Sự lợi ích niệm ân Đức Tam bảo

Sự lợi ích niệm ân Đức Tam bảo

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN II

    QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)

    Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)

     

    SỰ LỢI ÍCH NIỆM ÂN-ĐỨC TAM-BẢO

    Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp- hành thiền-tuệ, sống một mình trong khu rừng sâu, hoặc dưới cội cây hoặc nơi thanh vắng, nếu khi nào tâm kinh sợ, run sợ, sởn tóc gáy phát sinh, khi ấy, hành-giả nên niệm 9 Ân-đức Phật-bảo, hoặc niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, hoặc niệm 9 ân-đức Tăng-bảo thì sự kinh sợ, sự run sợ, sự rùng mình sởn tóc gáy sẽ bị diệt mất.

    Tâm của hành-giả trở lại ổn định bình thường, hành- giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp- hành thiền-tuệ được tiến triển tốt.

    Như Đức-Phật dạy câu kệ tóm tắt trong bài kinh Dhaggasutta rằng:

    “Araññe rukkhamūle vā, suññagāre va bhikkhavo.
    Anussaretha Sambuddhaṃ, bhayaṃ tumhaka no siyā.
    No ce Buddhaṃ sareyyātha, lokaseṭṭhaṃ narāsabhaṃ.
    Atha dhammaṃ sareyyātha, niyyānikaṃ sudesitaṃ.
    No ce dhammaṃ sareyyātha, niyyānikaṃ sudesitaṃ.
    Atha saṃghaṃ sareyyātha, puññakkhettaṃ anuttaraṃ.
    Evaṃ Buddhaṃ sarantānaṃ, dhammaṃ saṃghañca bhikkhavo.
    Bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā, lomahaṃso na hessati.”(1)

    Ý nghĩa:

    - Này chư tỳ-khưu!
    Trong khu rừng sâu,
    Hoặc dưới cội cây, trong nhà trống vắng,
    Các con nên niệm ân-đức Phật-bảo,
    Những điều kinh sợ ấy không phát sinh,
    Đối với các con niệm ân-đức-Phật.
    Nếu các con không niệm ân-đức-Phật,
    Bậc cao thượng nhất trong toàn tam-giới,
    Không một ai sánh với Đức-Phật được,
    Thì các con niệm ân-đức Pháp-bảo,
    Mà Như-lai đã thuyết giảng hoàn hảo,
    Dẫn dắt giải thoát khổ khỏi tam-giới.
    Nếu các con không niệm ân-đức-Pháp,
    Mà Như-lai đã thuyết giảng hoàn hảo,
    Dẫn dắt giải thoát khổ khỏi tam-giới,
    Thì các con niệm ân-đức Tăng-bảo,
    Là phước điền cao thượng của chúng-sinh.

    - Này chư tỳ-khưu! Như-lai dạy rằng,
    Các con thường niệm ân-đức Phật-bảo,
    Ân-đức Pháp-bảo, ân-đức Tăng-bảo,
    Sự kinh hồn, run sợ, sởn tóc gáy,
    Không phát sinh đến với các con vậy.

    Hành-giả sống trong rừng sâu, dưới cội cây, nơi thanh vắng, nếu sự kinh hồn, run sợ, rùng mình, sởn tóc gáy phát sinh thì Đức-Phật dạy hành-giả nên thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, hoặc niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, hoặc niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, để phát sinh đức-tin trong sạch nơi ân-đức Tam-bảo: ân-đức Phật-bảo, ân-đức Pháp-bảo, ân-đức Tăng-bảo, nên sự kinh hồn, run sợ, sởn tóc gáy sẽ bị diệt mất.

    Hành-giả trở lại trạng-thái bình thường thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ phát triển tốt.

    Cho nên ân-đức Tam-bảo là pháp dễ làm phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, làm nền tảng, dẫn đầu mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam- giới thiện-pháp.

    ĐỀ-MỤC NIỆM-NIỆM ÂN-ĐỨC TAM-BẢO

    Đề-mục niệm-niệm ân-đức Tam-bảo có 3 đề-mục thiền-định: đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, đề- mục niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.

    Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, mỗi đề-mục chỉ có khả năng dẫn đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, 3 đề-mục thiền-định này không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

    Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo dễ làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, mà đức-tin dẫn đầu trong mọi thiện-pháp, từ dục-giới thiện-pháp, sắc- giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu- tam-giới thiện-pháp.

    Cho nên, sau khi hành-giả đã thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 6 ân- đức Pháp-bảo hoặc đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo đạt đến cận-định (upacārasamādhi), hành-giả có thể sử dụng tâm cận-định ấy làm nền tảng, làm đối-tượng- thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    OAI-LỰC NIỆM ÂN-ĐỨC TAM-BẢO

    Tích Ngài Trưởng-lão Mahākappina (1) được tóm lược như sau:

    Khi Ngài Trưởng-lão Mahākappina còn là Đức-vua Mahākappina ngự tại kinh-thành Kukkutavatī.

    Một hôm, Đức-vua Mahākappina cưỡi ngựa ngự đi du lãm ngoại thành cùng với 1.000 vị quan cận thần, gặp nhóm người lái buôn từ kinh-thành Sāvatthī đi vào kinh- thành Kukkutavatī, Đức-vua bèn truyền hỏi rằng:

    - Này các ngươi! Trong kinh-thành Sāvatthī có tin lành gì hay không?

    Nhóm người lái buôn tâu với đức-vua rằng:

    - Tâu Đức-vua, Buddho deva uppanno! Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian!

    Đức-vua Mahākappina vừa nghe đến danh hiệu “Buddho” thì liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có. Đức- vua hỏi lại đến lần thứ ba, những người lái buôn đều tâu như lần trước, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Đức-vua truyền hỏi tiếp rằng:

    - Còn tin lành nào khác nữa không?

    - Tâu Đức-vua, Dhammo uppanno! Đức-Pháp đã xuất hiện trên thế gian!

    Đức-vua Mahākappina vừa nghe đến danh hiệu “Dhammo”, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần thứ ba, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Đức-vua truyền hỏi tiếp rằng:

    - Còn tin lành nào khác nữa không ?

    - Tâu Đức-vua, Saṃgho uppanno! Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian!

    Đức-vua Mahākappina vừa nghe đến danh hiệu “Saṃgho”, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần thứ ba, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy.

    Đức-vua Mahākappina liền lấy tấm biển vàng ghi 300 ngàn Kahāpaṇa tiền vàng làm tiền thưởng, rồi trao cho nhóm người lái buôn, truyền lệnh rằng:

    - Này các ngươi! Các ngươi hãy đem tấm biển vàng này đến trình lên Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā để lãnh thưởng. Còn Trẫm sẽ ngự đi đến hầu Đức-Phật cùng với các quan, sẽ xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật, ngay bây giờ.

    Trong biển vàng, Đức-vua Mahākappina ghi rõ, xin trao ngai vàng lại cho Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā lên ngôi trị vì đất nước.

    * Từ đó, Đức-vua Mahākappina ngự đến hầu Đức- Phật cùng với 1.000 vị quan cận thần.

    Trên đường đi, gặp con sông Aparacchā sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, với tâm mong muốn sớm hầu Đức-Phật, nên Đức-vua Mahākappina niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo rằng: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.” (1)

    Do oai lực niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng qua sông ấy một cách dễ dàng.

    * Tiếp đến gặp con sông Nīlavāhinī, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, như lần trước, Đức-vua Mahākappina niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo rằng: “Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

    Do oai lực niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng ngang qua sông ấy một cách dễ dàng như lần trước.

    * Tiếp đến lại gặp con sông Candabhāgā, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, như hai lần trước, Đức- vua Mahākappina niệm-niệm 9 Ân-đức Tăng-bảo rằng:

    “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato Sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattārī purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā,

    esa Bhagavato sāvakasaṃgho Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” (1)

    Do oai lực niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng ngang con sông ấy dễ dàng, như hai lần trước.

