PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
THERAVĀDA
NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
TAM BẢO
(RATANATTAYA)
Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
TAM-TẠNG PĀḶI (TIPIṬAKAPĀḶI)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo tạng thì có ba tạng:
I- Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi).
II- Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi).
III- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi).
I- TẠNG LUẬT PĀḶI (VINAYAPIṬAKAPĀḶI)
Tạng Luật Pāḷi gồm những lời răn dạy của Đức-Phật. Đức-Phật đã ban hành những điều-giới tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni, những pháp-hành tăng-sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm, v.v...
Tạng Luật Pāḷi có 5 Bộ:
I.1- Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều-giới:
- 4 điều-giới Pārājika.
- 13 điều-giới Saṃghādisesa.
- 2 điều-giới Aniyata.
- 30 điều-giới Nissaggiya pācittiya, ...
I.2- Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều-giới:
- 92 điều-giới Suddha pācittiya.
- 4 điều-giới Pāṭīdesanīya.
- 75 điều-giới Sekhiya.
- 7 điều Adhikaraṇasamatha.
- Những điều-giới của tỳ-khưu ni.
I.3- Bộ Mahāvaggapāḷi (Tạng Luật)
Trong bộ luật Mahāvagga Pāḷi này, Đức-Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, thuyết pháp kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, Đức-Phật ban hành phép xuất-gia thọ sadi, tỳ-khưu, v.v...
I.4- Bộ Cūḷavaggapāḷi
Trong bộ luật Cūḷavagga Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều pháp-hành tăng-sự đến chư tỳ-khưu. Bộ này, lần đầu tiên Đức-Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật, cùng với 500 cận-sự-nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ tỳ-khưu-ni, v.v...
I.5- Bộ Parivārapāḷi
Trong bộ luật Parivāra Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác, ...
Đó là 5 bộ trong Tạng Luật Pāḷi mà chỉ có Đức-Phật duy nhất chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, ... mà thôi. Còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không có khả năng chế định ra điều-giới và các pháp- hành tăng-sự, ... Các điều-giới, các pháp-hành tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định và đã ban hành rồi, các hàng thanh-văn đệ-tử cần phải nên nghiêm chỉnh hành theo mà không được phép sửa đổi, thêm hoặc bớt điều nào cả.
TẠNG LUẬT PĀḶI CÓ BA ĐẶC TÍNH ĐẶC BIỆT
- Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
- Đức-Phật giáo-huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana).
- Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).
ĐỨC-PHẬT THUYẾT GIẢNG BẰNG PHÁP LỆNH NHƯ THẾ NÀO?
Đức-Phật đã chế định ra điều-giới, các pháp-hành tăng-sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm, ... đến chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni.
Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức-Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm điều nào thì vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều- giới ấy.
Đức-Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng- luật, còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không được phép chế định một điều nào cả.
ĐỨC-PHẬT GIÁO HUẤN TÙY THEO LỖI NHƯ THẾ NÀO?
Khi nào tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư-thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư tỳ-khưu-tăng. Khi ấy, Đức- Phật mới chế định điều-giới, ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau:
2.1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.
2.2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.
2.3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni phá giới, khó dạy không biết hổ-thẹn tội-lỗi và không biết ghê-sợ tội-lỗi.
2.4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết kính yêu giới.
2.5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện-tại.
2.6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để tránh khỏi tai họa tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) trong kiếp vị-lai.
2.7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức-tin đến những người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.
2.8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức-tin cho những người đã có đức-tin nơi Tam-Bảo.
2.9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho chánh-pháp “pháp-học chánh-pháp, pháp-hành chánh-pháp, pháp- thành chánh-pháp” được trường tồn lâu dài.
2.10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.
Sau khi có tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên, thì Đức-Phật mới chế định ra điều-giới. Cho nên, những tỳ-khưu nào, tỳ-khưu-ni nào phạm lỗi đầu tiên, tỳ-khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy không phải phạm điều-giới ấy.
