Thích giải rộng nhóm bốn nghiệp (Kammacatukka)

Thích giải rộng nhóm bốn nghiệp (Kammacatukka)

    THERAVADA
    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

    Hậu Sớ Giải

    Tỳ khưu Khải Minh

    PL. 2551 – DL. 2008

     

    THÍCH GIẢI RỘNG NHÓM BỐN NGHIỆP (KAMMACATUKKA)

    Từ:"Nghiệp" (Kamma) ám chỉ hành động liên quan đến thân, ngữ, ý cả thiện lẫn bất thiện. Hay pháp chủng làm cho thành tựu hành động gọi là nghiệp.

    Có định nghĩa như sau: "Karaṇaṃ: Kammaṃ" hoặc "Karonti etenāti: kammaṃ" Hành động gọi là nghiệp hoặc tất cả chúng sanh hành động nương vào pháp chủng nào, pháp chủng làm nhân cho thành tựu hành động đó gọi là nghiệp. Tức sở hữu tư trong tâm bất thiện và tâm thiện hiệp thế.

    Ngài giáo thọ sư Anuruddha trình bày nhóm bốn nghiệp này phân ra thành bốn:

    1-Kiccacatukka: Nói về phận sự có bốn.

    2- Pākadānapariyāyacatukka: Nói về sự tuần tự cho quả có bốn.

    3- Pākakālacatukka: Nói về thời gian cho quả có bốn.

    4- Pākatthānacatukka: Nói về lãnh vực cho quả có 4.

    Trong cả bốn nhóm này thì Pākatthānacatukka được trình bày thuần nhất theo lý Thắng Pháp tức theo lý được trình bày chuẩn xác. Còn ba nhóm 4 còn lại được trình bày theo lý Kinh tức theo lý đề cập không chuẩn xác (trình bày theo quan điểm chung).

    *

    NHÓM BỐN NGHIỆP THEO PHẬN SỰ (KAMMACATUKKA)

    A- Janakakamma (sanh nghiệp) được định nghĩa như sau:

    "Vipākakkandha kammajarūpāni janatīti janakaṃ".

    Nghiệp nào làm cho danh - uẩn - quả - và sắc nghiệp sanh lên nghiệp đó gọi là sanh nghiệp. Tức mười hai bất thiện nghiệp và mười bảy thiện nghiệp hiệp thế.

    Sanh nghiệp là nghiệp làm cho dị thục quả và sắc nghiệp cùng với sắc quí tiết do nghiệp sanh lên cả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Nghĩa là khi tất cả chúng sanh chết rồi tái sanh làm bàng sanh, nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên. Các chúng sanh này hiện hữu do mãnh lực của sanh nghiệp làm cho dị thục quả và sắc nghiệp sanh lên trong thời tái tục. Khi chúng sanh hiện khởi cũng phải có thân thể lớn nhỏ sanh lên theo thích ứng cùng với sự thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng và sự giữ gìn kiếp sống (hộ kiếp) sanh lên. Nhóm này hiện hữu do mãnh lực của sanh nghiệp làm cho dị thục quả, sắc nghiệp và sắc quí tiết do nghiệp (Kammapaccayautujarūpa) sanh lên trong thời bình nhật.

    Sanh nghiệp có thể làm cho dị thục quả và sắc nghiệp sanh lên trong thời tái tục. Như làm cho tái sanh thành loài bàng sanh, nhân loại… nhưng hầu hết phải là loại nghiệp tròn đủ nghiệp đạo. Còn sanh nghiệp làm cho dị thục quả, sắc nghiệp và sắc quí tiết do nghiệp sanh lên trong thời bình nhật. Như tạo ra thân thể lớn nhỏ cùng với sự thấy, nghe… (trừ tâm hộ kiếp) dù thuộc loại nghiệp tròn đủ nghiệp đạo hay không tròn đủ nghiệp đạo. Và thiện nghiệp, bất thiện nghiệp sanh lên trong lộ ngũ môn, hoặc khởi hiện trong lúc chiêm bao vẫn có mãnh lực cho quả dị thục, sắc nghiệp và sắc quí tiết do nghiệp sanh lên.

    Thiên cung là nơi mà nhóm chư thiên, Phạm Thiên ngự, hoặc lửa, gông cùm, xiềng xích để giam cầm của nhóm chúng sanh địa ngục đều liệt vào sắc quí tiết do nghiệp sanh lên từ sanh nghiệp.

    B- Upatthambhakakamma (trì nghiệp) được định nghĩa như sau: "Kammantaraṃ vā kammanibbattakhandhasantānaṃ vā upatthambhetīti: Upatthambhakam".

    Nghiệp nào trợ giúp ủng hộ cho nghiệp khác và làm cho uẩn tiếp nối sanh lên từ nghiệp khác, nghiệp đó gọi là trì nghiệp. Tức mười hai nghiệp bất thiện và tám nghiệp đại thiện.

