala
    Đầy đủ với bảy báu
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chặt đứt dây trói buộc
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀKOṬṬHITA

    Được biết trưởng lão Mahākoṭṭhita đã nói lên bài kệ như vầy:

    "An tịnh ly ác hạnh
    Lời nói với trí tuệ
    Tâm tư không phóng động
    Ác pháp được đoạn trừ
    Giống như những lá cây
    Bị gió thổi rơi rụng".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hồng danh Padumuttara, trưởng lão sanh vào một gia đình Bàlamôn trưởng giả tại thành Haṃsavatī. Khi cha mẹ qua đời, vị Bàlamôn này kế thừa và cai quản sản nghiệp của cha mẹ để lại. Một hôm, ngài nhìn thấy dân chúng thành Haṃsavatī, tay cầm lễ vật hướng về tịnh xá, nơi Đức Thế Tôn Padumuttara ngự để nghe pháp, ngài cũng tháp tùng đi theo đại chúng, và được thấy Đức Thế Tôn tuyên dương vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tỳ khưu về sự đắc chứng Tứ vô ngại giải, ngài suy nghĩ rằng: "Ta được nghe vị trưởng lão ấy thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong giáo pháp này, vậy ta cũng nên trở thành người thù thắng giống như trưởng lão ấy, trong giáo pháp của vị Phật tươn glai". Khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, ngài đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:

    - Kính bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài cùng chư tỳ khưu tăng hãy nhận lời thọ thực tại nhà con vào sáng ngày mai.

    Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Vị Bàlamôn sau khi biết Đức Thế Tôn nhận lời liền đảnh lễ và nhiễu quanh Ngài rồi trở về nhà mình. Ông lo trang hoàng sắp đặt chỗ ngồi và chuẩn bị các món ăn thượng vị.

    Khi đêm đã mãn, Đức Thế Tôn cùng với 100.000 tỳ khưu tăng ngự đến nhà của Bàlamôn, vị Bàlamôn tiếp rước và phục vụ Đức Phật cùng chư tỳ khưu tăng đầy đủ với các món ăn thượng vị. Sau khi Đức Phật và chư tăng thọ thực xong, vị Bàlamôn suy nghĩ rằng: "Ta mong được một vị trí cao quý như thế mà chỉ cúng dường có một ngày như vậy xem ra không tương xứng, vậy ta nên cúng dường suốt bảy ngày".

    Thế là vị Bàlamôn cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày liên tiếp. Ngài cho mở kho chọn lựa vải thật tốt để may y. Ngày thứ bảy sau khi cúng dường thực phẩm xong, Ngài cúng dường tam y đến Đức Phật cùng 100.000 tỳ khưu, xong rồi quỳ dưới chân Đức Thế Tôn ước nguyện rằng:

    - Do phước báu mà con đã cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày và dâng tam y đến Thế Tôn cùng tăng chúng, con chỉ ước nguyện được trở thành vị thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong giáo pháp của Đức Chánh Giác vị lai.

    Đức thế Tôn đưa Phật trí quán xét thấy nguyện vọng này sẽ thành tựu nên Ngài thọ ký rằng: "Trong tương lai, sao 100.000 đại kiếp kể từ kiếp này, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Gotama xuất hiện trên thế gian, Bàlamôn này sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, sẽ là vị đại thinh văn với danh xưng là Koṭṭhita".

    Nghe lời tiên tri của Đức Thế Tôn, tâm Ngài hân hoan vô cùng, từ đó về sau Ngài sống với hạnh của một cận sự nam, hộ độ Đức Phật cùng chư tăng. Do thiện sự đó khi mạng chung Ngài được sanh lên cõi trời Đạo Lợi, làm thiên vương Đế thích trong thiên giới ấy 300 lần, làm Chuyển Luân Vương 500 lần và nhiều lần làm vua cai trị quốc độ lớn. Cũng do thiện sự đó, trong mỗi kiếp sanh ra, Ngài luôn luôn được sự an lạc, chỉ luân chuyển trong hai cõi trời-người, khi ở cõi nhân loại vị này chỉ sanh trong hai dòng tộc là dòng vua chúa và dòng balamôn, không sanh trong dòng dõi thấp.

    Một đoạn kệ trong Apādāna trưởng lão đã nói lên như sau:

    "Đến kiếp cuối cùng, ta tái sanh vào gia đình Bàlamôn đại trưởng giả tại thành Sāvatthī, mẹ của ta là Candavatī, cha của ta là Assadāyana. Khi trưởng thành, ta học nằm lòng tam phệ đà và thành tựu các nghệ thuật của Bàlamôn.

    Một hôm, trong lúc Đức Thế tôn chỉ dẫn cho cha ta pháp thanh tịnh, ta đã khởi tâm tịnh tín nơi Đức Thế tôn và xin được xuấg gia. Trưởng lão Moggallāna (Mục Kiền Liên) là giáo thọ sư, trưởng lão Sārīputta (Xá Lợi Phất) là tế độ sư của ta. Ta chặt đứt tận gốc tà kiến trong khi đang cạo tóc và khi đang mặc y ta chứng quả Alahán. Ta là người nhạy bén thuần thục trong nghĩa, pháp, ngữ và biện, thế nên Đức Thế Tôn tuyên dương ta thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong igáo pháp này. Có lần thầy tế độ của ta là trưởng lão Sārīputta đã nêu lên những câu hỏi trong vô ngại giải, ta giải đáp không khó khăn, không chướng ngại. Ta đoạn trừ tất cả phiền não, nhổ lên tận gốc sanh hữu, chấm dứt các lậu hoặc, tam minh ta chứng đạt, lời Phật dạy làm xong"

    Về sau, khi hưởng an lạc giải thoát, Ngài đã nói lên bài kệ rằng:

    "An tịnh ly ác hạnh
    Lời nói với trí tuệ
    Tâm tư không phóng động
    Ác pháp được đoạn trừ
    Giống như những lá cây
    Bị gió thổi rơi rụng".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO GODHIKA

    Được biết trưởng lão Godhika đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín đáo,
    Tâm ta khéo định tĩnh
    Nếu người muốn hãy mưa
    Trời mưa hãy mưa đi".

    Đây là những bài kệ của bốn vị trưởng lão, đó là trưởng lão Godhika, trưởng lão Subāhu, trưởng lão Valliya và trưởng lão Uttiya, bốn vị đã tuần tự nói lên bài kệ của mình và có nhân duyên tiền kiếp như sau:

    Bốn vị trưởng lão này, cùng nhau tạo phước, trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hồng danh Siddhattha. Từ hiền kiếp này trở về trước đến kiếp thứ 94, cả bốn người đều là bạn thân với nhau.

    Một hôm, người thứ nhất đi trên đường nhìn thấy Đức Thế tôn Siddhattha đang khất thực, đã phát tâm trong sạch cúng dường thực phẩm đến Ngài.

    Người thứ nhì có tâm tịnh tín, quỳ xuống đảnh lễ theo ngũ thể đầu địa.

    Người thứ ba hoan hỷ cúng dường một nắm hoa sen.

    Người thứ tư đã hoan hỷ cúng dường hoa lài. Do thiện sự đó, khi mạng chung, cả bốn người bạn này được sanh về thiên giới và an hưởng đầy đủ những thiên lạc thù diệu trên cõi trời.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế tôn Kassapa, bốn người này sanh xuống cõi người và cũng làm bạn với nhau, do duyên lành quá khứ cho nên một hôm họ cùng nhau đến chùa nghe pháp từ Đức Thế Tôn Kassapa rồi phát khởi niềm tin trong sạch, xin xuất gia, thực hành phạm hạnh trong giáo pháp của Ngài.

    Đến kiếp cuối cùng, là thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, bốn người bạn này được sanh vào hoàng tộc Malla trong thành Pāvā. Đức vua Malla đã đặt tên cho bốn vị hoàng tộc này là Godhika, Subāhu, Valliya và Uttiya. Bốn vị vương tử là bạn thân với nhau. Một hôm, bốn vị cùng nhau đến thành Kapilavatthu vì một vài công việc.

    Bấy giờ Đức Thế Tôn du hành đến thành Kapila-vatthu và ngự tại Nirodhāvāma (Chùa Cây Bàng). Đức Thế Tôn dùng th6ng lực cảm hoá tiếp độ hoàng tộc Thích ca có cả Đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là bậc trưởng bối. Lúc ấy bốn vị vương tử xứ Malla chứng kiến thông lực của Đức Thế Tôn đã phát tâm tịnh tín xin xuất gia, sau khi xuất gia xong, cả bốn vị đều tinh cần phát triển thiền qúan, không bao lâu bốn vị đã chứng quả Alahán với tuệ vô ngại giải. Như trong Apadāna, trưởng lão Godhika đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Ta nhìn thấy Đức Phật
    Màu da như vàng ròng
    Bậc xứng đáng cúng dường
    Bước ra từ rừng vắng
    Bên cúng dường thực phẩm
    Đến Đức Siddhattha
    Bậc có đại trí tuệ
    Đã đạt được tịch tịnh
    Bậc đại hùng đại lực
    Ta đi theo chân Ngài
    Bậc soi sáng thế gian
    Ta vô cùng hoan hỷ
    Nơi Đức Chánh Đẳng Giác
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp chín tư (94)
    Vật thí nào ta tạo
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc dâng thực phẩm
    Đến kiếp tám mươi bảy
    Lui từ hiền kiếp này
    Bảy lần ta tái sanh
    Làm Chuyển Luân Thánh Vương
    Tên Mahārenu
    Đầy đủ với bảy báu
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chặt đứt dây trói buộc
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Trưởng lão Subāhu nói lên bài kệ như vầy:

    "Ta nhìn thấy Đức Phật
    Màu da như vàng ròng
    Bậc oai hùng tam giới
    Như ngựa Ajāney
    Như voi Mātaṇga
    Bậc tìm cầu tối thượng
    Soi sáng khắp thế gian
    Như cây chúa trổ hoa
    Bậc cao quý tam giới
    Tối thượng hơn Nara
    Đang ngự đi trên đường
    Khiến tâm ta tịnh tín
    Chắp tay tâm trong sạch
    Lòng tràn đầy hoan hỷ
    Đảnh lễ Đức Thế Tôn
    Hồng danh Siddhattha
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp 94
    Thiện nghiệp nào ta tạo
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Trong kiếp bảy mươi ba
    Kể từ hiền kiếp này
    Mười sáu lần ta sanh
    Làm Chuyển Luân Thánh Vương
    Tên Naruttama
    Đầy đủ với bảy báu
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chặt đứt dây trói buộc
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Trưởng lão Valliyā nói lên bài kệ như vầy:

    "Cũng chính vào thời ấy
    Ta làm thợ kết hoa
    Trong thành Tiravā
    Ta nhìn thấy Đức Phật
    Bậc thoát ly bụi trần
    Hồng danh Siddhattha
    Tâm ta đầy hoan hỷ
    Dâng một nắm hoa sen
    Ta sanh ra trong cõi nào
    Do quả thiện sự ấy
    Ta sống trong an lạc
    Được tuỳ tùng vây quanh
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp 94
    Ta đã cúng dường hoa
    Đến Đức Chánh Đẳng Giác
    Chính do thiện nghiệp này
    Ta không biết khổ cảnh
    Năm trăm lần ta sanh
    Làm vua của quốc độ
    Tên Najjasama
    Cho đến kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chặt đứt dây trói buộc
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Trưởng lão Uttiya nói lên bài kệ như vầy:

    "Ta đã dâng hoa lài
    Đến Đức Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Siddhattha
    Ta đã rải hoa lài
    Xuống chân Đức Thế Tôn
    Với tâm đầy hoan hỷ
    Chính do thiện nghiệp đó
    Nay ta được chứng đạt
    Pháp bất tử tối thượng
    Đây là thân cuối cùng
    Trong giáo pháp của Phật
    Kể từ hiền kiếp này
    Mười ba lần ta sanh
    Làm Chuyển Luân Thánh Vương
    Với danh xưng được gọi
    Samantagandha
    Cai trị cả địa cầu
    Cho đến tận bốn biển
    Và trong kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chặt đứt dây trói buộc
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Bốn vị trưởng lão sau khi chứng quả Alahán được nổi tiếng khắp nơi rằng "Bốn đại trưởng lão ấy là người được Đức vua và các đại thần tôn trọng, kính nể, hiện đang ngự trong rừng".

    Một hôm, Đức vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) ngự đến nơi bốn vị trưởng lão, sau khi đảnh lễ rồi cung thỉnh bốn vị ở lại an cư vào mùa mưa tại kinh thành Rājagaha, Đức vua truyền lệnh cất bốn am thất dâng cho bốn vị trưởng lão, nhưng lại quên lợp mái. Các vị trưởng lão ở trong am thất chưa được lợp, mặc dầu đã đến mùa mưa nhưng bầu trời vẫn không đổ hạt, Đức vua mới suy nghĩ rằng: "Do nhân gì khiến trời không mưa?". Khi biết được nguyên nhân, Đức vua truyền cho lệnh lợp mái các am thất ấy cho tô vách bằng chất dẻo và trang hoàng xinh đẹp, xong rồi Đức vua tổ chức lễ cúng dường am thất đến chư tỳ khưu tăng.

    Để tiếp độ Đức vua, các vị trưởng lão đi vào am thất nhập thiền đề mục từ (Mettā). Liền sau đó những đám mây đen nổi lên ở hướng bắc và hướng đông, báo hiệu sẽ mưa khi các vị trưởng lão xả thiền. Trong các vị trưởng lão ấy, trưởng lão Godhika xả thiền cùng lúc với cơn mưa cất tiếng hát vang giữa không trung, cảm hứng với cảnh tượng này.

    Trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín đáo,
    Tâm ta khéo định tĩnh
    Nếu người muốn hãy mưa
    Trời mưa hãy mưa đi".

    Trưởng lão Subāhu nói lên bài kệ kế tiếp:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín đáo
    Tâm ta khéo định trên thân
    Nếu ngươi muốn hãy mưa
    Trời mưa hãy mưa đi"

    Tiếp theo là trưởng lão Valliya nói lên kệ ngôn:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kínhđáo
    Không dễ duôi ta sống
    Nếu người muốn hãy mưa
    Trời mưa hãy mưa đi".

    Trưởng lão Uttiya nói lên kệ rằng:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kính đáo
    Ta độc cư trong cốc
    Nếu người muốn hãy mưa
    Trời mưa hãy mưa đi".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MĀNAVA

    Được biết trưởng lão Mānava nói lên bài kệ rằng:

    "Tôi thấy một người già
    Một người bệnh trầm kha
    Tôi thấy một người chết
    Với tuổi thọ đã tận
    Nên từ bỏ dục lạc
    Khiến tâm người mê thích
    Tôi sống đời xuất gia".

    Trưởng lão Mānava đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát với chư Phật quá khứ. Kể từ hiền kiếp này trở về trước, vào kiếp 91, trưởng lão tái sanh trong một gia đình Bàlamôn. Khi trưởng thành, Ngài học nằm lòng tam phệ đà và trở thành người xem tướng pháp nổi tiếng.

    Khi bồ tát Vipassī đản sanh, Ngài được mời đến xem tướng, quan sát tướng bồ tát, Ngài tiên đoán rằng "Người này về sau sẽ xuất gia và chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác". Ngài tán thán ca tụng bồ tát sau đó xá chào nhiễu quanh bồ tát rồi ra về.

    Do thiện nghiệp đó, khi mạng chung vị Bàlamôn được tái sanh lên thiên giới và trong suốt thời gian luân hồi sanh tử, chỉ tái sanh trong nhàn cảnh.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài tái sanh vào một gia đình Bàlamôn danh tiếng tại thành Sāvatthī, và được đặt tên là Mānava, từ khi sanh ra Mānava ở suốt trong nhà bảy năm. Một hôm, những người hầu đưa Mānava đi ngoạn cảnh. Trên đường Mānava đã nhìn thấy:

    - Người già
    - Người bệnh
    - Người chết

    Vì chưa từng thấy những cảnh tượng đó, nên Mānava hỏi những người hầu, được họ giải thích cặn kẻ về nguyên nhân cùng tướng trạng của sự già, sự bệnh và sự chết, nghe xong tâm Mānava phát sanh kinh cảm liền quay về. Do duyên lành giải thoát đã chín muồi, nên Mānava tìm đến tịnh xá, nghe pháp nơi Đức Thế Tôn, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn được tái lập lại sau một thời gian dài bị vô minh và ái dục che lấp. Mānava trở về nhà xin phép cha mẹ xuất gia. Sau khi xuất gia, tôn giả Mānava nhiệt tâm tinh cần phát triển thiền quán, không bao lâu chứng đạt quả vị Alahán.

    Như bài kệ của trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

    "Bồ tát Vipassī
    Hạ sanh không bao lâu
    Ta đi đến xem tướng
    Nhìn tướng ta tiên tri
    Vị này trong tương lai
    Sẽ từ bỏ thế tục
    Sống đời sống xuất gia
    Thành bậc Chánh Đẳng Giác
    Giúp quần sanh thoát khổ
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Cả mười ngàn thế giới
    Rung chuyển và chấn động
    Bây giờ Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Có hào quang vô lượng
    Bây giờ Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Các dòng sông ngừng chảy
    Bây giờ Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Lửa địa ngục A tỳ
    Dừng lại, không thiêu đốt
    Bây giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Loài phi cầm không bay
    Bây giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Các cơn gió ngừng thổi
    Bây giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Các loài ngọc chiếu sáng
    Bây giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Chân bước đi bảy bước
    Bây giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc đầy đủ tuệ nhãn
    Đang ngự toạ thuyết Pháp
    Khi Thế Tôn hạ sanh
    Ngài nhìn thấy các hướng
    Cất lên tiếng Ngưu Vương
    Ta khiến cho mọi người
    Phát sanh sự kinh cảm
    Tán thánh Đức Thế Tôn
    Bậc Đạo sư thế gian
    Sau khi đảnh lễ Ngài
    Ta đi theo hướng đông
    Kể từ hiền kiếp này
    Trở lui kiếp 91
    Ta tán thán Phật nào
    Do sự tán thán ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Trong kiếp thứ 90
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Sammukhāthavika
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 89
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Danh xưng Pathavī
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 88
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Danh xưng là Obhāsa
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 87
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Saritacchedana
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 86
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Agginibbāpana
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 85
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Katipacchādana
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 84
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Vātasama
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 83
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Ratanapajjala
    Trong kiếp thứ 82
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Padavikkamana
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 81
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Vilokana
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp thứ 80
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta làm Chuyển Luân Vương
    Tên Girasāra
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, một lần nọ, chư tỳ khưu hỏi tôn giả Mānava rằng: "Này hiền giả Mānava, hiền giả còn trẻ, vậy chớ hiền giả buồn chuyện gì mà đi tu?" Để xác chứng quả Alahán và bày tỏ động cơ cho việc xuất gia của mình, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Tôi thấy một người già
    Một người bệnh trầm kha
    Tôi thấy một người chết
    Với tuổi thọ đã tận
    Nên từ bỏ dục lạc
    Khiến tâm người mê thích
    Tôi sống đời xuất gia".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO EKUDĀNIYA

    Được nghe rằng trưởng lão nói lên bài kệ như sau:

    "Tất cả sự sầu muộn
    Không có cho tỳ khưu
    Bậc có tăng thượng tâm
    Trú pháp không dễ duôi
    Bậc ẩn sĩ học tập
    Trên con đường chánh trí
    Thể nhập sự an tịnh
    Chánh niệm trong mọi thời".

    Vị trưởng lão này đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát trong thời chư Phật quá khứ, và trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassī, trưởng lão tái sanh làm tướng quân trong hàng dạ xoa (Yakkha). Khi Đức Thế Tôn niết bàn, tướng quân dạ xoa sầu muộn bi ai rằng:

    - Thật bất lợi cho ta, bây giờ ta không còn cơ hội để cúng dường và thính pháp nơi Đức Thế Tôn, bởi lúc Ngài chưa viên tịch ta không có cơ hội tạo phước.

    Bấy giờ, có vị đại đệ tử của Đức Thế Tôn Atthadassī tên là Sāgara với thần lực của mình đã nghe được lời than vãn của dạ xoa, tôn giả Sāgara đã tiếp độ dạ xoa, chỉ dẫn tạo phước bằng cách cúng dường bảo tháp Xá Lợi của Đức Thế Tôn.

    Vị dạ xoa hoan hỷ làm theo lời dạy của tôn giả Sāgara, hộ trì cúng dường bảo tháp Xá Lợi suốt 5 năm, khi mạng chung, được tái sanh làm vị thiên tử có đại thần lực do nhờ phước báu của sự cúng dường bảo tháp, rồi luân chuyển giữa hai cõi trời - người đều được an lạc.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài được tái sanh trong một gia đình trưởng giả, khi trưởng thành do duyên lành của quá khứ khiến cho công tử lần hồi đi đến nơi ngự của Đức Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang giáo giới chư tỳ khưu với bài kệ Adhicetaso (tăng thượng tâm: tức là pháp làm tăng trưởng tâm định). Công tử nghe được bài kệ ấy, phát khởi niềm tin xin xuất gia. Khi xuất gia, Ngài thường xuyên đọc tụng bài kệ ấy và thực hành sa môn pháp theo lời giáo giới này suốt 20000 năm, nhưng không chứng đắc pháp cao thượng vì trí tuệ chưa chín muồi.

    Mạng chung, Ngài được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển trong nhàn cảnh một thời gian dài. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài sanh vào một gia đình Bàlamôn trưởng giả tại thành Sāvatthī, khi trưởng thành, một hôm, trong dịp Đức Thế Tôn nhận Jetavana (Kỳ Viên tịnh xá) từ trưởng giả Anāthapiṇḍika, vị Bàlamôn này nhìn thấy tướng mạo quang minh cùng với uy hạnh của Đấng Đại Giác khiến ông phát khởi niềm tin xin xuất gia, xuất gia xong Ngài sống với hạnh trú trong rừng.

    Một hôm, trưởng giả đi đến chỗ Đức Thế Tôn ngự, bấy giờ Đức Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, nhìn thấy trưởng lão Xá Lợi Phất đang hướng đến Tăng thượng tâm, cách chỗ ngự của Đức Thế Tôn không xa, Đức Thế Tôn đã thuyết lên kệ ngôn rằng: Adhicetaso...

    Trưởng lão nghe được bài kệ từ nơi Đức Thế Tôm, khi trở về trú xứ của mình, thường xuyên đọc lên bài kệ đó, do vậy trưởng lão mới có tên là Ekudāniyathera.

    Khi tâm tư được tịnh tĩnh, trí tuệ đã chín muồi, trưởng lão phát triển thiền quán, chứng đạt Alahán. Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

    "Thuở ấy Đức Thế Tôn
    Hồng danh Atthadassī
    Đã viên tịch niết bàn
    Bấy giờ ta tái sanh
    Là đại tướng dạ xoa
    Có uy danh không nhỏ
    Ta mới suy nghĩ rằng
    Khi ta có tài sản
    Thế Tôn lại niết bàn
    Thật bất lợi cho ta
    Thật đáng tiếc cho ta
    Tôn giả Sāgara
    Với thần lực của mình
    Biết được tư tưởng ấy
    Muốn nhổ lên gai sầu
    Đi đến chỗ ta ngự
    Nói lên những lời rằng
    Vì sao ngươi phiền muộn
    Ngươi chớ có lo buồn
    Hãy lắng nghe, thực hành
    Hỡi này người có trí
    Đức Thế Tôn dạy rằng
    Người nào cúng dường Phật
    Khi Ngài còn tại thế
    Hoặc cúng dường xá lợi
    Khi Ngài đã niết bàn
    Nếu tâm của người ấy
    Hoan hỷ đồng như nhau
    Thì quả phước tương đương
    Vì vậy ngươi hãy tạo
    Bảo tháp thờ xá lợi
    Thế Tôn bậc chiến thắng
    Sau khi nghe lời dạy
    Tôn giả Sagāra
    Ta kiến tạo bảo tháp
    Ta hộ trì bảo tháp
    Của bậc Đại Ẩn sĩ
    Thời gian suốt 5 năm
    Chính do nghiệp thiện đó
    Ta sống trong an lạc
    Và chứng quả vô sanh
    Trong kiếp thứ 700
    Kể từ hiền kiếp này
    Bốn lần ta tái sanh
    Làm Chuyển Luân Thánh Vương
    Tên Bhūripaññā
    Đầy đủ với bảy báu
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão trú trong lạc giải thoát, một hôm, vị thủ kho chánh pháp đến thỉnh mời rằng: - Này hiền giả, xin hiền giả hãy thuyết pháp đến tôi.

    Trưởng lão Ekudāniya thuyết lên bài kệ rằng:

    "Tất cả sự sầu muộn
    Không có cho tỳ khưu
    Bậc có tăng thượng tâm
    Trú pháp không dễ duôi
    Bậc ẩn sĩ học tập
    Trên con đường chánh trí
    Thể nhập sự an tịnh
    Chánh niệm trong mọi thời".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO

    Được biết trưởng lão Khadiravaniya nói lên bài kệ rằng:

    "Hỡi này cháu Cāla
    Cháu Upacāla Sīsūpacāla
    Hãy an trú chánh niệm
    Tôn giả đang đi đến
    Là bậc có lợi tuệ
    Như tay cung thiện xảo
    Bắn chẻ chót lông thú"

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão sanh vào một gia đình chủ tàu tại thành Haṃsāvati, sau khi trưởng thành đã phụ cha làm việc tại bến cảng Payāga.

    Một hôm, Đức Thế Tôn cùng với chư tăng ngự đến bến cảng để sang bờ bên kia, Ngài thấy Đức Thế Tôn cùng chư tăng, phát khởi tâm trong sạch, sắp xếp một đoàn tàu đưa Đức Phật cùng chư tăng qua bên kia bờ.

    Có lần, Ngài đến tịnh xá nghe pháp, thấy Đức Thế Tôn tán thán một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh ở rừng, Ngài vô cùng hoan hỷ, muốn được vị trí đó nên cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng Tỳ khưu về nhà cúng dường rồi nguyện dưới chân Đức Thế tôn cùng với sự chứng minh của chư tăng rằng:

    - Do phước báu con cúng dường thực phẩm đến Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu, xin cho con được vị trí thù thắng là đệ nhất hạnh ở rừng giống như vị tôn giả kia vậy.

    Đức Thế Tôn sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu, Ngài tuyên bố rằng:

    - Trong tương lai, vào thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Gotama, nguyện vọng của ngươi sẽ được thành tựu.

    Kể từ đó, Ngài luôn tích cực thực hành các thiện sự làm duyên cho nguyện vòng của mình được thành tựu mỹ mãn.

    Sau khi mạng chung, nhờ sự trong sạch nơi Tam Bảo và những thiện sự đã tích luỹ vị ấy sanh lên thiên giới, hưởng đầy đủ những thiên lạc thù thắng của cõi trời, rồi sanh xuống cõi người cũng hưởng đầy đủ những nhân lạc nơi nhân giới, luân chuyển như vậy mãi cho đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta. Ngài tái sanh vào bào thai của nữ Bàlamôn Rūpasārī tại làng Nālaka xứ Magadha.

    Sau khi sanh ra, cha mẹ đặt tên là Revata, khi Revata trưởng thành, cha mẹ lo sợ sẽ theo vị sư huynh là trưởng lão Saripuṭṭa (Xá Lợi Phất) đi xuất gia nên cột trói Revata bằng cách ép chàng cưới vợ. Revata khi biết được tin anh mình đã xuất gia, suy nghĩ rằng: "Anh ta đã từ bỏ gia sản này đi xuất gia, chẳng lẽ ta lại nuốt cục nước bọt mà anh ta đã nhổ bỏ sao?". Sau khi suy nghĩ như thế, Revata phát sanh sự kinh cảm giống như con vật đang tiến vào bẫy, Revata tìm cơ hội gạt gia đình, trốn đi đến chỗ chư tăng ngự, trình cho chư tăng biết mình là em của trưởng lão Sariputta và ngỏ ý được xuất gia.

    Chư tỳ khưu cho Revata xuất gia sadi, rồi khi tròn đủ hai mươi tuổi, chư tăng cho thọ cụ túc giới và chỉ dẫn thực hành samôn pháp. Tôn giả Revata sau khi tín thọ lời dạy của chư tăng, Ngài đi đến khu rừng Simpali và khởi lên tư tưởng rằng: - "Khi nào ta chứng quả vô sanh, ta mới đi đến yết kiến Đức Thế Tôn và sư huynh của ta". Rồi Ngài tinh cần nỗ lực hành pháp sa môn, không bao lâu chứng đạt lục thông.

    Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

    "Trên dòng sông Gangā
    Tên Bhāgīrathī
    Sanh từ vùng Hy Mã
    Ta làm người lái đó
    Tại bến sông khúc khuỷu
    Đưa người từ bờ này
    Sang bên kia bờ sông
    Đức Chánh Đẳng Chánh Giác
    Padumuttara
    Bậc Đạo sư thế gian
    Tối thượng hơn các loài
    Cùng một ức tỳ khưu
    Bậc vô lậu giải thoát
    Muốn đi qua sông ấy
    Ta tập trung các tàu
    Được trang bị tốt đẹp
    Rồi cung thỉnh Thế Tôn
    Cùng chư tôn ngự lên
    Khi ra đến nửa sông
    Thế Tôn phán kệ rằng
    Người nào đưa Như Lai
    Cùng chư tăng vô lậu
    Với tâm trong sạch ấy
    Sẽ tái sanh thiên giới
    Có thiên cung xinh đẹp
    Hình dáng như chiếc tàu
    Trong kiếp thứ 58
    Sẽ làm Chuyển Luân Vương
    Danh xưng Tāsaka
    Cai trị cả địa cầu
    Bốn biển là ranh giới
    Trong kiếp thứ 57
    Sanh làm Sát-đế-ly
    Có danh xưng Cammaka
    Có sức mạnh phi thường
    Sáng chói như thái dương
    Đến kiếp 100.000
    Trong thời kỳ giáo pháp
    Thế Tôn Gotama
    Người ấy từ Đạo Lợi
    Sanh xuống cõi nhân loại
    Làm con Bàlamôn
    Có tên Revata
    Sẽ từ bỏ gia đình
    Xuất gia trong giáo pháp
    Của Đức Thế Tôn ấy
    Do nhiệt tâm tinh cần
    Thực hành samôn pháp
    Trải qua không bao lâu
    Lậu hoặc được đoạn trừ
    Nay là thân cuối cùng
    Trong giáo Pháp của Phật
    Nghiệp nào ta đã tạo
    Trong ức kiếp về trước
    Cho quả báo đời này
    Giúp ta đốt phiền não
    Như tên thoát khỏi cung
    Lao vun vút trong gió
    Lúc ấy Đức Thế Tôn
    Bậc thông suốt thế gian
    Thấy tâm ta thoả thích
    Với việc ngụ trong rừng
    Mới xác nhận vị trí
    Đệ nhất hạnh ẩn lâm
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng đạt lục thông, trưởng lão dọn dẹp trú xứ, cầm y bát, tuần tự du hành đến Jetavanavihāra trong thành Sāvatthī vào đảnh lễ yết kiến Đức Thế Tôn và trưởng lão Sārīputtā.