Đức-Phật chế định điều-giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức-Phật đã chế định điều- giới nào rồi, ban hành đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nếu tỳ- khưu nào, tỳ-khưu-ni nào cố ý phạm điều-giới ấy thì tỳ- khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy đã phạm điều-giới ấy.
ĐỨC-PHẬT RĂN DẠY TỲ-KHƯU, TỲ-KHƯU-NI GIỮ GÌN CẨN TRỌNG THÂN VÀ KHẨU NHƯ THẾ NÀO?
Đức-Phật ban hành điều-giới đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cốt để răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu.
Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn điều-giới được trong sạch, có thể diệt được phiền-não loại thô (vitikkama- kilesa), để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật Pāḷi.
TỲ-KHƯU-GIỚI
Đức-Phật chế định, ban hành điều-giới của tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều-giới như sau:
1- Pārājika: Giới bại hoại có 4 điều-giới.
2- Saṃghādisesa: Giới hành phạt có 13 điều-giới.
3- Aniyata: Giới bất định có 2 điều-giới.
4- Nissaggiya pācittiya: Xả rồi sám hối có 30 điều-giới nghĩa là tỳ-khưu phải xả bỏ vật bị phạm giới trước, sau đó mới xin sám hối (pācittiya āpatti).
5- Suddha pācittiya: Giới sám hối lỗi có 92 điều-giới.
6- Pāṭidesanīya: Giới sám hối riêng rẽ có 4 điều-giới.
7- Sekhiya: Giới hành có 75 điều-giới.
8- Adhikaraṇasamatha: Pháp giảng hòa có 7 pháp.
Tuy nhiên, trong Tạng Luật Pāḷi gom tất cả mọi điều- giới của tỳ-khưu đầy đủ có 91.805.036.000 điều-giới.
Như trong bộ Visuddhimagga dạy:
“Navakoṭisahassāni, asitisatakoṭiyo. Paññāsasatasahassāni, chattiṃsa ca punāpare.
Ete saṃvaravinayā, Sambuddhena pakāsitā. Peyyālamukhena niddiṭṭhā, sikkhā vinayasaṃvare.”(1)
Đức-Phật đã chế định những điều-giới trong Tạng Luật Pāḷi theo cách tính rộng thì gồm có 91.805.036.000 điều-giới, giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu tránh xa mọi hành-ác.
TỲ-KHƯU-NI GIỚI
Đức-Phật chế định ban hành điều-giới của tỳ-khưu-ni Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều-giới như sau:
1- Pārājika có 8 điều-giới.
2- Saṃghādisesa có 17 điều-giới.
3- Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới.
4- Suddha pācittiya có 166 điều-giới.
5- Pāṭidesanīya có 8 điều-giới.
6- Sekhiya có 75 điều-giới.
7- Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.
Tên điều-giới Tỳ-khưu-giới
1- Điều-giới Pārājika có 4 điều-giới
2- Điều-giới Saṃghādisesa có 13 điều-giới
3- Điều-giới Aniyata có 2 điều-giới
4- Điều-giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới
5- Điều-giới Suddha pācittiya có 92 điều-giới
6- Điều-giới Pāṭidesanīya có 4 điều-giới
7- Điều-giới Sekhiya có 75 điều-giới
8- Điều-giới Adhikaraṇasamatha có 7 điều-giới
227 điều-giới
Tên điều-giới Tỳ-khưu-ni giới
1- Điều-giới Pārājika có 8 điều-giới
2- Điều-giới Saṃghādisesa có 17 điều-giới
3- Điều-giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới
4- Điều-giới Suddha pācittiya có 166 điều-giới
5- Điều-giới Pāṭidesanīya có 8 điều-giới
6- Điều-giới Sekhiya có 75 điều-giới
7- Điều-giới Adhikaraṇasamatha có 7 điều-giới
311 điều-giới
PHẠM GIỚI ĀPATTI
TỲ-KHƯU, TỲ-KHƯU-NI PHẠM GIỚI ĀPATTI CÓ 7 LOẠI
1- Pārājika āpatti: Phạm giới bại hoại. Mất phẩm hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu ni.
2- Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới hành phạt. Xin chư Tăng hình phạt.
3- Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng. Lỗi kém thua hai giới trên.
4- Pācittiya āpatti: Phạm giới sám hối lỗi.
5- Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới sám hối riêng rẽ.
6- Dukkaṭa āpatti: Phạm giới hành bậy.
7- Dubbhāsita āpatti: Phạm giới nói bậy.
Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính:
PHẠM GIỚI ĀPATTI NẶNG CÓ HAI LOẠI
* Pārājika āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy bị mất phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành sa-di suốt đời).
* Saṃghādisesa āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni ấy tuy còn phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức-Phật ban hành: hành parivāsakamma, hành mānatta- kamma và hành abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.
PHẠM GIỚI ĀPATTI NHẸ CÓ 5 LOẠI
Thullaccaya āpatti, pācittiya āpatti, pāṭidesanīya āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti. Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong 5 loại giới này thì tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni ấy có thể xin sám hối với một vị tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.
QUẢ BÁU CỦA SỰ GIỮ GÌN GIỚI
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Đức-Phật thuyết dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, có được quả báu theo nhân quả tuần tự như sau:
1- Giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn đem lại lợi ích là giữ gìn cẩn trọng 6 môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) được thanh-tịnh.
2- Có giữ gìn cẩn trọng 6 môn được thanh-tịnh đem lại lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.
3- Tâm mát mẻ đem lại lợi ích là có tâm hài lòng hoan-hỷ.
4- Tâm hài lòng hoan-hỷ đem lại lợi ích là pháp-hỷ.
5- Pháp-hỷ đem lại lợi ích là pháp an-tịnh.
6- Pháp an-tịnh đem lại lợi ích là pháp an-lạc.
7- Pháp an-lạc đem lại lợi ích là pháp thiền-định.
8- Pháp thiền-định đem lại lợi ích là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ-uẩn.
9- Trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ- uẩn đem lại lợi ích là trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn.
10- Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn đem lại lợi ích là diệt tận được tham-ái bằng 4 Thánh-đạo-tuệ.
11- Diệt tận được tham-ái đem lại lợi ích là giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ.
12- Giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ đem lại lợi ích cho trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải thoát khổ rồi.
13- Trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải thoát khổ rồi đem lại lợi ích là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Hành-giả giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng đem lại nhiều lợi ích cho mọi thiện-pháp, cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
QUẢ BÁU CỦA VIỆC HỌC TẠNG LUẬT PĀḶI
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Ngài Trưởng- lão Upāli bạch hỏi Đức-Thế-Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi. Đức-Phật dạy rằng:
- Này Upāli! Tỳ-khưu học Tạng Luật Pāḷi có được 5 quả báu là:
1- Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2- Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới luật.
3- Người có thiện-tâm dũng cảm trong các hội chúng.
4- Người thắng kẻ thù bên trong là phiền-não và kẻ thù bên ngoài bằng chánh-pháp.
5- Người hành theo chánh-pháp để duy trì chánh-pháp được trường tồn.
Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật Pāḷi.
II- TẠNG KINH PĀḶI (SUTTANTAPIṬAKAPĀḶI)
Tạng Kinh Pāḷi là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ mà Đức-Phật đã thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ có lời của chư Thánh A-ra-hán, chư-thiên, chư phạm-thiên, Đức-vua, Sa-môn, Bà-la-môn, ... trong các bài kinh ấy. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời dạy của Đức-Phật.
Tạng Kinh Pāḷi gồm có 5 bộ lớn:
II.1- Trường-Bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi): gồm có những bài kinh dài.
II.2- Trung-Bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi): gồm có những bài kinh loại trung.
II.3- Đồng-Loại Bộ-kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi): gồm những bài kinh có điểm giống gom thành nhóm.
II.4- Chi-Bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi): gồm những bài kinh có chi-pháp rõ ràng.