    Trì nghiệp có ba trường hợp:

    - Trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả.

    - Trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    - Trợ giúp ủng hộ cho danh sắc dị thục quả của sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại lâu dài.

    A- Trì nghiệp trợ giúp, ủng hộ cho sanh nghiệp chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả: Bao gồm thiện, bất thiện sanh lên trong thời cận tử và trong lúc bình thường. Chính nhóm thiện, bất thiện này là trì nghiệp trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả.

    Sanh nghiệp chưa có cơ hội cho quả có hai loại:

    - Sanh nghiệp trong kiếp quá khứ.

    - Sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    Do đó, sự trợ giúp ủng hộ của trì nghiệp với sanh nghiệp chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả phân ra thành tám loại:

    - Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ.

    - Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ.

    - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    - Thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ.

    - Thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    - Bất thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ.

    - Bất thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    1 - Thiện nghiệp trong thời kỳ cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông A là phật tử nhưng trong kiếp hiện tại, hầu như ông thường tạo bất thiện. Do nhân này, khi ông A bị bệnh lúc cận tử cảnh tượng xấu hiện bày lên làm cho hành động của ông khác thường. Tuy nhiên ông vẫn còn chánh niệm tốt. Khi đó, có một người đứng bên cạnh thấy như vậy thì hiểu được rằng ông A đã có điềm báo không tốt sanh lên nên có tâm mê muội. Nếu mệnh chung trong lúc này chắc chắn sẽ rơi vào khổ cảnh. Thiện hậu báo nghiệp của ông A cũng không thể giúp ông thoát khỏi khổ cảnh được bởi vì tâm của ông không sáng suốt. Vì thế, người đó mới tìm cách hoán chuyển cảnh không tốt của ông A cho được sáng suốt lên. Bằng cách đến tụng kinh, cho thính pháp, đem kim thân Đức Phật đến đảnh lễ gần ông A để ông hướng tâm đảnh lễ Phật và nổ lực tích cực đem kinh Pháp Cú đến đọc cho nghe. Khi đã được hoán chuyển cảnh, tâm của ông A cũng sáng suốt lên. Cảnh tượng xấu diệt mất điềm báo an lành hiển lộ. Do đó, khi mệnh chung ông A được cơ hội sanh lên nhàn cảnh làm người hoặc chư thiên.

    Đây cũng do thiện nghiệp sanh lên trong thời kỳ cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ. Ngay cả nội dung Pāli trình bày trong Itivuttaka cũng đề cập rằng:

    Imasmiṃ cāyaṃ samaye Kālaṅkiriyātha puggalo

    Saggamhi uppajjeyya Cittañhisa pasāditaṃ...

    Imasmiṃ cayaṃ samaye Kālaṅkiriyātha puggalo

    Niraye uppajjeyya Cittañhisa padūsitaṃ...

    Người đó nếu mệnh chung trong lúc ấy chắc chắn sẽ sanh lên thiên giới, bởi vì tâm của người này sáng suốt.

    Người đó nếu mệnh chung trong lúc ấy chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục, bởi vì tâm của người này sầu muộn.

    2 - Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông B là phật tử có đức tin trong sạch, tạo phước bố thí, trì giới thường xuyên. Nhưng ông không từng thực hành Chỉ Tịnh hay Minh Sát và cũng không từng học Thắng Pháp. Nên khi bị bệnh lúc gần lâm chung tâm ông B run sợ, suy tư lo âu về tài sản, con cháu. Do đó, tâm của ông B bấn loạn, có dấu hiệu không tốt hiện bày lên làm cho hành động của ông khác lạ bất thường. Người đứng bên cạnh thông hiểu pháp, quan sát thấy như vậy biết được rằng nếu ông B mệnh chung trong lúc này chắc chắn sẽ rơi vào khổ cảnh, cho dù những thiện nghiệp mà ông đã từng kiến tạo trong kiếp hiện tại cũng không thể giúp ông được. Cho nên, người ấy cố gắng tìm cách hoán chuyển cảnh cho ông B phát sanh thiện tâm, bằng cách sắp đặt tương tự giống như ông A. Khi đã thực hiện như vậy, thì tâm ông B sáng suốt lên, cảnh tượng xấu cũng diệt mất, hiện tượng tốt sanh lên thay thế vào. Do đó, khi mệnh chung ông B được cơ hội sanh lên nhàn cảnh làm người hay chư thiên.

    Đây cũng do thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại.

    3 - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông C là người có tâm tạo phước bố thí, trì giới thường xuyên trong kiếp hiện tại. Nhưng chưa từng thực hành Chỉ Tịnh hay Minh Sát và cũng chưa từng học Thắng Pháp. Thời gian sau, khi ông C gần lâm chung phát sanh sợ hãi về sự chết, lo âu về tài sản, dính mắc đến con cháu làm cho tâm của ông C ủ dột. Lúc đó cảnh tượng xấu khởi lên làm cho vẻ mặt của ông C mất bình thường. Nhưng vì người đứng bên cạnh đó không thông hiểu pháp nên không có sự hoán chuyển nào. Do đó, khi qua đời ông C phải rơi vào cõi khổ. Vì thiện nghiệp mà ông C đã từng tạo trữ trong kiếp này không có cơ hội cho quả giúp cho ông sanh lên nhàn cảnh được.