    Biết Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan sắp đến, Đức-Thế-Tôn phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu cho Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan biết.

    Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Phật thuyết pháp tế độ Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan.

    Sau khi nghe pháp xong, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi đảnh lễ Đức-Phật, kính xin xuất gia trở thành tỳ-khưu.

    Đức-Phật quán xét thấy rõ tất cả đều có phước duyên trở thành tỳ-khưu theo cách “Ehi bhikkhu”, 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh do năng lực quả của phước- thiện trong tiền-kiếp ví như thần-thông, cho nên, Đức- Phật đưa bàn tay phải chỉ bằng ngón trỏ mà truyền dạy rằng:

    - Etha bhikkhavo! Caratha brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.

    - Các con hãy đến với Như-Lai! Các con trở thành tỳ- khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Các con hãy nên cố gắng tinh-tấn thực-hành phạm-hạnh cao thượng, để chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân-hồi.”

    Khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, được thành tựu do năng lực quả của phước-thiện trong tiền- kiếp ví như thần-thông.

    Chư tỳ-khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh-tịnh, như vị tỳ-khưu 60 hạ.

    * Về phần những người lái buôn, khi họ nhận được biển vàng do Đức-vua Mahākappina ban thưởng, đi thẳng vào cung điện xin yết kiến Chánh-cung Hoàng- hậu Anojā, kính trình biển vàng để xin lãnh thưởng 300 ngàn Kahāpaṇa tiền vàng.

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā thấy vậy bèn truyền hỏi rằng:

    - Này các ngươi! Các ngươi đã làm việc gì mà Đức- vua ban thưởng cho các ngươi số tiền lớn như vậy?

    Nhóm người lái buôn tâu với Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā rằng:

    - Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, chúng tiện dân không làm công việc gì, chỉ có báo tin lành mà thôi.

    - Này các ngươi! Các ngươi có thể nói cho ta nghe tin lành ấy được hay không?

    - Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, có thể được, xin tâu rằng: Buddho uppanno! Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian!

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā vừa nghe đến danh hiệu “Buddho” thì liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, Bà hỏi lại đến lần thứ ba, các người lái buôn tâu lại như lần trước, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc. Bà truyền hỏi rằng:

    - Còn tin lành nào khác nữa hay không ?

    - Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Dhammo uppanno! Đức-Pháp đã xuất hiện trên thế gian!

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā vừa nghe đến danh hiệu “Dhammo” liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Bà truyền tiếp:

    - Còn tin lành nào khác nữa hay không ?

    - Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Saṃgho uppanno! Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian!

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā vừa nghe đến danh hiệu “Saṃgho” liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā truyền bảo rằng:

    - Ba tin lành lớn lao vĩ đại đến dường ấy mà Đức-vua chỉ ban thưởng cho các người có 300 ngàn Kahāpaṇa tiền vàng. Còn ta, mỗi tin lành, ta ban thưởng cho các ngươi 300 ngàn Kahāpaṇa tiền vàng.

    Vậy, các ngươi được lãnh thưởng 900 ngàn Kahāpaṇa tiền vàng của ta nữa.

    Như vậy, các người lái buôn chỉ báo tin lành Đức- Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian, mà được lãnh thưởng 1 triệu 200 ngàn kahāpaṇa tiền vàng. Chánh-cung Hoàng-hậu truyền hỏi tiếp rằng:

    - Đức-vua cùng với 1.000 vị quan cận thần đi đâu?

    Các người lái buôn tâu:

    - Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, Đức-vua cùng với 1.000 quan cận thần ngự đi đến hầu Đức-Phật và sẽ xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

    Nghe tâu như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā truyền gọi phu nhân của 1.000 vị quan đến báo tin rằng:

    - Này các phu nhân! Hoàng-thượng của chúng ta cùng với 1.000 vị quan cận thần hay tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian.

    Hoàng-thượng đã từ bỏ ngai vàng để lại cho ta, như nhổ bỏ bãi nước miếng, rồi Hoàng-thượng cùng với 1.000 vị quan cận thần ngự đến hầu Đức-Phật, sẽ xuất gia, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    Chẳng lẽ ta không có khổ hay sao! Đức-vua Mahākappina từ bỏ ngai vàng như nhổ bỏ bãi nước miếng (chaḍḍitakheḷapiṇḍaṃ), chẳng lẽ ta lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy hay sao! (jāṇukehi patiṭṭhahitvā mukhena gaṇhissati). Ta không cần ngai vàng, ta cũng sẽ đi đến hầu Đức-Phật, sẽ xuất gia, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    Còn các ngươi nghĩ thế nào?

    Nhóm 1.000 vị phu nhân đồng tâm nhất trí xin đi theo Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā đến hầu Đức-Phật.

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā truyền sửa soạn ngựa quý, cùng 1.000 vị phu nhân mỗi người một ngựa theo sau đến hầu Đức-Phật, đi theo con đường mà Đức-vua Mahākappina đã ngự cùng với 1.000 vị quan cận thần.

    * Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân, trên đường đi, đến con sông Aparacchā, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo rằng: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammā- sambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.”

    Do oai lực niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, Chánh- cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân cưỡi ngựa băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.

    * Tiếp đến gặp con sông Nīlavāhinī, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, như lần trước, Chánh- cung Hoàng-hậu Anojā niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo rằng: “Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

    Do oai lực niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, Chánh- cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân cưỡi ngựa băng ngang qua sông ấy một cách dễ dàng như lần trước.

    * Tiếp đến lại gặp con sông Candabhāgā, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, như hai lần trước, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā niệm-niệm 9 Ân-đức Tăng-bảo rằng:

    “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato Sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattārī purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā,

    esa Bhagavato sāvakasaṃgho Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” (1)

    Do oai lực niệm niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân cưỡi ngựa băng ngang con sông ấy dễ dàng, như hai lần trước.

    Biết Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân sắp đến, Đức-Thế-Tôn phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu cho Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân biết.

    Như vậy, Hoàng-hậu Anojā cũng ngự đến hầu Đức- Phật cùng với 1.000 vị phu nhân. Tất cả đều đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan có đến đây không? Bạch Ngài.

    Đức-Phật hóa phép thần-thông che khuất không để Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân nhìn thấy tỳ-khưu Mahākappina cùng với 1.000 vị tỳ-khưu khác. Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

    - Này các con! Các con hãy ngồi nghe Như-Lai thuyết 

    pháp, rồi tại nơi đây các con sẽ nhìn thấy Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan.

    Nghe Đức-Phật dạy như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân an tâm ngồi nghe Đức-Phật thuyết pháp.

    Sau khi nghe pháp xong, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân đều chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    Đồng thời ngay khi ấy, tỳ-khưu Mahākappina cùng với 1.000 vị tỳ-khưu khác đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích, lục-thông.

    Khi ấy, Đức-Phật thâu phép thần thông, Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân nhìn thấy Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 vị quan trong tướng mạo một tỳ-khưu trang nghiêm, như Ngài Trưởng- lão có 60 tuổi hạ.

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân phát sinh đức-tin trong sạch, kính xin Đức-Thế- Tôn xuất gia trở thành tỳ-khưu ni.

    Đức-Thế-Tôn chỉ dạy Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân đến tìm gặp Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā chỉ dẫn cách xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật.

    Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā cùng với 1.000 vị phu nhân sau khi trở thành tỳ-khưu-ni trong thời gian không 

    lâu, tất cả đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết- bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    Oai lực niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức- Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo thật là phi thường!