II.5- Tiểu-Bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi): gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu-Bộ-kinh này.
TẠNG KINH PĀḶI CÓ BA ĐẶC TÍNH ĐẶC BIỆT
- Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
- Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh (yathānulomasāsana).
- Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt được tà-kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
1- Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?
Đức-Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng-sinh. Cho nên, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh gồm có nhiều hạng chúng-sinh khác nhau như tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ, Vua chúa, Bà-la-môn, dân chúng, cho đến chư-thiên, chư phạm-thiên, v.v...
Mỗi khi chúng-sinh lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng chánh-pháp, bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng-sinh.
Vì vậy, sau khi nghe pháp xong, có số trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, có số trở thành bậc Thánh Nhất-lai, có số trở thành bậc Thánh Bất-lai, có số trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
Cũng có số chúng-sinh chưa trở thành bậc Thánh-nhân, họ đang tạo duyên lành, bồi bổ các pháp-hạnh ba- la-mật để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong thời vị-lai kiếp này, hoặc kiếp sau.
2- Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh như thế nào?
Đức-Phật có hai loại trí-tuệ đặc biệt là:
- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ biết rõ 5 pháp- chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng-sinh.
- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ biết rõ phiền-não trầm luân ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Phật biết rõ được chúng-sinh có duyên lành chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, hoặc không chứng đắc, nên Đức-Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với duyên lành của chúng-sinh ấy.
Khi chúng-sinh ấy lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền- não, tham-ái, trở thành bậc Thánh-nhân.
Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, biết chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền bốc thuốc tốt nên bệnh nhân mau lành bệnh.
3- Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt tà-kiến như thế nào?
Đức-Phật biết rõ mỗi chúng-sinh có tà-kiến khác nhau (trong 62 loại tà-kiến), nên Đức-Phật thuyết dạy chúng- sinh ấy phát sinh chánh-kiến, nên diệt được tà-kiến theo chấp ngã, các loại tà-kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân một cách dễ dàng.
Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
III- TẠNG VI-DIỆU-PHÁP PĀḶI (ABHIDHAMMAPIṬAKAPĀḶI)
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm những chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) cao siêu, vi diệu, là những pháp có thật-tánh rõ ràng như: thiện-pháp (kusaladhamma), bất-thiện-pháp (akusaladhamma), không phải thiện- pháp, không phải bất-thiện pháp (abyākatadhamma), ...
Những pháp ấy được phân chia ra là ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự tánh, ... tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa), Niết-bàn (Nibbāna), thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, ... chỉ là những thật-tánh-pháp mà thôi.
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được Đức-Phật thuyết tại cung trời Tam-thập-Tam-thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức- Phật, để tế độ Phật-mẫu mà kiếp hiện-tại là vị thiên-nam Santussita ở cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Vị thiên-nam Santussita hiện xuống cung trời Tam-thập-Tam-thiên lắng nghe Đức-Phật thuyết Tạng Vi-diệu-pháp này suốt ba tháng hạ (1). Vị thiên-nam Santussita trở thành bậc Thánh Nhập-lưu cùng với 800 tỷ chư-thiên, chư phạm- thiên cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn cao thấp tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị.
Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập-Tam-thiên, mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng, còn Đức-Phật thật ngự đi khất thực nơi Bắc-cưu-lưu-châu, rồi ngự đến hồ nước Anotatta tại rừng núi Himavanta, Đức-Phật thọ thực. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta mỗi ngày đến hầu phục vụ Đức-Phật. Sau khi thọ thực xong, Đức- Phật thuyết giảng lại Vi-diệu-pháp tóm lược ngày hôm ấy cho Ngài Đại-Trưởng-lão.
Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về dạy lại bằng cách khai triển đầy đủ cho nhóm 500 đệ-tử của Ngài.
Như vậy, suốt ba tháng hạ mùa mưa, Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập- Tam-thiên, thì tại cõi người, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cũng giảng dạy lại cho nhóm 500 đệ-tử thông thuộc, thấu suốt Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi. Về sau Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi được lưu truyền rộng rãi đến các hàng thanh-văn đệ-tử cho đến ngày nay.
Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 7 bộ
III.1- Bộ Dhammasaṅgaṇīpāḷi: Bộ Pháp-hội-tụ gồm tất cả các chân-nghĩa-pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm hai loại:
- Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi-pháp gồm có 32 mātikā. Duka mātikā: Pháp đầu đề có hai chi-pháp gồm có 100 mātikā, ...
III.2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), tự tánh (dhātu), v.v...
III.3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại gồm các pháp phân loại thành ngũ-uẩn (khandha), 12 xứ (āyatana), 18 tự-tánh (dhātu), tứ đế (sacca)...
III.4- Bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ Pháp-nhân-chế- định phân biệt các hạng người khác nhau.
III.5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề đặt vấn đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh-pháp.
III.6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp.
III.7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp-duyên-hệ giải về 24 duyên (paccaya) có quan hệ với nhau.
Bộ Pháp-duyên-hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi-diệu nhất trong Phật-giáo.
TẠNG VI-DIỆU-PHÁP PĀḶI CÓ BA ĐẶC TÍNH ĐẶC BIỆT
- Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp (Paramatthadesanā).
- Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến chấp-ngã (yathādhamma- sāsana).
- Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp (nāmarūpaparicchedakathā).
1- Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp như thế nào?
Đức-Phật chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Đức-Phật thông hiểu thấu suốt tất cả các chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) đó là tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa) và Niết-bàn (Nibbāna).
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có Ñeyyadhamma (1) đầy đủ năm pháp đặc biệt, nên Đức-Phật có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết giảng chân-nghĩa-pháp, thuyết dạy Tạng Vi-diệu-pháp này.
Ngoài Đức-Phật ra, không có một vị đạo-sư nào có khả năng thuyết giảng chân-nghĩa-pháp này, bởi vì họ không phải là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
2- Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến chấp-ngã như thế nào?
Đức-Phật biết rõ tà-kiến theo chấp ngã của chúng- sinh khác nhau như:
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp sắc-pháp cho là ta (ngã).
Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp ngũ-uẩn (pañcakkhandha) là pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong ngũ-uẩn có 4 danh-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-pháp tam-giới là pháp vô-ngã (anattā), còn một sắc-uẩn thuộc về sắc- pháp cũng là pháp vô-ngã.
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp sắc-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp danh-pháp tam-giới cho là ta.
Để tế độ nhóm chúng-sinh này, Đức-Phật thuyết pháp 12 xứ (12 āyatana) là pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ, thân- xứ, và sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ thuộc về sắc-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Còn lại ý-xứ thuộc về danh-pháp và phần pháp-xứ thuộc về sắc-pháp, danh-pháp cũng là pháp vô-ngã.
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp và sắc-pháp tương đương cho là ta (ngã).
Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp 18 tự-tánh (1) (18 dhātu) là pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong 18 tự-tánh, có 10 tự-tánh: nhãn-tự-tánh, nhĩ-tự- tánh, tỷ-tự-tánh, thiệt-tự-tánh, thân-tự-tánh, và sắc-tự- tánh, thanh-tự-tánh, hương-tự-tánh, vị-tự-tánh, xúc-tự- tánh thuộc về sắc-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Còn lại 7 tự-tánh khác: nhãn-thức-tự-tánh, nhĩ-thức-tự-tánh, tỷ- thức-tự-tánh, thiệt-thức-tự-tánh, thân-thức-tự-tánh, ý-tự- tánh, ý-thức-tự-tánh thuộc về danh-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Riêng pháp-tự-tánh thuộc về danh-pháp và sắc-pháp cũng là pháp vô-ngã, v.v...
Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là pháp vô-ngã (anattā), không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, ... để diệt tà-kiến theo chấp ngã.
3- Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp tam-giới như thế nào?