    Một hôm, nhân lúc chư tăng câu hội đông đảo, bậc đạo sư ngồi giữa tăng chúng đã xác nhận vị trí của trưởng lão rằng:

    "Này chư tỳ khưu, Revatakhadiravaniya là người thù thắng hơn chư tỳ khưu về hạnh ở rừng".

    Sau đó, trưởng lão trở về quê quán của mình, dẫn 3 đứa cháu trai tên là Cāla, Upacāla, Sīsūpacāla là con của ba người chị là Cālā, chị Upācālā và chị Sisūpacāla đến chỗ chư tăng cho xuất gia sadi và chỉ dẫn đề mục nghiệp xứ cho ba vị ấy tu tập.

    Có lần trưởng lão Revata thọ bệnh, trưởng lão Sarīputta hay tin, đi đến chỗ vị sư đệ ngụ với tác ý rằng:

    - Ta sẽ hỏi thăm bệnh trạng và đạo quả mà sư đệ đã đắc chứng.

    Trưởng lão Revata thấy vị tôn huynh từ xa đi đến, nhắc nhở 3 vị sadi hãy an trú chánh niệm bằng bài kệ rằng:

    "Hỡi này cháu Cāla
    Cháu Upacāla Sīsūpacāla
    Hãy an trú chánh niệm
    Tôn giả đang đi đến
    Là bậc có lợi tuệ
    Như tay cung thiện xảo
    Bắn chẻ chót lông thú"

    Các vị sadi nghe xong bài kệ ấy, làm phận sự của mình: đứng dậy tiếp rước, đảnh lễ trưởng lão Sārīputta rồi ngồi thiền định không xa nơi ấy. Khi hai vị trưởng lão vấn an lẫn nhau xong rồi, trưởng lão Sārīputta rời chỗ ngồi đi tìm 3 vị sadi. Ba vị đứng lên vái chào, trưởng lão hỏi rằng:

    - Các con đang trú với pháp gì?

    Các sadi tuần tự đáp rằng:

    - Chúng con trú với pháp này, pháp này...

    Trưởng lão Sārīputta tán thán vị sư đệ rằng: - Sư đệ chỉ dẫn ba vị sadi như vậy, được gọi là tuỳ Pháp và thuận Pháp.

    Rồi trưởng lão trở về trú xứ của mình.

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SAMBHŪTA

    Được biết trưởng lão Sambhūta nói lên bài kệ rằng:

    "Vị tỳ khưu đi đến
    Rừng Sītavana
    Sống độc cư biết đủ
    Tâm tư khéo định tĩnh
    Chiến thắng, không kinh sợ
    Trí tuệ hộ niệm thân".

    Ngược dòng thời gian cách nay 118 đại kiếp, có vị Chánh Đẳng Giác với hồng danh Atthadassī sanh lên trong thế gian, tiếp độ quần sanh vượt khỏi bộc lưu luân hồi.

    Một hôm, Thế Tôn ngự đến bờ sông Hằng Gangā cùng với đại chúng tỳ khưu.

    Vào thời ấy, vị trưởng lão này sanh vào một gia đình tộc trưởng, lúc ấy chàng thanh niên tộc trưởng này cũng đi đến bờ sông, thấy Đức Thế Tôn cùng chư tăng, phát tâm trong sạch đến đảnh lễ Ngài và hỏi rằng:

    - Kính bạch Ngài! Có phải Ngài muốn sang sông chăng"

    Đức Thế Tôn phán rằng: "Ta sẽ đi".

    Chàng liền sắp đạt một đoàn tàu rồi cung thỉnh Đức Phật cùng chư tăng ngự lên tàu, tự thân điều khiển đoàn tàu đưa Đức Phật cùng chư tăng sang bờ bên kia một cách an toàn. Hôm sau, chàng hoan hỷ thiết lễ cúng dường vật thực đến Đức Phật cùng chư tăng, rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn và tăng chúng quay trở về.

    Mạng chung, do thiện sự ấy, chàng tái sanh về thiên giới và chỉ luân chuyển giữa hai cõi nhân – thiên.

    Trong kiếp thứ 113, chàng được sanh làm Chuyển Luân Vương, cai trị quốc độ theo Thập-vương-pháp, dẫn dắt mọi người đi trên con đường nhàn cảnh.

    Trong kiếp thứ 91, nhằm thời giáo pháp của Đức Thế tôn Vipassī, chàng xuất gia trong giáo pháp của Ngài, sau khi xuất gia Ngài hạnh đầu đà ngụ ở rừng và tinh cần hành đạo.

    Vào thời giáo pháp của Thế Tôn Kassapa, Ngài cùng ba người bạn xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, thực hành samôn pháp đến hai mươi ngàn năm, rồi luân chuyển giữa nhân thiên suốt một thời gian dài.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, ngài sanh vào một gia đình Bàlamôn danh tiếng tại thành Rājagaha và được đặt tên là Sambhūta. Khi trưởng thành, Sambhūta đã thành tựu các nghệ thuật Bàlamôn.

    Một hôm, do duyên lành tròn đủ, Sambhūta cùng ba người bạn là Bhūmiya, Jeyyasena và Abhirādhana đi đến chỗ Đức Thế Tôn để thính Pháp, phát khởi niềm tin xin xuất gia trong giáo pháp của Ngài.

    Trưởng lão Sambhūta học Pháp môn thân hành niệm từ Đức Thế tôn, rồi đến rừng Sītavana tu tập do nhân đó, trưởng lão mới có tên là "Sītavanīya".

    Lúc bấy giờ, Đức Thiên Vương Vessvaṇṇa ngự giữa hư không, xoay mặt nhìn về hướng nam của cõi Diêm phù đề (Jambūdīpa), thấy trưởng lão ngồi trong Abbho-kāsa (là ngoài trời nơi không có che lợp), hướng tâm đến đề mục thiền tịnh của mình, Đức Thiên Vương rời khỏi thiên cung ngự xuống đảnh lễ trưởng lão rồi truyền bảo hai dạ xoa rằng:

    - Khi trưởng lão xả thiền hãy báo tin cho ta biết và hãy phòng hộ trưởng lão.

    Rồi Ngài ngự đi, hai dạ xoa đứng hầu trưởng lão bàn luận với nhau về điều hy hữu này, khi trưởng lão vừa xả đề mục nghe được những lời đàm luận của hai dạ xoa, trưởng lão bảo chúng rằng:

    - Ngươi hãy về thưa lại với Thiên Vương Vessa-vaṇṇa rằng: "Niệm là Pháp phòng hộ được Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chư đệ tử của Ngài, Thiên Vương hãy từ bỏ sự quan tâm trong cách hộ trì ấy đi, sự phòng hộ như thế sẽ không có với người đã tín thọ lời giáo giới của Đức Thế Tôn".

    Trưởng lão cho hai dạ xoa trở về, còn mình tiếp tục phát triển thiền quán và chứng đạt tam minh ngay sau đó.

    Không bao lâu, Đức Thiên Vương Vessavaṇṇa (Đa văn thiên vương) trở lại, đi đến gần trưởng lão, Đức Thiên Vương khéo quan sát nhận biết trưởng lão đã chứng đạt quả vị Alahán, Thiên Vương đi đến thành Sāvatthī, vào đảnh lễ Đức Thế Tôn và trước mặt Đức Thế Tôn tán thán những đức hạnh của trưởng lão bằng bài kệ rằng:

    "Trưởng lão Sambhūta
    Đầy đủ niệm, phòng hộ
    Có tuệ, có tinh cần
    Là con của Thế Tôn
    Tam minh đã chứng đạt
    Vượt qua bờ thần chết".

    Do nhân đó, trưởng lão mới nói lên bài kệ trong Apadāna rằng:

    "Thuở ấy Đức Thế Tôn
    Hồng danh Atthadassī
    Chúa tể loài hai chân
    Cao thượng hơn Nara
    Đoanh vây với Thinh Văn
    Ngự đến bờ sông Hằng
    Dòng sông đầy ấp nước
    Loài quạ đứng uống được
    Rất khó để vượt qua
    Ta đưa Đức Thế Tôn
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Vượt qua dòng sông ấy
    Kể từ hiền kiếp này
    Đến kiếp 118
    Ta làm thiện nghiệp nào
    Chính do thiện nghiệp đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Trong kiếp 113
    Ta 5 lần được làm
    Vua Chuyển Luân Thánh Vương
    Tên Sabbobhava
    Đầy đủ với bảy báu
    Trong kiếp cuối cùng này
    Sanh làm Bàlamôn
    Ta tu trong giáo pháp
    Của Đức Thế Tôn ấy
    Cùng với 3 người bạn
    Ta thiêu đốt phiền não
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Một hôm, trưởng lão Sambhūta thấy chư tỳ khưu đi yết kiến Đức Thế Tôn mới nói rằng:

    - Này các hiền giả! Các hiền giả hãy thay mặt tôi đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và nói lên bài kệ rằng:

    Yo sītavanaṃ...

    Các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đảnh lễ Đức Thế tôn và thuật lại lời của trưởng lão Sambhūta rằng:

    - Kính bạch Đức Thế Tôn! Trưởng lão Sambhūta xin đảnh lễ dưới chân Đức Thế tôn và nhắn gởi bài kệ rằng:

    "Vị tỳ khưu đi đến
    Rừng Sītavana
    Sống độc cư biết đủ
    Tâm tư khéo định tĩnh
    Chiến thắng, không kinh sợ
    Trí tuệ hộ niệm thân".

    Đức Thế Tôn nghe lời ấy rồi phán rằng:

    - Này chư tỳ khưu, Sambhūta là bậc hiền trí, hành pháp và tuỳ pháp, không phiền nhiễu Như Lai. Về chuyện của Sambhūta thiên vương Vessavaṇṇa đã nói với Như Lai rồi.

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VANAVACCHA

    Được biết trưởng lão Vanavacchā nói lên bài kệ rằng:

    "Các ngọn núi toàn đá
    Có màu xanh như mây
    Lấp lánh thật xinh đẹp
    Có nước mát tinh anh
    Từng đàn Indagopaka
    Những ngọn núi đá này
    Làm tâm ta hân hoan"

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassī, trưởng lão tái sanh làm rùa chúa, sống tại dòng sông Vinatā, con rùa ấy có thân hình khá to.

    Một hôm, rùa nhìn thấy Đức Thế Tôn đứng tại mé sông, nghĩ rằng: "Có lẽ Ngài muốn sang bờ bên kia". Rùa bơi đến chỗ Đức Phật với tác ý thỉnh Ngài ngự lên lưng mình. Đức Thế Tôn biết tâm ý rùa, để tiếp độ nó, Ngài ngự lên lưng rùa. Chú rùa vô cùng thoả thích, bơi thật nhanh đưa Đức Thế Tôn sang bờ bên kia ví như mũi tên lao ra khỏi dây cung.

    Khi mạng chung, chú rùa được tái sanh thiên giới do thiện nghiệp đó, luân chuyển trong cõi người và cõi trời. Trong những kiếp sanh làm người, chú rùa xuất gia làm đạo sĩ và sống độc cư trong rừng.

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài (chú rùa) được tái sanh trong một gia đình tại thành Bārānasī, khi trưởng thành Ngài từ bỏ thế tục, sống đời xuất gia và tích trữ nhiều phước lành giải thoát.

    Vào thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, Ngài tái sanh vào một gia đình Bàlamôn dòng Vaccha, tại thành Kapilavatthu. Khi thai gần tròn 10 tháng, người mẹ ao ước đi vào rừng dạo cảnh và bà thực hiện ý muốn này. Trong lúc đang đi dạo, bà chuyển bụng, những người hầu căng màn và bà hạ sanh một bé trai đầy đủ những hảo tướng của người hữu phước. Công tử này là bạn chơi đùa với Bồ Tát từ Thuở nhỏ, có họ tên là Vaccha, về sau lại có tên là Vanavaccha vì người mẹ có tâm hoan hỷ với cảnh rừng núi (Vana: nghĩa là rừng).

    Khi Bồ Tát rời bỏ hoàng cung, xuất gia sống thanh tu khổ hạnh, Vaccha cũng từ bỏ gia đình đi xuất gia với suy nghĩ rằng: "ta sẽ vào rừng sống với Siddhattha" rồi đi vào rừng Hy mã lạp sơn.

    Khi Bồ Tát chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác và khai thị pháp luân, đạo sĩ Vaccha đi đến Đức Thế Tôn xin xuất gia rồi nhiệt tâm tinh cần phát triển thiền quán, không bao lâu chứng đạt Alahán.

    Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

    "Thuở ấy Đức Thế Tôn
    Hồng danh Atthadassī
    Đấng Như Lai ngự đến
    Bờ sông Vinatā
    Bấy giờ ta là rùa
    Bơi lặn trong dòng nước
    Ta thấy Đức Thế Tôn
    Có ý muốn sang sông
    Ta bơi đến chỗ Ngài
    Bậc nương tựa thế gian
    Với tác ý như vầy
    Xin thỉnh Đại ẩn sĩ
    Hồng danh Atthadassī
    Hãy ngự lên lưng con
    Con đưa Ngài qua sông
    Xin Ngài hãy từ bi
    Tiếp độ con hết khổ
    Khi ấy, Đức Thế Tôn
    Biết tâm tư của ta
    Ngài ngự lên lưng ta
    Ta vô cùng hoan hỷ
    Với thiện sự ta làm
    Sau khi đã sang bờ
    Đức Thế Tôn ngự lên
    Ngài phán bài kệ rằng
    Ta vượt qua dòng sông
    Trong thời gian tích tắc
    Với phước báu rùa chúa
    Đưa Như Lai sang sông
    Rùa sẽ được an lạc
    Trong thiên giới 118 kiếp
    Từ cõi trời đến người
    Được thiện nghiệp dẫn dắt
    Ví như ít hạt giống
    Gieo vào thửa ruộng tốt
    Mưa rơi xuống thích hợp
    Trổ quả thật hoan hỷ
    Cũng vậy nay ta được
    Những thiện nghiệp kết duyên
    Ta đạt được tịch tịnh
    Chấm dứt các sanh y
    Đoạn trừ các lậu hoặc
    Trong kiếp 118
    Ta làm thiện sự nào
    Do quả thiện sự đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Đức Thế Tôn sau khi chuyển pháp luân, Ngài tuần tự du hành về thành Kapilavatthu để tiếp độ phụ vương Suddhodana (Tịnh Phạn) cùng quyến thuộc, trưởng lão Vanavaccha cũng đi đến kinh thành, vào đảnh lễ yết kiến Đức Thế Tôn và trong một buổi hội họp đàm đạo với chư tỳ khưu, chư tỳ khưu hỏi trưởng lão rằng: an vui chăng?

    Trưởng lão Vanavaccha đáp rằng:

    - Các khu rừng, các ngọn núi thật đáng hoan hỷ.

    Và để diễn tả khu rừng mình ở, trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

    "Các ngọn núi toàn đá
    Có màu xanh như mây
    Lấp lánh thật xinh đẹp
    Có nước mát tinh anh
    Từng đàn Indagopaka
    Những ngọn núi đá này
    Làm tâm ta hân hoan"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO YASA

    Được biết trưởng lão Yasa nói lên bài kệ rằng:

    "Khéo thoa sức, khéo mặc
    Dùng các loại thời trang
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Trưởng lão đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát với chư Phật quá khứ như trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumetha, trưởng lão sanh làm Long Vương có nhiều thần lực.

    Một hôm, Long Vương nhìn thấy Đức Thế Tôn đầy đủ hảo tướng của bậc đại nhân cùng với uy nghi của bậc Chánh Đẳng Giác, nên Ngài phát khởi niềm tin trong sạch, cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư tỳ khưu tăng ngự xuống cõi rồng. Long vương thiết lễ trai đàn cúng dường thực phẩm, tam y và các vật phụ tùng đến Đức Phật cùng chư tăng với tấm lòng trong sạch, tôn kính và hoan hỷ. Do thiện sự đó, khi mạng chung Long vương tái sanh về nhàn cảnh, hưởng quả phước thù thắng trong nhàn cảnh. Sau khi luân chuyển hưởng phước trong cõi trời và cõi người một thời gian dài, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Siddhattha, Long vương được tái sanh làm con trai gia đình đại trưởng giả. Do có duyên lành quá khứ làm nền tảng, chàng đã trong sạch cúng dường đại thọ Bồ Đề với bảy loại báu vật.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, vị này đã từ bỏ mọi ràng buộc thế tục, xuất gia trở thành vị tỳ khưu chân chánh trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa. Khi mạng chung, với phước báu tích trữ được, vị này chỉ tái sanh trong nhàn cảnh.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, Ngài tái sanh làm con trai độc nhất của gia đình đại trưởng giả danh tiếng tại thành Bārānasī có tên là Yasa. Vì là con độc nhất của một gia đình giàu có, nên từ nhỏ Yasa được bảo bọc một cách cẩn thận chu đáo như bảo vật của gia tộc.

    Xứ Ấn Độ bấy giờ có ba mùa: mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa. Yasa có ba toà lâu đài, được xây dựng thiết kế thích hợp theo từng mùa, trong mỗi toà lâu đài, được trang bị đầy đủ những tiện nghi vật chất sang trọng nhất thời bấy giờ cùng với những mỹ nữ tùy tùng hầu hạ. Cuộc sống của công tử Yasa gần như đời sống của bậc Đế vương.

    Nhưng cho dầu đời sống có cao sang đến đâu, vật chất có đầy đủ đến đâu làm sao có thể ràng buộc lôi cuốn tâm tư của người đã đầy đủ túc duyên giải thoát, thế là duyên lành ấy đã đến.

    Một hôm, sau buổi dạ hội yến tiệc, tất cả đều mệt nhoài. Công tử Yasa về phòng của mình yên nghỉ, các mỹ nữ ca kỹ, các nàng hầu cũng lã người, nằm ngủ lăn lóc bên phòng ngoài. Nửa đêm công tử Yasa chợt thức giấc, bước ra ngoài để tìm chút không khí mát dịu thoải mái của thiên nhiên công tử nhìn thấy những cảnh tượng bất tịnh của các mỹ nữ, ca kỹ phơi bày ra trước mắt. Quá kinh cảm trước những cảnh tượng này, công tử mang đôi giày vàng, lặng lẽ rời khỏi lâu đài và được chư thiên mở cửa thành. Công tử rời khỏi kinh thành, trong lòng miên man sầu muộn, công tử cứ đi, đi mãi và cất tiếng than rằng: "Thật bất an thay! Thật phiền muộn thay!".

    Bấy giờ Đức Thế Tôn ngự tại Isipatanamigadāya (vườn Lộc Uyển) đang đi kinh hành, do duyên lành giải thoát của Yasa chín muồi nên Ngài ngự đến đây để tiếp độ. Đức Thế Tôn thấy công tử từ xa đi đến, cất lên những tiếng than thở, Ngài mới phán rằng: "Hãy đến này Yasa, ở đây không có bất an, ở đây không có phiền muộn".

    Yasa trong lòng đang quẩn rối chợt nghe, âm vang êm dịu ấm áp rằng: "Ở đây không có bất an, ở đây không có phiền muộn". Chàng như người đang mê chợt tỉnh, mừng rỡ tháo đôi giày vàng, tiến đến quỳ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn như để tìm một sự nương tựa an ổn, rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết tuần tự pháp (Anudhammakathā: tuần tự pháp là nói về bố thí, giới hạnh, quả lành thiên giới, nguy hiểm của ngũ trần dục lạc, sau cùng là lợi ích của hạnh viễn ly dục lạc xuất gia) để làm cho tâm Yasa thấm nhuần và trú trong chánh pháp, rồi Ngài thuyết lên Tứ Diệu đế (một bài pháp có ý nghĩa đặc thù đã đem lại giác ngộ cho vô số chúng sanh) Đức Thế Tôn vừa thuyết xong bốn sự thật của bậc thánh, công tử Yasa chứng quả dự lưu, pháp nhãn ly trần cấu phát sanh cho Yasa. Và khi Đức Thế Tôn thuyết bài pháp Tứ Diệu đế để tiếp độ thân phụ của Yasa thì chàng công tử này chứng đạt quả vị vô sanh.

    Như bài kệ, trưởng lão nói trong Apadāna rằng:

    "Cõi của ta chìm sâu
    Trong đại dương thăm thẳm
    Có hồ nước xinh đẹp
    Muôn chim cất tiếng hót
    Có các loại hoa sen
    Sen xanh, trắng và hồng
    Cùng hoa súng tươi thắm
    Cảnh vật thật hữu tình
    Chính tại hồ nước ấy
    Có các loại châu báu
    Cùng các loại thảo mộc
    Toả hương thơm khắp nơi
    Ta rời khỏi cõi rồng
    Ngao du đến cõi người
    Ta nhìn thấy Đức Phật
    Hồng danh Sumedha
    Bậc đạo sư thế gian
    Ta phát tâm tịnh tín
    Đảnh lễ Đức Thế Tôn
    Cúi đầu bái thỉnh Ngài
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Ngự xuống lãnh địa ta
    Thế Tôn đã nhận lời
    Rồi Ngài giảng chánh pháp
    Cho tâm ta hoan hỷ
    Ta đảnh lễ cáo lui
    Trở về nơi long cung
    Ta gọi các tuỳ tùng
    Bảo chúng lo chuẩn bị
    Thực phẩm cùng các thứ
    Ta thiết lễ cúng dường
    Đến Thế Tôn, đại sĩ
    Cùng chư tôn đức tăng
    Rồi thời giờ đã đến
    Đức Phật Sumedha
    Cùng 100.000 vị
    Alahán vô lậu
    Đã ngự đến chỗ ta
    Ta đã chọn cúng dường
    Những thực phẩm thượng vị
    Cùng các món phụ tùng
    Làm đầy đủ thoả mãn
    Đức Phật cùng Chư tăng
    Với các món ăn ấy
    Xong ta cúng dường y
    Đến toàn thể quý Ngài
    Sau khi thọ thực xong
    Thế Tôn Sumedha
    Bậc Ứng cúng thế gian
    Ngự toạ giữa chư tăng
    Nói lên bài kệ rằng:
    "Người nào tâm trong sạch
    Phục vụ và cúng dường
    Như Lai cùng chư tăng
    Với cơm nước thực phẩm
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Ta tiên đoán người ấy
    Sẽ tái sanh thiên giới
    Thọ hưởng những thiên lạc
    Suốt 1.800 kiếp
    1.000 lần được sanh
    Làm Chuyển Luân Thánh Vương
    Trong những kiếp chuyển sanh
    Dù cõi trời hay người
    Đều sống trong an lạc
    Đến thời kỳ giáo pháp
    Thế Tôn Gotama
    Người ấy sẽ thừa tự
    Giáo pháp Thế Tôn ấy
    Các lậu hoặc đoạn tận
    Là người đạt tịch tịnh
    Trong kiếp 30.000
    Kể từ hiền kiếp này
    Với sự cúng dường nào
    Chính do thiện sự ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Kế đó, Đức Thế Tôn đưa cánh tay phải ra, phán rằng:

    - Này thiện lai tỳ khưu, Đức Phật vừa dứt lời tôn giả Yasa râu tóc biến mất, có đầy đủ y bát và đồ phụ tùng giống như một vị trưởng lão 60 hạ vậy. Sau khi chứng quả Alahán và trở thành vị tỳ khưu Ehibhikkhu, lúc quán xét lại công hạnh của mình, trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

    "Khéo thoa sức, khéo mặc
    Dùng các loại thời trang
    Tam minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀNĀMA

    Được biết trưởng lão Mahānāma nói lên bài kệ rằng:

    "Này Mahānāma
    Người sẽ bị suy vong
    Từ núi Nesādaka
    Một ngọn núi thích hợp
    Có cây cao bóng mát
    Và dây leo phủ kín".

    Trưởng lão tích trữ nhiều duyên lành giải thoát với chư Phật quá khứ như trong thời giáo pháp của Đức Thế tôn Sumedha, trưởng lão sanh trong một gia đình Bàlamôn, khi trưởng thành được cha mẹ cho đi học những nghệ thuật từ các vị danh sư Bàlamôn, với tư chất thông minh và cần mẫn, không bao lâu chàng đã thành tựu các học nghệ và chú thuật. Do thiện duyên thúc đẩy, chàng cảm thấy chán ngán đời sống thế tục, từ bỏ mọi ràng buộc của đời thường đi vào rừng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất bên bờ sông và dạy chú thuật cho những thanh niên Bàlamôn.

    Một hôm, vào rạng sáng Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn chiếu rọi thế gian, nhìn thấy vị đạo sĩ này hữu duyên, Ngài đắp y mang bát ngự đến chỗ đạo sĩ để tiếp độ.

    Đạo sĩ nhìn thấy Đức Phật với lục căn thanh tịnh, màu da sáng chói cùng với sự uy nghi của bậc Chánh Đẳng Giác, phát khởi tâm trong sạch kính ngưỡng, sắp đặt chỗ ngồi cung thỉnh Thế Tôn ngự toạ, khi Thế Tôn ngự toạ trên chỗ ngồi ấy rồi, đạo sĩ lấy mật ong đến cúng dường.

    Đức Thế Tôn dùng mật ong xong, Ngài chúc phúc an lành đến đạo sĩ.

    Do thiện nghiệp này, khi mạng chung đạo sĩ được sanh lên thiên giới, hưởng đầy đủ những thiên lạc thù thắng nơi cõi ấy. Khi chấm dứt thọ mạng nơi thiên giới đạo sĩ sanh xuống cõi người và trong suốt vòng luân chuyển sanh tử, vị ấy luôn sống trong an lạc.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đạo sĩ tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Sāvaṭ-ṭhī và có tên là Mahānāma.

    Khi trưởng thành, do duyên lành giải thoát chín muồi, Mahānāma đến chùa nghe pháp, khởi lòng tin xin xuất gia.

    Sau khi xuất gia, tôn giả Mahānāma học đề mục thiền quán rồi đến sống tại ngọn núi Nesādaka, trong thời gian tu tập tại đây những tư duy bất thiện cứ khởi lên mãi, không chế ngự được nó, tôn giả Mahānāma suy nghĩ rằng: "Đời sống của ta có lợi ích gì, với tâm tư uế nhiễm như vầy?" Tôn giả tự chán ghét mình, leo lên đỉnh núi như muốn lao mình xuống vực, tôn giả nói với mình như nói với một người khác "ta sẽ cho nó rơi từ trên đỉnh núi này xuống vực thẳm" bằng bài kệ rằng:

    "Này Mahānāma
    Người sẽ bị suy vong
    Từ núi Nesādaka
    Một ngọn núi thích hợp
    Có cây cao bóng mát
    Và dây leo phủ kín".

    Tôn giả Mahānāma, tự răn đe doạ dẫm mình như thế, rồi phát triển thiền quán chứng quả Alahán. Như bài kệ trưởng lão đã nói trong Apadāna rằng:

    "Ta dựng một am thất
    Xinh đẹp và khả ái
    Gần sông Sinadhu
    Ta giảng kinh phệ đà
    Cùng với cách xem tướng
    Đến các nhóm học trò
    Các học trò của ta
    Ưa thích pháp ta dạy
    Chúng lắng nghe học tập
    Và tiếp thu thật tốt
    Chúng thành đạt tất cả
    Những gì ta truyền đạt
    Bấy giờ Đức Thế Tôn
    Hồng danh Sumedha
    Ngự sanh trong thế gian
    Bậc đem đến an lạc
    Ngài muốn tiếp độ ta
    Ngự đến bờ sông ấy
    Ta thấy bậc Đại hùng
    Bậc Đạo sư thế gian
    Ta hoan hỷ trải cỏ
    Sắp đặt một chỗ ngồi
    Dâng đến Đức Thế tôn
    Rồi ta vào lấy mật
    Tâm trong sạch, dâng Ngài
    Thế Tôn khi dùng xong
    Ngài phán lên như vầy
    Người nào tâm trong sạch
    Dâng mật ong đến ta
    Với hai tay của mình
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Ta tuyên bố người ấy
    Do việc cúng dường mật
    Và trải cỏ dâng ta
    Người ấy sẽ hân hoan
    Trong thiên giới, trải suốt
    Đến ba mươi ngàn kiếp
    Vào kiếp 30.000
    Thế Tôn Gotama
    Ngự sanh trong thế gian
    Người ấy sẽ thừa tự
    Giáo pháp của Thế Tôn
    Sẽ đoạn tận lậu hoặc
    Đạt tịch tịnh niết bàn
    Khi ta từ thiên giới
    Tái sanh vào mẫu thai
    Từng hạt mật rơi xuống
    Phủ kín cả mặt đất
    Khi ta rời thai bào
    Giọt mật rơi cho ta
    Đầy ắp cả bình lớn
    Khi ta rời gia đình
    Xuất gia sống phạm hạnh
    Ta luôn được đầy đủ
    Với vật thực vật dụng
    Đây chính là quả báu
    Của việc cúng dường mật
    Và ta chứng vô lậu
    Cũng do thiện sự ấy
    Sau khi mưa rơi xuống
    Các cây cỏ mọc lên
    Các cây dọc bờ sông
    Cũng trổ hoa đầy khắp
    Ta không còn phiền não
    Dù gốc cây, nhà trống
    Ta luôn được an lạc
    Ta vượt qua các cõi
    Thấp cao và trung bình
    Và trong ngày hôm nay
    Ta đoạn trừ tất cả
    Các lậu hoặc phiền não
    Sanh hữu mới không còn
    Trong kiếp 30.000
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta đã cúng dường gì
    Chính do thiện sự đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SABHIYA

    Được biết trưởng lão Sabhiya nói lên bài kệ rằng:

    "Người khác không hiểu biết
    Với sự tranh luận này
    Chúng ta sẽ tan rã
    Bậc trí khi hiểu biết
    Ta đến gần Tử thần
    Thì mọi sự tranh luận
    Sẽ đi đến tịnh chỉ
    Những ai không hiểu pháp
    Tranh luận không thể dứt
    Với những ai hiểu pháp
    Giữa những người nhiệt não
    Họ sẽ không nhiệt não
    Tranh luận cũng không có
    Ai sở hành phóng đãng
    Giới luật bị uế nhiễm
    Phạm hạnh đáng nghi ngờ
    Sẽ không được quả lớn
    Người nào không tôn kính
    Các vị đồng phạm hạnh
    Người ấy xa diệu pháp
    Như trời xa mặt đất".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kaku-sandha, trưởng lão Sabhiya tái sanh trong một gia đình Bàlamôn. Một hôm, Ngài đang đi trên đường nhìn thấy Đức Thế Tôn Kakusandha bước từ tốn hướng đến cánh rừng phía trước, Ngài phát tâm trong sạch, cởi đôi dép dâng Đức Thế Tôn.