    * Kinh Selasutta (1) được tóm lược như sau:

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn du hành cùng với đoàn 1.250 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến một tỉnh lỵ Aṅguttarāpa, ngự tại vùng āpaṇa của dân chúng Aṅguttarāpa. Vị đạo-sĩ tên Keṇiya (2) nghe tin rằng:

    “Ngài Sa-môn Gotama thuộc dòng dõi Sakya du hành cùng với đoàn 1.250 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tỉnh lỵ Aṅguttarāpa, mà ân-đức của Đức-Phật vang dậy khắp mọi nơi rằng:

    “ Đức-Thế-Tôn là

    - Đức A-ra-hán có thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh- tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư- thiên và nhân-loại.

    - Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

    - Đức Minh-Hạnh-Túc có đầy đủ tam-minh, bát- minh và 15 đức-hạnh cao thượng.

    - Đức Thiện-Ngôn thuyết-pháp chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.

    - Đức Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp là tổng các loài chúng-sinh (sattaloka), tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka), tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka).

    - Đức Vô-Thượng giáo-hoá chúng-sinh cải tà quy chánh, bỏ ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân trở thành bậc Thánh-nhân.

    - Đức Thiên-Nhân-Sư là Thầy của nhân-loại và chư- thiên, phạm-thiên.

    - Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, rồi Đức- Phật thuyết-pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

    - Đức-Thế-Tôn có 6 đức-hạnh đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.

    Đức-Phật thuyết-pháp hay ở đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, thuyết giảng pháp-hành phạm-hạnh cao thượng với văn chương trong sáng thanh-tịnh.”

    Chúng-sinh nào có duyên lành đến hầu Đức-Thế-Tôn, đó là điều hạnh phúc cao thượng.

    Khi ấy, đạo-sĩ Keṇiya đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, vấn an Ngài, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức-Thế-Tôn thuyết pháp chỉ dạy đạo-sĩ Keṇiya làm cho đạo-sĩ vô 

    cùng hoan hỷ, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế- Tôn, nên kính bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, con xin kính thỉnh Ngài cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ nhận vật thực tại tu viện của con vào ngày mai. Bạch Ngài.

    Khi nghe đạo-sĩ Keṇiya thỉnh mời như vậy, Đức-Thế- Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Keṇiya! Chư tỳ-khưu-Tăng đông gồm có 1.250 vị, còn con là người có đức-tin hộ độ các Bà-la-môn.

    Lần thứ nhì, đạo-sĩ Keṇiya kính bạch với Đức-Thế- Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, sự thật con có đức-tin hộ độ các Bà-la-môn, mặc dù vậy, con vẫn xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng gồm có 1.250 vị thọ nhận vật thực tại tu viện của con vào ngày mai. Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy như lần trước như vậy.

    Cho đến lần thứ ba, đạo-sĩ Keṇiya kính bạch với Đức- Thế-Tôn như 2 lần trước như vậy. Đức-Thế-Tôn chấp thuận bằng cách làm thinh.

    Khi ấy, đạo-sĩ Keṇiya biết Đức-Thế-Tôn nhận lời thỉnh mời, nên đứng dậy đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về tu viện của mình.

    Đến tu viện, đạo-sĩ Keṇiya thông báo cho các bạn hữu, bà con thân quyến, các quan rằng:

    - Này các bạn hữu, bà con thân quyến, các quan! Xin quý vị nghe rõ. Tôi đã thỉnh mời Đức-Phật Gotama cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng gồm có 1.250 vị thọ nhận vật thực tại tu viện của tôi vào ngày mai.

    Vậy, xin quý vị cùng với tôi, chúng ta cùng nhau làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng gồm có 1.250 vị thọ nhận vật thực tại tu viện của tôi vào ngày mai.

    Tất cả mọi người đều đồng tâm nhất trí hoan-hỷ cùng nhau làm phước-thiện bố-thí cúng dường vào ngày hôm sau.

    Họ chia ra từng nhóm, mỗi nhóm mỗi công việc. Riêng đạo-sĩ Keṇiya trưởng nhóm lo dựng trại lớn rất trang trọng, để đón tiếp Đức-Phật Gotama cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng gồm có 1.250 vị đến thọ nhận vật thực vào ngày hôm sau.

    Trong vùng Āpaṇa có vị Bà-la-môn tên Sela là vị thầy thông hiểu các bộ sách xưa của giai cấp Bà-la-môn, đặc biệt bộ Lokāyata xem 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa). Vị Bà-la-môn Sela dạy 300 học trò, mà đạo-sĩ Keṇiya có đức-tin hộ độ vị Bà-la-môn Sela.

    Khi ấy, vị Bà-la-môn Sela cùng với nhóm 300 học trò đi dạo, ghé vào tu viện của đạo-sĩ Keṇiya, nhìn thấy nhiều người chia ra từng nhóm, mỗi nhóm cặm cụi lo mỗi công việc làm các món đồ ăn ngon lành, còn đạo-sĩ Keṇiya cùng với các người thân đang lo dựng trại rất trang trọng.

    Nhìn thấy mọi người cặm cụi làm việc như vậy, nên vị Bà-la-môn Sela nghĩ rằng: Vị đạo-sĩ Keṇiya mở tiệc thiết đãi các khách quý nào đây, bình thường những lần trước, mỗi khi thấy ta đến đây, đạo-sĩ Keṇiya ra đón tiếp niềm nở, nhưng lần này, ông cặm cụi làm việc không để ý đến ta, ta nên đi đến hỏi đạo-sĩ Keṇiya để biết cuộc đại lễ gì đây.

    - Này đạo-sĩ Keṇiya! Ông mở tiệc thiết đãi Đức-vua Bimbisāra cùng với các đoàn quân, hoặc tổ chức đại lễ cúng dường mahāyañña vào ngày mai có phải không? 

    Nghe vị Bà-la-môn Sela hỏi như vậy, đạo-sĩ Keṇiya kính thưa rằng:

    - Kính thưa Bà-la-môn Sela, tôi không phải thỉnh mời Đức-vua Bimbisāra ngự cùng với các đoàn quân đến thiết đãi vào ngày mai, cũng không phải là tổ chức đại lễ cúng dường mahāyañña, mà sự-thật, tôi kính thỉnh Đức-Phật Gotama ngự cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng gồm có 1.250 vị thọ nhận vật thực tại tu viện của tôi vào ngày mai.

    Nghe đạo-sĩ Keṇiya nói đến danh hiệu “Buddho” vị Bà-la-môn Sela liền phát sinh hỷ lạc, không biết có phải tai mình nghe lầm hay không, nên hỏi lại rằng:

    - Này đạo-sĩ Keṇiya! Ông vừa nói đến danh hiệu “Buddho” có phải vậy không?

    Đạo-sĩ Keṇiya khẳng định lại rằng:

    - Kính thưa Ngài Bà-la-môn Sela, tôi vừa nói đến danh hiệu “Buddho”. Thưa Ngài.

    Mặc dù nghe lại lần thứ nhì, nhưng vị Bà-la-môn Sela cũng vẫn phát sinh hỷ lạc như lần trước, nên hỏi lại một lần nữa cho chắc chắn rằng:

    - Này đạo-sĩ Keṇiya! Có phải ông vừa nói đến danh hiệu “Buddho” lần thứ nhì có phải vậy không?

    Đạo-sĩ Keṇiya khẳng định đúng sự-thật như vậy.

    Khi ấy, vị Bà-la-môn Sela suy nghĩ rằng: Danh hiệu “Buddho” là một danh hiệu mà chúng-sinh khó mà được nghe đến trong đời.