Đức-Phật thuyết giảng phân tích cho chúng-sinh thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam-giới thuộc về pháp hữu-vi; mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới, có thật- tánh-pháp, có trạng-thái riêng, có sự sinh, sự diệt, nên có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, để diệt tâm tà-kiến thấy sai chấp lầm từ sắc-pháp từ danh-pháp tam-giới cho là tự ngã của ta, diệt tâm tham-ái trong sắc-pháp, danh-pháp tam- giới cho là của ta, diệt tâm ngã-mạn chấp sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là ta hơn người, ta bằng người, ta kém thua người, ...
Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Vi-diệu-pháp.
QUẢ BÁU CỦA SỰ HỌC TAM-TẠNG PĀḶI
* Hành-giả theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật Pāḷi, giữ gìn giới đức trong sạch trọn vẹn.
Hành-giả có giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, nương nhờ giới, thực hành pháp-hành thiền-định và thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tam- minh(1)do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Luật Pāḷi.
* Hành-giả học thông-thuộc Tạng Kinh Pāḷi có giới trong sạch thanh-tịnh làm nền tảng, thực hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc bát-thiền.(2)
Hành-giả dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối-tượng, thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục thông (1) do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Kinh Pāḷi.
* Hành-giả học thông-thuộc Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi có giới và định làm nền tảng, thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích (2), do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.
NGŨ-BỘ PĀḶI (PAÑCANIKĀYAPĀḶI)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ gồm có 40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ 6 tại động Kaba Aye, Yangon xứ Myanmar.
- Trường-Bộ-Kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi).
- Trung-Bộ-Kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi).
- Đồng-Loại-Bộ-Kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi).
- Chi-Bộ-Kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi).
- Tiểu-Bộ-Kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi).
TRƯỜNG-BỘ-KINH PĀḶI LÀ GÌ?
Trường-bộ-kinh Pāḷi gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển:
1- Sīlakkhandhavaggapāḷi gồm có 13 bài kinh dài.
2- Mahāvaggapāḷi gồm có 10 bài kinh dài.
3- Pāthikavaggapāḷi gồm có 11 bài kinh dài.
TRUNG-BỘ-KINH PĀḶI LÀ GÌ?
Trung-bộ-kinh Pāḷi gồm có 152 bài kinh loại vừa chia làm 3 quyển:
1- Mūlapaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm có 50 bài kinh loại vừa.
2- Majjhimapaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm có 50 bài kinh loại vừa.
3- Uparipaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, chương 1, 2, 3 và 5: mỗi chương có 10 bài kinh loại vừa, còn chương 4 có 12 bài kinh trung bình, gồm có 52 bài kinh loại vừa.
ĐỒNG-LOẠI-BỘ-KINH PĀḶI LÀ GÌ?
Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau, đặc biệt bộ này những bài kinh có điểm đồng loại nhau, được gom chung lại với nhau thành một chương riêng biệt.
Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư-thiên gom chung lại với nhau thành nhóm gọi là devatasaṃyutta. Những bài kinh liên quan đến Đức-vua xứ Kosala gom chung lại thành chương gọi là Kosalasaṃyutta, v.v...
Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 5 bộ chia làm 3 quyển:
1- Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 11 chương và Nidānavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 10 chương.
2 - Khandhavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 13 chương và Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi gồm có 10 chương.
3- Mahāvaggasaṃyuttapāḷi gồm có 12 chương.
Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh.
CHI-BỘ-KINH PĀḶI LÀ GÌ?
Chi-bộ-kinh Pāḷi gồm có những bài kinh có chi-pháp. Những bài kinh có một chi-pháp, những bài kinh có hai chi-pháp, v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi-pháp.
* Những bài kinh có một chi-pháp gọi là: Ekakanipāta.
* Những bài kinh có các chi-pháp khác: Dukanipāta, Tikanipāta, Catukkanipāta, Pañcakanipāta, ... cho đến những bài kinh có 11 chi-pháp gọi là: Ekādasakanipāta.
Chi-bộ-kinh Pāḷi này có 11 nipāta, gom thành 3 quyển, gồm tất cả có 9.557 bài kinh ngắn dài khác nhau.