    Do thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung vị Bàlamôn này được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi trời và cõi người. Đến gần cuối thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài tái sanh vào một gia đình giàu có, khi trưởng thành kinh cảm trước sự nhiễu loạn của xã hội và nhìn thấy hiểm hoạ diệt vong của loài người, Ngài từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia trong giáo pháp của Đức Phật Kassapa, rồi cùng với sáu vị đồng phạm hạnh, làm một chiếc thang leo lên một triền núi, quyết định nỗ lực tu tập tại đó cho đến khi mạng chung, bảy vị sau khi tìm được nơi thích hợp, cùng nhau xô thang xuống. Như trình bày trong câu chuyện của trưởng lão Dabba.

    Trưởng lão Sabhiya là một trong năm vị tỳ khưu không chứng Thánh quả, nhưng nhờ sự nỗ lực tu tập và phạm hạnh trong sạch, sau khi mạng chung được sanh lên thiên giới. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, vị trưởng lão này tái sanh vào thai bào của một nữ du sĩ.

    Tương truyền rằng: nữ du sĩ này là một quận chúa của hoàng tộc xứ Majjhantika, sau khi nàng trưởng thành, cha mẹ giao nàng cho một vị du sĩ để nàng học hỏi giáo lý và nếp sống của bậc xuất gia. Nhưng vị du sĩ này phạm tà hạnh với nàng, nàng mang thai với vị du sĩ, thấy nàng có mang, y liền rời bỏ nàng, nàng đơn độc một mình lánh sang xứ khác sanh con tại một hội quán bên vệ đường, do nhân đó đứa bé mới được đặt tên là Sabhiya.

    Sabhiya sau khi lớn lên cũng xuất gia làm du sĩ, học hỏi nhiều kệ ngôn, trở thành một nhà lý luận sắc bén, không ai sánh nổi, Ngài dựng lên một am thất gần cổng thành, dạy học cho các con cháu, hoàng tộc. Vị du sĩ này thọ trì 20 câu hỏi, từ nơi vị phạm thiên, tiền thân là mẹ của Ngài, do bà chán ghét tấm thân nữ giới nên tinh cần tu tập đạt được thiền chứng, sanh lên cõi phạm thiên, vị phạm thiên này sáng tác những câu pháp ấy và xuống truyền dạy cho con mình. Vị du sĩ, đem các câu hỏi ấy cật vấn các samôn Bàlamôn, không một ai giải đáp được những câu hỏi của Sabhiya (trong chú giải kinh Sabhiya - Atthakathasabhiyasutta - nói rằng các câu hỏi này do vị Phạm thiên cõi Tịnh cư đặt ra).

    Bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, Ngài tuần tự du hành đến thành Rājagaha, ngự tại Veḷuvanavihāra (Trúc lâm tịnh xá). Du sĩ Sabhiya hay tin Đức Thế Tôn du hành đến thành Rājagaha và đang ngự tại Veḷuvana liền đi đến tịnh xá, vào yết kiến Đức Thế tôn và nêu lên các câu hỏi ấy. Đức Thế Tôn tuần tự giải đáp như vậy, khiến cho niềm tin trong sạch và lòng hoan hỷ của chàng du sĩ Sabhiya này càng tăng lên và khi Đức Thế Tôn giải đáp vừa dứt 20 câu hỏi ấy, chàng du sĩ liền đến phủ phục dưới chân Thế Tôn xin xuất gia.

    Sau khi xuất gia thọ cụ túc giới xong, tôn giả Sabhiya chứng đạt quả Alahán, Ngài nói lên bài kệ trong Apadāna rằng:

    "Khi đang đi trên đường
    Ta nhìn thấy Thế Tôn
    Tên Kakusandha
    Ta trong sạch hoan hỷ
    Cởi đôi dép của mình
    Dâng đến Đức Thế Tôn
    Bậc có đại trí tuệ
    Phạm hạnh đã viên mãn
    Chính do thiện nghiệp đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Và kiếp cuối cùng này
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi tôn giả trở thành vị Alahán, lúc bấy giờ Devadatta (Đề bà đạt đa) với ác tâm muốn thống lãnh tăng chúng, cố gắng tìm cách chia rẽ tăng chúng, tôn giả Sabhiya khi ban lời giáo giới đến các tỳ khưu theo phe Devadatta (Đề bà đạt đa) bằng bài kệ rằng:

    "Người khác không hiểu biết
    Với sự tranh luận này
    Chúng ta sẽ tan rã
    Bậc trí khi hiểu biết
    Ta đến gần Tử thần
    Thì mọi sự tranh luận
    Sẽ đi đến tịnh chỉ
    Những ai không hiểu pháp
    Tranh luận không thể dứt
    Với những ai hiểu pháp
    Giữa những người nhiệt não
    Họ sẽ không nhiệt não
    Tranh luận cũng không có
    Ai sở hành phóng đãng
    Giới luật bị uế nhiễm
    Phạm hạnh đáng nghi ngờ
    Sẽ không được quả lớn
    Người nào không tôn kính
    Các vị đồng phạm hạnh
    Người ấy xa diệu pháp
    Như trời xa mặt đất".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO LAKUṆDAKA

    Được biết trưởng lão Lakuṇḍaka nói lên bài kệ rằng:

    "Tỳ khưu Bhaddiya
    Trú tại Ambāṭaka
    Một nơi thật hữu tình
    Bên cạnh một khu rừng
    Đã nhổ tận gốc ái
    Sống an trú thiền định
    Một số người cư sĩ
    Ưa thích tiếng trống lớn
    Tiếng sáo và trống nhỏ
    Còn ta thích gốc cây
    Hoan hỷ lời Phật dạy
    Nếu Phật ban ân huệ
    Ta được ân huệ ấy
    Ta trì thân hành niệm
    Là pháp nên tu tập
    Ai chấp vào thân ta
    Và chấp vào tiếng ta
    Bị rơi vào tham dục
    Chúng không biết được ta
    Người ngu vì phiền não
    Không biết được phần trong
    Và không thấy phần ngoài
    Bị tiếng đời lôi cuốn
    Dù thấy được phần ngoài
    Nhưng không biết bên trong
    Cũng trôi theo tiếng đời
    Với người không phiền não
    Biết rõ cả bên trong
    Và thấy rõ bên ngoài
    Người ấy sẽ không bị
    Tiếng đời lôi cuốn được".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế tôn Padumut-tara, trưởng lão tái sanh vào một gia đình Bàlamôn trưởng giả, tại thành Haṃsavatī. Một hôm, lúc đến chùa nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn tán dương một vị tỳ khưu có giọng nói êm dịu đệ nhất trong hành tăng chúng, vị Bàlamôn này thích được như thế, nên cung thỉnh chư tăng có Đức Phật làm toạ chủ về nhà tạo phước duyên cúng dường rồi quý dưới chân Đức Phật chú nguyện rằng:

    - Kính bạch Thế Tôn, do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường, xin cho con trở thành vị tỳ khưu đệ nhất về giọng nói êm dịu trong thời giáo pháp của Đức Phật vị lai như vị tỳ khưu kia vậy.

    Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán xét, thấy nguyện vọng của Bàlamôn này sẽ được thành tựu nên Ngài phúc chúc đến vị ấy rồi cùng chư tăng trở về tịnh xá.

    Vị Bàlamôn từ đó tích cực làm các thiện sự, khi mạng chung được tái sanh về thiên giới, luân chuyển giữa cõi người và cõi trời. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Phussa, Ngài tái sanh làm chim tu hú, có bộ lông cánh tuyệt đẹp. Một hôm, chim tu hú bay vào vườn thượng uyển, nhằm mùa xoài nó tìm được một trái xoài chín ngậm tha đi, trong khi đang bay nhìn thấy Đức Thế Tôn, nó phát tâm hoan hỷ có ý dâng trái xoài đến Ngài. Đức Phật biết được tâm ý của chim tu hú, Ngài tìm một nơi phải lẽ ngồi xuống ôm bình bát, chim tu hú đặt trái xoài chín vào bát của Đức Phật, Đức Phật dùng trái xoài chín, chim tu hú nhìn thấy Đức Phật thọ dụng trái xoài được dâng cúng, tâm nó tràn ngập niềm hoan hỷ suốt một tuần lễ, nó sống trong trạng thái phỉ lạc thoả thích và do thiện nghiệp ấy nên nó có tiếng hót rất êm tai. Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, chim tu hú tái sanh làm vị tướng quân, khi Đức Thế Tôn niết bàn mọi người hợp lại bàn tính với nhau về kích thước của bảo tháp tôn thờ Xá Lợi, có người đề nghị xây dựng bảo tháp cao bảy do tuần, vị tướng quân này cho rằng bảy do tuần lớn quá, có người đề nghị sáu do tuần, vị tướng quân này cũng lên tiếng rằng: "Như vậy lớn quá". Khi có người nghị năm do tuần, bốn do tuần, ba do tuần, hai do tuần, cuối cùng chiều cao bảo tháp chỉ còn một do tuần. Do nghiệp đó nên vị tướng quân trong mỗi kiếp tái sanh đều có tầm vóc thấp hơn những người khác.

    Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị tướng quân sanh vào một gia đình đại trưởng giả tại thành Sāvatthī có tên là Bhaddiya, nhưng vì có vóc dáng thấp nên có tên là Lakuṇḍakabhaddiya. Do duyên lành quá khứ chín muồi, nên Lakuṇḍakabhaddiya đi đến tịnh xá nghe pháp, sau khi thính pháp từ nơi Thế Tôn, Bhaddiya khởi dậy niềm tin, xin xuất gia. Thời gian sau, tỳ khưu Bhaddiya trở thành bậc đa văn, là vị pháp sư thuyết pháp với âm giọng rất êm dịu. Một hôm, nhân ngày lễ hội có một nữ nhân cùng đi trên xe với vị Bàlamôn, nhìn thấy trưởng lão Bhaddiya với hình tướng thấp, nàng bật cười đến hở răng. Trưởng lão lấy hàm răng của nàng làm đề mục, tu tiến cho thiền chứng phát sanh, rồi lấy thiền chứng làm nền tảng phát triển thiền quán, chứng quả Bất Lai. Từ đó trưởng lão vẫn luôn an trú với đề mục thân hành niệm. Một hôm, trong dịp ngồi nghe vị Tướng quân chánh pháp ban lời giáo huấn, trưởng lão Bhaddiya đã chứng đạt quả Alahán. Như trưởng lão nói bài kệ trong Apadāna rằng:

    "Kể từ hiền kiếp này
    Đến một trăm nghìn kiếp
    Đức Thế Tôn hồng danh
    Padumuttara
    Bậc giác ngộ các pháp
    Bậc dẫn dắt cho đời
    Sanh lên trong thế gian
    Lúc ấy ta tái sanh
    Làm con vị trưởng giả
    Với tài sản to lớn
    Trong thành Haṃsavatī
    Một hôm, ta đi đến
    Trú xứ của chư tăng
    Bậc thắp sáng thế gian
    Trong lúc Ngài thuyết pháp
    Tán dương một tỳ khưu
    Đệ nhất tiếng êm dịu
    Sau khi nghe như thế
    Ta cảm thấy hoan hỷ
    Muốn được vị trí đó
    Nên ta đã cung thỉnh
    Đức Phật cùng chư tăng
    Về làm phước cúng dường
    Sau khi cúng dường xong
    Ta tiến đến Thế Tôn
    Đảnh lễ dưới chân Ngài
    Chú nguyện vị trí ấy
    Bấy giờ, Đức Thế tôn
    Bậc dẫn dắt cao thượng
    Phán giữa chư tăng rằng
    Đến kiếp 100.000
    Có bậc Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Gotama
    Sanh lên trong thế gian
    Khi ấy trưởng giả này
    Sẽ là người thừa tự
    Giáo pháp của Thế Tôn
    Sẽ là vị đệ tử
    Có tên Bhaddiya
    Rồi sau khi mạng chung
    Ta sanh lên Đạo Lợi
    Trong kiếp thứ 92
    Kể từ hiền kiếp này
    Đức Thế Tôn Phussa
    Bậc đạo sư tam giới
    Cao thượng hơn mọi loài
    Sanh lên trong thế gian
    Bậc tìm cầu lợi ích
    Ban hạnh phúc cho đời
    Bấy giờ ta tái sanh
    Làm loài chim tu hú
    Ta trú nơi cây xoài
    Gần hương thất của Ngài
    Một hôm, ta nhìn thấy
    Bậc chiến thắng ma vương
    Bậc Ứng Cúng cao thượng
    Đang ngự đi khất thực
    Khiến tâm ta hoan hỷ
    Hót lên tiếng dịu êm
    Rồi bay đến khu vườn
    Ngậm trái xoài chín mọng
    Màu vỏ như vàng ròng
    Mang đến dâng Đức Phật
    Lúc ấy, bậc chiến thắng
    Đầy đủ lòng bi mẫn
    Biết tâm ý của ta
    Ngài nhận lại bình bát
    Từ tay vị thị giả
    Ta vô cùng thoả thích
    Dâng trái xoài đến Ngài
    Ta đặt vào trong bát
    Rồi bay lên cành cây
    Cất tiếng hót du dương
    Êm tai và khả hỷ
    Để cúng dường Đức Phật
    Rồi bay trở về tổ
    Bấy giờ, con diều hâu
    Ác tâm chộp lấy ta
    Trong lúc ta thoả thích
    Với hình ảnh Đức Phật
    Sau khi ta mạng chung
    Sanh lên cõi Đâu xuất
    Đến thời kỳ giáo pháp
    Thế Tôn Kassapa
    Thuộc dòng dõi phạm thiên
    Bậc có đại uy danh
    Sanh lên trong thế gian
    Đem ánh sáng chánh pháp
    Phủ trùm các ngoại đạo
    Dẫn dắt loài hữu tình
    Đạt đến bờ giác ngộ
    Sau khi Ngài niết bàn
    Những cư sĩ tín thành
    Cũng nhau vân tập lại
    Dự tính xây bảo tháp
    Tôn thờ Xá lợi Phật
    Họ bàn tính nhau rằng
    Sẽ cùng nhau kiến tạo
    Bảo tháp bậc Đại sĩ
    Cao khoảng bảy do tuần
    Trang hoàng bằng bảy báu
    Bấy giờ ta được làm
    Tướng quân vua Kāsī
    Có tên là Kīkī
    Đã nói lời hạ giảm
    Kích thước của bảo tháp
    Mọi người đã ưng thuận
    Làm theo ý của ta
    Xây dựng ngôi Bảo tháp
    Cao được một do tuần
    Trang hoàng các báu vật
    Chính do thiện nghiệp đó
    Cùng với sự tác ý
    Sau khi ta mạng chung
    Được sanh lên Đạo lợi
    Cho đến kiếp cuối cùng
    Ta sanh trong gia đình
    Trưởng giả, tài sản lớn
    Tại thành Sāvatthī
    Ta nhìn thấy Thế Tôn
    Đang ngự đi vào thành
    Và ta đã nghe pháp
    Từ nơi Bậc Đạo sư
    Ta tịnh tín xuất gia
    Không lâu, được chứng quả
    Alahán, vô lậu
    Do nghiệp làm hạ giảm
    Kích thước của bảo tháp
    Nên vóc dáng của ta
    Thấp bé, bị khinh thường
    Ta đã cúng dường Phật
    Tiếng hót nghe êm dịu
    Nên ta được trở thành
    Đệ nhất tiếng êm dịu
    Do việc cúng dường xoài
    Và niệm ân đức Phật
    Nên ta được tái sanh
    Đầy đủ sa môn quả
    Ta không còn lậu hoặc
    Phiền não được thiêu đốt...
    Lời Phật dạy làm xong.

    Về sau, khi xác chứng Alahán quả của mình, trưởng lão nói lên ba bài kệ rằng:

    "Tỳ khưu Bhaddiya
    Trú tại Ambāṭaka
    Một nơi thật hữu tình
    Bên cạnh một khu rừng.
    Đã nhổ tận gốc ái
    Sống an trú thiền định

    Một số người cư sĩ
    Ưa thích tiếng trống lớn
    Tiếng sáo và trống nhỏ
    Còn ta thích gốc cây
    Hoan hỷ lời Phật dạy

    Nếu Phật ban ân huệ
    Ta được ân huệ ấy
    Ta trì thân hành niệm
    Là pháp nên tu tập"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SUBHUTA

    Được biết trưởng lão Subhūta nói lên bài kệ rằng:

    "Khi muốn làm công việc
    Với công việc không hợp
    Nhưng vẫn cứ cố làm
    Sẽ không có quả tốt
    Bởi việc không hợp ấy
    Không có chơn tướng thiện".

    "Người nào chưa bứng được
    Gốc rễ của đau khổ
    Lại từ bỏ một pháp
    Người ấy như kẻ hèn
    Nếu từ bỏ các pháp
    Người ấy như kẻ mù
    Vì không thấy được pháp
    An tịnh, không an tịnh".

    "Khi làm như thế nào
    Hãy nói như thế ấy
    Điều không làm, không nói
    Bậc hiền trí hiểu biết
    Người chỉ nói, không làm".

    "Như bông hoa tươi đẹp
    Có sắc lại không hương
    Cũng vậy lời khéo nói
    Không làm, không kết quả
    Như bông hoa tươi đẹp
    Có sắc và có hương
    Cũng vậy lời khéo nói
    Kết quả đến người làm".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, vị trưởng lão này tái sanh trong một gia đình tộc trưởng danh tiếng tại thành Bārāṇasī.

    Một hôm, do lòng hiếu kỳ, chàng tháp tùng cùng các cư sĩ Phật tử đến chùa nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, dứt thời pháp, chàng phát tâm tịnh tín, quy y tam bảo và trở thành người Phật tử nhiệt thành nơi tam bảo.

    Khi hương thất của Đức Thế Tôn Kassapa được xây dựng, chàng tộc trưởng cho thoa phết hương thất của Ngài với bốn loại bột thơm như bột chiên đàn đỏ, bột trầm hương... Và cứ thoa phết như thế mỗi tháng tám lần.

    Do thiện nghiệp đó, trong mỗi kiếp sanh ra thân thể chàng luôn toả mùi thơm, đến thời giáo pháp Đức Thế Tôn của chúng ta, chàng sanh vào một gia đình tộc trưởng tại xứ Magadha có tên là Subhūta.

    Khi trưởng thành, thanh niên Subhūta không thích sự ràng buộc gia đình, thích đời sống phóng khoáng tự tại nên xuất gia làm du sĩ, sau một thời gian sống đời sống du sĩ, chàng không tìm thấy được sự huyền diệu nào cả. Chàng được biết rằng có nhiều samôn, Bàlamôn như Upatissa (Xá Lợi Phất), Kolita (Mục Kiền Liên), Sela... sau khi xuất gia trong giáo pháp của samôn Gotama, những người này đạt được sự tịnh lạc trong giáo pháp ấy.

    Chàng du sĩ khởi lòng tin xin xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn, xuất gia xong tôn giả Subhūta thực hành đầy đủ các bổn phận của mình đối với thầy giáo thọ và thầy tế độ. Sau khi đã làm cho các vị ấy hoan hỷ, tôn giả học một đề tài thiền quán, rồi tìm một trú xứ thanh vắng sống viễn ly, nhiệt tâm tinh cần tu tập, không bao lâu tôn giả Subhūta chứng quả Alahán, tôn giả nói lên bài kệ trong Apadāna rằng:

    "Bấy giờ, Đức Thế Tôn
    Hồng danh Kassapa
    Thuộc dòng dõi Phạm thiên
    Bậc có đại uy đức
    Cao thượng hơn muôn loài
    Sanh lên trong thế gian
    Đầy đủ với tướng phụ
    Cùng các đại nhân tướng
    Có hào quang bao phủ
    Khiến muôn loài hoan hỷ
    Ví như mặt trăng rằm
    Chiếu sáng như mặt trời
    Làm mát mẻ như mưa
    Là nguồn sanh phước đức
    Ví như là biển cả
    Có giới như mặt đất
    Định như Hy mã sơn
    Có tuệ như hư không
    Không vướng mắc như gió
    Bấy giờ, ta tái sanh
    Trong một dòng tộc lớn
    Có tài sản sung túc
    Nơi tích trữ báu vật
    Tại thành Bārāṇasī
    Ta đến yết kiến Phật
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Đang ngồi giữa đại chúng
    Ta nghe pháp bất tử
    Khiến nội tâm hân hoan
    Bậc Chánh Đẳng Giác ấy
    Có tâm đầy bi mẫn
    Ân đức như đại dương
    Ngài là chỗ nương tựa
    Của các loài hữu tình
    Ví như quả địa cầu
    Là ẩn sĩ tối thượng
    Thế gian không thấm nhiễm
    Như sen không thấm nước
    Ngài như vị lương y
    Tẩy trừ độc phiền não
    Trang điểm bằng giới đức
    Như núi Gandhamādana
    Ngài chiến thắng ác ma
    Và đội quân của chúng
    Như chiến sĩ vĩ đại
    Với chiến thắng đặc thù
    Ngài thắp sáng thế gian
    Được nhân thiên tôn kính
    Như mặt trời chiếu sáng
    Cho tất cả muôn loài
    Ngài thuyết pháp đoạn đầu
    Đến các hội chúng rằng
    Người sẽ được tài sản
    Do cần lao làm việc
    Sẽ đi đến nhàn cảnh
    Do gìn giữ giới hạnh
    Sẽ dập tắt phiền não
    Do nhiệt tâm tu tập
    Hội chúng nghe pháp ấy
    Phát sanh sự hân hoan
    Toàn hảo ở đoạn đầu
    Đoạn giữa và đoạn cuối
    Chỉ một vị duy nhất
    Đó là vị bất tử
    Sau khi ta nghe pháp
    Toàn hảo và khéo thuyết
    Ta phát tâm tịnh tín
    Trong giáo pháp của Ngài
    Xin quy ngưỡng tam bảo
    Cho đến trọn cuộc đời
    Sau đó ta đã lấy
    Cả bốn loại vật thơm
    Thoa phết lên hương thất
    Của bậc đại ẩn sĩ
    Với mỗi tháng tám lần
    Và chú nguyện cho thân
    Luôn luôn có mùi thơm
    Lúc ấy Đức Thế Tôn
    Nhìn thấu cả vị lai
    Ngài tuyên bố lời rằng
    Người nào lấy vật thơm
    Thoa phết lên hương thất
    Do quả của nghiệp ấy
    Trong mỗi kiếp tái sanh
    Thân luôn có mùi thơm
    Người ấy sẽ tăng trưởng
    Với hương của đức hạnh
    Đạt vô lậu niết bàn
    Và do thiện nghiệp ấy
    Ta sau khi mạng chung
    Được sanh về Đạo Lợi
    Đến kiếp cuối cùng này
    Ta sanh trong gia đình
    Có tài sản sung túc
    Khi ta còn trong thai
    Mẹ luôn có mùi thơm
    Khi ta rời thai bào
    Cả thành Sāvatthī
    Ngào ngạt với hương thơm
    Ví như xông mùi thơm
    Lúc ấy có mưa hoa
    Từ cõi trời rơi xuống
    Với mùi thơm đặc biệt
    Lan toả khắp mọi nơi
    Ta sanh tại nhà nào
    Tại nhà ấy, chư thiên
    Rải hương hoa vật thơm
    Với mùi thơm thù diệu
    Khi duyên lành chín muồi
    Bậc Điều ngự trượng phu
    Đến thành Savatthī
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Ta thấy uy đức Ngài
    Ta hoan hỷ xuất gia
    Ta tu tập bốn pháp
    Giới, Định, Tuệ, giải thoát
    Các lậu hoặc đoạn tận
    Trong lúc ta xuất gia
    Trong lúc được chứng quả
    Và lúc sắp niết bàn
    Có mưa thơm rơi xuống
    Hương thơm từ thân ta
    Lấp áp hương chiên đàn
    Hoàng lan cùng hoa sen
    Khi ta đến chỗ nào
    Các hương ấy thua kém
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahán nhớ lại sự đau khổ lúc tu khổ hạnh và sự an lạc từ thiền định trong giáo pháp của bậc Đạo sư và để xác chứng quả vị Alahán của mình, trưởng lão nói lên các bài kệ rằng:

    "Khi muốn làm công việc
    Với công việc không hợp
    Nhưng vẫn cứ cố làm
    Sẽ không có quả tốt
    Bởi việc không hợp ấy
    Không có chơn tướng thiện".

    "Người nào chưa bứng được
    Gốc rễ của đau khổ
    Lại từ bỏ một pháp
    Người ấy như kẻ hèn
    Nếu từ bỏ các pháp
    Người ấy như kẻ mù
    Vì không thấy được pháp
    An tịnh, không an tịnh".

    "Khi làm như thế nào
    Hãy nói như thế ấy
    Điều không làm, không nói
    Bậc hiền trí hiểu biết
    Người chỉ nói, không làm".

    "Như bông hoa tươi đẹp
    Có sắc lại không hương
    Cũng vậy lời khéo nói
    Không làm, không kết quả

    Như bông hoa tươi đẹp
    Có sắc và có hương
    Cũng vậy lời khéo nói
    Kết quả đến người làm".

    -ooOoo-

     

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO GIRIMĀNANDA

    Được biết trưởng lão Girimānanda nói lên bài kệ rằng:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín chặt
    Ta an tịnh trong thất
    Nếu muốn, hãy mưa đi
    Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín chặt
    Tâm an tịnh trong thất
    Nếu muốn, hãy mưa đi
    ... ly tham trú trong thất...
    ... ly sân trú trong thất...
    ... ly si trú trong thất...
    Nếu muốn, hãy mưa đi

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế tôn Sumedha, trưởng lão sanh vào một gia đình nghèo, phải làm lụng vất vả mới đủ sống. Khi trưởng thành, cha mẹ cưới cho chàng một thôn nữ và sanh cho chàng một đứa con trai, không bao lậu vơ con bị bệnh qua đời. Chàng vô cùng đau khổ, tinh thần khủng hoảng như điên như dại, đi lang thang vào rừng. Đức Thế tôn Sumedha thấy được duyên lành của chàng, Ngài ngự đến chỗ ấy, thuyết pháp nhổ lên mũi tên sầu muộn để tế độ chàng. Chàng như tỉnh cơn mê, khởi lòng tin trong sạch, quỳ đảnh lễ dưới chân Đức Thế tôn, cúng dường hương hoa và tán thán ân đức của Ngài.

    Do thiện nghiệp đó, chàng luân chuyển trong cõi trời và cõi người suốt một thời gian dài đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng sanh vào gia đình vị đại thần của vua Bimbisāra (Bình Sa Vương), tại thành Rājagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Girimānanda. Khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Girimānanda nhìn thấy uy nghi của Ngài, khởi niềm tin xin xuất gia. Sau khi xuất gia, tôn giả Girimānanda đi đến một ngôi làng xa kinh thành để hành pháp. Thời gian sau tôn giả trở về kinh thành Rājagaha để yết kiến Đức Thế tôn.

    Đức vua Bimbisāra hay tin tôn giả trở về bèn ngự đến vấn an và có lời thỉnh rằng:

    - Kính bạch tôn giả! Xin tôn giả hãy ở lại đây an cư mùa hạ, trẫm sẽ hộ độ tứ vật dụng đến tôn giả và dâng Ngài một am thất.

    Trưởng lão im lặng nhận lời, Đức vua sau khi biết tôn giả nhận lời, đảnh lễ Ngài rồi cáo từ trở về triều. Khi về triều, Đức vua vì bận rộn nhiều công việc nên quên xây dựng am thất cho tôn giả Girimānanda, tôn giả phải ngụ ngoài trời.