    Trong bộ sách xưa dạy về mahāpurisalakkhaṇa có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân mà ta đã học, nếu bậc nào có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân thì cuộc đời chỉ có 2 con đường mà thôi là:

    * Nếu bậc ấy sống tại gia thì chắc chắn sẽ trở thành Đức chuyển-luân-Thánh-vương hành thiện-pháp, có đầy đủ 7 báu: long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, Chánh-cung hoàng-hậu báu, thừa tướng báu, phú hộ báu. Đức chuyển-luân-Thánh-vương có trên 1.000 hoàng-tử anh hùng dũng cảm, chiến thắng mọi kẻ thù bằng thiện-pháp, không sử dụng khí giới, trị vì toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới, được thanh bình thịnh vượng, trong toàn đất nước không có điều xấu xảy ra, toàn thể dân chúng sống an-lạc.

    * Nếu vị ấy từ bỏ nhà đi xuất gia thì chắc chắn sẽ trở thành Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh.

    Sau khi suy nghĩ xong, vị Bà-la-môn Sela hỏi đạo-sĩ Keṇiya rằng:

    - Này đạo-sĩ Keṇiya! Đức-Phật Gotama hiện giờ đang ngự tại nơi nào?

    Đạo-sĩ Keṇiya đưa tay chỉ về khu rừng mà thưa rằng:

    - Kính thưa Ngài Bà-la-môn Sela, Đức-Phật Gotama hiện giờ đang ngự tại bìa rừng đằng kia.

    Nghe Đạo-sĩ Keṇiya chỉ về bìa rừng như vậy, vị Bà- la-môn Sela xin từ giã rồi dẫn nhóm 300 học trò đi thẳng về bìa rừng nơi Đức-Phật Gotama đang ngự.

    Khi đi gần đến bìa rừng, vị Bà-la-môn Sela truyền dạy rằng:

    - Này các đệ-tử! Các con nên im lặng đi một cách nhẹ nhàng, có khoảng cách nhau. Khi thầy đang hầu chuyện với Ngài Sa-môn Gotama, các con nên ngồi im lặng nghiêm trang, giữ gìn thanh-tịnh.

    Vị Bà-la-môn Sela đi vào hầu đảnh lễ vấn an Đức- Phật Gotama xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, chăm chú xem xét 32 tướng tốt của bậc đại-nhân của Đức-Phật Gotama, vị Bà-la-môn Sela thấy rõ, biết rõ được 30 tướng của bậc đại-nhân trong kim thân của Đức-Phật, còn lại 2 tướng tốt của bậc đại-nhân là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài, mềm mại, lưỡi lớn có thể bao phủ toàn mặt lên đến chân tóc, lưỡi dài có thể le đến tận 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, vị Bà-la-môn Sela còn chút hoài-nghi, nên chưa hoàn toàn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật Gotama.

    Khi ấy, Đức-Thế-Tôn biết rằng: “Vị Bà-la-môn Sela này chăm chú xem xét 32 tướng tốt của bậc đại-nhân trong kim thân của Như-lai, mới thấy rõ, biết rõ được 30 tướng tốt của bậc đại-nhân, còn lại 2 tướng tốt của bậc đại-nhân chưa thấy rõ là ngọc-hành giấu kín trong bao da và cái lưỡi lớn và dài của Như-lai, nên còn chút hoài- nghi, chưa hoàn toàn có đức-tin nơi Như-lai.”

    Vì vậy, Đức-Thế-Tôn dùng phép thần-thông hóa ra cái bóng như thật để cho vị Bà-la-môn Sela thấy rõ, biết rõ ngọc- hành giấu kín trong bao da và Đức-Phật le lưỡi đến 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, rồi bao phủ toàn mặt lên đến tận chân tóc.

    Khi ấy, vị Bà-la-môn Sela suy xét rằng: Ta không chỉ muốn thấy rõ, biết rõ Ngài Sa-môn Gotama có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân, mà ta còn muốn biết Ngài Sa-môn Gotama là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thật sự nữa. Ta đã từng nghe từ các bậc Thầy theo truyền thống nghe từ các bậc Thầy tiền bối truyền bảo rằng: “Bậc nào là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì chính Bậc ấy tự khẳng định mình là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

    Vậy, ta nên tán dương ca tụng Ngài Sa-môn Gotama ngay bây giờ bằng những câu kệ rằng:

    Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama cao thượng,
    Ngài có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại nhân,
    Ngài có hào quang sáng ngời mát dịu,
    Người đến hầu Ngài bao nhiêu lần không biết đủ,
    Ngài có màu da như vàng sáng ngời,
    Ngài có đôi hàm răng trắng và sạch sẽ,
    Ngài có đôi mắt trong sáng thấu suốt,
    Ngài có thân hình như thân hình phạm-thiên,
    Ngài có ân đức cao thượng hơn mọi người,
    Ngài cần gì với phạm hạnh Sa-môn này,
    Ngài xứng đáng là đức-vua Chuyển-luân-thánh-vương,
    Trị vì toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới,
    Trong toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu này.
    Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama cao thượng,
    Kính xin Ngài trở thành đức-vua hơn cả đức-vua.

     

    Nghe vị Bà-la-môn Sela tán dương ca tụng như vậy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy bằng câu kệ rằng:

    - Này Bà-la-môn Sela! Như-lai là đức-vua, là Đức Pháp-vương (Dhammarājā), không có đức-vua nào hơn Như-lai. Như-lai đã thuyết giảng pháp-luân mà không có sa-môn hoặc bà-la-môn nào thuyết giảng được.

    Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, vị Bà-la-môn Sela bạch rằng:

    Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama cao thượng,
    Ngài khẳng định là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác,
    Ngài là Đức Pháp-vương, không có đức-vua nào hơn,
    Đức Pháp-vương thuyết giảng pháp-luân mà không
    có sa-môn hoặc bà-la-môn nào thuyết giảng được
    Vậy, vị nào là thống-lĩnh-pháp của Ngài ?
    Là bậc tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Ngài.
    thuyết giảng pháp-luân mà Ngài đã thuyết giảng.

    Nghe vị Bà-la-môn Sela hỏi như vậy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Bà-la-môn Sela! Pháp-luân mà Như-lai đã thuyết giảng rồi, Sāriputta là bậc tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Như-lai, là vị thống-lĩnh-pháp của Như-lai, có khả năng thuyết giảng pháp-luân của Như-lai được.

    - Này Bà-la-môn Sela! Con nên tin rằng:

    *  Pháp-luân nên biết thì Như-lai đã biết xong rồi,

    *  Pháp-luân nên tiến hành thì Như-lai đã tiến hành xong rồi,

    *  Pháp-luân nên diệt thì Như-lai đã diệt xong rồi. Như-lai là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

    - Này Bà-la-môn Sela! Con nên diệt sự hoài-nghi mà nên có đức-tin nơi Như-lai.

    Đức-Phật xuất hiện trên thế gian, đó là điều khó. Được gần gũi với Đức-Phật, đó là điều khó.

    - Này Bà-la-môn Sela! Như-lai là Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác đã diệt tận được mọi tham-ái, không có chúng-sinh nào hơn, Như-lai là bậc cao thượng nhất trong các cõi-giới, không có chúng-sinh nào sánh được, Như-lai đã toàn thắng được 5 loại māra, diệt tận được mọi kẻ thù là phiền-não không còn dư sót, không còn khổ tâm nữa.

    Nghe Đức-Phật Gotama khẳng định truyền dạy như vậy, vị Bà-la-môn Sela hoàn toàn có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật Gotama, và khuyên bảo các đệ-tử rằng:

    - Này các con! Các con hãy nên suy xét kỹ những pháp mà Đức-Phật Gotama đã truyền dạy.

    Đức-Phật Gotama đã toàn thắng 5 loại māra và đội quân māra, là Bậc cao thượng nhất trong tam-giới, 

    không có nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên nào sánh với Ngài được.

    Nay, Thầy chắc chắn sẽ xuất gia theo Đức-Phật Gotama, còn các con, nếu người nào hài lòng thì cùng với Thầy xuất gia theo Đức-Phật Gotama, nếu người nào không hài lòng thì trở về nhà.