1- Ekaka-duka-tika-catukka nipātapāḷi.
2- Pañcaka-chakka-sattaka nipātapāḷi.
3- Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasaka nipātapāḷi.
TIỂU-BỘ-KINH PĀḶI LÀ GÌ?
Tiểu-bộ-kinh Pāḷi này gồm có tất cả các bài kinh nào, quyển nào không có trong 4 bộ trên đều được gom vào Tiểu-bộ-kinh Pāḷi này.
Tiểu-bộ-kinh Pāḷi gồm có Tạng Luật Pāḷi, Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi và một phần Tạng Kinh Pāḷi còn lại gồm có 28 quyển:
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ, có 5 quyển:
- Pārājikapāḷi.
- Pācittiyapāḷi.
- Mahāvaggapāḷi.
- Cūḷavaggapāḷi.
- Parivārapāḷi.
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi có 7 bộ, gồm có 12 quyển:
- Dhammasaṅgaṇīpāḷi.
- Vibhaṅgapāḷi.
- Dhātukathā và
- Puggalapaññattipāḷi.
- Kathāvatthupāḷi.
- Yamakapāḷi (3 quyển).
- Paṭṭhānapāḷi (5 quyển).
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Kinh gồm có 19 bộ, gồm có 11 quyển:
- Khuddakapāṭhapāḷi, Dhammapadagāthāpāḷi, Udāna- pāḷi, Itivuttakapāḷi, Suttanipātapāḷi (gồm có 5 bộ).
- Vimānavatthupāḷi, Petavatthupāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi (gồm có 4 bộ).
- Apādānapāḷi (phần 1).
- Apādānapāḷi (2), Buddhavaṃsapāḷi, Cariyapiṭakapāḷi.
- Mahāniddesapāḷi.
- Cūḷaniddesapāḷi.
- Jātakapāḷi (2 quyển).
- Paṭisambhidāmaggapāḷi.
- Nettipāḷi, Peṭakopādesapāḷi.
- Milindapañhāpāḷi.
Ngũ-bộ gồm có 40 quyển.
CỬU-PHẦN (NAVAṄGA)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo phần (aṅga) thì có 9 phần như sau:
1- Suttapāḷi (Kinh): gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh Maṅgalasuttapāḷi, Ratanasuttapāḷi và Tạng luật Pāḷi cũng được gom chung vào phần Suttapāḷi này.
2- Geyyapāḷi (Kệ): gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu kệ (không có đoạn văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi, ...
3- Veyyākaraṇapāḷi (Kinh): gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không có kệ xen vào) như Dhamma- cakkappavattanasuttapāḷi, Mahāsatipaṭṭhānasuttapāḷi,... và Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được gom chung vào trong phần Veyyākaraṇapāḷi này.
4- Gāthāpāḷi (Kệ): gồm những bài kệ không có tên bài kinh như Dhammapadagāthāpāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi, ...
5- Udānapāḷi (Bài tự thuyết): gồm có 82 bài tự thuyết của Đức-Phật do tâm hoan-hỷ phát sinh.
6- Itivuttakapāḷi: gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ Bhagavatā, ... Điều này đúng như lời Đức-Thế-Tôn dạy ...
7- Jātakapāḷi (Tiền-kiếp): những câu kệ liên quan đến 547 tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, bắt đầu tích Apannakajātakapāḷi và cuối cùng Vessantarajātakapāḷi.
8- Abhūtadhammapāḷi: gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ trước (acchariyabhūta- dhammapāḷi), thường khởi đầu bằng câu:
“Này chư tỳ-khưu, những pháp phi thường chưa từng có từ trước ...” như bài kinh Pahārādasutta ...
9- Vedalla: gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí-tuệ hợp với hỷ như Cūḷavedallasuttapāḷi, Mahāvedallasutta- pāḷi, Sakkapañhāsuttapāḷi, ...