    Bấy giờ, đã đến mùa mưa, các vị chư thiên vì thấy tôn giả ở ngoài trời như thế, ngăn không cho mưa, khiến trời khô hạn, dân tình than oán, tới tai vua. Đức vua xem xét duyên cớ, sau khi hiểu được, bèn cho xây dựng am thất dâng tôn giả. Do được trú xứ thích hợp, tôn giả Girimānanda tinh cần phát triển thiền quán và chứng quả Alahán, như trong Apādana tôn giả nói lên bài kệ rằng:

    Vợ của ta đã chết
    Con ta ngoài mộ địa
    Mẹ cha và anh ta
    Cùng thiêu chung giàn hoả
    Với sự sầu muộn đó
    Luôn đốt cháy tâm ta
    Thân thể ta tiều tuỵ
    Tâm trở thành cuồng động
    Ta lang thang vào rừng
    Ăn quả rừng đỡ dạ
    Thế tôn Sumedha
    Bậc đoạn tận đau khổ
    Ngài muốn tiếp độ ta
    Đã ngự đến chỗ ấy
    Nghe tiếng chân Thế Tôn
    Bậc tìm cầu cao thượng
    Ta ngoái đầu nhìn lại
    Bậc đại hùng ngự đến
    Ta phát sanh phỉ lạc
    Bấy giờ, ta thấy Ngài
    Bậc Đạo sư thế gian
    Tâm ta hết cuồng động
    Ta ức niệm trở lại
    Dâng một nắm lá cây
    Thế Tôn bèn ngự toạ
    Trên những lá cây ấy
    Giảng pháp đến ta rằng
    Những người đã mất ấy
    Không mời họ tự đến
    Không cho họ tự đi
    Họ tự đến, tự đi
    Ngươi sầu bi làm gì
    Với sự chết của họ
    Như những loài có chân
    Khi cơn mưa đổ xuống
    Tự tìm nơi trú ẩn
    Khi hạt mưa đã dứt
    Cũng đi theo ý mình
    Cha mẹ ngươi cũng thế
    Ngươi sầu bi làm gì
    Với sự chết của họ
    Ví như người lữ khách
    Đến một lúc rồi đi
    Cha mẹ người cũng thế
    Người sầu bi làm gì
    Với sự chết của họ
    Như rắn bỏ da cũ
    Để được một thân mới
    Cha mẹ ngươi cũng thế
    Ngươi sầu bi làm gì
    Với sự chết của họ
    Sau khi nghe Phật thuyết
    Mọi sầu muộn của ta
    Được bứng lên tất cả
    Khiến hân hoan phát sanh
    Ta đảnh lễ Thế Tôn
    Bậc tối thượng muôn loài
    Ta đã cúng dường Ngài
    Bậc Mahānāga
    Hồng danh Sumedha
    Bậc đạo sư thế gian
    Sau khi cúng dường xong
    Ta chấp tay lên trán
    Niệm tưởng ân đức Phật
    Rồi tán thán như vầy
    Kính bạch Đại ẩn sĩ
    Ngài là bậc Toàn Giác
    Bậc đạo sư thế gian
    Sau khi được giải thoát
    Ngài dẫn dắt chúng sanh
    Bằng trí tuệ của mình
    Kính bạch đại Ẩn sĩ
    Ngài đã tự chặt đứt
    Tất cả mọi nghi hoặc
    Tự làm cho Thánh đạo
    Phát sanh bằng trí tuệ
    Đã thành tựu ứng cúng
    Đã đạt được lục thông
    Các thinh văn đoanh vây
    Các thinh văn của Ngài
    Nổ như những đoá sen
    Khi mặt trời vừa mọc
    Như đại dương vô lượng
    Không có chi sánh bằng
    Khó có thể vượt qua
    Cũng vậy Đức Thế Tôn
    Đầy đủ với trí tuệ
    Vô lượng, dường thế ấy
    Ta đảnh lễ Thế tôn
    Bậc chiến thắng thế gian
    Với khắp cả bốn hướng
    Rồi ta trở về nhà
    Trong các kiếp chuyển sanh
    Dù lúc vào thai mẹ
    Lúc rời khỏi bụng mẹ
    Lúc từ bỏ xuất gia
    Ta chánh niệm, biết mình
    Là người có tinh cần
    Có tuệ, có viễn ly
    Ta trú trong tinh cần
    Khiến đạo sư hoan hỷ
    Ta thoát khỏi phiền não
    Như trăng thoát khỏi mây
    Ta tìm cầu viễn ly
    Tịch tịnh, không sanh y
    Các lậu hoặc không còn
    Trong kiếp 30.000
    Kể từ hiền kiếp này
    Với sự cúng dường nào
    Chính do thiện sự ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Quả vị Alahán phát sanh cùng lúc với cơn mưa bắt đầu đổ hạt, hoan hỷ với quả chứng của mình và tiếng mưa rơi, trưởng lão nói lên năm bài kệ rằng:

    "Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín chặt
    Ta an tịnh trong thất
    Nếu muốn, hãy mưa đi
    Mưa rơi tiếng êm ả
    Giống như điệu nhạc ru
    Am thất ta khéo lợp
    Có cửa đóng kín chặt
    Tâm an tịnh trong thất
    Nếu muốn, hãy mưa đi
    ... ly tham trú trong thất...
    ... ly sân trú trong thất...
    ... ly si trú trong thất...
    Nếu muốn, hãy mưa đi

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VAKKALI

    Đức Thế Tôn phán hỏi trưởng lão rằng:

    "Bị bệnh gió bức bách
    Lại sống trong rừng sâu
    Dược phẩm tìm khó khăn
    Thân thể bị ốm gầy
    Tỳ khưu sẽ làm gì?
    Trưởng lão Vakkali thưa rằng
    "Thân con được tràn ngập
    Với hỷ lạc toả rộng
    Dầu có bị ốm gầy
    Con sẽ sống trong rừng".
    "Tu tập bốn niệm xứ
    Năm quyền và năm lực
    Tu tập bảy giác chi
    Con sẽ sống trong rừng"
    "Vì thấy bạn đồng tu
    Sống hoà hợp, dũng mãnh
    Luôn kiên trì tinh tấn
    Con sẽ sống trong rừng"
    "Tuỳ niệm ân đức Phật
    Bậc tối thượng điều ngự
    Ngày đêm không biếng nhác
    Con sẽ sống trong rừng".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão tái sanh vào một gia đình Bàlamôn tại thành Haṃsavatī.

    Một hôm, chàng thanh niên Bàlamôn này cùng với các cận sự nam đi đến tịnh xá thính pháp từ Đức Thế Tôn, chàng trông thấy Đức Thế Tôn xiển dương một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh Đức tin, chàng thoả thích với hình ảnh đó, nên cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng tỳ khưu về nhà trai tăng cúng dường suốt bảy ngày, rồi quỳ dưới chân Thế Tôn chú nguyện rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày, xin cho con được vị trí tối thắng về hạnh Đức tin trong giáo pháp Đức Chánh Đẳng Giác vị lai. Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán chiếu vị lai, Ngài thấy nguyện vọng của Bàlamôn này sẽ thành tựu, nên Ngài tiên đoán và phúc chúc an lành đến chàng.

    Sau một thời gian dài luân chuyển giữa cõi trời cùng cõi người, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài tái sanh vào một gia đình Bàlamôn tại thành Sāvatthī và được đặt tên là Vakkali. Khi trưởng thành, công tử Vakkali học nằm lòng tam phệ đà và thành tựu các học nghệ của Bàlamôn.

    Một hôm, Vakkali nhìn thấy Đức Thế Tôn, chàng say mê đắm đuối thân hình tuyệt vời của Thế Tôn và đi theo nhìn Ngài không biết chán. Khi trở về nhà, Vakkali suy nghĩ rằng: "nếu ta còn tại gia, ta không thể ngắm nhìn Ngài thoả thích được, vậy ta sẽ xuất gia".

    Rồi Vakkali đi đến xuất gia nơi Thế Tôn, ngoại trừ lúc ăn uống và tắm rửa, tôn giả Vakkali dành hết thời gian để chiêm ngưỡng Đức Phật.

    Đức Thế Tôn chờ đợi duyên lành của tôn giả đến khi chín muồi, trải qua một thời gian dài mặc cho tôn giả Vakkali ngắm nhìn thoả thích, Ngài không lên tiếng. Đến một ngày nọ, Đức Thế Tôn phán rằng:

    - Này Vakkali! Lợi ích gì cho ngươi với việc ngắm nhìn tấm thân bất tịnh này? Này Vakkali, người nào thấy pháp người ấy thấy Như Lai, người nào thấy Như Lai người ấy thấy pháp. Vì rằng thấy pháp tức thấy Như Lai và thấy Như Lai tức thấy pháp.

    Mặc dầu Đức Thế Tôn nói như thế, nhưng tôn giả Vakkali cũng không thể từ bỏ việc chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn và rời khỏi chỗ đó được. Đức Thế Tôn nghĩ rằng: "Vị tỳ khưu này nếu không làm xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh".

    Vào ngày an cư mùa mưa, Đức Thế Tôn bảo Vakkali rằng:

    - Này Vakkali! Hãy đi đi.

    Tôn giả Vakkali bị Thế Tôn đuổi không thể tiếp tục ở kề cận Đức Thế Tôn, suy nghĩ rằng: "Đời ta có ý nghĩa gì nếu không được gặp Thế Tôn". Tôn giả leo lên núi Gijjhakūṭa (Linh Hưu), định gieo mình xuống vực, Đức Thế Tôn biết được ý định của tôn giả Vakkali, Ngài nghĩ rằng:

    - Tỳ khưu Vakkali khi không được nhìn thấy Như Lai sẽ tự phá hoại duyên lành đạo quả của mình, Như Lai sẽ tế độ cho vị ấy.

    Ngài phóng hào quang hiện thân ra trước mặt tôn giả Vakkali và nói lên bài kệ rằng:

    "Tỳ khưu nhiều hân hoan
    Tịnh tín giáo pháp Phật
    Chứng đạt pháp tịch tịnh
    Tịnh chỉ hành, an lạc".

    Ngài đưa cánh tay ra nói rằng:

    - Hãy đến này Vakkali!

    Tôn giả Vakkali nghĩ rằng:

    - Ta đã thấy bậc đạo sư rồi và Ngài gọi ta đến.

    Tôn giả phát sanh hỷ lạc, bất kể việc đi đến ra sao, cứ từ trên hư không hướng về Đức Thế Tôn đi xuống, do hỷ lạc phát sanh sung mãn từ tâm tịnh tín nên thân Ngài nhẹ nhàng như chiếc lá rơi, khi bước chân vừa chạm lên mặt đất, cùng lúc đó tôn giả ngẫm lại bài kệ của Thế Tôn, tự mình ngăn phỉ lạc, phát triển tuệ quán chứng quả Alahán cùng với tuệ phân tích. Như đã trình bày trong chú giải Tăng chi bộ và chú giải Pháp cú kinh.

    Trong đoạn này, một số vị giáo thọ sư nói rằng: "Bậc Đạo sư đã nói với tôn giả Vakkali rằng: "Này Vak-kali! Ngươi sẽ được lợi ích gì với hành động như thế?". Rồi tôn giả Vakkali ở trên núi bắt đầu phát triển thiền quán, nhưng vì tôn giả nặng về đức tin nên tuệ quán không tiến triển xuyên suốt được. Đức Thế Tôn biết sự vướng mắc của tôn giả, Ngài giúp gội rửa cho thanh tịnh, nhưng tôn giả cũng không thể làm cho tuệ quán đạt đến đỉnh cao. Về sau, tôn giả bị bệnh do ảnh hưởng vật thực, Đức Thế Tôn biết tôn giả bị bệnh gió hoành hành, Ngài ngự đến chỗ ấy, phán hỏi rằng:

    "Bị bệnh gió bức bách
    Lại sống trong rừng sâu
    Dược phẩm tìm khó khăn
    Thân thể bị ốm gầy
    Tỳ khưu sẽ làm gì?

    Tôn giả sau khi nghe những lời ấy mới nói lên bốn bài kệ rằng:

    "Thân con được tràn ngập
    Với hỷ lạc toả rộng
    Dầu có bị ốm gầy
    Con sẽ sống trong rừng".
    "Tu tập bốn niệm xứ
    Năm quyền và năm lực
    Tu tập bảy giác chi
    Con sẽ sống trong rừng"
    "Vì thấy bạn đồng tu
    Sống hoà hợp, dũng mãnh
    Luôn kiên trì tinh tấn
    Con sẽ sống trong rừng"
    "Tuỳ niệm ân đức Phật
    Bậc tối thượng điều ngự
    Ngày đêm không biếng nhác
    Con sẽ sống trong rừng".

    Tôn giả sau khi nói như thế liền phát triển thiền quán, chứng quả Alahán. Như trong Apadāna, tôn giả nói lên bài kệ rằng:

    "Kể từ hiền kiếp này
    Đến 100.000 kiếp
    Có vị Chánh Đẳng Giác
    Padumuttara
    Sanh lên trong thế gian
    Hồng danh Ngài như vậy
    Vì gương mặt của Ngài
    Đẹp như đoá hoa sen
    Có làn da mịn màng
    Vô cấu như hoa sen
    Vô nhiễm với thế gian
    Như sen không dính nước
    Là bậc đại trí tuệ
    Có quyền (căn) như lá sen
    Khả ái như đoá sen
    Và bờ môi thơm tho
    Như hương của cánh sen
    Do vậy Ngài có tên
    Padumuttara
    Ngài là bậc cao cả
    Hơn thế gian muôn loài
    Với uy nghi an tịnh
    Là chỗ giữ đức hạnh
    Chỗ tiếp nhận trí tuệ
    Dù bất cứ lúc nào
    Bậc đại ẩn sĩ ấy
    Là người mà chư thiên
    Phạm thiên, Atula
    Lễ bái và cúng dường
    Là bậc thắng cao thượng
    Giữa các hàng chiến thắng
    Trải khắp cả nhân thiên
    Với chất giọng ngọt ngào
    Với pháp âm vi diệu
    Ngài khiến cho hội chúng
    Hoan hỷ hưởng niềm tin
    Rồi Ngài đã biểu dương
    Vị Thinh văn ấy rằng
    Với các vị tỳ khưu khác
    Giải thoát khỏi phiền não
    Bằng niềm tin trí tuệ
    Tìm cách chiêm ngưỡng ta
    Như Vakkali này
    Sẽ không thể có được
    Bấy giờ, ta tái sanh
    Con trai Bàlamôn
    Tại thành Haṃsasvatī
    Sau khi nghe Phật ngôn
    Thoả thích vị trí ấy
    Nên ta thỉnh Đức Phật
    Bậc viễn ly bụi trần
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Cúng dường suốt bảy ngày
    Cùng với y càsa
    Rồi ta khấu đầu xuống
    Trong đại dương ân đức
    Của bậc Thiện tuệ ấy
    Lòng tràn đầy phỉ lạc
    Ta phát nguyện như vầy
    Kính bạch đại ẩn sĩ
    Do phước báu mà con
    Đã trong sạch cúng dường
    Trong suốt bảy ngày qua
    Xin cho con được như
    Vị có tín giải thoát
    Mà Ngài đã tán dương
    Tối thắng hạnh đức tin
    Trong giáo pháp của Nài
    Khi ta phát nguyện xong
    Bấy giờ, đại ẩn sĩ
    Bậc tinh cần dũng mãnh
    Có tri kiến vô ngại
    Giữa hội chúng phán rằng
    Hãy nhìn thanh niên này
    Mặt vải vàng trơn láng
    Thân do phước kết thành
    Giống như khối vàng ròng
    Thu hút mắt và tâm
    Của phần đông pháp hội
    Nối tiếp trong vị lai
    Thanh niên này sẽ thành
    Thinh văn của Thế tôn
    Hồng danh Gotama
    Thù thắng hơn chư tăng
    Về hạnh tín giải thoát
    Dù làm người hay trời
    Cũng ly sự khổ não
    Luân chuyển trong an lạc
    Trong 100.000 kiếp
    Kể từ hiền kiếp này
    Có vị Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Gotama
    Sanh lên trong thế gian
    Chàng thanh niên này sẽ
    Là người thừa tự pháp
    Của Đức Thế Tôn ấy
    Tên là Vakkali
    Chính do thiện nghiệp đó
    Sau khi ta mạng chung
    Được sanh cõi Đạo lợi
    Rồi cuối cùng ta sanh
    Gia đình Bàlamôn
    Tại thành Sāvatthī
    Mẹ ta vì lo sợ
    Từ ma quỷ uy hiếp
    Nên tinh thần hốt hoảng
    Bấy giờ, ta yếu ớt
    Giống như cục bơ đặc
    Mềm mại như lá non
    Bà đem ta đặt xuống
    Dưới chân Đức Thế Tôn
    Nói với Thế Tôn rằng
    Kính bạch đấng Thế Y
    Xin Ngài hãy từ bi
    Tiếp nhận đứa bé này
    Con dâng nó đến Ngài
    Kính bạch đấng Thế Y
    Xin Ngài hãy trở thành
    Chỗ nương tựa của nó
    Lúc ấy, bậc ẩn sĩ
    Bậc nương nhờ muôn loài
    Ngài đã tiếp nhận ta
    Với bàn tay mềm mại
    Ta được Phật che chở
    Thoát khỏi mọi bệnh tật
    Luôn sống trong an lạc
    Lớn lên ta xuất gia
    Ta không biết no đủ
    Với sự chiêm ngưỡng Phật
    Lúc ấy, Thế Tôn biết
    Ta thoả thích thân Ngài
    Ngài phán dạy ta rằng
    Chớ nên! Vakkali
    Lợi ích gì cho ngươi
    Với thân khả ố này
    Người nào thấy diệu pháp
    Người ấy thấy Như Lai
    Người không thấy diệu pháp
    Sẽ không thấy Như lai
    Thân này rất nguy hiểm
    Ví như cây có độc
    Là chỗ trú của bệnh
    Chỗ hội tụ của khổ
    Vậy ngươi hãy nhàm chán
    Trong xác thân ô trược
    Quán chiếu sự sanh diệt
    Của cả thảy các uẩn
    Mới có thể đoạn tận
    Tất cả các phiền não
    Sau khi nghe giáo huấn
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Ta lên núi Linh thứu
    Ngắm nhìn một khe núi
    Đức Thế Tôn ngự đến
    Đứng một bên triền núi
    Với ý khích lệ ta
    Ngài đã phán gọi rằng
    Hỡi này Vakkali
    Ta nghe tiếng Thế Tôn
    Tâm hân hoan thoả thích
    Ta phóng xuống triền núi
    Cao nhiều trăm thân người
    Do nhờ oai lực Phật
    Ta bình an vô sự
    Rồi Ngài đã thuyết pháp
    Ta thâm nhập pháp ấy
    Chứng đạt Alahán
    Sau đó Đức Thế Tôn
    Bậc có đại trí tuệ
    Giữa đại chúng Thinh văn
    Ngài biểu dương ta rằng
    Tỳ khưu Vakkali
    Thù thắng hơn chư tăng
    Về hạnh tín giải thoát
    Trong 100.000 kiếp
    Kể từ hiền kiếp này
    Với sự cúng dường nào
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO UTTARA

    Được biết trưởng lão Uttara đã nói lên bài kệ rằng:

    "Cõi thường hằng không có
    Hành thường hằng cũng không
    Uẩn luôn sanh và diệt
    Biết được hiểm họa nầy
    Ta không cầu sanh hữu
    Từ bỏ mọi dục lạc
    Các lậu hoặc đoạn trừ".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, trưởng lão tái sanh trong gia đình Bà la môn.

    Khi lớn lên chàng học xong ba tập phệ đà cùng các chú thuật của Bà la môn, chàng thường sử dụng chú thuật để du hành trên hư không.

    Một hôm, bậc Đạo Sư nhận thấy duyên lành của chàng, Ngài bèn ngự đến chỗ ấy, ngồi dưới một gốc đại thọ phóng hào quang sáu màu, đang phi hành trên hư không, nhìn thấy Đức Thế Tôn với hào quang sáu màu rực rỡ, chàng phát khởi niềm tin hạ xuống, chọn hái những đoá hoa Kannikara xinh đẹp cúng dường Đức Thế Tôn.

    Nhờ Phật lực khiến những đóa hoa ấy kết lại với nhau như mặt lọng che phía trên bậc Đạo Sư. Nhìn thấy cảnh kỳ diệu như thế, trong lòng chàng dâng lên một niềm tin hân hoan tín thành tột độ.

    Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được sanh lên cõi Đạo Lợi.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng dược tái sanh trong một gia đình Bà la môn giàu có tại thành Rajagaha và có tên là Uttara.

    Khi lớn lên Uttara thành thạo các học nghề của Bà la môn và nổi tiếng nhiều mặt: gia tộc, dung sắc cũng như về đức hạnh.

    Một đại thần xứ Magadha tên là Vassakara, thấy những thành tích của Uttara có ý muốn gả con gái và đã ngỏ lời với chàng. Do duyên lành giải thoát đã tròn đủ khiến tâm tư Uttara chỉ hướng về xuất ly, nên đã từ chối nhã ý của vị đại thần.

    Rồi Uttara đến chỗ tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) và được thính pháp, chỉ với một thời pháp trong lòng chàng đã an lập một niềm tin mãnh liệt rồi chàng xin xuất gia xong, sadi Uttara đã chu toàn những phận sự của người học trò đối với thầy hòa thượng.

    Một hôm, trưởng lão Sariputta bị bệnh, với ý định đi tìm thuốc cho trưởng lão, sadi Uttara đắp y mang bát rời khỏi tịnh xá từ mờ sáng, khi đến bờ sông, sadi đặt bát tại mé bờ, rồi lần xuống bến nước để súc miệng.

    Lúc bấy giờ, có một tên ăn trộm bị lính đuổi bắt, chạy ra khỏi cổng thành, khi ngang qua chỗ sadi Uttara tên trộm đã bỏ gói báu vật đánh cắp vào bát, rồi trốn đi.

    Sau khi rữa mặt xong, sadi trở lên gần tới bình bát, quân lính cũng vừa đuổi tới thấy gói tang vật nằm trong bát của sadi, chúng hỏi rằng "Sadi nầy là kẻ trộm, sadi nầy đã phạm tội trộm cắp", rồi bắt vị sadi trói lại và dẩn đến quan đại thần Vassakara được đức vua giao nhiệm vụ xét xử vụ án, ông ta không chịu thẩm tra tường tận, cũng không hỏi nhân chứng, truyền lịnh cho lấy giáo nhục hình và bêu xấu tội trạng của sadi vì ông ta có hiềm khích rằng:

    "Trước kia, vị sadi nầy không nể tình ta và còn rời khỏi Bà la môn giáo".

    Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán thấy trí tuệ giải thoát của sadi Uttara đã chín muồi. Ngài bèn ngự đến đặt những ngón tay mềm mại được bao phủ bởi hào quang ví như những tia sáng màu đỏ tủa ra trên đầu của vị sadi và Ngài phán rằng:

    "Nầy Uttara, đây là quả nghiệp trước kia của con, con cần phải kham nhẫn với sức mạnh của việc khéo suy quán nghiệp báo".

    Rồi Đức Thế Tôn tùy căn cơ thuyết pháp. Bàn tay Đức Phật thật êm ấm, pháp âm của Ngài mới vi diệu làm sao. Sadi Uttara cảm thấy yên ổn lạ thường, một cảm giác thanh thản chưa hề có. Ngay lập tức, sadi thấu đáo lời Phật dạy phát triển thiền quán đoạn tận các lậu hoặc chứng đạt lục thông.

    Như trong tập Apadana, tôn giả kể lại rằng:

    "Đức Chánh Đẳng Chánh Giác
    Hồng danh Sumedha
    Đầy đủ đại nhân tướng
    Bậc Ẩn sĩ cao quý
    Lòng tràn đầy bi mẫn
    Ngự đến rừng Hy mã
    Ngồi an trú thiền định
    Bấy giờ tại Hy mã
    Ta trì luyện chú thuật
    Phi hành trên hư không
    Ta nhìn thấy Thế Tôn
    Chói sáng giữa rừng già
    Như lửa trên đỉnh núi
    Như mặt trăng đêm rằng
    Hoặc ví như cây chúa
    Trổ đầy hoa rực rỡ
    Ta rời khỏi khu rừng
    Bay hướng về hào quang
    Sáng rực như màu lửa
    Của bậc Chánh Đẳng Giác
    Khiến tâm ta tịnh tín
    Ta hướng tìm hoa thơm
    Thấy hoa Kannika
    Ta hái lấy ba đoá
    Cúng dường bậc cao thượng
    Do nhờ uy lực Phật
    Khiến ba đóa hoa ấy
    Nở xoè ra thật lớn
    Kết lại như mặt lọng
    Che phía trên Thế Tôn
    Nhìn thấy cảnh hy hữu
    Tâm ta đầy hỷ lạc
    Chính do thiện nghiệp đó
    Sau khi ta mạng chung
    Được sanh cõi Đạo Lợi
    Ta được toà thiên cung
    Cao sáu mươi do tuần
    Rộng ba mươi do tuần
    Thật vô cùng lộng lẫy
    Tên là Kannika
    Khuôn viên chỗ ta ở
    Lớn một trăm do tuần
    Được bao phủ bởi hoa
    Kannika xinh đẹp
    Có thiên nử doanh vây
    Hầu hạ phục vụ ta
    Ta trị vì thiên giới
    Cả thảy năm trăm lần
    Ba trăm lần được sanh
    Làm vị chuyển luân vương
    Và nhiều lần được sanh
    Làm vị đại hoàng đế
    Trong những kiếp sanh tử
    Dù ở giai cấp nào
    Ta cũng nhiều tài sản
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Ta chỉ sanh hai dòng
    Là dòng Sát-Đế-Ly
    Và dòng Bà la môn
    Không sanh vào dòng thấp
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Ta không biết sự lạnh
    Ta không biết sự nóng
    Không có sự bất an
    Và khổ tâm không có
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Trong các kiếp tái sanh
    Ta luôn được đầy đủ
    Sung túc về vật chất
    Thân tâm ta an lạc
    Được cung phụng chu đáo
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Do thiện căn dẫn dắt
    Khi mạng chung thiên giới
    Ta lại được tái sanh
    Vào dòng Bà la môn
    Giàu có gia sản lớn
    Ta từ bỏ dục lạc
    Trở thành bậc xuất gia
    Khi ta được bảy tuổi
    Đã chứng quả vô sanh
    Thế Tôn bậc tuệ nhãn
    Biết đức hạnh của ta
    Ngài bèn truyền cụ túc
    Tuy tuổi còn nhỏ
    Cũng xứng đáng cúng dường
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Thiên nhãn ta thanh tịnh
    Thiên xảo trong thiền định
    Đầy đủ các thắng trí
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Ta chứng Vô ngại giải
    Thuần thục trong thần túc
    Cụ túc trong diệu pháp
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Trong kiếp ba mươi ngàn
    Ta cúng dường Phật nào
    Chính do thiện sự đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong"

    Sau khi chứng đạt lục thông, sadi Uttara bật ra khỏi dây trói từ các ngọn giáo vươn mình bay lên hư không, biểu diển thần thông với mục đích tiếp độ những người tại nơi ấy. Đại chúng chứng kiến cảnh tượng kỳ diệu hi hữu vô cùng kinh cảm và thán phục.

    Kế đó, vết thương của tôn giả bị sưng lên, các vị tỳ khưu thấy vậy mới hỏi rằng:

    "Nầy hiền giả, trong lúc cảm thọ khổ như thế, sao hiền giả lại có thể phát triển tuệ quán được"

    Tôn giả Uttara đáp:

    "Nầy chư hiền hữu, sự đau khổ nầy sao có thể sánh với hiểm họa của luân hồi và do khéo thấy thực tánh của các hành, nên dù thọ khổ như thế, tôi vẫn có thể phát triển tuệ quán và chứng đạt đạo quả".

    Rồi tôn giả nói lên hai bài kệ rằng:

    "Cõi thường hằng không có
    Hành thường hằng cũng không
    Uẩn luôn sanh và diệt"
    "Biết được hiểm họa nầy
    Ta không cầu sanh hữu
    Từ bỏ mọi dục lạc
    Các lậu hoặc đoạn trừ".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PINDOLABHARADVAJA

    Được biết trưởng lão Pindolabharadvaja đã nói lên bài kệ rằng:

    "Cuộc sống nầy của ta
    Được nuôi dưỡng chơn chánh
    Vật thực không thể tạo
    Cho tâm tư an tịnh
    Do có các món ăn
    Thân thể được tồn tại
    Thấy vậy, ta bộ hành
    Tìm vật thực đúng pháp"
    "Bậc trí tuyên bố rằng
    Sự đảnh lễ cúng đường
    Từ các người gia chủ
    Là vũng bùn (kinh hoàng)
    Là mũi tên tế nhị
    Rất khó nhổ ra được
    Nhưng đối với kẻ ngu
    Cung kính khó từ bỏ".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, trưởng lão tái sanh làm sư tử chúa, sống trong một hang núi.

    Một hôm, Đức Thế Tôn quán thấy duyên lành của sư tử chúa, với mục đích tiếp độ, Ngài ngự đến hang núi ấy, ngồi nhập thiền diệt. Bấy giờ sư tử đã rời khỏi hang đi kiếm ăn, khi tìm được mồi tha về, sư tử nhìn thấy Đức Thế Tôn đang ngồi nhập đại định tại cửa hang, do từng gieo duyên với Chư Phật, nên vừa thấy Ngài, trong lòng nó dâng lên một niềm hân hoan trong sạch. Sư tử chúa liền để miếng mồi xuống, chạy đi tìm bông hoa về cúng dường Phật và để bảo vệ sự yên bình cho Ngài, nó đã rống lên tiếng sư tử, xua đuổi những mãnh thú khác không cho đến phiền nhiểu Đức Thế Tôn, rồi trở vào đứng hầu Phật và sư tử chúa đã làm như thế suốt thời gian Thế Tôn nhập đại định.

    Đến ngày thứ bảy, Thế Tôn xã thiền xong, Ngài nghĩ rằng:

    "Với chừng ấy, cũng vừa đủ làm duyên lành cho sư tử chúa" Ngài bèn bay lên hư không ngự trở về tịnh xá, sư tử chúa đứng nhìn theo Đức Phật cho đến khuất tầm mắt, cùng với nổi kính tiếc vô hạn dâng lên trong lòng khiến nó mệnh chung ngay lúc ấy và được tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Hamsavati.

    Một hôm, chàng công tử nầy tháp tùng theo dân chúng trong thành, đến tịnh xá nghe pháp nơi Bậc Đạo Sư, sau thời pháp chàng phát khởi niềm tin trong sạch, xin quy ngưỡng tam bảo và cung thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng về nhà cúng dường đại thí suốt bảy ngày.