    Nghe vị Thầy khuyên bảo như vậy, tất cả các đệ-tử đều bạch rằng:

    - Kính bạch Thầy, Thầy chắc chắn sẽ xuất gia theo Đức-Phật Gotama, thì tất cả chúng con cũng theo Thầy xuất gia trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

    Vị Bà-la-môn Sela dẫn nhóm 300 đệ-tử vào hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tất cả chúng con kính xin Đức-Thế-Tôn có tâm từ tế độ cho phép xuất gia trong giáo-pháp của Ngài.

    Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ nhóm thầy và các học trò của vị Bà-la-môn Sela đều có duyên lành từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara, có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la- mật, đã phát nguyện muốn trở thành tỳ-khưu theo cách “Ehi bhikkhu” trong kiếp quá-khứ.

    Cho nên Đức-Thế-Tôn đưa bàn tay phải ra, chỉ bằng ngón tay trỏ mà truyền gọi rằng: “Etha bhikkhavo: Các con hãy đến đây! Các con trở thành bhikkhu (tỳ-khưu) theo ý nguyện.”

    Ngay khi ấy, vị Bà-la-môn Sela cùng với 300 đệ-tử trở thành tỳ-khưu, do năng lực của lời phát nguyện trong tiền-kiếp, nên có đầy đủ 8 món vật dụng của tỳ-khưu với tăng tướng trang nghiêm như vị Đại-đức có 60 tuổi hạ, rồi Đức-Thế-Tôn thuyết dạy câu kệ rằng:

    “Pháp-hành phạm-hạnh mà Như-lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Các con thực-hành để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, không có thời gian khoảng cách, là chánh-pháp mà bậc xuất gia nên chứng đắc.

    Sáng ngày hôm sau, trong tu viện, các món vật thực ngon lành đã được sửa soạn xong, vị đạo-sĩ Keṇiya truyền bảo người thân tín đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, rồi kính bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Phật Gotama, vị đạo-sĩ Keṇiya truyền bảo con đến kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự cùng với nhóm chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tu viện của ông để thọ nhận vật thực vào sáng hôm nay. Bạch Ngài.

    Sáng hôm ấy, Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng đến tu viện của vị đạo-sĩ Keṇiya. Đức- Thế-Tôn ngồi trên chỗ cao quý nhất, chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng ngồi chỗ ngồi theo thứ tự cao thấp xong, vị đạo-sĩ Keṇiya tự tay cúng dường vật thực ngon lành đến Đức-Phật Gotama cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

    Khi Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng độ vật thực xong, vị đạo-sĩ Keṇiya ngồi một nơi hợp lẽ, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp tế độ đạo-sĩ Keṇiya cùng với nhóm thuộc hạ đông đảo của ông.

    Mọi người đều phát sinh đức-tin trong sạch hoan-hỷ trong lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama.

    Sau đó, Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng trở về chỗ ở. Khi ấy, tỳ-khưu Sela cùng với nhóm 300 đệ-tử lánh xa chỗ đông, mỗi vị mỗi nơi riêng rẽ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não 

    không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong kiếp hiện-tại, trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phạm-hạnh cao thượng đã hoàn thành, phận sự tứ Thánh-đế nên hành thì đã hành xong, biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái-sinh kiếp sau nữa.

    Như vậy, sau khi xuất gia trở thành tỳ-khưu được 7 ngày đêm, thì ngài Đại-đức Sela cùng với nhóm 300 đệ- tử đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.

    Đức-Phật xuất hiện trên thế gian thật là điều rất hiếm có, kiếp tử sinh luân-hồi của mỗi chúng-sinh gặp được Đức-Phật hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài cũng là một điều rất hy hữu.

    Thật vậy, trong lịch sử tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, từ thời kỳ Đức-Phật Dīpaṅkara cho đến Đức-Phật Koṇḍañña, trải qua khoảng thời gian lâu dài 1 a-tăng-kỳ kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian gọi là Suññakappa: Kiếp trái đất không có Đức-Phật.

    Thật diễm phúc biết dường nào! Kiếp trái đất hiện-tại mà chúng ta đang sống gọi là Bhaddakappa có 5 Đức- Phật tuần tự xuất hiện.

    Trong thời-kỳ quá khứ đã có 3 Đức-Phật: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana và Đức-Phật Kassapa đã xuất hiện trên thế gian.

    Trong thời hiện-tại: Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, rồi Ngài đã tịch diệt Niết-bàn cách đây 2.563 năm, giáo-pháp của Ngài còn lưu truyền lại trên thế gian cho đến 5.000 năm, rồi cũng sẽ bị mai một, bị tiêu hoại hoàn toàn.

    Trong thời vị-lai sẽ có Đức-Phật Metteyya xuất hiện trên thế gian trong cùng kiếp trái đất Bhaddakappa này.

    Tuy trong kiếp trái đất này có 5 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian, nhưng khoảng cách thời gian từ Đức- Phật này đến Đức-Phật khác trải qua thời gian lâu dài không thể tính bằng số được.

    Đối với những bậc đã có đầy đủ pháp-hạnh ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, như trường hợp của Đức-vua Mahākappina và Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā, khi nghe đến danh hiệu Buddho: Đức-Phật, Dhammo: Đức- Pháp, Saṃgho: Đức-Tăng, liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, mặc dù họ chưa đến hầu Đức-Phật, chưa được lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật, nhưng khi gặp phải trở ngại, họ có khả năng đặc biệt niệm tưởng đến 9 Ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì những ân- đức ấy đã được tích lũy trong tâm của họ từ nhiều đời nhiều kiếp, từ Chư Phật quá-khứ và đã tạo được đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật xong, nhất là đầy đủ 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ.

    Nay kiếp hiện-tại này, khi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, họ dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác- pháp, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    * Người trí lựa chọn nơi quy-y

    Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự đến vùng Kosala cùng với 500 chư tỳ-khưu-Tăng trú tại vườn xoài gần bờ sông Aciravatī phía Bắc làng Manasākaṭa, thuyết dạy bài kinh Tevijjasutta (1) được tóm lược như sau:

    Thời ấy, có nhóm bà-la-môn khá giả trí-thức nổi tiếng như Bà-la-môn Vaṅkī, Bà-la-môn Tārukkha, Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Jāṇusoṇī, Bà-la-môn Todeyya và các Bà-la-môn trí-thức khác.

    Khi ấy, cậu Vāseṭṭha và cậu Bhāradvāja cùng nhau đi dạo vừa bàn luận về vấn đề “maggāmagga: đạo và không phải đạo.”

    * Cậu Vāseṭṭha nói rằng: “Chỉ có đạo mà Bà-la-môn Pokkharasāti chỉ dạy là đúng đạo mà thôi, người thực-hành theo đạo này dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.

    * Cậu Bhāradvāja nói rằng: “Chỉ có đạo mà Bà-la- môn Tārukkha chỉ dạy là đúng đạo mà thôi, người thực-hành theo đạo này dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.

    Cậu Vāseṭṭha không thể thuyết phục cậu Bhāradvāja nghe theo mình và cậu Bhāradvāja cũng không thể thuyết phục cậu Vāseṭṭha nghe theo mình được.

    Khi ấy, cậu Vāseṭṭha đề nghị với cậu Bhāradvāja rằng:

    - Này Bhāradvāja! Đức Sa-môn Gotama xuất gia từ dòng Sakya đang ngự tại vườn xoài gần bờ sông Aciravatī phía Bắc làng Manasākaṭa, danh tiếng của Sa-môn Gotama vang khắp mọi nơi rằng:

    “1- Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân, khẩu, ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại chư- thiên và phạm-thiên.