84.000 PHÁP-MÔN (DHAMMAKKHANDHAPĀḶI)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia thành pháp-môn Pāḷi (Dhammakkhandhapāḷi) thì có 84.000 pháp-môn Pāḷi, trong bộ Tam-tạng Pāḷi như sau:
1- Tạng Luật Pāḷi gồm có 21.000 Pháp-môn.
2- Tạng Kinh Pāḷi gồm có 21.000 Pháp-môn.
3- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 42.000 Pháp-môn.
PHƯƠNG PHÁP ĐẾM PHÁP-MÔN TRONG TAM-TẠNG PĀḶI
* Trong Tạng Luật Pāḷi: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức-Phật chế định điều-giới, ban hành giới đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni là một pháp-môn.
Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới, v.v... mỗi điều là một pháp-môn.
Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp-môn. * Trong Tạng Kinh Pāḷi: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp-môn.
Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp-môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp-môn, v.v...
Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp-môn.
* Trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi: Pháp phân chia mỗi tika, mỗi duka là một pháp-môn, phân loại tâm và tâm- sở đồng sinh là một pháp-môn, v.v...
Như vậy, trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 42.000 pháp-môn.
Trong 84.000 pháp-môn Pāḷi này, Đức-Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp-môn Pāḷi, còn 2.000 pháp- môn Pāḷi do chư bậc Thánh A-ra-hán thuyết dạy.
Như Ngài Trưởng-lão Ānanda, bậc thủ kho tàng pháp-bảo Pāḷi của Đức-Phật Gotama dạy trong bộ Theragāthāpāḷi, Ānandattheragāthā có câu kệ rằng:
“Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto. Caturāsiti sahassāni, ye me dhammā pavattino.” (1)
“Tôi là Ā-nan-da,
Đã học từ kim ngôn Đức-Phật,
Được tám mươi hai ngàn pháp-môn, Học từ chư Thánh A-ra-hán,
Gom nhặt được hai ngàn pháp-môn, Tôi là thủ kho tàng pháp-bảo,
Trọn tám mươi bốn ngàn pháp-môn.”
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama gồm có 84.000 pháp-môn Pāḷi vẫn còn lưu truyền trong các nước có truyền thống Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo nguyên-thủy) như nước Tích Lan (Srilankā), nước Miến Điện (Myanmar), nước Thái-Lan, nước Campuchia, nước Lào, v.v...
Ngày nay, Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo nguyên- thủy) được truyền bá đến nhiều nước trên thế giới, trong số các nước ấy có Phật-giáo nguyên-thủy Theravāda tại Việt-Nam.
-oo0oo-
(1) Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.
---
(1) Thời gian 3 tháng hạ ở cõi người so với ở cõi trời Tam-thập-Tam-thiên là khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì một ngày một đêm ở cõi trời Tam-thập- Tam-thiên bằng 100 năm ở cõi người.
---
(1) Ñeyyadhamma có 5 pháp 1- Saṅkhāra: Các pháp-hành cấu tạo. 2- Vikāra: Các pháp biến đổi. 3- Lakkhaṇa: Các trạng-thái của các pháp. 4- Paññatti: Các chế-định-pháp. 5- Nibbāna: Niết-bàn.
---
(1) Tự-tánh: Tánh riêng của mỗi pháp. Ví dụ: nhãn-tự-tánh (tự-tánh của nhãn-tịnh-sắc là tiếp xúc với đối-tượng sắc); nhãn-thức-tự-tánh (tự-tánh của nhãn-thức-tâm là nhìn thấy đối-tượng sắc).
---
(1) Tam minh: Tiền-kiếp-minh, Thiên-nhãn minh, Trầm-luân-tận-minh. 2 Bát thiền: 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.
---
(1) Lục thông: Đa-dạng-thông, thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông, tiền-kiếp- thông, tha-tâm-thông, trầm-luân-tận-thông.
(2) Tứ tuệ-phân-tích: Nghĩa phân-tích, Pháp phân-tích, Ngôn-ngữ phân-tích, Tuệ-ứng-đối phân-tích.
---
(1) Bộ Theragāthāpāḷi, Ānandattheragathāpāḷi.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.