    Đây là do bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện mà ông C đã từng tạo trong kiếp trước, được có cơ hội cho quả.

    4 - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông D khi còn là thanh niên phần nhiều tạo trữ bất thiện như sát sanh, trộm cắp, rượu chè trác táng… Khi đã lớn tuổi nhìn thấy tội lỗi trong các việc ác xấu đó thì có sự kinh cảm bàng hoàng phát sanh lên, mới từ bỏ thế tục xuất gia trong Phật Giáo trở thành vị tỳ khưu D. Thời gian sau, khi bệnh trầm trọng thì hồi tưởng lại lúc mình còn thanh niên đã từng tạo quá nhiều bất thiện, thì tâm của vị tỳ khưu D bất an vì biết mình sẽ rơi vào khổ cảnh. Sự hối hận làm tâm nhiệt não cho đến khi tắt thở, vị tỳ khưu D rơi ngay vào địa ngục.

    Đây cũng do bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện nghiệp mà mình đã từng tạo trong kiếp này, có cơ hội cho quả.

    5 - Thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông E là người tà kiến không tin tội phước, có quan kiến là "Sát sanh không có tội làm người mới là có tội. Việc làm phước để bát cúng dường, đánh lễ Chư Tăng, tụng kinh đều không có phước. Sự sanh tồn của tất cả chúng sanh trên thế gian này đều do đấng thượng đế là vị sáng tạo chủ". Sau đó, ông E đến làm công trong nhà của người có tâm tịnh tín Tam Bảo, thường xuyên tạo phước cúng dường như đặt bát hằng ngày, thính pháp, thọ trì bát quan trai giới nơi Chư Tăng… Ông E có bổn phận phải nấu cơm, sắp đặt vật thực để bát cho ông chủ mỗi ngày, đến ngày bát quan trai giới cũng phải đi theo ông chủ đến chùa. Chính việc làm đó làm cho tâm của ông E từ bỏ tà kiến và phát sanh tâm tịnh tín trong Phật Giáo. Khi ông E lâm bệnh gần sắp mệnh chung tâm của ông không có sự sầu muộn nào.Vã lại ông E độc thân không có tài sản, vì vậy nên cũng không có gì để nuối tiết. Do nhân này tham, sân, si thô thiển không có sức mạnh mãnh liệt khởi lên. Khi mệnh chung ông E được sanh lên làm người hoặc chư thiên bậc cao do thiện nghiệp nấu cơm để bát, thính pháp… mà ông thường làm. Cho dù việc làm thiện ấy không đủ sức mạnh trả quả cho ông E được sanh làm người hoặc chư thiên bậc cao. Nhưng chính nó làm điều kiện trợ giúp ủng hộ cho thiện hậu báo nghiệp mà ông E đã từng làm trong quá khứ có cơ hội trả quả cho ông được sanh về cõi an vui.

    Đây cũng là do thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả.

    6 - Thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông F từng thọ cụ túc giới, học pháp, hành Chỉ Tịnh và Minh Sát. Thời gian sau ông F từ bỏ điều học hoàn tục. Vì phải tạo dựng cuộc sống để nuôi mạng nhưng việc nuôi mạng của ông F liên quan đến bất thiện tức nghề chài lưới. Thế nhưng, ông F dốc tâm tạo phước thường xuyên là đặt bát mỗi ngày cho Chư Tăng không bỏ dở, còn những thiện nghiệp trước kia thì ông không còn có cơ hội để tạo nữa. Khi thẩm xét lại đời sống của mình ông nhận thức được rằng: "Việc nuôi mạng mà ta đang tạo đây là bất thiện, nhưng không thể chuyển đổi việc khác được vì ta không biết được nghề nào khác cả. Cho nên bắt buộc ta phải tầm cầu thiện nghiệp để làm chổ nương cho ta". Từ đó, ông F cố tâm đặt bát mỗi ngày cho Chư Tăng cùng với sự hân hoan vui thích. Cho đến khi sắp lâm chung, tâm của ông F không sanh khởi sầu muộn. Do đó, khi mệnh chung ông F, được sanh làm người hay chư thiên bậc cao do mãnh lực của thiện giới hay thiện tu tiến mà ông từng tạo trong kiếp này.

    Nếu nói đến sự nuôi mạng bất thiện thì cũng biết được rằng, đã không có cơ hội cho quả mà trở lại trả quả cho ông F được sanh về cõi an vui. Bởi nương vào mãnh lực của thiện thí mà ông đã nhiệt thành làm cùng với thiện tu tiến trong kiếp hiện tại, nên mới được có cơ hội cho quả.