    Chàng đã phụng sự hộ độ tam bảo và thực hiện các hạnh lành của người cận sự nam cho đến khi mạng chung. Với phước báu tạo trử, chàng được sanh lên thiên giới.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng sanh làm con trai quan tế tự của đức vua Udena thành Kosambi và được đặt tên là Bharadvaja.

    Khi lớn lên Bharadvaja học xong ba tập phệ đà và dạy chú thuật cho 500 thanh niên Bà la môn, nhưng không bao lâu ông bị các thanh niên ấy ruồng bỏ vì có những sở hành không thích hợp và vì là người tham ăn.

    Bharadvaja buồn bã đi đến thành Rajagaha (Vương xá), nhìn thấy Đức Thế Tôn và chư Tăng được lợi lộc tôn trọng, bèn xin tu trong giáo pháp. Sau khi xuất gia, Bharadvaja quen thói cũ vẫn không tiết độ trong ẩm thực, khiến Đức Thế Tôn khiển trách, rồi Ngài giáo giới cho trở thành người biết độ lượng, từ khi được Bậc Đạo Sư nhắc nhỡ, tôn giả đã phục thiện và không lâu sau do nhiệt tâm tinh cần tu tập tôn giả Bharadvaja cũng chứng đạt lục thông.

    Giai thoại nầy được tôn giả kể trong tập Apadana.

    "Một kiếp quá khứ
    Ta sanh làm thợ săn
    Trong lúc đi tìm thú
    Ta thấy Đức Chánh Giác
    Bậc viễn ly bụi trần
    Liễu tri tất cả pháp
    Ta phát tâm trong sạch
    Đi tìm những quả ngon
    Đến cúng dường Đức Phật
    Bậc tối thượng thế gian
    Bậc phước điền cao thượng
    Bằng hai tay cung kỉnh
    Trong kiếp thứ ba mươi mốt
    Ta cúng dường Phật nào
    Do sự cúng dường đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não...
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng lục thông, tôn giả Bharadvaja suy nghĩ rằng:

    "Đạo quả nào, các bậc Thinh văn cần phải tác chứng trước mặt Thế Tôn đạo quả ấy, ta đã tác chứng".

    Rồi tôn giả rống lên tiếng rống con sư tử giữa chư tỳ khưu rằng:

    "Vị nào có hoài nghi về đạo quả, vị ấy hãy đến hỏi ta".

    Do nhân đó, trong một buổi họp của chư Tăng Bậc Đạo Sư phán rằng:

    "Nầy chư tỳ khưu, trong hàng Thinh văn của Như Lai, Pindolabharadvaja đệ nhất về hạnh rống tiếng rống con sư tử."

    Một hôm, tôn giả muốn tiếp độ một vị Bà la môn tà kiến, có tâm bỏn xẻn, từng là bạn khi còn là cư sĩ, tôn giả đi đến nhà ông ta, giảng giải về quả báo của sự bố thí cho vị Bà la môn ấy hiểu.

    Nghe xong, vị Bà la môn nhiếu mày tỏ thái độ không vừa lòng, ông nghĩ thầm:

    "Bộ vị trưởng lão nầy, muốn cho tài sản ta suy kiệt".

    Rồi ông nói với tôn giả Bharadvaja rằng:

    "Tôi chỉ dâng một phần cơm cho tôn giả thôi"

    Tôn giả nói với vị Bà la môn:

    "Ông hãy dâng cơm ấy đến Tăng, chớ dâng ta". Rồi khuyến khích vị Bà la môn đem phần cơm ấy cúng dường Tăng.Vị Bà la môn chần chừ, tỏ thái độ không bằng lòng nghĩ rằng:

    "Vị trưởng lão nầy muốn ta cúng dường cho nhiều vị tỳ khưu".

    Để cho tâm vị Bà la môn hoan hỷ tín thành, tôn giả bèn giảng về quả báu của sự cúng dường Tăng chúng, rồi tôn giả suy nghĩ:

    Chắc vị Bà la môn này tưởng việc ta khuyến khích hắn dâng cúng là vì muốn được vật thực, vậy ta sẽ làm cho hắn biết" bèn nói lên hai bài kệ:

    "Cuộc sống nầy của ta
    Được nuôi dưỡng chân chánh
    Vật thực không thể tạo
    Cho tâm tư an tịnh
    Do có các món ăn
    Thân thể được tồn tại
    Thấy vậy ta bộ hành
    Tìm vật thực đúng pháp"
    "Bậc trí tuyên bố rằng
    Sự đãnh lễ cúng dường
    Từ các người gia chủ
    Là vũng bùn (kinh hoàng)
    Là mũi tên tế nhị
    Rất khó nhổ ra được
    Nhưng đối với kẻ ngu
    Cung kính khó từ bỏ".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VASABHA

    Được biết trưởng lão Vasabha đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đối với người giả dối
    Chúng tự giết mình trước
    Sau đó giết kẻ khác
    Với người giả dối ấy
    Tự giết mình dễ dàng
    Ví như thợ săn chim
    Với bẩy bắt giết chim"
    "Không phải Bà la môn
    Chỉ dung sắc bên ngoài
    Vì là Bà la môn
    Còn dung sắc bên trong
    Với ai làm ác nghiệp
    Người ấy là hắc nhân
    Nầy Sujamapati
    Ngài hãy biết như vậy."

    Vị trưởng lão nầy đã tích trử nhiều thiện duyên giải thoát với Chư Phật quá khứ. Có một kiếp, trưởng lão sanh trong một gia đình Bà la môn với danh xưng là Narada.

    Bấy giờ là thời kỳ ngoài giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác, khi lớn lên Narada thông thạo các học nghệ của Bà la môn.

    Do quá khứ gieo nhiều chủng tử bồ đề, nên tâm tư Narada luôn hướng đến một đời sống xuất ly, chàng đã từ bỏ mọi hấp dẫn của thế gian, xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất tại núi Samagga không xa núi Hy mã.

    Sống giữa thiên nhiên hoang dã u tịch, không bao lâu đạo sĩ Narada chứng được bát thiền ngũ thông. Với tấm lòng từ bi rộng mở đạo sĩ đã tiếp độ và dạy dỗ các học trò sống theo chí hướng của mình.

    Một hôm đạo sĩ nẩy sinh ý nghĩ như vầy:

    "Bây giờ, ta là chỗ tôn trọng cung kính cúng dường của các học trò, nhưng không có ai để ta lễ bái cúng dường, sống mà không có người để tôn kính quả thật là một nỗi khổ".

    Sau khi suy nghĩ như thế, đạo sĩ Narada bỗng nhớ lại những thiện hạnh lễ bái cúng dường mà mình đã tạo nơi bảo tháp xá lợi Phật, đạo sĩ vô cùng hoan hỷ, bèn dùng thần thông tôn tạo một bảo tháp bằng vàng rực rỡ, từ đó mỗi ngày đạo sĩ lễ bái cúng dường bảo tháp bằng những đóa hoa xinh đẹp.

    Đạo sĩ Narada tự mình tu tập thiền định, khuyên dạy các học trò và lễ bái cúng dường bảo tháp cho đến khi mạng chung, được sanh lên phạm thiên giới.

    Sống an lạc trên cõi phạm thiên rất lâu, mạng chung từ kiếp ấy đạo sĩ tái sanh trong cõi Đạo lợi.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đạo sĩ tái sanh trong hoàng tộc Licchavi tại thành Vesali và có tên là Vasabha.

    Trên bước đường du hóa hoằng khai chánh pháp tế độ quần sanh, một lần nọ Đức Thế Tôn ngự đến thành Vesali, do duyên lành chín muồi nên khi nhìn thấy uy nghi đức độ của Ngài, vương tử Vasabha đã khởi niềm tin trong sạch muốn sống đời phạm hạnh trong giáo pháp của Đạo Sư.

    Sau khi xuất gia, nhờ nhiệt tâm tinh cần, nên kế đó không lâu tôn giả Vasabha cũng chứng đạt Alahán.

    Trong tập Apadana tôn giả kể lại như sau:

    "Không xa Hy mã sơn
    Có một ngọn núi cao
    Tên là Samagga
    Ta kiến tạo am thất
    Dựng lên dãy nhà rộng
    TạI dãy thâm sơn ấy
    Ta là vị đạo sĩ
    Sống tinh cần dõng mãnh
    Danh xưng Narada
    Với bốn vạn học trò
    Hầu hạ phục vụ ta
    Rồi tư tưởng sau đây
    Đã khởi lên cho ta
    Đại chúng cúng dường ta
    Ta không cúng dường ai
    Người nhắc nhở cũng không
    Ta không có bậc thầy
    Tại đây học trò ta
    Bậc thầy, bậc khả kính
    Đáng cúng dường phục vụ
    Chúng có được cả hai
    Bậc ấy ta không có
    Vậy việc ở rừng nầy
    Sẽ khiếm khuyết lợi ích
    Chỗ xứng đáng cúng dường
    Ta cần phải tìm kiếm
    Chỗ xứng đáng tôn kính
    Ta cũng phải tầm cầu
    Khi có chỗ nương tựa
    Nào ai chê trách được
    Không xa am thất ta
    Có một dòng nước mát
    Với bến nước phẳng lặng
    Được trãi đầy cát trắng
    Rồi ta đến dòng nước
    Tên Amasika
    Hốt lấy cát mang về
    Xây dựng ngôi bảo tháp
    Tháp của Bậc Chánh Giác
    Đã viên tịch nhiều kiếp
    Với uy lực thần thông
    Ta tạo nên bảo tháp
    Bằng cát vàng rực rỡ
    Rồi ta hái bông hoa
    Đến cúng dường bảo tháp
    Ta vô cùng thỏa thích
    Đứng chấp tay tôn kính
    Lễ bái cả sáng chiều
    Ta đảnh lễ bảo tháp
    Như đãnh lễ trước mặt
    Của bậc Chánh Giác vậy
    Khi phiền não phát sanh
    Mắt hướng về bảo tháp
    Ta niệm ân Đức Phật
    Bậc dẫn dắt chúng sanh
    Ra khỏi vùng hiểm nạn
    Bậc dẫn dắt đặc thù
    Và tự nhắc nhở rằng
    Hãy canh phòng phiền não
    Hỡi này người ly khổ
    Thật là không xứng đáng
    Khi để phiền não sanh
    Bấy giờ khi tâm ta
    Niệm tưởng đến bảo tháp
    Lòng tôn kính phát sanh
    Ta đoạn trừ các tầm
    Xấu xa đáng ghét ấy
    Ví như voi cao quí
    Bị đâm xuyên qua tai
    Cũng vậy khi đang niệm
    Tử thần đã tìm đến
    Ta mạng chung tại đấy
    Sanh lên cõi Phạm thiên
    Sống trên cõi Phạm thiên
    Đến khi tuổi thọ tận
    Ta sanh cõi Đạo lợi
    Tám mươi lần ta làm
    Vị thiên chủ Đế Thích
    Cai quản trong cõi ấy
    Ba trăm lần ta sanh
    Làm Chuyển luân Thánh vương
    Và nhiều lần được làm
    Vị vua Đại quốc độ
    Bụi nhớp không bám dính
    Trên thân thể của ta
    Mồ hôi cũng không có
    Và hào quang tủa ra
    Từ thân thể của ta
    Bảo tháp ta khéo tạo
    Sông Amarika
    Ta đã khéo ngắm nhìn
    Ta chứng đạt bất động
    Do xây dựng bảo tháp
    Những ai muốn hành thiện
    Hãy nương đều lợi ích
    Không phải do nhân khác
    Mà chính sự thực hành
    Sẽ đưa đến kết quả
    Như người có sức mạnh
    Và có sự tinh cần
    Cầm khúc gỗ nghĩ rằng
    Nương vào khúc gỗ này
    Ta sẽ vượt qua sông
    Người đời vượt qua sông
    Do nương vào tinh tấn
    Cũng vậy ta nương vào
    Từng từng thiện sự nhỏ
    Vượt qua được luân hồi
    Đến kiếp cuối cùng này
    Do thiện căn dẫn dắt
    Ta sanh vào gia đình
    Bà la môn giàu có
    Tại thành Savatthi
    Cha và mẹ của ta
    Là người có niềm tin
    Thành kính nơi Đức Phật
    Hai bậc đại ân ấy
    Đã thấy pháp nghe pháp
    Và thực hành theo pháp
    Hai vị ấy cầm lấy
    Tấm vải trắng tinh khiết
    Lau bóng bảo tháp vàng
    Và đãnh lễ trước mặt
    Thế Tôn bậc chiến thắng
    Sáng tối ngày trai giới
    Hai vị lấy tháp vàng
    Tán tụng ân đức Phật
    Ta nhìn thấy bảo tháp
    Nhớ đến bảo tháp xưa
    Ngồi trên một chỗ ngồi
    Chứng đạt Alahán
    Ta đi tìm đức Phật
    Rồi ta được diện kiến
    Vị Tướng quân chánh pháp
    Ta từ bỏ gia đình
    Đến xuất gia nơi Ngài
    Ta chứng Alahán
    Lúc chỉ mới bảy tuổi
    Thế Tôn bậc Tuệ nhãn
    Biết đức hạnh của ta
    Cho ta thọ cụ túc
    Việc cần làm, làm xong
    Lúc hãy còn niên thiếu
    Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
    Vị Thinh văn của Ngài
    Vượt qua mọi trói buộc
    Vượt qua mọi dính mắc
    Lời Phật dạy làm xong.

    Sau khi chứng quả Alahán, để tiếp độ các thí chủ, nên tôn giả không ngăn tứ sự lúc họ đem đến dâng cúng và tôn giả sống tri túc thọ dụng tứ sự ấy.

    Các kẻ phàm phu tưởng rằng tôn giả là người nặng về việc trau chuốt thân, không lo phòng hộ tâm nên có thái độ khinh thường. Nhưng tôn giả không màng đến sự khinh thường ấy.Không xa chỗ tôn giả có một vị tỳ khưu giả dối, tâm tánh thấp hèn, sống đa dục nhưng lại biểu hiện như người thiểu dục, như người tri túc để gạt thế gian và nhiều người đã ca tụng vị ấy như bậc thánh.

    Lúc bấy giờ, Thiên Chủ Đế Thích biết được sở hành của vị ấy, bèn đi đến tôn giả hỏi rằng:

    "Kính bạch tôn giả, với vị tỳ khưu giả dối gọi là tạo nghiệp gì?"

    Ðể chê trách sự ham muốn thấp hèn,tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

    "Đối với người giả dối
    Chúng tự giết mình trước
    Sau đó giết kẻ khác
    Với người giả dối ấy
    Tự giết mình dễ dàng
    Ví như thợ săn chim
    Với bẫy bắt giết chim
    Không phải Bàlamôn
    Chỉ dung sắc bên ngoài
    Vì là Bà lamôn
    Còn dung sắc bên trong
    Với ai làm ác nghiệp
    Người ấy là hắc nhân
    Này Sujampati
    Ngài hãy biết như vậy".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO TISSA

    Được biết trưởng lão Tissa đã nói lên bài kệ rằng:

    "Vị tỳ khưu đầu trọc
    Đắp y Sanghati
    Nhận cơm nước y phục
    Chỗ nằm và chỗ ngồi
    Tức là nhận kẻ thù"
    "Khi thấy lợi lộc là
    Mối nguy sợ như thế
    Hãy là người thiểu dục
    Tâm tư không tham nhiễm
    Với chánh niệm đoạn trừ
    Sự ham thích lợi lộc"

    Trong thời giáo pháp của đức thế tôn Piyadassi, trưởng lão tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Khi lớn lên, vị Bàlamôn đã thành thạo các học nghề, vì nhận thấy mối nguy hiểm của dục lạc, nên chàng từ bỏ đời sống thế tục xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất trong khu rừng mun.

    Một buổi sáng đức Thế Tôn dùng lưới tuệ của khắp thế gian nhìn thấy đạo sĩ hữu duyên, Ngài bèn ngự đến nơi ấy ngồi nhập thiền diệt tại một gốc cây không xa am thất của đạo sĩ.

    Bấy giờ, vị đạo sĩ rời khỏi am thất để tìm trái cây, khi trở về nhìn thấy đức Thế Tôn đang nhập định, đạo sĩ phát tâm trong sạch đi tìm bốn khúc cây, cắm bốn gốc dựng lều, lấy nhánh mun đang lại, rồi lấy hoa phủ lên che mát đức Thế Tôn và ông đứng hầu suốt bảy ngày tâm tư đầy phỉ lạc với hình ảnh đức Phật.

    Sanh ngày thứ bảy Đức Thế Tôn xả thiền diệt, Ngài tác ý đến 100.000 vị Thánh lậu tận, tức thì chư Thánh Thinh văn ấy ngự đến đoanh vây đức Thế Tôn.

    Thế Tôn ngự tọa giữa Tăng chúng tuyên bố quả báo sẽ phát sanh cho đạo sĩ và thuyết pháp hoan hỷ, rồi Ngài cùng với chư Thinh văn ngự trở về tịnh xá.

    Với thiện sự ấy sau khi mạng chung, đạo sĩ được sanh lên thiên giới.

    Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tải thành Rajagaha (Vương xá) có tên là Tissa.

    Khi lớn lên, Tissa học xong ba tập phệ đà rồi dạy chú thuật cho 500 thanh niên Bàlamôn, nhờ vậy chàng rất dồi dào lợi lộc.

    Một hôm, đức Thế Tôn du hành đến thành Raja-gaha, nhìn thấy Thế Tôn đầy đủ 32 đại nhân tướng, lục căn thanh tịnh, gương mặt từ hòa khả kính bước đi nhẹ nhàng thoát tục, bị cảm hóa bởi uy đức của bậc Đạo Sư, chàng khước từ mọi thế lợi và xin xuất gia trong giáo pháp.

    Sau khi xuất gia, nhờ thiện duyên giải thoát chín muồi, cùng với sự nhiệt tâm hành pháp, ít lâu sau, tôn giả chứng đạt Alahán.

    Tôn giả kể lại giai thoại nầy trong tập Apadana như sau:

    "Ta vào rừng cây mun
    Dựng am thất trang nhã
    Che lợp bằng hoa mun
    Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
    Bậc thương nhân thế gian
    Đã tự mình giác ngộ
    Tên Piyadassi
    Với mục đích tiếp độ
    Ngài ngự đến rừng mun
    Bấy giờ ta rời am
    Đi tìm quả cây rừng
    Ta nhìn thấy Thế Tôn
    Tên Piyadassi
    Bậc có đại uy danh
    Đang an nhiên nhập định
    Chói sáng giữa rừng già
    Ta phát tâm trong sạch
    Tìm cây về làm lều
    Lấy hoa mun kết lại
    Che phía trên Thế Tôn
    Mỗi ngày thay hoa mới
    Cứ thế suốt bảy ngày
    Ta vô cùng thỏa thích
    Với thiện sự mình làm
    Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
    Bậc thượng nhân thế gian
    Sau khi xã đại định
    Ngài đưa mắt nhìn quanh
    Tức thì đại Thinh văn
    Đệ tử của Thế Tôn
    Tên là Varuna
    Cung một muôn Thánh Tăng
    Alahán vô lậu
    Đến yết kiến Thế Tôn
    Rồi bậc Đại Ẩn Sĩ
    Tên Piyadassi
    Đang ngồi giữa chư Tăng
    Ngài nhẹ nở nụ cười
    Vị tỳ khưu thị giả
    Tên Anuruddha
    Thấy sự kiện hy hữu
    Đắp một y bên vai
    Đến đảnh lễ thưa rằng
    Kính bạch đức Thế Tôn
    Khi có nhân có duyên
    Thế Tôn mới mỉm cười
    Vậy do nhân duyên gì?
    Ở đây Ngài mỉm cười
    Bậc Đạo Sư phán rằng
    Với người nào dựng liều
    Che mát bằng bông hoa
    Trong suốt bảy ngày qua
    Nghĩ đến nghiệp người ấy
    Ta mới nở nụ cười
    Ta quán chiếu thấy rằng
    Thiện nghiệp người ấy tạo
    Sẽ trổ quả bất tận
    Trong hai cõi nhân thiên
    Dù tái sanh cõi nào
    Người ấy cũng đầy đủ
    Với tài sản cao sang
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Trong kiếp 1.800
    Có đức Chánh Đẳng Giác
    Ngự sanh trên thế gian
    Người nầy sẽ thừa tự
    Giáo pháp của Thế Tôn
    Biến tri các phiền não
    Đạt vô lậu niết bàn
    Trong lúc pháp tỏ ngộ
    Có mái che hoa mun
    Và trong khi viên tịch
    Bên trên đài hỏa táng
    Cũng có mái hoa mun
    Sau khi đại Ẩn sĩ
    Tên Piyadassi
    Nói lên quả dị thục
    Ngài thuyết giảng chánh pháp
    Khiến hội chúng thấm nhuần
    Với mưa pháp bất tử
    Rồi Ngài cùng chư tăng
    Ngự trở về tịnh xá
    Ta được làm Thiên vương
    Trải suốt ba mươi kiếp
    Sáu mươi bảy lần sanh
    Làm vị Chuyển Luân Vương
    Khi ta rời thiên giới
    Tái sanh trong cõi người
    Ta đầy đủ an lạc
    Dù trong cõi nhân lọai
    Cũng có mái hoa mun
    Đây chính là kết quả
    Của việc làm lều che
    Và trong kiếp cuối cùng
    Mái che bằng hoa mun
    Phát sanh suốt cho ta
    Ta làm cho Thế Tôn
    Gotama hoan hỷ
    Ta từ bỏ thắng bại
    Chứng đạt pháp bất động
    Trong kiếp 1.800
    Ta cúng dường Phật bảo
    Do việc cúng dường ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    Sau khi chứng quả Alahán, tôn giả trở thành vị thù thắng về lợi lộc, thù thắng về danh xưng.

    Lúc bấy giờ có một số vị phàm tăng, thấy tôn giả được lợi lộc, tôn trọng như thế, do mê muội thiếu trí nên đã có những thái độ không thích đáng, tôn giả Tissa thấy vậy, để tuyên bố sự nguy hiểm trong lội lộc trọng vọng và để minh thị mình không dính mắc lợi lộc trọng vọng ấy, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

    "Vị tỳ khưu đầu trọc
    Đắp y Sanghati
    Nhận cơm nước y phục
    Chỗ nằm và chỗ ngồi
    Tức là nhận kẻ thù"
    "Khi thấy lợi lộc là
    Mối nguy sợ như thế
    Hãy là người thiểu dục
    Tâm tư không tham nhiễm
    Với chánh niệm đoan trừ
    Sự ham thích lợi lộc".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VALLIYA

    Được biết trưởng lão Valliya nói lên bài kệ như vầy:

    "Phận sự nào cần làm
    Với tinh cần nổ lực
    Phận sự nào cần làm
    Với người muốn giác ngộ
    Con sẽ làm tất cả
    Đúng theo lời Ngài dạy
    Hãy xem sự tinh cần
    Sự nổ lực của con"
    "Xin hãy nói cho con
    Con đường đến bất tử
    Như dòng sông Ganga
    Xuôi chảy ra biển cả".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, trưởng lão được tái sanh trong một gia đình Bà la môn trưởng giả.

    Vị trưởng giả nầy rất thông minh và chăm học, khi vừa trưởng thành, chàng đã thông đạt các chú thuật cùng các học nghệ của giáo điển Bà la môn.

    Sau khi cha mẹ qua đời, chàng chán ngán cuộc sống thế tục, đem tất cả tài sản trong kho trị giá tám trăm triệu, bố thí giúp đở cho những người ăn xin, những người nghèo khổ, rồi xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất cạnh bờ sông.

    Một hôm do duyên lành của đạo sĩ, Đức Thế Tôn đã ngự đến chỗ ấy, đạo sĩ nhìn thấy Thế Tôn với bước đi thanh thoát nhẹ nhàng, với lục căn thanh tịnh, sáng chói đầy uy đức. Đạo sĩ phát khởi lòng tịnh tín, trãi tấm da cọp làm tọa cụ cúng dường đến Thế Tôn rồi thỉnh Ngài ngự tọa trên tấm da ấy, Đạo sĩ với tâm trong sạch tôn kính, lấy hoa và hương chiên đàn rãi cúng dường, rồi đạo sĩ chọn lấy những trái xòai to thơm ngon cúng dường Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn sau khi thọ dụng xong, Ngài đã nói lời phúc chúc và tiên tri những thành quả trong tương lai của đạo sĩ, rồi Ngài ngự trở về tịnh xá.

    Với công đức ấy, sau khi mạng chung vị đạo sĩ được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi trời và người, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được sanh trong một gia đình Bà la môn, tại thành Vesali cha mẹ đặt tên là Kanhamitta.

    Khi trưởng thành, một lần nọ, lúc Đức Thế Tôn ngự đến thành Vesali, được cảm hóa bởi uy đức của Ngài, Kanhamitta đã khởi lên niềm tin và xin xuất gia nơi trưởng lão Mahakaccana.

    Do trí tuệ chậm chạp và thiếu sự tin tấn, cho nên tôn giả Kanhamitta phải nương vào kiến thức cùng kinh nghiệm của các đồng phạm hạnh, đến nổi các vị tỳ khưu gọi tôn giả là Valliya (loài chùm gởi) vì tôn giả không thể tự tiến hóa nếu không nương tựa vào các cây khác như loài chùm gởi phải nương tựa vào một cây khác mới phát triển được nếu không thì không thể phát triển được.

    Rồi một hôm, tôn giả Valliya đi đến chỗ trưởng lão Venudatta, sau khi tín thọ lời giáo giới của trưởng lão, sự sáng suốt trong lòng tôn gia như trổi dậy và với trí tuệ chín muồi, tôn giả đã hỏi trưởng lão với hai bài kệ rằng:

    "Phận sự nào cần làm
    Với tinh cần nổ lực
    Phận sự nào cần làm
    Với người muốn giác ngộ
    Con sẽ làm tất cả
    Đúng theo lời ngài dạy
    Hãy xem tự tinh cần
    Sự nỗ lực của con"
    "Xin hãy nói cho con
    Con đường đến bất tử
    Con sẽ biết với tuệ
    Như dòng sông Ganga
    Xuôi chảy ra biển cả".

    *

    Sau khi nghe hai bài kệ thỉnh cầu của tôn giả Valliya, trưởng lão Venudatta đã chỉ dạy con đường pháp hành đến tôn giả, an trú vào lời dạy ấy, tôn giả nổ lực phát triển thiền quán và chứng đạt Ala hán ngay sau đó.

    "Ta từ bỏ dục lạc
    Khả ái và khả hỷ
    Ta dứt bỏ tài sản
    Trị giá tám trăm triệu
    Xuất gia làm đạo sĩ
    Ngăn trừ thân ác hạnh
    Trú tại một bờ sông
    Một hôm Đức Thế Tôn
    Hồng danh Sumedha
    Bậc Thượng nhân thế gian
    Ngự đến bờ sông ấy
    Dù không biết là Phật
    Nhưng với uy đức Ngài
    Khiến lòng ta tôn kính
    Ta đã tiếp rước Ngài
    Sau khi tiếp rước xong
    Ta bạch hỏi như sau
    Kính bạch Bậc Sa môn
    Ngài là vị chư thiên
    Hay là Gandhabha
    Hay Thiên vương Đế thích
    Hoặc đức đại Phạm thiên
    Với hào quang tỏa sáng
    Như mặt trời ban ngày
    Kính bạch bậc ly khổ
    Vòng bánh xe ngàn căm
    In dưới bàn chân Ngài
    Xin hỏi Ngài là ai
    Ngài là con của ai
    Xin hãy nói tên họ
    Cho con hết nghi hoặc
    Thế Tôn bèn đáp rằng
    Ta không phải chư thiên
    Không phải Gandhabha
    Không phải đức Đế thích
    Và Phạm thiên cũng không
    Ta cao hơn Phạm thiên
    Vượt khỏi Phạm thiên tánh
    Đoạn trừ các phiền trược
    Thiêu đốt các phiền não
    Chứng đạt Chánh giác trí
    Sau khi nghe Ngài phán
    Ta quỳ xuống thưa rằng
    Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
    Nếu Ngài là toàn giác
    Xin thỉnh Ngài ngự tọa
    Con xin cúng dường Ngài
    Xin Ngài hãy tiếp độ
    Cho con dứt khổ đau
    Ta trải tấm da cọp
    Cúng dường Bậc Đạo Sư
    Đức Thế Tôn ngự tọa
    Trên tấm da cọp ấy
    Ví như sư tử chúa
    Ngồi giữa hang núi vậy
    Với duyên lành chín muồi
    Ta đi đến giáo pháp
    Tu tập không bao lâu
    Ta cũng được chứng đạt
    Quả vị Alahán
    Ta truy tìm tiền nghiệp
    Không thấy những kiếp gần
    Nhưng nhớ được thiện nghiệp
    Trong kiếp ba mươi ngàn
    Kính bạch Đức Thế Tôn
    Con xin đãnh lễ Ngài
    Nương lời dạy của Ngài
    Con mời được giác ngộ
    Trong kiếp ba mươi ngàn
    Ta cúng dường Phật nào
    Do việc cúng dường ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phìên não
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SABBAMITTA

    Được biết trưởng lão Sabbamitta đã nói lên bài như vầy:

    "Người trói buộc trong người
    Người luyến ái với người
    Người bị người tổn hại
    Và người tổn hại người"
    "Lợi ích gì cho người
    Nơi những điều người tạo
    Hãy từ bỏ tất cả
    Sự tổn hại nhiều người".

    Ngược dòng thời gian cách nay 92 kiếp, vào thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Tissa, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình thợ săn.

    Hằng ngày, cha và ông phải vào rừng săn thú để nuôi gia đình. Khi lớn lên chàng cũng tập tễnh theo cha vào rừng để phụ giúp và học cách săn thú.

    Một hôm, vào rạng sáng Đức Thế Tôn dùng lưới tuệ, bủa khắp thế gian xem chúng sanh nào hữu duyên để tiếp độ, chàng thợ săn nằm trong lưới tuệ của Ngài.

    Thế là sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát ngự đến một con đường gần nhà của chàng thợ săn, sau đó Ngài đã để lại ba dấu chân.