    2- Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả,  Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác- pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền- khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Do đó, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

    3- Vijjācaraṇasampano: Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng.

    4- Sugato: Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp chân- lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh.

    5- Lokavidū: Đức Thông-Suốt Tam-Tổng-Pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh (sattaloka), tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka), tổng các pháp- hành (saṅkhāraloka).

    6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô-Thượng Giáo-Hóa chúng-sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.

    7- Satthā devamanussānaṃ: Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, ...

    8- Buddho: Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A- ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, rồi Đức- Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-
    bàn tùy theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

    9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh Ba-la- mật của Đức-Phật.”

    - Này Bhāradvāja! Chúng ta nên đi đến hầu Sa-môn Gotama, rồi bạch hỏi vấn đề này với Sa-môn Gotama. Ngài Sa-môn Gotama truyền dạy như thế nào thì chúng ta vâng lời theo như thế ấy.

    Nghe cậu Vāseṭṭha đề nghị như vậy, cậu Bhāradvāja đồng ý ngay, 2 cậu cùng nhau đi đến hầu Đức-Thế-Tôn.

    Khi ấy, cậu Vāseṭṭha và cậu Bhāradvāja vấn an Đức- Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, rồi cậu Vāseṭṭha bạch Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Sa-môn Gotama, hai con đi dạo, vừa bàn luận với nhau về vấn đề “maggāmagga: đạo và không phải đạo.

    * Con nói rằng:“ Chỉ có đạo mà Bà-la-môn Pokkha- rasāti chỉ dạy là đúng đạo mà thôi, người thực-hành theo đạo này dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.”

    * Còn Bhāradvāja nói rằng:“Chỉ có đạo mà Bà-la-môn Tārukkha chỉ dạy là đúng đạo mà thôi, người thực-hành theo đạo này dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.”

    - Kính bạch Sa-môn Gotama, hai con không nhất trí với nhau về vấn đề ‘đạo và không phải đạo’ này, nên đến hầu Ngài Sa-môn Gotama truyền dạy đúng đạo và không đúng đạo. Bạch Ngài.

    Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:

    - Này Vāseṭṭha! Con nói rằng: “ Đạo ấy dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên” có phải không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nói đúng như vậy. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Tất cả Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda (1), có 1 vị Bà-la-môn nào đã thấy Đức Phạm-thiên, rồi làm chứng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có vị nào. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Có vị thầy nào của Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda đã thấy Đức Phạm-thiên, rồi làm chứng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có vị nào. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Có vị thầy nào của vị thầy của Bà-la- môn thông thuộc 3 bộ Veda đã thấy Đức Phạm-thiên, rồi làm chứng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có vị nào. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Có vị thầy nào của vị thầy tiền bối kế tiếp nhau của Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda đã thấy Đức Phạm-thiên, rồi làm chứng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có vị nào. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đạo-sĩ là vị thầy tiền bối xa xưa kia như vị đạo-sĩ Aṭṭhaka, Vāmaka, Vesāmitta, Yamataggī, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu, những vị này viết ra 3 bộ Veda, truyền tụng mà ngày nay nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda, rồi truyền tụng, truyền dạy 3 bộ Veda xa xưa ấy kế tiếp đến thế hệ sau.

    Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy nói rằng: “Chúng tôi không thấy, không biết Đức Phạm-thiên ở cõi nào, nhưng chúng tôi truyền dạy đạo dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên ấy rằng: “Đạo này là đúng, người thực-hành theo đạo này sẽ dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.”

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều ấy như thế nào?

    Như vậy, lời dạy của nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy không đem lại sự lợi ích, đúng vậy không?

    - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, lời truyền dạy của nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy không đem lại sự lợi ích, đúng vậy. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda không thấy Đức Phạm-thiên, không biết Đức Phạm-thiên, nhưng truyền dạy đạo dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên rằng: “Đạo này là đúng, người thực-hành theo đạo này sẽ dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.” Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Giống như một đàn người đui mù, nắm vai với nhau đi, người đi đầu không thấy, những người đi giữa cũng không thấy cho đến người cuối cũng không thấy. Cũng như lời truyền dạy của nhóm Bà-la- môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy là lời dạy không đem lại sự lợi ích gì cả, chỉ là lời rỗng không mà thôi.

    - Này Vāseṭṭha! Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda không thấy, không biết Đức Phạm-thiên, không có vị nào làm chứng. Dù vị thầy của nhóm Bà-la-môn cũng không thấy, không biết Đức Phạm-thiên; dù vị thầy của thầy kế tiếp của nhóm Bà-la-môn cũng không thấy, không biết Đức Phạm-thiên; dù các vị đạo-sĩ là vị thầy tiền bối xa xưa kia như vị đạo-sĩ Aṭṭhaka, Vāmaka, Vesāmitta, Yamataggī, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu, những vị này viết ra 3 bộ Veda, mà nay hiện-tại các nhóm Bà-la-môn thông thuộc truyền tụng, truyền dạy các Bà-la-môn, cũng không thấy, không biết Đức Phạm-thiên, các vị đều nói rằng:

    “Chúng tôi không thấy, không biết Đức Phạm-thiên ngự cõi-giới nào, có tính chất thế nào, chúng tôi đều không biết.”

    Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda đều nói rằng: “Chúng tôi truyền dạy đạo mà người thực-hành theo đạo này sẽ sống chung với Đức Phạm-thiên, mà chúng tôi không thấy, không biết.”

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều ấy như thế nào? Lời dạy của nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda là vô giá trị, có đúng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời dạy của nhóm Bà-la- môn thông thuộc 3 bộ Veda là vô giá trị, thật đúng như vậy. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda không thấy, không biết Đức Phạm- thiên, nhưng truyền dạy đạo dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên rằng: “Đạo này là đúng, người thực- hành theo đạo này sẽ dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.” Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Ví như cậu con trai nói như vầy: Tôi rất thương yêu cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy.

    Người ta hỏi cậu con trai rằng:

    - Này cậu con trai! Cậu có biết cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy hay không? Cô gái ấy thuộc dòng dõi Vua chúa hoặc dòng dõi Bà-la-môn, hoặc Cô gái ấy là kỹ nữ?

    Khi cậu con trai bị hỏi như vậy, cậu trả lời rằng:

    - Thưa quý vị! Tôi hoàn toàn không biết.

    Người ta hỏi cậu con trai rằng:

    - Này cậu con trai! Cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy có tên là gì? Hiện ở nơi nào? Có hình dáng như thế nào?

    Khi cậu con trai bị hỏi như vậy, cậu trả lời rằng:

    - Thưa quý vị! Tôi không biết tên cô gái ấy, cũng không biết cô ở nơi nào, cũng không biết hình dáng cô ấy ra sao nữa.

    Người ta hỏi cậu con trai rằng:

    - Này cậu con trai! Cậu thương yêu cô gái xinh đẹp tuyệt trần mà cậu không từng thấy, không từng biết bao giờ đúng không?

    Khi cậu con trai bị hỏi như vậy, cậu trả lời rằng:

    - Thưa quý vị! Đúng vậy.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều ấy như thế nào? Lời nói của cậu con trai ấy là vô giá trị, có đúng hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời nói của cậu con trai ấy là vô giá trị, thật đúng như vậy. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda không thấy Đức Phạm-thiên, không biết Đức Phạm-thiên, nhưng truyền dạy đạo dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên rằng: “Đạo này là đúng, người thực-hành theo đạo này sẽ dẫn đến sống chung với Đức Phạm-thiên.” Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Ví như con sông Aciravatī có nước đầy tràn bờ, con quạ uống nước được. Khi ấy, một người muốn qua bờ sông bên kia, người ấy đứng bên bờ sông bên này gọi bờ sông bên kia rằng: “Này bờ sông bên kia hãy qua bờ sông bên này!”

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều ấy như thế nào?