    7 - Bất thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông G từ nhỏ cho đến khi khôn lớn thành niên, là người có thiện tâm. Hằng ngày giúp cha mẹ để bát và cùng đi thính pháp mỗi ngày nơi Chư Tăng, lại thường xuyên xả thí làm tư lương với hy vọng đến khi mệnh chung thì mình sẽ chắc chắn không rơi vào địa ngục. Thời gian sau, khi lập gia đình thì việc làm thiện của ông G cũng dần dà cách biệt. Bởi phải lo tạo kế sanh nhai, nuôi sống gia đình, mưu tầm tài sản ông lại còn đam mê thoả thích hưởng thụ trong việc trụy lạc liên hệ đến ác hạnh. Thời gian trôi qua do trác táng quá độ do đó khi mệnh chung ông G bị rơi vào địa ngục.

    Đó là do bất thiện tâm thường tạo trở về sau này trợ giúp ủng hộ cho bất thiện mà ông đã từng làm trong kiếp trước đó nữa, được có cơ hội cho quả.

    8 -Bất thiện nghiệp thường tạo trong kiếp hiện tại trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả:

    Ông H kể từ nhỏ cho đến khi khôn lớn thành niên không từng làm việc thiện, chỉ giao du với bạn bè lêu lỏng lang thang khắp đó đây. Đôi khi chơi bời, rượu chè, trộm cắp… cứ như vậy mãi cho đến khi đủ tuổi xuất gia. Người gia trưởng bắt buộc ông H phải xuất gia để sửa đổi tánh nết, ông H cũng đồng ý. Trong thời gian xuất gia, tỳ khưu H đã hành phận sự sa môn tốt đẹp và tận lực học pháp không bỏ dở. Trải qua thời gian ba hạ, thì đức tin cũng thối chuyển, việc hành sa môn hạnh cũng chùn bước mà chỉ thích rời chùa để bàn luận các vấn đề thế sự… thích nghe radio, xem tranh ảnh và sách báo thế tục, lại cố tìm thời gian học hỏi kiến thức đời để chuẩn bị cho việc hoàn tục của mình. Tỳ khưu H có tâm phóng túng không còn an tịnh như trước nữa, cứ mãi miết sa đà… cho đến đến suốt thời gian hai ba năm chưa kịp hoàn tục thì chết bất đắc kỳ tử. Khi tỳ khưu H qua đời, tức khắc sanh làm bàng sanh do mảnh lực của bất thiện nghiệp trở về sau này trợ giúp ủng hộ cho bất thiện nghiệp mà tỳ khưu H đã từng tạo trước khi xuất gia.

    B- Trì nghiệp trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    Có mười loại:

    - Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả.

    - Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả.

    - Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    - Thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả.

    - Thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    - Bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả.

    - Bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    - Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    - Bất thiện nghiệp trong kiếp quá khứ trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả.

    1- Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông A là người có đức tánh trung dung, tâm mát mẻ, sợ hãi tội lổi, không tạo ác hạnh. Làm việc thiện chỉ chút ít lại không có thực tâm do hoàn cảnh không thuận lợi; việc trau dồi tâm đối với thiện pháp cũng không có cơ hội bởi say mê trong việc tạo kế sanh nhai. Nhưng khi ông A gần sắp lâm chung lại có thiện tâm sáng suốt sanh lên. Do đó, khi qua đời ông A được sanh làm người hay chư thiên bậc cao.

    Đây cũng do thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp mà ông A đã từng làm trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    2- Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông B là người có tâm làm phước, tạo thiện nghiệp thường xuyên, không tạo trữ một ác hạnh nào do sợ hãi tội lổi. Vào lúc cận tử thì ông B có thiện tâm sáng suốt sanh khởi. Do đó, khi mệnh chung được sanh làm người hay chư thiên có địa vị cao.

    Đây cũng do thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp mà ông B đã tạo trước khi chết đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    3- Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông C có tánh nết bỏn xẻn keo kiệt không quan tâm đến việc phước thiện. Chỉ nổ lực tìm cầu tiền bạc nhưng không tạo trữ ác hạnh nào. Khi sắp lâm chung thì tâm hôn ám khởi hiện lên. Do đó, khi chấm dứt hơi thở thì ông C rơi ngay vào khổ cảnh cảm thọ nhiều đau khổ.

    Đây cũng do bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp mà ông C từng làm trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    4- Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, dược có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông D có nhiều tâm bất thiện không tin tội, phước, thiện, ác, không tin rằng chết rồi phải tái sanh, không tin thiên đàng hay địa ngục. Do đó, ông D hành động thỏa thích theo tư kiến của mình. Khi sắp lâm chung thì tâm sầu muộn sanh lên. Vì vậy, khi ông D mệnh chung liền bị rơi vào địa ngục thọ lãnh quả khổ cho đến hết một thời gian dài.