    Lúc bấy giờ, chàng thợ săn rời khỏi nhà vào rừng tìm thú, chàng nhìn dấu chân có hình bánh xe, do trong quá khứ từng gieo duyên với Chư Phật, nên khi nhìn thấy dấu chân Phật, chàng khởi lên ý nghĩ rằng: "Đây là dấu chân của bậc đáng tôn kính, đáng cúng dường". Rồi chàng muốn tìm một cái gì để cúng dường, đi loanh quanh chàng nhìn thấy cây mào gà đang trổ bông xinh đẹp, chàng vội đi đến hái lấy nhánh bông mào gà đến cúng dường dấu chân Phật với tấm lòng hoan hỉ..

    Do thiện sự ấy, sau khi mạng chung, chàng thợ săn được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng thợ săn tái sanh trong một gia đình Bà la môn tại thành Savatthi và được đặt tên là Sabbamitta.

    Trong buổi lễ cúng dường Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc, Sabbamitta cũng có mặt, nhìn thấy uy đức của Bậc Đạo Sư chàng khởi lên niềm tin và xuất gia.

    Sau khi xuất gia Sabbamitta học một đề tài thiền quán và đi sâu vào trong rừng ẩn cư để tu tập, sau ba tháng an cư mùa mưa, tôn giả Sabbamitta đi về thành Savatthi yết kiến Đức Thế Tôn.

    Trên đường đi, tôn giả nhìn thấy một chú nai con sa vào bẩy của người thợ săn, nai mẹ tuy không bị vướng bẩy, nhưng nó không thể đi xa, cứ quanh quẩn gần đó vì quyến luyến nai con và nó cũng không dám đến gần vì sợ mắc bẩy như nai con. Phần vì nai con quá hoảng sợ nó lăn qua, lộn lại, kêu lên những tiếng thảm thương.

    Tôn giả thấy vậy suy nghĩ rằng: "Ôi! Tình thương đã đem lại sự đau khổ cho các loài hữu tình".

    Đi một đổi nữa, tôn giả nhìn thấy nhiều tên cướp đang lấy rơm bó vào một người chúng bắt được để đem thiêu sống và người ấy sợ hãi kêu la thống thiết. Chứng kiến hai sự kiện bi thảm, tôn giả Sabbamitta bị động tâm bèn nói lên hai bài kệ với các tên cướp rằng:

    "Người trói buộc trong người
    Người luyến ái với người
    Người bị người tổn hại
    Và người tổn hại người"
    "Lợi ích gì cho người
    Nơi những điều người tạo
    Hãy từ bỏ tất cả
    Sự tổn hại nhiều người".

    Nói vậy xong, tôn giả phát triển thiền quán, chứng đạt Alahán liền sau đó.

    Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Thuở trước ta và cha
    Cùng ông đi săn thú
    Sinh kế nghề giết thú
    Thiện nghiệp ta không có
    Một hôm, trên con đường
    Gần trú xứ ta ở
    Thế Tôn bậc tối thượng
    Hồng danh là Tissa
    Vì muốn tiếp độ ta
    Ngài ngự đến chỗ ấy
    Để lại ba dấu chân
    Nhìn thấy những dấu chân
    Của bậc đáng tôn kính
    Ta vô cùng hoan hỉ
    Trong sạch dấu chân Phật
    Nhìn thấy cây mào gà
    Đang trổ bông xinh đẹp
    Ta hái đến cúng dường
    Dấu chân bậc tôn kính
    Chính do thiện sự ấy
    Sau khi ta mạng chung
    Đựoc sanh cõi đạo lợi
    Trong các kiếp tái sanh
    Ta luôn có nước da
    Như màu bông mào gà
    Thật mịn màng tươi sáng
    Trong kiếp thứ chín hai
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta tạo thiện nghiệp nào
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Cúng dường dấu chân Phật
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    Các tên cướp sau khi nghe pháp từ nơi tôn giả, bị xúc cảm mạnh đã từ bỏ mọi ác hạnh và xuất gia thực hành theo chánh pháp.

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NANDA

    Được biết trưởng lão Nanda đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Ta mê việc trang sức
    Không như lý tác ý
    Tâm thô tháo giao động
    Bị tham dục não hại"
    "Ta chơn chánh thực hành
    Theo lời dạy Đức Phật
    Bậc bà con mặt trời
    Thiện xảo trong phương pháp
    Bứng tâm đang chìm đắm
    Khỏi sanh hữu (khổ đau)".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn giàu có.

    Một hôm, khi đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn, chàng nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một tỳ khưu đệ nhất về hạnh thu thúc các căn, thỏa thích với hình ảnh đó, chàng đã cung thỉnh Đức Phật cùng chư tỷ khưu Tăng về nhà cúng dường đại thí, sau khi phục vụ Đức Phật cùng chư tỳ khưu Tăng với các món ăn thượng vị, chàng Bà la môn nầy đã phủ phục duới chân Đức Thế Tôn và chú nguyện rằng:

    "Do phước báu mà hôm nay con đã trong sạch cúng dường, trong thời giáo pháp của Đức Phật tương lai, xin cho con được thành tựu giống như vị tôn giả kia vậy".

    Sau khi mạng chung từ kiếp ấy, chàng được tái sanh lên nhàn cảnh, luân chuyển giữa cõi trời và người một thời gian dài cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassi. Chàng tái sanh làm một con rùa lớn tại dòng sông Vinta.

    Một hôm, Đức Thế Tôn ngự đến bờ sông Vinta để sang bên kia,, chú rùa thấy vậy, có ý muốn đưa Đức Thế Tôn qua sông, bèn bơi đến phủ phục bên chân Ngài. Đức Thế Tôn biết được tâm ý của nó, Ngài đã ngự lên lưng rùa. Chú rùa vô cùng thỏa thích, bơi chẻ dòng nước đưa Đức Thế Tôn sang bên kia sông một cách nhanh chóng, Đức Thế Tôn bèn nói lời tùy hỷ cùng quả báu sẽ phát sanh cho rùa rồi Ngài rời khỏi nơi ấy.

    Do thiện sự đó, sau khi mạng chung, rùa được thoát khỏi kiếp cầm thú và sanh lên nhàn cảnh, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta rùa được tái sanh vào bào thai của nàng Mahapajapatigotami, thái tử của đức vua Sudhodana (Tịnh Phạn) (em cùng cha khác mẹ với Đức Bồ tát) tại thành Kapilavatthu.

    Vào ngày đặt tên cho thái tử, các vị trong hoàng tộc đặt tên là Nanda vì thái tử chào đời, là một niềm vui lớn cho quyến thuộc. Khi thái tử Nanda trưởng thành, lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đã vận chuyển bánh xe chánh pháp đi tiếp độ quần sanh, Ngài tuần tự du hành trở về thành Kapilavatthu. Tại đây Ngài đã làm cho Pokkhara-vassa - mưa sen (mưa nầy thành tựu do thần thông, không bị thấm ướt, như nước rơi trên lá sen vậy) rơi xuống để tiếp độ quyến thuộc đang câu hội lấy mưa làm duyên, Ngài thuyết bổn sanh Vessantara. Rồi Ngài ngự đi khất thực.

    Trong này thứ hai, Đức Thế Tôn giúp cho phụ vương chứng quả Dự Lưu với bài kệ rằng:

    "Uttitthe nappamajjeyya – không nên dễ duôi trong việc khất thực mà hãy tự đứng thọ nhận...

    Rồi Đức Thế Tôn ngự vào hoàng cung giúp dì mẫu Mahapajipati Gotami trú trong sơ quả và phụ vương trú trong Nhất lai quả với bài kệ rằng:

    "Hãy sống theo phạm hạnh..."

    Ngày thứ ba khi nghi thức rước công chúa vào hoàng cung nhân dịp lễ đăng quang của thái tử Nanda đang diễn ra, Đức Thế Tôn ngự vào khất thực, Ngài bèn giao cái bát cho thái tử Nanda, nói lời phúc chúc xong, Ngài không nhận lại bát mà ngự về tịnh xá, thái tử Nanda phải ôm bát đi theo Đức Phật đến tịnh xá, dầu trong lòng không muốn.

    Sau khi về đến tịnh xá, Đức Thế Tôn bèn cho thái tử Nanda xuất gia, vì tôn kính Đức Phật, nên thái tử đành phải chấp thuận, nhưng Nanda không thể hoan hỷ với đời sống phạm hạnh, Đức Thế Tôn biết được tâm trạng của Nanda, nên Ngài đã dùng nhiều phương pháp giáo hóa cho đến khi tâm tư của Nanda thuần khiết và thể nhập pháp, rồi tôn giả Nanda hoan hỷ với đời sống phạm hạnh và đã tự minh nhiệt tâm tinh cần phát triển tuệ quán chứng đạt Alahán.

    Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đức Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Atthadassi
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Ngự đến sông Vinta
    Bấy giờ ta là rùa
    Sống tại sông Vinta
    Ta thấy Đức Thế Tôn
    Ngự xuống mé sông ấy
    Ta bơi dến phủ phục
    Bên chân của Thế Tôn
    Với dòng tư tưởng rằng:
    "Xin thỉnh Đại Ẩn Sĩ
    Hồng danh Atthadassi
    Hãy ngự lên lưng con
    Con đưa Ngài sang sông
    Xin Ngài hãy bi mẫn
    Tế độ con hết khổ"
    Bấy giờ Đức Thế Tôn
    Hồng danh Atthadassi
    Biết được tâm ý ta
    Ngài bèn ngự lên lưng
    Khi bàn chân của Phật
    Chạm lên lưng của ta
    Khiến ta đầy phỉ lạc
    Ta bơi như tên bắn
    Chẻ dòng nước thật nhanh
    Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
    Sau khi ngự lên bờ
    Đã phán bài kệ rằng
    Ta vượt qua dòng nước
    Chớp nhoáng như tâm đi
    Chính rùa chúa hữu phúc
    Đưa Như Lai sang sông
    Do thiện sự chở Phật
    Và sống có tâm từ
    Sẽ hưỡng lạc thiên giới
    Suốt 1.800 kiếp
    Thác sanh từ thiên giới
    Đi đến cõi nhân loại
    Được thiện căn dẫn dắt
    Ngồi tại một chỗ ngồi
    Sẽ vượt qua bộc lưu
    Hạt giống tuy chút ít
    Nhưng gieo trên ruộng tốt
    Mưa rơi xuống thích hợp
    Quả trổ sanh hoan hỉ
    Với Phật vức cũng vậy
    Khi gieo vào thích hợp
    Quả khiến ta hoan hỉ
    Ta trú với tinh cần
    An tịnh, không sanh y
    Đoạn trừ các kiết sử
    Chấm dứt các lậu hoặc
    Trong kiếp 1.800
    Ta đã tạo nghiệp nào
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Nay là kiếp cuối cùng
    Việc đưa Phật qua sông
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi chứng quả Alahan, tôn giả quán lại các kiết sử mà mình đã đoạn trừ và sự an lạc giải thoát mà mình đạt chứng được, đã thốt lên lời rằng:

    "Ôi, vi diệu thay sự thiện xảo trong phương pháp giáo hóa của Bậc Đạo Sư, Ngài đã đưa ra khỏi đầm lầy sanh tử và đứng trên bờ tịnh lạc niết bàn, hân hoan với thành quả, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

    "Ta mê việc trang sức
    Không như lý tác ý
    Tâm thô tháo dao động
    Bị tham dục não hại"
    "Ta chơn chánh thực hành
    Theo lời dạy Đức Phật
    Bậc bà con mặt trời
    Thiện xảo trong phương pháp
    Bứng tâm đắm, đang chìm
    Khỏi sanh hữu (khổ đau)".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO BHADDAJI

    Được biết trưởng lão Bhaddaji đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đức vua Panada
    Có cung điện bằng vàng
    Rộng đến nữa do tuần
    Cao 25 do tuần"
    "Với một ngàn tầng cấp
    Và một trăm nóc tròn
    Từng hàng cờ phất phới
    Đính với ngọc Mani
    Màu xanh cùng màu vàng
    Trong Đại cung điện ấy
    Sáu ngàn Gandhabba
    Được chia thành bảy đoàn
    Thay phiên nhau ca múa"

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn.

    Khi lớn lên đã thông thạo các học nghệ của Bà la môn, do căn lành trưởng dưỡng nhiều đời nhiều kiếp, nên vị Bà la môn nầy cảm thấy chán ngán mùi dục lạc, từ bỏ mọi ràng buộc nhân thế, xuất gia làm đạo sĩ và dựng lên một am thất trong rừng sâu.

    Một hôm nhìn thấy Đức Thế Tôn đang phi hành trên hư không, đạo sĩ phát khởi tịnh tín đứng chấp tay hướng về Đức Thế Tôn, biết được căn duyên của đạo sĩ, Ngài bèn ngự xuống, đạo sĩ vô cùng hoan hỉ cung thỉnh Đức Thế Tôn ngự toạ, rồi lấy mật ong, bơ, sữa, củ sen cúng dường. Đức Thế Tôn với lòng bi mẫn tiếp độ đạo sĩ, nên Ngài đã thọ nhận và nói lời phúc chúc tùy hỷ.

    Do thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên cõi trời Đâu Xuất. Suốt khoảng thời gian dài với nhiều vị Chánh Đẳng Giác ra đời, vị đạo sĩ nầy chỉ luân chuyển trong cõi Đâu Xuất.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassi, vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình trưởng giả đại phú.

    Với thiện căn trưởng dưỡng, nên sau khi lớn lên vị trưởng giả tử nầy hết lòng tịnh tín nơi tam bảo và trở thành một cận sự nam nhiệt thành phụng sự cho tam bảo.

    Một lần nọ, chàng đã cung thỉnh Đức Thế Tôn Vipassi cùng 68.000 chư tỳ khưu Tăng về nhà cúng dường trọng thể và chàng đã dâng đến Đức Phật cùng chư Tăng mỗi vị một bộ tam y.

    Sau kiếp sống ấy, với thiện nghiệp tạo trữ nhiều như thế, vị trưởng giả này được tái sanh lên thiên giới, hưởng thiên lạc thù diệu trên cõi trời cho đến khi tuổi thọ đã mãn. Chàng tái sanh xuống cõi người, trong một gia đình Bà la môn giàu có.

    Lúc bấy giờ, là ngoài thời kỳ giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác, mặc dù không được cơ hội nghe những lời pháp vi diệu từ Đức Thế Tôn để phát sanh lòng tịnh tín nhưng do căn lành đã khéo vun bồi, nên khi gặp chư Phật Độc Giác với lục căn thanh tịnh sáng chói, niềm tịnh tín kia đã trỗi dậy một cách mãnh liệt và chàng đã nhiệt thành hộ độ 500 vị Độc Giác Phật với đầy đủ bốn món vật dụng.

    Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được tái sanh làm thái tử, sau khi trưởng thành, thái tử kế nghiệp phụ vương trị vì quốc độ.

    Đức vua đã trị vì đất nước theo thiện pháp và hằng ngày đức vua hộ độ cho một vị Phật Độc Giác.

    Sau khi Đức Độc Giác Phật niết bàn, đức vua làm lễ hỏa táng kim thân Phật rất trọng thể, Ngài đã giữ lại xá lợi và xây bảo tháp tôn thờ.

    Sau khi mạng chung đức vua được sanh lên nhàn cảnh, luân chuyển sanh tử trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đức vua được tái sanh làm con trai độc nhất của trưởng giả Bhaddaji với gia sản 800 triệu, tại thành Bhaddaji và có tên là Bhaddaji.

    Bhaddaji sống trong sự giàu sang và được nuôi dưỡng thật tế nhị, chu đáo như vị bồ tát kiếp chót vậy.

    Lúc bấy giờ, Đức thế Tôn đang nhập hạ tại thành Savatthi ra hạ, Ngài cùng với đại chúng tỳ khưu ngự đến thành Bhaddaji, để tiếp độ công tử Bhaddaji. Trong thời gian chờ đợi trí tuệ của công tử Bhaddaji chín muồi, Đức Thế Tôn ngự tại rừng Jatiya.

    Một hôm, công tử Bhaddaji đang ngồi trên lầu của toà lâu đài, trong lúc đang ngắm cảnh, nhìn thấy từng đoàn ngừời kéo nhau đi về phía rừng Jatiya. Lấy làm ngạc nhiên, công tử mới hỏi những người hầu:

    "Những đoàn người ấy đi đâu vậy ?"

    Người hầu đáp rằng:

    "Thưa công tử, những người ấy đi đến rừng Jatiya để thính pháp nơi Đức Thế Tôn".

    Lúc bấy giờ, trong lòng Bhaddaji cảm thấy thôi thúc với việc nghe pháp. Thế rồi, Bhaddaji cùng đông đảo tùy tùng đi đến chỗ Đức Thế Tôn với trí tuệ chín muồi, nên vừa dứt thời pháp, công tử Bhaddaji đã chứng quả Alahán.

    Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta bước xuống ao nước
    Nơi loài voi thường uống
    Nhổ lên những củ sen
    Dùng để làm thực phẩm
    Bấy giờ Đức Thế Tôn
    Padumuttara
    Mặc y Kambala đỏ
    Ngự hành trên hư không
    Ta nghe tiếng y phất
    Bèn ngước mặt lên nhìn
    Ta thấy Bậc Đạo Sư
    Với chân đứng dưới ao
    Ta van xin Ngài rằng
    Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
    Nước mật đang chảy ra
    Từ nhụy sen thanh khiết
    Chất sữa và chất bơ
    Chảy ra từ củ sen
    Xin thỉnh bậc tuệ nhãn
    Hãy từ bi thọ nhận
    Để tiếp độ cho con
    Thế rồi, Đức Chánh Giác
    Đầy đủ lòng bi mẫn
    Ngự xuống từ hư không
    Thọ thực phẩm ta dâng
    Với mục đích tiếp độ
    Xong rồi Ngài tùy hỷ
    Phúc chúc cho ta rằng
    Hỡi nầy người đại phước
    Mong người sẽ an lạc
    Do tấm lòng trong sạch
    Cúng dường củ sen nầy
    Ngươi sẽ được hạnh phúc
    Và tràn đầy an lạc
    Rồi Đức Chánh Đẳng Giác
    Padumuttara
    Sau khi phúc chúc xong
    Ngài ngự lên hư không
    Còn ta cầm củ sen
    Trở về am thất mình
    Đặt củ sen trên cây
    Niệm tưởng đến phước thí
    Rồi một trận cuồng phong
    Thổi rung chuyển bầu trời
    Như sấm sét chấn động
    Từ đâu một vật nhọn
    Rơi xuống trúng đầu ta
    Ta mạng chung từ đấy
    Với phước lành đầy đủ
    Ta sanh cõi Đâu Xuất
    Thi thể ta bỏ lại
    Còn ta hưởng thiên lạc
    Tám bốn vạn thiên nữ
    Hầu hạ phục vụ ta
    Đây chính là kết quả
    Việc cúng dường củ sen
    Khi sanh xuống cõi người
    Ta là người an lạc
    Với tài sản sung túc
    Đây chính là kết quả
    Việc cúng dường củ sen
    Do được Phật tiếp độ
    Các lậu hoặc không còn
    Sanh hữu mới đã tận
    Trong kiếp một trăm ngàn
    Kể từ hiền kiếp nầy
    Ta cúng dường vật gì
    Do sự cúng dường đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Việc cúng dường củ sen
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    Sau khi công tử Bhaddaji chứng quả Alahán, Đức Thế Tôn cho mời trưởng giả Bhadiya đến phán rằng:

    "Nầy trưởng giả Bhadiya, con của ngươi sau khi nghe chánh pháp đã chứng đạt Alahán, vì vậy công tử cần phải được xuất gia, nếu không xuất gia sẽ phải niết bàn".

    Trưởng giả thưa rằng:

    "Kính bạch Đức Thế Tôn, Bhaddaji hãy còn trẻ, không nên niết bàn sớm xin Ngài hãy xuất gia cho".

    Đức Thế Tôn đã làm lễ xuất gia truyền cụ túc giáo giới cho công tử Bhaddaji xong, Ngài ngự tại thành Bhaddiya suốt bảy ngày rồi Ngài cùng chư Tăng ngự đến Kotigama gần bờ sông Ganga. Tại đây, dân làng đã tổ chức cúng dường trọng thể đến chư tăng có Đức Phật làm tọa chủ.

    Khi Đức Thế Tôn sắp nói lời tuỳ hỷ phúc chúc, tôn giả Bhadaji ben rời khỏi làng với ý định rằng:

    "Ta sẽ nhập thiền", rồi đi đến bờ sông Ganga, ngồi thiền tịnh.

    Một lúc sau, có các vị trưởng lão đi đến, nhưng tôn giả vẫn an nhiên thiền tịnh, khi Đức Thế Tôn ngự đến tôn giả mới xã thiền.

    Bấy giờ, các vị tỳ khưu phàm phu thấy vậy mới chỉ trích rằng:

    "Tỳ khưu Bhaddaji nầy mới vào tu, mà trở thành người kiêu mạn, khi các vị trưởng lão đi đến, không chịu xã thiền".

    Lúc ấy, dân làng Kotigama chuẩn bị nhiều chiếc tàu để đưa Đức Phật cùng chư Tăng qua sông. Đức Thế Tôn mới suy nghĩ rằng:

    "Nhân dịp nầy ta sẽ cho mọi người thấy uy lực của Bhaddaji".

    Rồi Ngài ngự đứng trên tàu, phán hỏi rằng: "Bhad-daji đâu ?".

    Tôn giả Bhaddaji đáp rằng:"Con đang ở đây-bạch Thế Tôn".

    Rồi tôn giả đi đến chỗ Đức Thế Tôn đứng chấp tay chờ đợi. Đức Thế Tôn phán rằng: "Hãy đến, nầy Bhad-daji, ngươi hãy lên cùng một chiếc tàu với Như Lai".

    Tôn giả Bhaddaji vâng lời Đức Thế Tôn bay lên đứng trên chiếc tàu Đức Thế Tôn đang ngự. Khi tàu ra giữa sông, Đức Thế Tôn phán rằng:

    "Nầy Bhaddaji, cung điện vàng mà ngươi từng ở khi sanh làm vua Mahapanada hiện ở đâu ?".

    Tôn giả Bhaddaji thưa rằng:

    "Dạ đang chìm dưới đây, bạch Đức Thế Tôn".

    Đức Thế Tôn phán rằng:

    "Nầy Bhaddaji, nếu vậy ngươi hãy phá tan mối nghi hoặc của các bạn đồng phạm hạnh đi".

    Lúc bấy giờ, tôn giả tiến đến đãnh lễ Đức Thế Tôn rồi với uy lực thần thông của mình, tôn giả đưa cả toà cung điện lên bằng ngón chân cái, rồi nâng tòa cung điện cao 25 do tuần bay lên hư không vượt khỏi mặt nước.

    Lúc ấy, các quyến thuộc trong tiền kiếp của tôn giả sanh làm cá, làm rùa, làm ếch do sự dễ duôi tham luyến đang ở trong tòa cung điện ấy bị rơi lộp độp xuống nước. Đức Thế Tôn thấy vậy bèn phán rằng: "Nầy Bhaddaji

    Các quyến thuộc của ngươi sẽ phải khổ sở".

    Tôn giả hiểu ý Đức Thế Tôn, bèn thả tòa cung điện xuống nằm yên chỗ cũ.

    Sau khi lên bờ, chư tỳ khưu mới bạch hỏi rằng:

    "Kính bạch Đức Thế Tôn, cung điện nầy tôn giả Bhaddaji đã ở khi nào?".

    Đức Thế Tôn bèn thuật lại bổn sanh Mahapanada và Ngài khiến cho hội chúng thấm nhuần với chánh pháp.

    Kế đó, sau khi trình bày về cung điện vàng mà mình đã từng trú ngự, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đức vua Panada
    Có cung điện bằng vàng
    Rộng đến nửa do tuần
    Cao hai lăm do tuần"
    "Với một ngàn tầng cấp
    Và một trăm nóc tròn
    Từng hàng cờ phất phới
    Đính với ngọc Mani
    Màu xanh cùng màu vàng
    Trong đại cung điện ấy
    Sáu ngàn Gandhabha
    Được chia thành bảy đoàn
    Thay phiên nhau ca múa".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SOBHITA

    Được biết trưởng lão Sobhita đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta có niệm có tuệ
    Và sức mạnh tinh tấn
    Trong một đêm ta nhớ
    Có đến năm trăm kiếp"
    Ta tu bốn niệm xứ
    Giác chi, tám thánh đạo
    Trong một đêm ta nhớ
    Có đến năm trăm kiếp".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão này tái sanh trong một gia đình Bà la môn tại thành Hamsavati.

    Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp, chàng thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh túc mạng thông, hoan hỉ với hình ảnh đó nên chàng Bàlamôn này tích cực làm các thiện sự và mỗi khi tạo được công đức gì chàng đã tự mình chú nguyện cho sớm đạt được thành quả đó.

    Sau khi mạng chung, chàng được tái sanh nhàn cảnh, luân chuyển trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumedha, chàng lại được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Khi trưởng thành chàng đà thành tựu các chú thuật và các học nghệ của Bàlamôn, mặc dù có sự thông minh và tài năng xuất chúng như vậy nhưng do quá khứ đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát, nên tâm tư chàng chỉ hướng đến sự xuất ly.

    Từ bỏ đời sống tại gia nhiều phiền muộn chàng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất gần một khu rừng gần núi Hy mã.

    Hằng ngày, vị đạo sĩ rời khỏi am thất đi tìm các loại trái cây rừng về làm thực phẩm.

    Một hôm trong lúc đi hái trái, đạo sĩ nghe tin Đức Phật đã ra đời. Hoan hỉ với tin ấy, vị đạo sĩ bèn rời khỏi am thất, đi thẳng đến kinh thành Bhaddavati để yết kiến Đức Phật. Rồi chỉ một đêm đàm đạo thọ giáo nơi Đức Thế Tôn, vị đạo sĩ phát khởi lòng tin mãnh liệt và đã tán thán Đức Thế Tôn với sáu bài kệ, mở đầu như vậy:

    "Tuvam Sattha Ca Ketu Ca..."
    Ngài là bậc Đạo Sư
    là chúa tể của các tinh tú...

    Và sau đó, Đức Thế Tôn cũng đã ca tụng đạo sĩ.

    Do phước báo ấy, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa hai cõi trời, người cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Savatthi và được đặt tên là Sobhita.

    Sau khi lớn lên, do thiện căn dẫn dắt, Sobhita đã đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn chàng phát khởi niềm tin xuất gia và không bao lâu cũng chứng được lục thông.

    Do sự tu tập và hạnh nguyện nên tôn giả Sobhita, trở thành người thuần thục đặc biệt trong thuần túc thông.

    Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta dựng lên am thất
    Phía nam núi Hy mã
    Trong một khu rừng già
    Với mục đích tìm cầu
    Điều lợi ích cao thượng
    Tự bằng lòng củ trái
    Không tổn hại một ai
    Ta độc cư nhàn tịnh
    Bấy giờ Đức Chánh Giác
    Hồng danh Sumedha
    Xuất hiện trên thế gian
    Ngài tiếp độ quần sanh
    Nói lên bốn sự thật
    Ta không được hay tin
    Và chẳng ai cho biết
    Khi trải qua tám năm
    Ta mới được nghe tin
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Ta đem lửa, củi đi
    Rồi quét dọn am thất
    Quảy gánh rời khỏi rừng
    Mỗi đêm ta dừng nghĩ
    Tại làng và thị trấn
    Lần hồi cũng đến thành
    Tên Candavati
    Bấy giờ Đức Thế Tôn
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Hồng danh Sumedha
    Đang tiếp độ quần sanh
    Ngài thuyết pháp bất tử
    Ta vượt qua đại chúng
    Đến lễ bậc Chiến Thắng
    Bậc Thiện Thệ cao quý
    Khoát da thú chéo vai
    Ta tán thán Ngài rằng:
    "Ngài là Bậc Đạo Sư
    Là chúa tể tinh tú
    Là ngọn cờ chiến thắng
    Là trụ cột cúng lễ
    Của tất cả quần sanh
    Ngài là chỗ duy trì
    Ngài là chỗ nương tựa
    Là hải đảo muôn loài
    Cao thượng hơn tất cả
    Ngài là bậc Thiện Xảo
    Bậc thấu đạt trong kiến
    Ngài tiếp độ đại chúng
    Cho đến bờ giải thoát
    Kính bạch bậc Ẩn Sĩ
    Không có ai trong đời
    Có thể sánh bằng Ngài
    Về việc giúp chúng sanh
    Đạt đến bờ giác ngộ
    Đại dương tuy sâu thẳm
    Cũng có thể đo lường
    Kính bạch Bậc Tòan Giác
    Còn trí tuệ của Ngài
    Không ai đo lường được
    Quả đất tuy rộng lớn
    Cũng có vật đo lường
    Kính bạch Bậc Có mắt
    Nhưng trí tuệ của Ngài
    Không gì đo lường được
    Hư không tuy bao la
    Cũng có vật đo lường
    Kính bạch Bậc Toàn Giác
    Nhưng giới đức của Ngài
    Không gì đo lường được
    Nước biển và hư không
    Cùng lãnh phận ba cõi
    Cũng có thể ước lượng
    Nhưng đối với Thế Tôn
    Không ai ước lượng được"
    Sau khi ta tán thán
    bậc Toàn Giác vô thượng
    Với sáu bài kệ ấy
    Xong ta chấp hai tay
    đứng yên tại nơi đó
    bấy giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc có đại trí tuệ
    Hồng danh Sumedha
    Ngự tọa giữa Tăng chúng
    Phán lên bài kệ rằng
    Người nào tâm tịnh tín
    Tán thán tuệ Như Lai
    Ta tuyên bố người ấy
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Người ấy sẽ hân hoan
    Trong thiên giới 77 kiếp
    Một ngàn lần được sanh
    Làm vị Chuyển luân vương
    rất nhiều lần được sanh
    Làm vua đại quốc độ
    Dù làm trời hay người
    Cũng là người hữu phúc
    Với tâm tư hiền thiện
    Có trí tuệ thông suốt
    Trong ba năm ngàn kiếp
    đến khi Đức Chánh Giác
    Hồng danh Gotama
    Xuất hiện trong thế gian
    Người ấy không vương vấn
    Từ bỏ đi xuất gia
    Và chứng quả Vô sanh
    Khi chỉ mới bảy tuổi
    Trong những kiêp luân chuyển
    Ta là người luôn được
    Đầy đủ về tài sản
    Đây chính là kết quả
    Của việc tán thán Phật
    Ta dập tắt ái dục
    Nhổ lên gốc sanh hữu
    Chấm dứt các lậu hoặc
    Không còn kiếp sống mớI
    Trong kiếp thứ ba muôn
    Ta tán thán Phật nào
    Do sự tán thán ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc tán thán Phật
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong.

    Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão dùng túc mạng thông nhớ lại tiền kiếp của mình tuần tự thấy cho đến Acittaka-Patisandhi - trong cõi vô tưởng, kế tiếp suốt năm trăm kiếp không thấy tâm diễn tiến mà chỉ thấy kiếp cuối cùng, trưởng lão mới suy xét rằng:" Vì cớ gì lại như vậy?" và trưởng lão hiểu " Vì là cõi vô tưởng".

    Như Đức thế Tôn có dạy:

    "Nầy chư tỳ khưu, chư thiên có tuổi thọ dài là chúng sanh vô tưởng , Sobhita sau khi mạng chung từ cõi vô tưởng tái sanh đến cõi này, Sobhita cũng nhớ được".

    Đức Thế Tôn thấy trưởng lão là người thiện xảo về túc mạng thông, bèn xác chứng trưởng lão là vị đệ nhất về túc mạng thông.

    Một lần nọ, khi dùng túc mạng thông quán xét lại tiền kiếp của mình và pháp hành làm duyên cho túc mạng thông ấy, khiến trưởng lão phát sanh niềm hoan hỉ, đã xướng lên hai bài kệ rằng:

    " Ta có niệm có tuệ
    Và sức mạnh tinh tấn
    Trong một đêm ta nhớ
    Có đến năm trăm kiếp"
    " Ta tu bốn niệm xứ
    Giác chi, tám thánh đạo
    Trong một đêm ta nhớ
    Có đến năm trăm kiếp"
    "Ta tu bốn niệm xứ
    Giác chi, tám thánh đạo
    Trong một đêm ta nhớ
    Có đến năm trăm kiếp".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO

    Được biết trưởng lão Kumarakassapa đã nói lên bài kệ rằng:

    "Vi diệu thay Đức Phật
    Vi diệu thay Giáo pháp
    Và thành tựu Đạo Sư
    Ở đây vị đệ tử
    Đã tác chứng pháp ấy"
    "Trãi qua vô lượng kiếp
    Do chấp thủ năm uẩn
    Đây là thân cuối cùng
    Thân nầy đến chỗ cuối
    Sanh hữu mới không còn".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bàlamôn .

    Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu thù thắng hơn chư Tăng về hạnh thuyết pháp kỳ diệu, thỏa thích với hình ảnh đó, nên chàng Bàlamôn nầy đã tích cực hành các thiện sự rồi tự mình chú nguyện.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, cháng Bàlamôn ấy cũng tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Do căn lành đã trưởng dưỡng nhiều, nên chàng được xuất gia trong giáo pháp. Xã hội bấy giờ nhiều loạn lạc, dân chúng khổ sở lầm than do thiên tai, bệnh tật và do nếp sống đạo đức suy giảm. Động tâm với những thảm cảnh, vị tỳ khưu nầy cùng với sáu người bạn đồng phạm hạnh tìm đến một ngọn núi, quyết chí hành pháp và đã mạng chung từ đấy, rồi được sanh lên thiên giới.

    Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị tỳ khưu ấy, tái sanh vào bào thai một nàng tiểu thư con của vị trưởng giả tại thành Rajagaha. Nàng tiểu thư nấy có ý muốn xuất gia từ khi còn là một thiếu nữ, nàng đã xin phép cha mẹ nhiều lần, nhưng ông Bàlamôn trưởng giả không chấp thuận.

    Sau khi gã về nhà chồng, nàng đã hầu hạ chồng một cách chu đáo, mặc dù sống trong cảnh gia đình êm ấm, nhưng nàng vẫn không quên lý tưởng xuất gia. Cho đến một hôm, người chồng thấy nàng vẫn còn nuôi dưỡng ý định đi tu, thương cảm nàng, ông đã chấp thuận.

    Không biết mình đang có mang, nàng đã từ giả chồng đi đến trú xứ của các vị tỳ khưu ni, xin xuất gia.

    Sau đó các vị tỳ khưu ni phát hiện nàng đang có mang, bèn đi đến trình với tôn giả Devadatta. Tôn giả cho rằng nàng là tỳ khưu ni bất chánh, định trục xuất nàng. Các vị tỳ khưu ni bèn dẫn nàng đến Bậc Đạo Sư, Bậc Đạo Sư giao sự việc nầy cho luật sư Upali giải quyết.

    Trưởng lão cho mời một số cư sĩ tại thành Savatthi và tín nữ Visakha đến phân xử. Trong hội đồng ấy có cả đức vua tham dự, sau khi tra xét ngày tháng, tất cả kết luận rằng vị tỳ khưu ni nầy mang thai trước khi xuất gia và phạm hạnh của nàng thanh tịnh.

    Bậc Đạo Sư ban lời tán thành rằng: "Sự việc trưởng lão Upali giải quyết quả thật hợp lý".

    Ngày tháng tròn đủ, nàng tỳ khưu ni ấy sanh ra đứa bé trai có sắc thái như vàng, đức vua Pasenadi-kosala nhận nuôi dưỡng đứa bé ấy và đặt tên là Kassapa.

    Thời gian sau đức vua cho người trang phục xinh đẹp cho đứa bé và dẫn đến chỗ Bậc Đạo Sư cho xuất gia. Do xuất gia trong lúc còn nhỏ, nên đôi khi Đức Thế Tôn phán với các vị tỳ khưu rằng:

    "Các ngươi hãy gọi Kassapa đến cho trái cây nầy hoặc hãy cho thức ăn nầy đến Kassapa".

    Các vị tỳ khưu bạch hỏi rằng:

    "Bạch Thế Tôn, Kassapa nào?"

    Ngài mới phán rằng: "Kumarakassapa" (Kassapa nhỏ).

    Từ đó mới có tên là Kumarakassapa cho dù sau nầy tuổi đã tăng lên.

    Sau khi xuất gia, tôn giả Kumarakassapa tu tập thiền quán và học những Phật ngôn. Lúc bấy giờ, có một vị đại Phạm thiên, trước kia trong thời kỳ Đức Phật, Kassapa là một trong bảy vị tỳ khưu thực hành sa môn pháp trên đỉnh núi, vị nầy đã chứng quả Bất Lai và được sanh lên cõi Tịnh Cư Thiên, còn tiền thân tôn giả Kumarakassapa không chứng được gì và được sanh lên thiên giới do phạm hạnh trong sạch; vị đại phạm thiên suy nghĩa rằng:

    "Ta sẽ giúp cho Kumarakassapa phương pháp chứng đắc đạo quả".

    Rồi vị đại phạm thiên sáng tác 15 câu hỏi về đề tài thiền quán và ngự đến rừng Andha, nói với tôn giả Kumarakassapa rằng:

    "Nầy hiền giả Kumarakassapa, hiền giả hãy đem các câu hỏi nầy đến hỏi Bậc Đạo Sư".

    Tôn giả bèn đem các câu hỏi ấy đến hỏi Đức Thế Tôn, Thế Tôn đã giải đáp cho tôn giả.

    Tôn giả học thuộc các câu ấy và dựa trên nền tảng đó, tôn giả đã phát triển thiền quán chứng đạt Alahán.

    Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Trong kiếp thứ một muôn
    Kể từ hiền kiếp nầy
    Đức Thế Tôn hồng danh
    Padumuttara
    Bậc cứu giúp cho đời
    Ngự sanh trong thế gian
    Bấy giờ, ta tái sanh
    Làm vị Bàlamôn
    Giàu có và danh tiếng
    Một hôm, ta nhìn thấy
    Thế Tôn đang tán thán
    Một vị Thánh đệ tử
    Đệ nhất hạnh thuyết pháp
    Kỳ diệu đến hội chúng
    Thỏa thích hình ảnh đó
    Ta trang hoàng đại sảnh
    Rực rỡ với báu vật
    Trải loại vãi tốt đẹp
    Rồi cung thỉnh Thế Tôn
    Cùng với đại chúng Tăng
    Thọ thực tại đại sảnh
    Ta tự tay phục vụ
    Thế Tôn cùng chư Tăng
    Các món ăn thượng vị
    Trãi suốt đến bảy ngày
    Cùng nhiều hoa tươi đẹp
    Sau khi cúng dường xong
    Quỳ dưới chân Thế Tôn
    Thành tâm ta chú nguyện
    Do phước báu thanh cao
    Con trong sạch cúng dường
    Thực phẩm cùng hoa đẹp
    Đến Thế Tôn, chư Tăng
    Xin cho con thành tựu
    Đệ nhất hạnh thuyết pháp
    Kỳ diệu trong giáo pháp
    Của Đức Phật vi lai
    Bấy giờ Bậc Ẩn Sĩ
    Với bi mẫn phán rằng:
    "Hãy nhìn Bàlamôn
    Có miệng như hoa sen
    Thân tâm đầy phỉ lạc
    Mắt to đầy ngưởng mộ
    Trong giáo pháp của ta
    Người ước nguyện đệ nhất
    Hạnh thuyết pháp kỳ diệu
    Trong kiếp thứ một muôn
    Kể từ hiền kiếp nầy
    Thế Tôn Gotama
    Sanh lên trong thế gian
    Người nầy sẽ thừa tự
    Giáo pháp của Thế Tôn
    Được gọi với tên là
    Kumarakassapa
    Do mãnh lực hoa đẹp
    Vải đặc biệt, báu vật
    Nên người được thành tựu
    Đệ nhất trong chư Tăng
    Hạnh thuyết pháp kỳ diệu
    Do thiện sự khéo làm
    Sau khi ta mạng chung
    Được sanh cõi Đạo LợI
    Như vở kịch xoay vần
    Diễn ra trên sân khấu
    Ta sanh làm con trai
    Của nai tên Sakha
    Lúc ta trong bụng mẹ
    Mẹ của ta đã bị
    Nai Sakha ruồng bỏ
    Mẹ ta phải nương tựa
    Nai chú Nirodha
    Nhờ vậy được thoát chết
    Từ bỏ nai Sakha
    Mẹ giáo huấn ta rằng
    Con chỉ nên thân cận
    Nai chúa nirodha
    Dù cho con có chết
    Chỗ nai Nirodha
    Như vậy còn quý hơn
    Sống với nai Sakha
    Sẽ được lợi ích gì?
    Ta và mẹ của ta
    Cùng nhiều con nai khác
    Nương vào lời giáo huấn
    Nai chúa Nirodha
    Đã từ bỏ thân thú
    Sanh lên cõi Đâu Xuất
    Khi thời kỳ giáo pháp
    Thế Tôn Kassapa
    Đang đi dến hoại diệt
    Ta cùng sáu vị nữa
    Tìm đến một ngọn núi
    Ta tinh tấn thực hành
    Theo lời dạy Đạo sư
    Cho đến khi mạng chung
    Được sanh lên thiên giới
    Nay ta được tái sanh
    Trong gia đình trưởng giả
    Tại Rajagaha
    Mẹ ta đã có mang
    Trước khi đi xuất gia
    Biết mẹ ta có thai
    Chư ni ấy dẫn mẹ
    Đến Devadatta
    Devadatta tuyên bố
    Các người hãy trục xuất
    Kẻ đê tiện này ngay
    Sau đó Đức Thế Tôn
    Đã tiếp độ mẹ ta
    Mẹ ta được an lạc
    Trong chỗ tỳ khưu ni
    Đức vua Kosala
    Biết được sự việc ấy
    Bèn nhận nuôi dưỡng ta
    Do tu lúc còn nhỏ
    Và tên Kassapa
    Cũng do nương trưởng lão
    Mahakassapa
    Nên ta được danh xưng
    Kumarakassapa
    Rồi khi nghe pháp thoại
    Do Thế Tôn thuyết giảng
    Đề cập ý nghĩa rằng
    Thân này như tổ mối
    Tâm của ta thoát khỏi
    Các lậu hoăc phiền não
    Đạt vô thủ niết bàn
    Do duyên cảm hoá được
    Đức vua Payasi
    Thế Tôn xác chứng ta
    Đệ nhất hạnh thuyết pháp
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong

    Sau khi chứng quả Alahán, một lần nọ với sự thuyết giáo của mình tôn giả Kumarakassapa đã cảm hóa được đức vua Payasi, nhân dịp này Đức Thế Tôn bèn xác chứng tôn giả đệ nhất về hạnh thuyết pháp kỳ diệu.

    Một hôm, khi quán xét lại quá trình tu chứng của mình và dưới hình thức tán thán ân đức tam bảo, tôn giả đã nói lên hai bài kệ rằng:

    " Vi diệu thay đức Phật
    Vi diệu thay giáo pháp
    Và thành tựu Đạo Sư
    Ở đây vị đệ tử
    Đã tác chứng pháp ấy"
    "Trải qua vô lượng kiếp
    Do chấp thủ năm uẩn
    Đây là thân cuối cùng
    Thân này đến chỗ cuối
    Sanh hữu mới không còn"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MOGHARAJA

    Được biết một lần nọ, nhân dịp trưởng lão đến yết kiến bậc Đạo Sư đã hỏi trưởng lão với bài kệ như sau:

    "Này Mogharaja
    Màu da người tái nhợt
    Nhưng tâm ngươi trong sáng
    Luôn an trú thiền định
    Ngươi sẽ phải làm sao
    Trong những đêm lạnh giá"

    Trưởng lão Mogharaja đã trả lời bậc Đạo Sư với bài kệ rằng:

    "Con được nghe nói rằng
    Ở xứ Magadha
    Thịnh vượng đầy lúa gạo
    Những cư dân tại đấy
    Có cuộc sống an lạc
    Với thân phủ kín rơm"

    Trong thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Padu-mattara, vị trưởng lão này tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Một hôm lúc đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy đức Thế Tôn dương một vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tăng về hạnh mặc y thô xấu, thoả thích với đặc hạnh ấy, nên chàng Bàlamôn đã tích cực làm các công đức, rồi tự chú nguyện cho mình.

    Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Atthadassi, chàng Bàlamôn ấy lại được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Khi lớn lên, chàng đã thành tựu các chú thuật và các học nghề của Bàlamôn, rồi chàng đã truyền dạy các kiến thức ấy cho các thanh niên Bàlamôn.

    Một hôm, chàng nhìn thấy đức Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu đang ngự đi trên đường, chàng khởi tâm tịnh tín, quỳ xuống đãnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi chấp hai tay trên đầu, tán thán bậc Đạo Sư với sáu bài kệ, mở đầu là: "Yavata rupino satta".

    Sau đó, chàng lấy mật ong cúng dường Ngài, đức Thế Tôn thọ nhận mật ong ấy, rồi Ngài đã nói lên lời tuỳ hỷ chúc phúc.

    Do nghiệp lành ấy, sau khi mạng chung chàng được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi người và cõi trời một thời gian dài, cho đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, chàng được tái sanh làm quan đại thần của đức vua Katthavahana.

    Một hôm, đức vua truyền lịnh cho ông đi cung thỉnh đức Thế Tôn, vị quan đại thần cùng với 1.000 tuỳ tùng đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi được nghe pháp nơi Thế Tôn, ông đã khởi niềm tin và xin xuất gia. Xuất gia xong ông đã nhiệt tâm thực hành sa môn pháp suốt 20.000 năm.

    Mạng chung từ kiếp ấy ông được sanh lên thiên giới, luân chuyển trong nhàn cảnh cho đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn chúng ta, ông được tái sanh trong một gia đình Bàlamôn và tên là Mogharaja.

    Khi lớn lên Mogharaja được cha mẹ gửi đi học nơi Bàlamôn Bavari, kính cảm với đời sống thế tục, Mogha-raja xuất gia làm đạo sĩ và được 1000 đạo sĩ tùy tùng.

    Lúc bấy giờ, những tiếng đồn tốt đẹp về đức Thế Tôn được truyền đi khắp nơi, để xác minh về những tiếng đồn ấy, Bàlamôn Bavara đã gửi những học trò xuất sắc của mình đến chỗ đức Thế Tôn để biết sự thật.

    Đạo sĩ Mogharaja là một trong số học trò được Bàlamôn Bavari gửi đi. Sau khi đến chỗ Thế Tôn các vị học trò ấy tìm hiểu về đại nhân tướng nơi Thế Tôn và khi được thấy đầy đủ rồi, các vị ấy bèn đặt lên những câu hỏi, đức Thế Tôn vừa trả lời dứt các câu hỏi ấy, thì đạo sĩ Mogharajacũng chứng đạt Alahán.

    Như trong Apadana, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Đức Thế Tôn hồng danh
    Atthadassi
    Bậc chiến thắng tất cả
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Đang ngự đi trên đường
    Rồi ta rời khỏi nhà
    Cùng với các học trò
    Trên đường đi ta gặp
    Thế Tôn Atthadassi
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Ta chấp tay trên đầu
    Đảnh lễ đức Chánh Giác
    Với lòng đầy tịnh tín
    Ta tán thán Ngài rằng
    Các chúng sanh hữu sắc
    Hữu tưởng hay vô tưởng
    Các loài hữu tình ấy
    Đều nằm trong trí Ngài
    Ví như loài thuỷ tộc
    Các loài ấy đều dính
    Trong lưới có mắt nhỏ
    Được chài ném trong nước
    Lại nữa, chúng sanh nào
    Hữu sắc hay vô sắc
    Các loài chúng sanh ấy
    Đều nằm trong trí Ngài
    Ngài bứng lên thế gian
    Hổn độn và đen tối
    những ai nghe pháp Ngài
    Nghi hoặc được vượt qua
    Thế gian bị bao phủ
    Bởi màn đêm vô minh
    Rồi Ngài đã xua tan
    Màn đêm vô minh ấy
    chiếu ánh sáng rực rỡ
    Với trí tuệ của Ngài
    Ngài là bậc có mắt
    Đã xua tan bóng tối
    Nhiều người nghe pháp Ngài
    Được tịch tịnh niết bàn
    Rồi ta lấy mật ong
    Đổ đầy một bát nhỏ
    Mang đến với hai tay
    Cúng dường đức Thế Tôn
    Bậc Đại hùng thọ nhận
    Với cánh tay mỹ miều
    Sau khi dùng mật ong
    Ngài bay lên hư không
    Khiến tâm ta thỏa thích
    Rồi ngự giữa hư không
    Ngài phán bài kệ rằng
    Người nào tán thán trí
    Và tán thán Thế Tôn
    Bằng tấm lòng tịnh tín
    Người ấy sẽ an lạc
    Trong hai cõi nhân thiên
    46 lần được làm
    Vị Thiên vương Đế Thích
    500 lần được sanh
    Làm vị Chuyển Luân Vương
    Rất nhiều lần được làm
    Vua của đại quốc độ
    Khi đến kiếp cuối cùng
    Thông phệ đà chú thuật
    Rồi tu trong giáo pháp
    Thế Tôn Gotama
    Sẽ suy xét nghĩa lý
    Thâm sâu và tinh tế
    Bằng trí tuệ của mình
    Sẽ là đại Thinh văn
    Tên Mogharaja
    Sẽ chứng đạt tam minh
    Việc cần làm, làm xong
    Các lậu hoặc không còn
    Ta từ bỏ phiền não
    Chặt đứt mọi ái hữu
    Lời Phật dạy làm xong

    Trưởng lão sống với hạnh mặc y phấn tảo, y phấn tảo của trưởng lão có đủ 3 chi thô xấu, là vải thô xấu, chỉ thô xấu và nước nhuộm thô xấu. Do nhân đó, đức Thế Tôn mới biểu dương trưởng lão là vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh mặc y thô xấu.

    Một thời gian sau, do nghiệp cũ làm duyên và do thiếu săn sóc thân thể, các mụn ghẻ nổi lên và bể ra và chảy nước vàng, rồi lan ra trên thân thể của trưởng lão, trưởng lão nghĩ rằng trú xứ của mỉnh bị ô nhiễm, bèn lấy rơm trãi lót trên một cánh đồng của dân Magadha, dầu lúc bấy giờ là mùa lạnh.

    Một ngày nọ trưởng lão đến yết kiến đãnh lễ bậc Đạo Sư, Ngài đã hỏi trưởng lão với bài kệ rằng:

    "Này Mogharaja
    Màu da ngươi tái nhợt
    Nhưng tâm ngươi trong sáng
    Luôn an trú thiền định
    Ngươi sẽ phải làm sao
    Trong những đêm giá lạnh"

    Khi được hỏi như thế, trưởng lão đã trả lời bậc Đạo Sư với bài kệ rằng:

    "Con được nghe nói rằng
    Ở xứ Magadha
    Thịnh vượng đầy lúa gạo
    Những cư dân tại đấy
    Có cuộc sống an lạc
    Con cũng được an lạc
    Với thân phủ kín rơm".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO PACCAYA

    Đực biết trưởng lão Paccaya đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta xuất gia năm ngày
    Trở thành bậc hữu học
    Nhưng ta chưa chúng đạt
    Quả vị Alahán
    Ta đi vào tịnh xá
    Tâm phát nguyện như sau"
    "Khi nào chưa nhổ lên
    Mũi tên của tham ái
    Ta sẽ không ăn uống
    Không rời khỏi tịnh xá
    Không ngã lưng nằm xuống
    Không tựa một bên hông"
    "Khi ta sống như vậy
    Sẽ thấy sự tinh cần
    Sự nổ lực tiến tới
    Ba minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassi, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bàlamôn giàu có.

    Một hôm, lúc Đức Thế Tôn ngự đến bờ sông Vinta, nhìn thấy Ngài, chàng phát tâm trong sạch, chọn những trái sung lớn, thơm ngon, dâng đến Thế Tôn.

    Do thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung, chàng được tái sanh lên thiên giới và chỉ luân chuyển trong nhàn cảnh, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, chàng được tái sanh trong một gia đình phú hộ.

    Sau khi Đức Thế Tôn Kassapa, chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài vận chuyển bánh xe chánh pháp đi tiếp độ chúng sanh, chàng được nghe pháp nơi Thế Tôn, khởi niềm tin và xin xuất gia.

    Sau khi xuất gia, vị tỳ khưu nầy đã nhiệt tâm thực hành sa môn pháp. Một hôm, trong lúc ngồi suy quán nhìn thấy những nổi thống khổ của vòng sanh tử, khiến cho bị động tâm mạnh, vị nầy đi vào tịnh xá phát nguyện rằng:

    "Cho đến khi nào chưa chứng đạt Alahán, ta sẽ không rời khỏi nơi đây".

    Rồi nổ lực tinh tấn hành pháp, nhưng không đủ mạnh làm cho các tuệ cao phát sanh, vì trí tuệ chưa đủ mạnh. Sau khi mạng chung, vị tỳ khưu nầy được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi trời và cõi người, cho đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị tỳ khưu ấy được tái sanh trong hoàng tộc, tại thành Rohini, có tên là Paccaya.

    Sau khi phụ vương băng hà, hoàng tử Paccaya đã lên kế vị ngai vàng, trị vì vương quốc.

    Một hôm, đức vua Paccaya tổ chức một đại tế đàn dân chúng tụ hội tại nơi ấy rất đông.

    Để phát sanh lòng tịnh tín đến quần chúng tham dự buổi lễ, bậc Đạo Sư ngự tọa trên bảo tọa sư tử,trong một đại điện trang hoàng nhiều châu báo do đức Thiên Vương Vessavanna hóa hiện cúng dường ,Ngài thuyết pháp đến đại chúng, trong khi mọi người chiêm ngưỡng Ngài. Sau thời pháp, đại đa số thính chúng thể nhập được lời Phật dạy.

    Còn đức vua Paccaya, sau khi nghe thời pháp, do thiện duyên giải thoát chín muồi, Ngài từ bỏ ngai vàng và xin đức Phật xuất gia như trước kia Ngài đã phát nguyện dưới thời đức Phật Kassapa nay cũng được tái lập. Sau khi xuất gia tôn giả Paccaya nhiệt tâm tinh cần tu tập nhưng vẫn không chứng đạt mục đích cứu cánh, tôn giả bèn đi vào tịnh xá phát nguyện, do quyết tâm cùng với trí tuệ thuần thục nên tôn giả đã thành tựu quả vị Alahán ngay sau đó.

    Như trong Apadana trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Ta thấy đức Thế Tôn
    Hồng danh Vipassi
    Bậc thượng nhân thế gian
    Tâm tư khéo định tĩnh
    Đã đoạn trừ ái dục
    Ta tịnh tín nơi Ngài
    Bậc gột sạch phiền não
    Bấy giờ ta trong sạch
    Chọn lấy những quả sung
    To ngon nhiều hương vị
    Dâng đến bậc Chánh Gíac
    Trong kiếp chín mươi mốt
    Kể từ hiền kiếp này
    Ta cúng dường quả nào
    Do việc cúng dường ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Cũng trong hiền kiếp này
    Do bị động tâm mạnh
    Nên ta đã xuất gia
    Trong giáo pháp của Phật
    Hồng danh Kassapa
    Rồi sau khi xuất gia
    Tự ta phát nguyện rằng
    Sẽ không rời tịnh xá
    Khi chưa chúng đạt pháp
    Tuy thời ấy không chứng
    Nhưng giớ các phiền não
    Đã được ta dập tắt
    Thể nhập lộ bất tử
    Thấu đạt pháp an tịnh
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong"

    Sau khi chứng quả Alahán và để xác chứng quả vị Alahánvà thuật lại quá trình tu tập của mình, trưởng lão đã nói lên 3 bài kệ rằng:

    "Ta xuất gia năm ngày
    Trở thành bậc Hữu học
    Nhưng ta chưa chứng đạt
    Quả vị Alahán
    Ta đi vào tịnh xá
    Tâm phát nguyện như sau"

    "Khi nào chưa nhổ lên
    Mũi tên của tham ái
    Ta sẽ không ăn uống
    Không rời khỏi tịnh xá
    Không ngã lưng nằm xuống
    Không tựa một bên hông"

    "Khi ta sống như vậy
    Sẽ thấy sự tinh cần
    Sự nỗ lực tiến tới
    Ba minh ta chứng đạt
    Lời Phật dạy làm xong"

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO BAKULA

    Được biết trưởng lão Bakula đã nói lên bài kệ rằng:

    "Người nào không chịu làm
    Công việc cần làm trước
    Tính để sau mới làm
    Người ấy sẽ lệch ra
    Cội nguồn của an lạc
    Và về sau sẽ chịu
    Khổ đau trong hối tiếc"
    Ta nói việc đáng làm
    Không nói việc không đáng
    Với những ai nói việc
    Không phải mình đang làm
    Bậc trí cũng nhận biết"
    "Niết bàn bậc Chánh Giác
    Đã khéo thuyết giảng rồi
    Là pháp không có sầu
    Là cứ địa hạnh phúc
    Là nơi dập tắt khổ
    Và tuyệt đối an lạc"

    Trong thời quá khứ cách nay khoảng một A-tăng-kỳ một trăm ngàn kiếp trước khi đức Thế Tôn Anoma-dassi ra đời, trưởng lão Bakula này sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Lớn lên, học xong ba tập phệ đà, nhưng chàng không thấy được sự vi diệu trong ba tập phệ đà ấy, chàng mới xuất gia làm đạo sĩ với suy nghĩa rằng: "Ta sẽ tìm cầu lợi ích cho vị lai".

    Vị đạo sĩ sống tại một triền núi chứng được bát thiền ngũ thông. Một hôm, biết được đức Phật đã ra đời, đạo sĩ đi đến chỗ đức Phật. Sau khi nghe pháp nơi Ngài, đã khởi niềm tin và xin quy y tam bảo.

    Lần nọ, khi đức Thế Tôn bị đau bụng, đạo sĩ từ rừng mang thuốc đến cúng dường, đức Thế Tôn dùng thuốc của đạo sĩ và đã hết bệnh, với phước báo cúng dường thuốc đến bậc Đạo Sư, đạo sĩ đã chú nguyện cho mình trong vòng luân hồi sanh tử, sẽ là người vô bệnh.

    Sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên cõi Phạm thiên, luân chuyển hai cõi nhân thiên hết một A-tăng-kỳ kiếp. Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Padumuttara vị đạo sĩ tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Hamsavati.

    Một hôm, lúc đến tịnh xá nghe pháp chàng nhìn thấy Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu thù tháng hơn chư Tăng về sự thiểu bệnh, do có nhân duyên quá khứ nên chàng cảm thấy thỏa thích với vị trí ấy, rồi đã cung thỉnh đức Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu về nhà cúng dường đại thí. Sau khi cúng dường xong, chàng đã phủ phục dưới chân Thế Tôn chú nguyện cho mình trở thành đệ nhất Thinh văn thiểu bệnh trong giáo pháp của đức Phật vị lai.

    Mạng chung từ kiếp ấy, chàng được sanh lên thiên giới luân chuyển trong nhàn cảnh một thời gian dài trước khi đức Thế Tôn Vipassi ra đời, chàng tái sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Bandhumati.

    Sau khi lớn lên, chán ngán đời sống thế tục, chàng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất tại chân núi.

    Tu tập thiền tịnh không bao lâu, đạo sĩ chứng được bát thiền và ngũ thông.

    Sau khi hay tin đức Phật đã ra đời đạo sĩ rời chỗ ở của mình, đi đến yết kiến Thế Tôn, được nghe pháp nơi Ngài, đạo sĩ khởi tịnh tín và xin trọn đời quy ngưỡng.

    Lúc bấy giờ, có một vị tỳ khưu sống trong rừng do không hợp phong thổ rừng núi nên đã mắc bệnh, vị đạo sĩ đã làm thuốc dâng cho các vị tỳ khưu ấy. sau khi dùng thuốc của đạo sĩ, các vị ấy được khỏi bệnh.