    Bờ sông Aciravatī bên kia có qua bờ sông bên này do tiếng gọi, do sự cầu khẩn van lơn, do sự mong muốn, hoặc do sự hài lòng của người ấy hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không thể như vậy được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Cũng như vậy, nhóm Bà-la-môn từ bỏ pháp-hành trở thành phạm-thiên, chấp thủ pháp-hành không trở thành phạm-thiên, thường thực-hành thế này:

    “Chúng ta cầu khẩn Đức-vua-trời Sakka, các vị thần linh, Đức Phạm-thiên, v.v...”

    - Này Vāseṭṭha! nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy từ bỏ pháp-hành trở thành phạm-thiên, chấp thủ pháp-hành không trở thành phạm-thiên, thường thực-hành như thế.

    Nhóm Bà-la-môn ấy sau khi chết, sẽ được sống chung với Đức Phạm-thiên do tiếng gọi, do sự cầu khẩn van lơn, do sự mong muốn, hoặc do sự hài lòng. Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Ví như con sông Aciravatī có nước đầy tràn bờ, con quạ uống nước được. Khi ấy, một người muốn qua bờ sông bên kia, người ấy trói hai tay lại đằng sau lưng bằng sợi dây rất bền đứng ở bờ sông bên này.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều ấy như thế nào? Người ấy qua bờ sông Aciravatī bên kia có được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không thể nào được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Cũng như vậy, 5 đối-tượng kāmaguṇa trong giáo-pháp của bậc Thánh-nhân gọi là “sợi dây bền” gọi là “vật trói buộc chắc”.

    Năm đối-tượng kāmaguṇa: trói-buộc đó là:

    - Đối-tượng sắc được nhìn thấy bằng mắt (nhãn-thức- tâm).

    - Đối-tượng thanh được nghe bằng tai (nhĩ-thức-tâm).

    - Đối-tượng hương được ngửi bằng mũi (tỷ-thức-tâm).

    - Đối-tượng vị được nếm bằng lưỡi (thiệt-thức-tâm).

    - Đối-tượng xúc được xúc giác bằng thân (thân-thức-tâm).

    Đó là 5 đối-tượng đáng ưa thích, đáng vừa lòng, đáng say mê trong 5 đối-tượng kāmaguṇa ấy mà giáo-pháp của bậc Thánh-nhân gọi là “sợi dây bền, vật trói buộc chắc”. Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda say đắm trong 5 đối-tượng kāmaguṇa trói buộc ấy, nên không thấy tội lỗi, không có trí-tuệ nghĩ thoát ra khỏi 5 đối- tượng kāmaguṇa trói buộc ấy.

    - Này Vāseṭṭha! nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda từ bỏ pháp-hành trở thành phạm-thiên, chấp thủ pháp-hành không trở thành phạm-thiên, thường say đắm hưởng dục lạc trong 5 đối-tượng kāmaguṇa đáng ưa thích, đáng vừa lòng, đáng say mê trong 5 đối-tượng kāmaguṇa trói buộc ấy. Nhóm Bà-la-môn ấy sau khi chết, sẽ được sống chung với Đức Phạm-thiên. Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Ví như con sông Aciravatī có nước đầy tràn bờ, con quạ uống nước được. Khi ấy, một người muốn qua bờ sông bên kia, người ấy trùm đầu nằm ở bờ sông bên này.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều này như thế nào? Người ấy qua bờ sông Aciravatī bên kia có được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không thể nào được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Cũng như vậy, 5 pháp nivaraṇa trong giáo-pháp của bậc Thánh-nhân gọi là “pháp ràng buộc, pháp chướng ngại”

    Năm nivaraṇa: pháp chướng-ngại đó là:

    - Kāmacchanda nivaraṇa: Tham-dục là pháp chướng- ngại

    - Byāpāda nivaraṇa: Sân-hận là pháp chướng-ngại.

    - Thīnamiddha nivaraṇa: Buồn-chán, buồn ngủ là pháp chướng-ngại.

    - Uddhaccakukkucca nivaraṇa: Phóng-tâm, hối-hận là pháp chướng-ngại.

    - Vichikicchā nivaraṇa:Hoài-nghi là pháp chướng-ngại.

    Đó là 5 pháp chướng-ngại cho mọi thiện-pháp, nhất là pháp-hành thiền-định mà giáo-pháp của bậc Thánh- nhân gọi là “pháp ràng buộc, pháp chướng ngại”.

    - Này Vāseṭṭha! nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda bị 5 pháp chướng-ngại này bao trùm, ràng buộc, trói chặt rồi. Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda từ bỏ pháp-hành trở thành phạm-thiên, chấp thủ pháp- hành không trở thành phạm-thiên, bị 5 pháp chướng- ngại này bao trùm, ràng buộc, trói chặt rồi.

    Nhóm Bà-la-môn ấy sau khi chết, sẽ được sống chung với Đức Phạm-thiên. Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều này như thế nào? Con có từng nghe Bà-la-môn già lớn tuổi là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy nói rằng:

    - Đức Phạm-thiên có tham-dục nơi đối-tượng người nữ hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Đức Phạm-thiên có oan-trái hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Đức Phạm-thiên có làm khổ chúng-sinh hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Đức Phạm-thiên có tâm ô-nhiễm hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Đức Phạm-thiên giữ gìn tâm trong sạch được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức điều này như thế nào? Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tham-dục nơi đối tượng người nữ hay không?

    -  Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có. Bạch Ngài.

    -  Có oan-trái hay không?

    -  Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có. Bạch Ngài.

    -  Có làm khổ chúng-sinh hay không?

    -  Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có. Bạch Ngài.

    -  Có tâm ô-nhiễm hay không?

    -  Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có. Bạch Ngài.

    -  Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda giữ gìn tâm trong sạch được hay không?

    -  Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    -  Này Vāseṭṭha! Với những điều như vậy, nhóm Bà-la- môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy có tham-dục nơi người nữ, nhưng Đức Phạm-thiên không có. Đem so sánh nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tham-dục nơi người nữ với Đức Phạm-thiên không có tham-dục nơi người nữ được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tham-dục nơi người nữ sau khi chết, sẽ sống chung với Đức Phạm-thiên không có tham-dục nơi người nữ. Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy có oan-trái, nhưng Đức Phạm-thiên không có. Đem so sánh nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có oan-trái với Đức Phạm-thiên không có oan-trái được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy có làm khổ chúng-sinh, nhưng Đức Phạm-thiên không có. Đem so sánh nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có làm khổ chúng-sinh với Đức Phạm-thiên không làm khổ chúng-sinh được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy có tâm ô-nhiễm, nhưng Đức Phạm-thiên không có. Đem so sánh nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tâm ô-nhiễm với Đức Phạm-thiên không có tâm ô-nhiễm được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy có tâm không trong sạch, nhưng Đức Phạm- thiên có tâm trong sạch. Đem so sánh nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tâm không trong sạch với Đức Phạm-thiên giữ gìn tâm trong sạch được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda có tâm không trong sạch sau khi chết, sẽ sống chung với Đức Phạm-thiên giữ gìn tâm trong sạch. Đó là điều không thể có được.

    - Này Vāseṭṭha! Trong đời này, nhóm Bà-la-môn thông thuộc 3 bộ Veda ấy đang bị đắm chìm, bị sa lầy, đến tai hại mà tưởng dễ đạt đến nơi cao quý. Vì vậy, 3 bộ Veda này gọi là tevijjā iriṇa (3 bộ Veda như khu rừng lớn không có xóm nhà), tevijjā vivana (3 bộ Veda như khu rừng lớn không có nước).

    Khi Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, cậu Vāseṭṭha kính bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nghe nói rằng: Đức Sa-môn Gotama biết đạo (con đường) để đến sống chung với Đức Phạm-thiên.