    Đây cũng do bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp mà ông D đang làm trong kiếp hiện tại có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    5- Thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Như E - F - G là con của người có tâm tạo phước, cha mẹ thường dạy cho hiểu biết việc đặt bát, tụng kinh, đảnh lễ Chư Tăng. Nhưng E - F - G thọ mạng chỉ được năm tuổi thôi thì qua đời, được sanh lên thiên giới.

    Đây cũng do thiện nghiệp mà E - F - G tạo trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp mà E - F - G từng làm trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    6- Thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông H là con của người có tâm tạo phước, cha mẹ đều là người thông hiểu pháp nên đã chỉ dạy cho ông hiểu biết về Phật Giáo; hiểu biết về tội, phước. Ông H tin tưởng và thực hành chín chắn theo lời chỉ bảo của cha mẹ; ông còn tinh cần tạo phước thí, trì giới, tu tiến thường xuyên, chỉ có rất ít bất thiện. Do nhân này, khi ông H qua đời ông được sanh lên thiên giới làm chư thiên tầng trời cao.

    Đây cũng do thiện nghiệp mà ông H tạo thường xuyên trợ giúp, ủng hộ cho thiện sanh nghiệp của ông sanh lên trong kiếp hiện tại, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên. Còn đối với thiện sanh nghiệp có cơ hội cho quả là thiện nghiệp sanh lên trước cũng được, thiện nghiệp sanh lên về sau cũng được. Nếu thiện nghiệp sanh lên trước đó nữa có cơ hội cho quả, thì thiện nghiệp về sau trợ giúp ủng hộ cho có sức mạnh sanh lên. Và nếu thiện nghiệp sanh lên về sau nữa có cơ hội cho quả, thì thiện nghiệp sanh trước đó cũng trợ giúp ủng hộ cho có sức mạnh sanh lên.

    7- Bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông J là con của người không có đức tin với Phật Giáo. Từ nhỏ cho đến lúc khôn lớn thành niên cũng không từng được chỉ dạy đến tội, phước không cung kính đối với bậc lão niên, nhiễm đắm trong việc vui thú… Những việc của ông J tuy không phạm vào ác hạnh nhưng khi mệnh chung thì vẫn bị rơi vào địa ngục.

    Đây cũng do bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp mà ông J từng làm trong kiếp quá khứ đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    8- Bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông I là người tà kiến, không tin tội, phước, cho rằng: "Việc tạo phước không có lợi ích gì, làm rồi cũng rỗng không, đảnh lễ Chư Tăng tốt hơn trở về nhà dùng cơm; thọ trì bát quan trai giới nhịn đói khát cũng không được lợi ích gì; tu tập trau dồi tâm cũng chẳng được lợi ích mà còn mất thời gian và cực khổ, không cần tạo trữ gì hết cũng được. Vì con người khi chết rồi cũng phải tái sanh lại làm người nữa, con chó chết rồi cũng sanh trở lại làm con chó nữa…". Vì vậy, hầu như ông I chỉ tạo toàn là bất thiện nghiệp. Khi qua đời thì ông I rơi ngay vào địa ngục thọ quả khổ mười tỷ năm.

    Đây cũng là do bất thiện nghiệp trong thời bình nhật trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp mà ông I thường xuyên tạo trong kiếp này đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    9- Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông K có đức tin mãnh liệt, nhàm chán đời sống thế tục. Vì rất khó có cơ hội tạo trữ thiện pháp mà phần nhiều thì dễ đưa đến con đường sa đoạ hơn. Không có tiền thì khổ vì phải chật vật trong cuộc sống, mà có tiền thì cũng khổ vì phải lo lắng giữ gìn. Nhìn thấy như vậy, ông K từ bỏ đời sống thế tục xuất gia vào trong Phật Giáo. Khi xuất gia rồi thì chuyên chú học pháp, trì luật nghiêm túc. Khi hết học pháp rồi thì cố tâm chỉ dạy cho tỳ khưu, sa di, cận sự nam, cận sự nữ. Lúc đã cao tuổi thì hành Minh Sát, hướng dẫn chỉ dạy và thực hành như vậy cho đến khi chấm dứt tuổi thọ. Lúc mệnh chung thì được sanh lên thiên giới làm chư thiên tầng trời cao.

    Thiện nghiệp trước kia mà ông K từng tạo trữ trong kiếp quá khứ là thiện hậu báo nghiệp cũng đang có, nhưng thiện nghệp mà ông K mới kiến tạo trong kiếp hiện tại có sức mạnh mãnh liệt hơn. Do đó, thiện nghiệp trước kia không đủ sức mạnh cho quả tái tục được, nên chỉ làm phận sự trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên.

    Chư Bồ Tát cũng như vậy, khi mệnh chung từ kiếp trước sanh lên trong kiếp sống này, thì pháp độ sai biệt đã tạo trữ trong kiếp trước đó cũng thường trợ giúp ủng hộ cho sanh nghiệp trong kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh tăng trưởng thêm lên. Như đưa tái sanh vào giòng tộc cao sang, có địa vị cao quí.