    Vị đạo sĩ sống tại dấy cho đến khi mạng chung, được sanh lên thiên giới.

    Đến thời kỳ giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, vị đạo sĩ sanh trong một gia đình Bàlamôn tại thành Baranasi.

    Do là người đã tích trữ nhiều duyên lành với tam bảo, nên sau khi được nghe pháp nơi Thế Tôn, chàng khởi tâm tín thành xin quy ngưỡng và trở thành một cận sự nam hộ độ nhiệt tình cho tam bảo.

    Một lần nọ, chàng nhìn thấy trú xứ của chư Tăng bị hư hỏng nhiều, chàng đứng ra xây dựng lại mới cho chư Tăng và khi chư Tăng có bệnh chàng đã làm thuốc cúng dường.

    Chàng đã hộ độ và phục vụ tam bảo cho đến khi mạng chung, được sanh lên thiên giới, luân chuyển giữa cõi trời, người suốt một kiếp Phật.

    Trước khi đức Thế Tôn của chúng ta ra đời, chàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả, tại thành Kosambi.

    Một hôm, cậu bé trưởng giả tử này được người vú nuôi bế đến dòng sông Mahayamunà để tắm (theo quan niệm của Bàlamôn, tắm như vậy sẽ được vô bệnh), nhưng thình kình cậu bé đã bị một con kình ngư nuốt từ tay của người vú nuôi. Sau đó con cá ấy đã rơi vào tay của người thợ câu.

    Lúc bấy giờ, tại thành Baranasi có một gia đình trưởng giả, thường ngày công việc đi chợ mua thức ăn thì có nhà bếp làm. Hôm ấy, tự nhiên trong lòng bà trưởng giả nôn nóng muốn tự mình đi chợ, sau khi đi sớm đến chợ nhìn thấy con cá to, bà lại muốn mua. Mua xong đem về nhà mổ bụng cá ra thì thấy đứa bé trong bụng cá còn sống, do phước duyên kiếp chót của vị Alahán, bà trưởng giả thấy đứa bé trong lòng bà đã dâng lên một tình cảm thiên liêng của tình mẫu tử và bà đã nhận đứa bé làm con.

    Sau khi mất dứa con trai yêu quý, ông bà trưởng giả lomsaba rất đau khổ, nhưng họ luôn có một lòng tin rằng con mình vẫn chưa chết, và cho người đi tìm tung tích của đứa bé.

    Một thời gian sau, ông bà trưởng giả Kosambi biết được con mình vẫn còn sống, hiện đang làm con của một gia đình trưởng giả tại thành Baranasi.

    Ông bà trưởng giả Kosambi bèn đi đến baranasi đòi lại đứa con, ông bà trưởng giả Baranasikhông chịu giao đứa bé, thế là sự việc được đem đến đức vua phân xử, đức vua phán rằng:

    "Cả hai gia đình đều có công ơn rất lớn đối với đứa bé và rất thương yêu nó, vậy nó sẽ là con của hai gia đình và sẽ là người thừa tự của hai gia đình". Do nhân đó, đứa bé mới có tên là Bakula (người của hai gia đình).

    Bakula lớn lên được thừa hưởng gia sản 800 triệu, rồi một hôm, được nghe pháp nơi đức Thế Tôn, Bakula đã khởi niềm tin, xin xuất gia.

    Sau khi xuất gia , sống với phàm phu tánh chỉ có bảy ngày, rạng ngày thứ tám Bakula chứng quả Alahán với tuệ phân tích.

    Như trong Apadana, trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Không xa rừng Hy mã
    Có núi Sobhita
    Ta cùng các học trò
    Xây dựng các am thất
    Và các ngôi nhà rộng
    Tại trên ngọn núi ấy
    Có nhiều cây ăn trái
    Nhiều loại cây cho hoa
    Và nhiều cây làm cảnh
    Trú xứ ta như vậy
    Ta cùng các học trò
    Cư ngụ tại nơi ấy
    Một hôm, đức Thế Tôn
    Anomadassi
    Bậc dẫn dắt thế gian
    Với mục đích viễn ly
    Ngự đến am thất ta
    Bổng nhiên Ngài phát bịnh
    Do gió độc xâm nhập
    Bấy giờ ta nhìn thấy
    Sự biến chuyển nơi Ngài
    Biết chắc Ngài lâm bịnh
    Ta vội vào am thất
    Với ý định làm thuốc
    Ta bèn gọi học trò
    Lên núi hái dược thảo
    Sau khi chúng mang về
    Ta hòa thuốc với nước
    Dâng đến Đức Thế Tôn
    Bậc tối thượng muôn loài
    Sau khi bậc Đại Hùng
    Dùng dược phẩm ta chế
    Bệnh của Ngài tịnh chỉ
    Kế đó, Đức Chánh Giác
    Anomadassi
    Ngự toạ trên chỗ ngồi
    Phán lên bài kệ rằng
    Người nào cúng dường thuốc
    Khiến Như Lai hết bệnh
    Ta tuyên bố người ấy
    Các ngươi hãy lắng nghe
    Người ấy sẽ hân hoan
    Trong tầng trời dục giới
    Suốt một trăm ngàn kiếp
    Được thọ hưởng dầy đủ
    Những thiên lạc thù diệu
    Trong các tầng trời ấy
    Khi sanh xuống cõi người
    Do phước báu làm duyên
    Một ngàn kiếp được sanh
    Làm vị chuyển luân vương
    Trong kiếp thứ năm lăm
    Được sanh làm hoàng đế
    Danh xưng Anoma
    Là vị chuyển luân vương
    Có uy lực to lớn
    Đầy đủ với bảy báu
    Có quân đội hùng mạnh
    Chinh phục cả Diêm phù
    Dù chư thiên Đạo Lợi
    Cũng có sự nể trọng
    Trong những kiếp tái sanh
    Sẽ là người thiểu bệnh
    Rồi sau đại kiếp ấy
    Sẽ trở thành thái tử
    Do chánh pháp hóa sanh
    Sẽ thừa tự giáo pháp
    Của Đức Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Gotama
    Sẽ dập tắt phiền não
    Chấm dứt các lậu hoặc
    Vượt qua khỏi ái bộc
    Là vị đại Thinh văn
    Danh xưng Bakula
    Khi biết rõ duyên hạnh
    Thế Tôn Gotama
    Thượng nhân dòng Thích Ca
    Ngự tọa giữa Tăng chúng
    Tán thán đức hạnh ta
    Thiện sự nào ta làm
    Nơi bậc Chánh Đẳng Giác
    Chính do thịên sự ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    Một hôm trong buổi họp chư Tăng, Đức Thế Tôn ngồi giữa Tăng chúng, đã tán thán trưởn glão Bakula đệ nhất về thiểu bệnh.

    Trước khi niết bàn, để xác chứng quả Alahán và ban lời giáo giới đến chư tỳ khưu, trưởng lão đã nói lên ba bài kệ rằng:

    "Người nào không chịu làm
    Công việc cần làm trước
    Tính để sau mới làm
    Người ấy sẽ lệch ra
    Cội nguồn của an lạc
    Và về sau sẽ chịu
    Khổ đau trong hối tiếc"
    "Ta nói việc nên làm
    Không nói việc không đáng
    Với những ai nói việc
    Không phải mình đang làm
    Bậc trí cũng nhận biết"
    "Niết bàn bậc Chánh Giác
    Đã khéo thuyết giảng rồi
    Là pháp không có sầu
    Là cứ địa hạnh phúc
    Là nơi dập tắt khổ
    Và tuyệt đối an lạc".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VARANA

    Được biết trưởng lão Varana đã nói lên bài kệ rằng:

    "Những ai sống trong đời
    Gây tổn hại người khác
    Người ấy tự phá hoại
    Lợi lạc cả hai đời
    Đời này và đời sau"
    "Ai với tâm từ bi
    Thương tưởng mọi hữu tình
    Người sống hạnh như thế
    Sẽ hưởng được an lạc"
    "Hãy học tập giáo pháp
    Thế Tôn khéo thuyết giảng
    Hãy thân cận sa môn
    Hãy độc cư viễn ly
    Và khiến tâm an tịnh".

    Ngược dòng thời gian, cách nay khoảng 92 kiếp, trước khi Đức Thế Tôn Tissa ra đời, trưởn glão Varana tái sanh trong một gia đình Bàlamôn.

    Sau khi lớn lên vị Bàlamôn nầy thành tựu các chú thuật và học nghệ của Bàlamôn, khước từ mọi hấp dẫn của thế tục, chàng xuất gia làm đạo sĩ và dạy chú thuật cho 54 ngàn học trò.

    Lúc bấy giờ quả địa cầu chấn động rung chuyển do Bồ Tát Tissa từ cung trời Đâu Xuất giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong kiếp cuối. Thấy sự kiện dị thường như thế, đại chúng lo sợ hoảng hốt, cùng nhau đi đến đạo sĩ để tìm hiểu cớ sự.

    Là người thông hiểu về tướng số, đạo sĩ biết được đây là dấu hiệu ban đầu cho biết sự ra đời của đức Chánh Đẳng Giác, đạo sĩ nói với đại chúng rằng: "Sự chấn động của địa cầu nầy là một điềm lành lớn lao cho thế gian, vì hôm nay đức đại Bồ Tát từ cung trời giáng sanh vào mẫu thai. Vì vậy các ngươi chớ có lo sợ, hãy vui mừng chờ ngày Đức Phật ra đời".

    Rồi với kiến thức hiểu biết hình ảnh Đức Phật xuyên qua giáo điển Bàlamôn, vị đạo sĩ lấy hình ảnh đó làm đề mục suy niệm.

    Với công đức đó, sau khi mạng chung, vị đạo sĩ được sanh lên thiên giới, luân chuyển sanh tử giữa hai cõi trời và người đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, vị đạo sĩ được sanh trong một gia đình Bàlamôn tại xứ Kosola, cha mẹ đặt tên là Varana.

    Một hôm, Varana gặp vị trưởng lão sống hạnh độc cư trong rừng, chàng đi đến và được nghe pháp nơi trưởng lão, sau khi nghe xong thời pháp, chàng phát khởi niềm tin mãnh liệt, xin xuất gia tu tập theo sự hướng dẫn của vị trưởng lão ấy.

    Ngày nọ, tôn giả Varana xin phép trưởng lão để đi yết kiến bậc Đạo Sư, tôn giả nhìn thấy con rắn hổ mang và con chồn cắn lộn nhau nằm chết giữa đường, bị động tâm với thảm cảnh ấy, tôn giả nghĩ "Hai con vật này vì sân hận nhau mà phải bỏ mạng".

    Rồi sau khi đến chỗ Đức Thế Tôn, đãnh lễ vấn an Ngài xong, tôn già Varana đã thuật lại sự kiện mình thấy trên đường cho Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thấy được sự tiến bộ trong tâm tư của tôn giả, và nhân cơ hội ấy, Ngài đã ban lời giáo giới đến tôn giả với ba bài kệ như vầy:

    "Những ai sống trong đời
    Gây tổn hại kẻ khác
    Người ấy tự phá hoại
    Lợi lạc cả hai đời
    Đời này và đời sau"
    "Ai với tâm từ bi
    Thương tưởng mọi hữu tình
    Người sống hạnh như thế
    Sẽ hưởng được an lạc"
    "Hãy học tập giáo pháp
    Thế Tôn khéo thuyết giảng
    Hãy thân cận sa môn
    Hãy độc cư viễn ly
    Và khiến tâm an tịnh".

    Sau đó, tôn giả Varana đã lấy những bài kệ nầy làm những bài học tâm đắc cho mình.

    Như trong Apadana tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

    "Lúc bấy giờ ta sống
    Tại khu rừng Hy mã
    Dạy chú thuật đến cả
    Năm bốn ngàn học trò
    Các học trò của ta
    Thành tựu tam phệ đà
    Và chúng cùng nhau sống
    Tại khu rừng Hy mã
    Rồi một vị thiên tử
    Thác từ cõi Đâu Xuất
    Với chánh niệm tỉnh giác
    Giáng sanh vào lòng mẹ
    Khiến mười ngàn thế giới
    Chấn động và rung chuyển
    Đại chúng nghe chấn động
    Họ kinh hoàng lo sợ
    Đi đến chỗ của ta
    Giọng run rẩy hỏi rằng
    Quả đất nầy rung chuyển
    Là bởi nhân cớ gì ?
    Con xin hỏi đạo trưởng
    Xin tiếp độ chúng con
    Ta nói với chúng rằng
    Các ngươi chớ hoảng hốt
    Các ngươi chớ sợ hãi
    Đây là một điềm lành
    Báo hiệu Đức Bồ Tát
    Giáng sanh vào mẫu thai
    Ngài sẽ đem an lạc
    Ban phát đến muôn loài
    Trong kiếp thứ chín hai
    Kể từ hiền kiếp nầy
    Ta suy niệm Phật nào
    Chính do thiện sự đó
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Của việc suy niệm Phật
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO HERANNAKANI

    Được biết trưởng lão Herannakani đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Đêm ngày lặng trôi qua
    Mạng sống bị tổn giảm
    Tuổi thọ của chúng sanh
    Dần đi đến chấm dứt
    Như nước trong con lạch"
    "Kẻ ngu tạo ác nghiệp
    Không biết việc mình làm
    Về sau bị đau khổ
    Bởi quả ác nghiệp ấy".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padu-muttara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình nghèo.

    Khi lớn lên phải đi làm thuê để sinh sống qua ngày.

    Một hôm chàng dứt bỏ nửa mảnh vải dâng đến một vị trưởng lão tên là Sujata, vì biết trưởng lão đang cần dùng vải Pamsukula (phấn tảo).

    Do phước nghiệp ấy, sau khi mạng chung, chàng được sanh lên cõi trời Đạo Lợi, luân chuyển trong hai cõi nhân thiên, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, chàng tái sanh làm con trai của một sai nha dưới triều đưa vua Kosala và cũng là một tên tướng cướp, được đặt tên là Herannakani.

    Sau khi phụ thân qua đời, chàng đảm nhận chức vị của cha. Được cảm hóa bởi uy đức của Đức Thế Tôn, lúc Ngài nhận Jetavana vihara – Kỳ Viên tịnh xá, Heranna-kani bèn giao chức vị ấy lại cho em trai của mình và đến xin phép đức vua để xuất gia.

    Do duyên lành giải thoát chín muồi và do sự nhiệt tâm tinh cần tu tiến thiền quán, không bao lâu tôn giả Herannakani cũng được chứng quả Alahán.

    Như trong Apadana, tôn giả đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Lúc ấy vị trưởng lão
    Tên là Sujata
    Đệ tử của Thế Tôn
    Padumuttara
    Đang tìm vải phấn tảo
    Chỗ đống rác vệ đường
    Bấy giờ, ta làm thuê
    Tại Hamsavati
    Nhìn thấy vị trưởng lão
    Đang tìm kiếm vải bỏ
    Ta phát tâm trong sạch
    Cúng dường nửa mảnh vải
    Và cúi đầu đãnh lễ
    Tôn kính vị trưởng lão
    Chính do thiện nghiệp ấy
    Sau khi ta mạng chung
    Được sanh cõi Đạo Lợi
    Ba mươi một lần làm
    Vị Thiên vương Đế Thích
    Bảy mươi bảy lần sanh
    Làm vị chuyển luân vương
    Và nhiều lần được sanh
    Làm vua đại quốc độ
    Do dâng nửa mảnh vải
    Ta thành người vô úy
    Trong kiếp thứ 100.000
    Lui từ hiền kiếp nầy
    Ta đã dâng cúng ấy
    Ta không biết khổ cảnh
    Đây chính là kết quả
    Việc dâng nửa mảnh vải
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    Một hôm. Do nhìn thấy em của mình thích thú trong những việc xấu, rồi với mục đích khuyên nhủ em trai từ bỏ ái hạnh, trưởng lão đã nói lên hai bài kệ rằng:

    "Đêm ngày lặng trôi qua
    Mạng sống bị tổn giảm
    Tuổi thọ của chúng sanh
    Dần đi đến chấm dứt
    Như nước trong con lạch"
    "Kẻ ngu tạo ác nghiệp
    Không biết việc mình làm
    Về sau bị đau khổ
    Bởi quả ác nghiệp ấy".

    *

    KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO URUVELAKASSAPA

    Được biết trưởng lão Uruvelakassapa đã nói lên bài kệ như vầy:

    "Thấy được các thần thông
    Gotama danh tiếng
    Bị ganh, mạn lừa dối
    Nên ta chưa thần phục"
    "Bậc Điều ngự loài người
    Biết được tâm tư ta
    Cảnh tỉnh, ta kinh cảm
    Kỳ diệu lông dựng ngược"
    "Xưa ta thuộc bện tóc
    Sự thành tựu bé nhỏ
    Từ bỏ lối tu ấy
    Ta xuất gia đầu Phật"
    "Xưa hoan hỉ tế tự
    Vây quanh với cảnh dục
    Sau ta bứng tận gốc
    Cả tham sân và si"
    "Ta biết các đời trước
    Thiên nhãn ta thanh tịnh
    Thần thông, biết tâm người
    Và chứng đạt thiên nhỉ"
    "Do đích gì xuất gia
    Bỏ nhà, sống không nhà
    Ta đạt được đích ấy
    Mọi kiết sử đoạn tận".

    Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, vị trưởng lão nầy tái sanh trong một gia đình Bà la môn.

    Một hôm, trong lúc nghe pháp, vị Bà la môn nầy thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị tỳ khưu đệ nhất về đồ chúng, tự mình cảm thấy thỏa thích với thành tựu ấy, nên Bàlamôn nầy đến cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng tỳ khưu về nhà cúng dường đại thí. Sau khi cúng dường xong, ông đãnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và phát nguyện rằng:

    "Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường trai phạn, cầu mong trong thời vị lai con được thành tựu như vị tôn giả kia vậy".

    Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán chiếu thấy nguyện vọng của vị Bàlamôn nầy sẽ được thành tựu, nên Ngài tiên đoán rằng: "Trong vị lai vào thời giáo pháp Đức Thế Tôn Gotama, vị Bàlamôn nầy sẽ là đại Thinh văn của Đức Thế Tôn và sẽ là vị tỳ khưu đệ nhất về đồ chúng".

    Sau khi mạng chung, vị Bàlamôn nầy được tái sanh nhàn cảnh, luân chuyển giữa hai cõi trời và người một thời gian dài, đến cuối kiếp 92 từ hiền kiếp nầy, vị Bàlamôn ấy tái sanh làm em trai khác mẹ với Đức Thế Tôn Phussa. (Theo tục lệ chư Phật, sau khi sanh Bồ Tát bảy ngày, mẹ Bồ Tát tức hoàng hậu của vua Seyyasana mạng chung sanh lên cõi Đâu Xuất. Đức vua chọn một thứ phi chăm sóc cho Bồ tát, bà thứ phi nầy sanh được ba người con trai. Vị Bàlamôn tiền thân của trưởng lão là hoàng huynh.

    Sau khi Bồ Tát Phussa từ bỏ hoàng cung xuất gia chứng đạt vô thượng Chánh Đẳng Giác, ba vị thái tử nầy vẫn sống đời cư sĩ, chăm lo công việc triều chính với phụ vương và trở thành ba người cận sự nam nhiệt thành và sùng kính tam bảo, luôn hộ độ cúng dường và phụng sự cho tam bảo.

    Một lần nọ, cả ba vị thái tử sau khi bình định biên cương, được phụ vương ban cho đặc ân, ba vị thái tử nầy đã tận dụng đặc ân đó tổ chức cúng dường trọng thể đến Đức Phật và đại chúng tỳ khưu.

    Khi thọ mạng đã mãn, cả ba vị thái tử được tái sanh lên thiên giới, sau khi luân chuyển hưởng phước trong cõi trời và cõi người, đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, ba vị thái tử nầy cũng được tái sanh làm anh em trong một gia đình Bàlamôn, tại thành Savatthi cả ba đều có tên là Kassapa vì lấy theo giòng họ.

    Sau khi trưởng thành, cả ba anh em học xong tam phệ đà, người anh cả có 500 thanh niên tùy tùng, người anh giữa có 300, người em út có 200 thanh niên tùy tùng. Dù đã thông đạt ba tập phệ đà nhưng ba nah em không thấy được sự huyền diệu từ nơi kinh điển ấy, nên cả ba quyết định xuất gia làm đạo sĩ.

    Người anh cả dẫn 500 tùy tùng của mình đi đến Uruvela mới có tên là Uruvelakassapa.

    Người anh giữa dẫn 300 tùy tùng của mình đi đến bờ sông Hằng mới có tên là Nadikassapa.

    Người em út dẫn 200 tùy tùng của mình đi đến xứ Gayasisa, mới có tên là Gayakassapa.

    Sau khi ba anh em xuất gia làm đạo sĩ, trong thời gian nầy xảy ra một số sự kiện là Bồ Tát từ bỏ hoàng cung xuất gia chứng vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài chuyển pháp luân tế độ năm anh em Kiều trần Như chứng quà Alahán, kế đến Ngài tiếp độ 55 người bạn, cầm đầu là công tử Yasa. Rồi Ngài kêu gọi 60 vị sứ giả Alahán nầy đi khắp nơi tuyên thuyết chánh pháp để tiếp độ quần sanh.

    Sau khi tiếp độ nhóm Bhaddavaggiyakumara xong Đức Thế Tôn đi đến Uruvela và an ngự tại nhà thờ lửa của đạo sĩ Uruvelakassapa. Trong đêm đó Đức Thế Tôn đã sử dụng rất nhiều loại thần thông cuối cùng Ngài đã chế phục được Long Vương. Chứng kiến thần thông lực của Thế Tôn, trong lòng đã có sự khiếp sợ nhưng do tánh ngã mạn nghĩ rằng mình cao thượng hơn, nên đạo sĩ vẫn chưa thần phục. Rồi với uy nghi và đức hạnh của bậc Chánh Đẳng Giác dần dần đã thuần hóa tâm của đạo sĩ, đạo sĩ khởi lòng tin nơi Ngài và xin xuất gia cùng với các đồ chúng.

    Hay tin sư huynh đã xuất gia trong giáo pháp Phật Đà, hai sư đệ bèn quăng bỏ những dụng cụ thờ lửa và đi đến chỗ Đức Thế Tôn xin xuất gia.

    Cả ba sư huynh đệ cùng các đồ chúng đều được xuất gia bằng cách Ehibhikkhu.

    Đức Thế Tôn dẫn 1.000 vị sa môn đi đến xứ Gaya-sisa, tại nơi ấy Đức Thế Tôn đã thuyết bài kinh Aditta-pariyaya, dứt thời pháp thoại, ba vị trưởng lão Kassapa cùng với các tùy tùng đều được chứng quả Alahán.

    Như trong Apadana trưởng lão đã nói lên bài kệ rằng:

    "Trong một trăm ngàn kiếp
    Kể từ hiền kiếp nầy
    Đức Thế Tôn hồng danh
    Pa-du-mut-ta-ra
    Bậc thông suốt tam giới
    Sanh lên trong thế gian
    Ngài là Bậc Đạo Sư
    Dẫn dắt loài hữu tình
    Vượt qua bể luân hồi
    Ngài là đấng Đại bi
    Đầy đủ lòng bi mẫn
    Tìm lợi ích cho đời
    Ngài tiếp độ ngoại đạo
    Quay về với chánh pháp
    An trú trong phạm hạnh
    Vi Đại Ẩn Sĩ ấy
    Màu da như vàng ròng
    Đầy đủ các tướng tốt
    Bấy giờ các chúng sanh
    Thọ một trăm ngàn năm
    Với tuổi thọ như thế
    Thế Tôn đã tiếp độ
    Cho vô số chúng sanh
    Vượt khỏi vòng luân hồi
    Vào lúc ấy ta sanh
    Làm vị Bàlamôn
    Tại Ham-sa-va-ti
    Ta đến yết kiến Phật
    Nghe Ngài giảng chánh pháp
    Một hôm ta nhìn thấy
    Đức Thế Tôn biểu dương
    Một vị đại đệ tử
    Đệ nhất về đồ chúng
    Thỏa thích vị trí ấy
    Ta đã cung thỉnh Ngài
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    Về cúng dường trai phạn
    Sau khi cúng dường xong
    Ta tiến đến đãnh lễ
    Dưới chân Đức Thế Tôn
    Rồi phát nguyện như vầy
    Kính bạch bậc Đại Hùng
    Do niềm tin trong sạch
    Và phước báu cúng dường
    Xin cho con trở thành
    Đệ nhất về đồ chúng
    Trong các kiếp tái sanh
    Xin cho con có được
    Nhiều đồ chúng tùy tùng
    Bấy giờ Đức Thế Tôn
    Với âm giọng tuyệt diệu
    Phán giữa hội chúng rằng
    Hãy nhìn Bàlamôn
    Màu da như vàng ròng
    Mắt miệng như đóa sen
    Thân tâm đầy phỉ lạc
    Tịnh tín nơi tam bảo
    Phát nguyện dưới chân ta
    Được đệ nhất đồ chúng
    Kể từ nay cho đến
    Một trăm ngàn kiếp nửa
    Có vị Chánh Đẳng Giác
    Hồng danh Phussa
    Bậc Đạo Sư tối thượng
    Không có ai sánh bằng
    Sanh lên trong thế gian
    Ngài xua tan bóng tối
    Khiến mưa pháp bất tử
    Rơi xuống khắp thế gian
    Cho trời người no lòng
    Bấy giờ anh em ta
    Là thái tử của vua
    Tại Baranasi
    Cũng là những dũng tướng
    Đầy đủ với sức mạnh
    Không hề bị chiến bại
    Lúc ấy nơi biên địa
    Có phiến loạn nổi lên
    Phụ vương bảo ta rằng
    Các con hãy đem quân
    Ra tận vùng biên ải
    Với sức mạnh của mình
    Giữ an bình bờ cõi
    Ta quỳ tâu vua rằng
    Thưa phụ vương của con
    Nếu Ngài ban Đức Phật
    Cho chúng con hộ độ
    Lễ bái và cúng dường
    Chúng con sẽ xã thân
    Giữ an lành bờ cõi
    Đức vua nghe tâu qua
    Ngoài hoan hỉ chấp nhận
    Ban cho đặc ân ấy
    Rồi ba vị thái tử
    Cùng với các tướng sĩ
    Bình định phiến loạn xong
    Khải hoàn ca trở về
    Nhận đặc ân từ vua
    Hộ độ cúng dường Phật
    Cùng đại chúng tỳ khưu
    An trú trong giới hạnh
    Sống câu hữu với bi
    Hộ độ tứ vật dụng
    Với y phục đặc biệt
    Với thực phẩm thượng vị
    Trú xứ thật khả ý
    Và dược phẩm thích hợp
    Phát sanh thuận theo pháp
    Đến Phật cùng Tăng chúng
    Sau khi ta mạng chung
    Sanh lên cõi Đạo Lợi
    Hưởng thiên lạc cõi ấy
    Đây chính là kết quả
    Của việc cúng dường Phật
    Có một kiếp ta sanh
    Làm vua Vi-de-ha
    Vì tin theo lời nói
    Của ngoại đạo lỏa thể
    Ta rơi vào tà kiến
    Không ủng hộ quan điểm
    Của công chúa Ru-ca
    Khi được lời giáo huấn
    Phạm thiên Na-ra-da
    Ta từ bỏ tà kiến
    Thực hành thập thiện nghiệp
    Đầy đủ và đặc biệt
    Sau khi ta mạng chung
    Được tái sanh nhàn cảnh
    Đến kiếp cuối cùng nầy
    Ta sanh trong gia đình
    Bà la môn giàu có
    Tại Ba-ra-na-si
    Ta sợ hãi sự già
    Sự bện và sự chết
    Ta đi vào rừng sâu
    Tìm đạo lộ bất tử
    Xuất gia làm đạo sĩ
    Bấy giờ, hai em ta
    Cùng hoan hỉ tu theo
    Ta dựng lên am thất
    Tại Uru-ve-la
    Ta lấy tên theo họ
    Danh xưng Kas-sa-pa
    Ta có năm trăm trò
    Em giữa có ba trăm
    Em út có hai trăm
    Các học trò của ta
    Tôn kính vâng lời ta
    Bấy giờ, Đức Thế Tôn
    Bậc cao quý tam giới
    Bậc Đánh xe Điều Ngự
    Ngài đi đến chỗ ta
    Dùng thần thông cảm hóa
    Tiếp độ anh em ta
    Thành E-hi-bhik-khu
    Chứng đạt quả vô sanh
    Cùng với các tùy tùng
    Các vị tỳ khưu ấy
    Tôn kính nghe giáo giới
    Đoanh vây thành đồ chúng
    Do vậy Đức Thế Tôn
    Giữa Tăng biểu dương ta
    Đệ nhất về đồ chúng
    Nay là kiếp cuối cùng
    Ta thiêu đốt phiền não
    Lời Phật dạy làm xong".

    *

    Sau khi chứng đạt Alahán, trưởng lão Uruvela-kassapa ôn lại thành quả của mình, nói lên chánh trí với sáu bài kệ rằng:

    "Thấy được các thần thông
    Gotama danh tiếng
    Bị ganh mạn lừa dối
    Nên ta chưa thần phục"
    "Bậc điều ngự loài người
    Biết được tâm tư ta
    Cảnh tỉnh, ta kinh cảm
    Kỳ diệu lông dựng ngược"
    "Xưa ta thuộc bện tóc
    Sự thành tựu bé nhỏ
    Từ bỏ lối tu ấy
    Ta xuất gia đầu Phật"
    "Xưa hoan hỉ tế tự
    Vây quanh với cảnh dục
    Sau ta bứng tận gốc
    Cả tham, sân và si"
    "Ta biết các đời trước
    Thiên nhãn ta thanh tịnh
    Thần thông biết tâm người
    Và chứng đạt thiên nhỉ"
    "Do đích gì xuất gia
    Bỏ nhà sống không nhà
    Ta đạt được đích ấy
    Mọi kiết sử đoạn tận".

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.