    - Này Vāseṭṭha! Như-lai biết các phạm-thiên và cõi phạm-thiên, pháp-hành để trở thành phạm-thiên, sẽ hóa- sinh làm phạm-thiên sống chung với các phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên.

    Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, cậu Vāseṭṭha kính bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính thỉnh Đức- Thế-Tôn có tâm đại bi tế độ thuyết dạy chúng con pháp- hành để trở thành phạm-thiên sống chung với các phạm- thiên, và những người khác cũng trở thành phạm-thiên nữa.

    Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

    - Này Vāseṭṭha! Nếu như vậy thì các con hãy lắng nghe, Như-lai sẽ thuyết đây.

    - Này Vāseṭṭha! Trong Phật-giáo này, tỳ-khưu là người có giới hạnh đầy đủ ...

    Khi tỳ-khưu hành-giả dõi theo 5 pháp-chướng-ngại bị diệt được ở trong tâm, nên tâm hoan-hỷ phát sinh.

    - Khi có tâm hoan-hỷ, nên tâm hỷ lạc phát sinh.

    - Khi có tâm hỷ lạc, nên thân an tịnh phát sinh.

    - Khi có thân an-lạc, nên tâm an-lạc phát sinh.

    - Khi có tâm an-lạc, nên định-tâm vững vàng phát sinh.

    * Tỳ-khưu hành-giả thực-hành niệm rải tâm từ khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, hướng Đông-Nam, Tây- Bắc, Tây-Nam, Đông-Bắc, hướng dưới, hướng trên. Tâm từ rải khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng không có oan trái lẫn nhau, không làm khổ lẫn nhau.

    Ví như người khỏe mạnh thổi tù và, tiếng tù và lan tỏa rộng ra khắp mọi nơi như thế nào. Cũng như tỳ-khưu hành-giả niệm rải tâm từ khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng dẫn đến chứng đắc mettācetovimutti là chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

    - Này Vāseṭṭha! Đó là pháp-hành để trở thành phạm- thiên, sẽ hóa-sinh làm phạm-thiên sống chung với các phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên.

    - Này Vāseṭṭha! Còn có pháp-hành khác nữa là:

    * Tỳ-khưu hành-giả thực-hành niệm rải tâm bi khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, hướng Đông-Nam, Tây- Bắc, Tây-Nam, Đông-Bắc, hướng dưới, hướng trên. Tâm bi rải khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng.

    * Tỳ-khưu hành-giả thực-hành niệm rải tâm hỷ khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, hướng Đông-Nam, Tây- Bắc, Tây-Nam, Đông-Bắc, hướng dưới, hướng trên. Tâm hỷ rải khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng.

    * Tỳ-khưu hành-giả thực-hành niệm rải tâm xả khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, hướng Đông-Nam, Tây- Bắc, Tây-Nam, Đông-Bắc, hướng dưới, hướng trên. Tâm xả rải khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng.

    Ví như người khỏe mạnh thổi tù và, tiếng tù và lan tỏa rộng ra khắp mọi nơi như thế nào. Cũng như tỳ-khưu hành-giả niệm rải tâm xả khắp chúng-sinh muôn loài vô lượng dẫn đến chứng đắc upekkhācetovimutti là chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

    - Này Vāseṭṭha! Đó là pháp-hành để trở thành phạm- thiên, sẽ hóa-sinh làm phạm-thiên sống chung với các phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên.

    - Này Vāseṭṭha! Con nhận thức thế nào về điều này?

    - Tỳ-khưu hành-giả thường thực-hành như vậy có tham-dục nơi đối tượng người nữ hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu có oan-trái hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu có làm khổ chúng-sinh hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu có tâm ô-nhiễm hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, không có. Bạch Ngài.

    - Tỳ-khưu giữ gìn tâm trong sạch được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    -  Này Vāseṭṭha! Với những điều như vậy, tỳ-khưu không có tham-dục nơi người nữ, phạm-thiên cũng không có. Đem so sánh tỳ-khưu không có tham-dục nơi người nữ với phạm-thiên không có tham-dục nơi người nữ được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, tỳ-khưu ấy không có tham-dục nơi người nữ sau khi chết, sẽ sống chung với phạm-thiên không có tham-dục trong người nữ. Đó là điều có thể được.

    - Này Vāseṭṭha! Tỳ-khưu không có oan-trái, phạm- thiên cũng không có. Đem so sánh tỳ-khưu không có oan- trái với phạm-thiên không có oan-trái được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Tỳ-khưu không có làm khổ chúng- sinh, phạm-thiên cũng không có. Đem so sánh tỳ-khưu không có làm khổ chúng-sinh với phạm-thiên không làm khổ chúng-sinh được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Tỳ-khưu không có tâm ô-nhiễm, phạm-thiên cũng không có. Đem so sánh tỳ-khưu không có tâm ô-nhiễm với phạm-thiên không có tâm ô-nhiễm được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Tỳ-khưu ấy giữ gìn tâm trong sạch, phạm-thiên cũng giữ gìn tâm trong sạch. Đem so sánh tỳ-khưu giữ gìn tâm trong sạch với phạm-thiên giữ gìn tâm trong sạch được hay không?

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, được. Bạch Ngài.

    - Này Vāseṭṭha! Đúng vậy, tỳ-khưu giữ gìn tâm trong sạch sau khi chết, sẽ sống chung với phạm-thiên giữ gìn tâm trong sạch. Đó là điều có thể được.

    Khi Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, cậu Vāseṭṭha và cậu Bhāradvāja bạch rằng:

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá!

    - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật hay tuyệt vời quá! Ví như người lật ngửa vật bị úp xuống, mở ra vật bị đóng kín, chỉ đường cho người lạc đường, rọi đèn vào chỗ tăm tối để cho người có đôi mắt sáng được nhìn thấy mọi vật như thế nào, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp, giảng dạy với nhiều cách cũng như thế ấy.

    Hai chúng con thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy y nương nhờ nơi Đức-Pháp, xin quy y nương nhờ nơi chư tỳ-khưu Tăng.

    Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận hai con là người cận-sự-nam (upāsaka), đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời, trọn kiếp.

    Sau khi cậu Vāseṭṭha và cậu Bhāradvāja đã trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) được 2-3 ngày sau, cậu Vāseṭṭha và cậu Bhāradvāja dẫn nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

    Đức-Thế-Tôn cho phép hai người xuất gia trở thành tỳ-khưu, sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Vāseṭṭha và tỳ-khưu Bhāradvāja thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

    (Tóm lược xong bài kinh Tevijjasutta)

    -oo0oo-

    (1) Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta.

    ---

    (1) Dhammapadaṭṭhakathā, tích Mahākappinattheravatthu.

    ---

    (1) Xem ý nghĩa trong trang 2.

    ---

    (1) Tiền-kiếp của Đức-vua Mahākappina và Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā đã từng lưu-trữ ở trong tâm từ nhiều kiếp trong quá-khứ 9 ân-đức Phật- bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo. Nay kiếp hiện-tại nghe đến danh hiệu “Buddho, Dhammo, Saṃgho” nên có khả năng đặc biệt ghi nhớ lại được, rồi niệm 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, một cách dễ dàng như vậy.

    ---

    (1) Xem ý nghĩa trong trang 120 - 122.

    ---

    (1) Maj. Majjhimapaṇṇāsa, Kinh Selasutta.

    (2) Đạo-sĩ Keṇiya vốn là người có nhiều của cải tài-sản lớn hộ độ các Bà-la- môn có uy tín trong dân chúng, các quan trong triều đình, ...

    ---

    (1) Dīghanikāya, Sīlakkhandhavagga, Kinh Tevijjasutta.

    ---

    (1) 3 bộ sách của đạo Bà-la-môn là Iruveda, Yajuveda, Sāmaveda.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.