    10- Bất thiện trong kiếp quá khứ trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp kiếp hiện tại đang có cơ hội cho quả, được có sức mạnh cho quả viên mãn thêm lên:

    Ông L là người có tâm địa ác xấu, hạ liệt, không từng tạo thiện pháp mà chỉ tạo trữ bất thiện pháp suốt như sát sanh, trộm cắp, lường gạt gian trá… Do đó, khi ông L qua đời, bất thiện mà ông tạo trữ trong kiếp này có cơ hội trả quả cho ông rơi vào địa ngục. Còn bất thiện trước kia mà ông L từng làm trong kiếp quá khứ cũng trợ giúp ủng hộ cho bất thiện đang cho quả, được có sức mạnh viên mãn thêm lên. Ví như người từng phạm pháp nhiều lần, nhưng cho đến lần sau cùng bị bắt. Tòa án phải gom lấy những dữ kiện trước đó nhập chung lại phán xét, rồi mới đưa ra quyết định mức tội trạng của người này cho nặng thêm lên.

    Nơi đây trình bày cho thấy rằng, việc làm sai trái khi trước cho dù có trót lọt khỏi bị bắt thật. Nhưng lúc nào mà bị sa lưới thì chính những sự sai trái ở các lần trước thường trợ lực cho sự sai trái lần sau bị tội nặng thêm lên.

    C - Trì nghiệp trợ giúp ủng hộ cho danh sắc dị thục quả của sanh nghiệp cho tăng trưởng và tồn tại.

    Có bảy trường hợp:

    - Thiện nghiệp từng làm trong kiếp trước kia trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp.

    - Thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp.

    - Bất thiện từng làm trong kiếp trước kia trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp.

    - Bất thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp.

    - Thiện nghiệp từng làm trong kiếp trước kia trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiiện sanh nghiệp.

    - Thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp.

    - Bất thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp.

    Kể từ điều 1 cho đến điều 4 trình bày theo ý nghĩa của Atthakathā và Mūlaṭīkā, điều 5 cho đến điều 7 trình bày theo ý nghĩa của Paramatthadīpanīṭīkā và Bhāsāṭīkā.

    1- Thiện nghiệp từng làm trong kiếp trước kia trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại:

    Như kim thân, mầu da, tiếng nói… cả nội phần lẫn ngoại phần cùng với sự thấy, nghe… của bậc Chánh Đẳng Giác thường được hoàn hảo đặc thù hơn tất cả nhân loại. Và cảnh sai biệt mà Ngài thọ nhận được hầu hết là cảnh thù thắng.

    Đây cũng do pháp độ sai biệt mà Đức Phật từng kiến tạo trong chính những kiếp trước kia, trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại.

    2- Thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại:

    Như có người thiện tâm giúp đỡ cho người nghèo khổ, phục vụ ủng hộ cho Phật Giáo phát triển hưng thạnh dài lâu, là người giữ mình trú trong Giới Luật. Do mãnh lực của các việc thiện này thường làm cho thân tâm người đó an lạc, mầu da trong sáng, có danh tiếng, nhận được cảnh tốt… như thấy cảnh đẹp, nghe tiếng hay... không bệnh hoạn, sức mạnh vững chắc và trường thọ. Khi lâm bệnh gặp được thầy thuốc giỏi trị hết bệnh cấp kỳ, lại còn có người săn sóc giúp đỡ làm cho thuận lợi, thoải mái đủ mọi thứ .

    Các việc này do thiện nghiệp đã tạo trong chính kiếp này, trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại.

    3- Bất thiện nghiệp từng làm trong kiếp trước kia, trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại:

    Như đời sống của chúng sanh địa ngục và ngạ quỉ muôn vàn cực hình và tràn đầy đau khổ, nhưng nhóm chúng sanh đó vẫn duy trì mạng sống dài lâu hơn đời sống bình thường. Có những con chó đói khát đi kiếm ăn thân mình đầy lở loét, đi gần đến ai họ cũng đánh đập xô đuổi chịu nhiều khổ thọ. Mặc dù như vậy mạng sống của con chó đó vẫn tồn tại nhiều tháng nhiều năm. Có một số người đau ốm dây dưa, bệnh tật hành hạ thân thể mãi nhưng cũng không chết dễ dàng được mà phải chịu đựng đau khổ cả một thời gian dài. Sự việc này cũng do mãnh lực của bất thiện trì nghiệp trong kiếp trước kia, trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại.

    4- Bất thiện từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại:

    Như có người bệnh kinh niên như bệnh da liểu, bệnh thần kinh... có triệu chứng đau đớn thường xuyên. Các chứng bệnh này sanh lên từ mãnh lực của bất thiện sanh nghiệp do người này bất cẩn trong việc giữ gìn thân thể. Thường xuyên lại rượu chè trác táng nên bệnh càng tăng làm cho khổ thân trầm trọng. Lại nữa, loài bàng sanh như cọp, mèo, thằn lằn… các con thú này thường sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp. Chúng có sự nhiễu hại giết chúng sanh khác làm vật thực để nuôi dưỡng thân thể được tăng trưởng và duy trì mạng sống.

    Đây cũng do bất thiện sanh lên trong kiếp sống này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại.

    5- Thiện nghiệp từng làm trong kiếp trước kia trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại:

    Như có một số chó được chủ chăm sóc, nâng niu, nuôi dưỡng, thương mến, được dùng vật thực cao cấp, sống an lạc thoải mái. Sự sung sướng, ấm no này cũng do mãnh lực của thiện nghiệp mà con chó đã từng làm trong kiếp trước kia, trợ giúp ủng hộ cho sắc pháp (thân thể con chó) và danh pháp (tâm hữu phần) sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại.

    6- Thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp được tăng trưởng và tồn tại:

    Như có một số chó có sự khôn ngoan dễ dạy biểu lộ sự kính trọng đối với chủ và người khác, như ngồi lên, chắp tay xá lạy… làm cho mọi người nhìn thấy khởi lên thương mến, nên được nuôi dưỡng chăm sóc thật chu đáo, bảo dưỡng đặc biệt.

    Như chim sáo, chim nhồng mà chủ dạy cho nói, đọc kinh và chào hỏi được làm cho người nghe phát sanh thương mến nên được cho ăn đầy đủ.

    Đây cũng do mãnh lực của thiện nghiệp mà con chó và con chim đã làm trong kiếp này. Tức chính sự biểu lộ cung kính… đó trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp của chúng, được tăng trưởng và tồn tại.

    Các loài ngạ quỉ mà nhận được phước từ thân quyến, bè bạn và tự mình cũng tùy hỷ phước của việc hồi hướng đó nên được thọ hưởng sự an lạc, thoát khỏi đau khổ cực hình. Bởi do mãnh lực của chính thiện nghiệp mà mình tạo trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp của nhóm ngạ quỉ đó, được tăng trưởng và tồn tại.

    7- Bất thiện nghiệp từng làm trong kiếp này trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp, được tăng trưởng và tồn tại:

    Như người nuôi sống bằng nghề chài, bán vũ khí, bán rượu rồi phát đạt giàu có, sung sướng an lạc trong việc chi tiêu; dồi dào trong các việc say đắm hưởng thú vui trên đời do nương vào các việc nuôi mạng đó. Hoặc đất nước phát triển thịnh vượng hùng cường có uy thế do nương vào việc sản xuất vũ khí đều là bất thiện cả. Nhưng các việc bất thiện này là pháp trợ giúp ủng hộ cho danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp được tăng trưởng tồn tại.

    Loại trì nghiệp trong điều 7 này diễn tiến không chắc chắn, chỉ có được trong thời kỳ suy vong mà không thể có được trong thời kỳ hưng thạnh.

    C- Upapīlakakamma (chướng nghiệp) có định nghĩa trình bày như sau: "Kammantaraṃ và kammanibbattakhandhasantānaṃ vā upapīḷetīti: Upapīḷakaṃ".

    Nghiệp nào thường chen lấn nghiệp khác và tiếp nối ngũ uẩn sanh lên từ nghiệp khác, nghiệp đó gọi là chướng nghiệp. Tức mười hai bất thiện nghiệp và tám nghiệp đại thiện có hai nghĩa:

    Chướng nghiệp này là nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác có thực tánh đối nghịch lại với mình (Kammantara upapīḷaka).

    - Lấn áp danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp (Kammanibbattakhandhasantāna upapīḷaka).

    Chướng nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác có thực tánh đối nghịch lại với mình, có hai loại nữa:

    1- Lấn áp để có cơ hội cho quả.

    2- Lấn áp sanh nghiệp đang có cơ hội cho quả được giảm bớt sức mạnh cho quả.

    Do đó, sự lấn áp của chướng nghiệp mới có ba loại:

    - Chướng nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác không cho có cơ hội cho quả.

    - Chướng nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác đang có cơ hội cho quả được giảm sức mạnh xuống.

    - Chướng nghiệp lấn áp danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp trước đó.

    - Chướng nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác không cho có cơ hội cho quả. Có hai loại:

    1- Thiện nghiệp tạo trong kiếp này lấn áp bất thiện sanh nghiệp không cho cơ hội cho quả.

    2- Bất thiện tạo trong kiếp này lấn áp bất thiện sanh nghiệp không cho có cơ hội cho quả.

    Chướng nghiệp này cũng chính là trì nghiệp. Tức trong sát na làm phận sự trợ giúp ủng hộ cho nghiệp khác thì đồng lúc đó cũng làm phận sự lấn áp. Do đó, việc nêu ví dụ thiện chướng nghiệp:

    Trong điều 1:

    "Thiện nghiệp làm trong kiếp này lấn áp bất thiện sanh nghiệp không cho có cơ hội cho quả." Thì cũng tương tự như ví dụ của thiện trì nghiệp trong điều 1 là: "Thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả".

    Trong điều 2:

    "Bất thiện nghiệp tạo trong kiếp này lấn áp thiện sanh nghiệp không cho có cơ hội cho quả". Ví dụ cũng tương tự như bất thiện trì nghiệp trong điều 3 là: "Bất thiện nghiệp trong thời cận tử trợ giúp ủng hộ cho bất thiện sanh nghiệp trong kiếp quá khứ chưa có cơ hội cho quả, được có cơ hội cho quả" .

    - Chướng nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác đang có cơ hội cho quả được giảm sức mạnh xuống. Có hai loại:

    1- Thiện nghiệp trong kiếp này lấn áp bất thiện sanh nghiệp đang có cơ hội cho quả, được giảm sức mạnh xuống.

    2- Bất thiện nghiệp làm trong kiếp này lấn áp thiện sanh nghiệp đang có cơ hội cho quả, bị giảm sức mạnh xuống.

    *

    Minh chứng điều thứ nhất

    Vua A Xà Thế tạo nghiệp vô gián giết cha, trọng nghiệp này phải gặt quả rơi vào vô gián đại địa ngục (Avīcimahānaraka). Nhưng vua A Xà Thế đã kiến tạo nhiều thiện pháp, là người ủng hộ phát triển Phật Giáo. Như việc kết tập Tam Tạng vua A Xà Thế ủng hộ một phần và trong tất cả phàm nhân vua A Xà Thế là người có đức tin, tịnh tín bậc Chánh Đẳng Giác nhiều nhất. Do chính mãnh lực của thiện nghiệp này trợ giúp cho vua A Xà Thế không bị rơi vào vô gián đại địa ngục, mà chỉ rơi vào địa ngục đồng sôi (Lohakumbhīussadanaraka) là địa ngục nhỏ phụ thuộc của đại địa ngục vô gián.

    Minh chứng điều thứ hai

    Việc làm thiện mà pha lẫn bất thiện, như trong lúc đang hoan hỷ vui thích thấy được lợi ích trong việc làm thiện. Nhưng khi đã làm xong thì bất thiện sanh lên liên quan đến sự không vừa lòng như tiết của. Vì thế việc làm cho quả thiện đó giảm sức mạnh xuống. Do đó, khi người này mệnh chung rồi thì thay vì được sanh làm người tam nhân trở lại làm người nhị nhân.

    Đây cũng do chính mãnh lực của bất thiện nghiệp sanh lên lấn áp thiện nghiệp cho giảm sức mạnh xuống.

    Lại nữa, có một số người được sanh làm nhân loại nhưng vừa lọt lòng mẹ thì bị mù loà, tai điếc, khứu giác bị hỏng… Đây cũng do thiện sanh nghiệp dẫn dắt người đó sanh làm người như vậy. Bởi do bất thiện chướng nghiệp lấn áp làm giảm sức mạnh xuống nhằm vào thời gian mắt, tai, mũi… hiện bày lên thì trở lại không hiện bày cho nên mới trở thành người mù loà, điếc tai…

    - Chướng nghiệp lấn áp danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp.

    Có hai loại:

    1- Bất thiện chướng nghiệp lấn áp danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp.

    2- Thiện chướng nghiệp lấn áp danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp.

    Minh chứng điều thứ nhất

    Người sanh ra có đầy đủ chi thể, là người lực lưỡng không có bệnh tật. Nhưng thời gian sau phát sanh bệnh như bệnh thần kinh, bệnh bại liệt làm cho không đi được hoặc trí nhớ giảm sút trở thành người bất bình thường. Hoặc nếu không có bệnh hoành hành thì cũng suy sụp về tài sản, địa vị, thuộc hạ tuỳ tùng, lãnh chịu các sự mất mát sai khác, việc nuôi sống cũng không phát đạt làm cho thân tâm nhiệt não… đều do quả bất thiện cả.

    Đây cũng do mãnh lực bất thiện chướng nghiệp mà mình từng tạo trong kiếp trước đó hoặc kiếp này, vào lấn áp danh sắc sanh lên từ thiện sanh nghiệp.

    Minh chứng điều thứ hai

    Người sanh ra là người nghèo khổ, người hốt rác bị nhiều sự vất vả khổ cực, đây là quả sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp. Nhưng người đó nổ lực tinh cần tạo phước, trì giới thường xuyên thích hợp với khả năng của mình. Từ đó sự khổ cực vất vả cũng từ từ diệt mất, việc nuôi mạng được hạnh thông, bệnh tật đã từng hoành hành cũng được chấm dứt, cuộc sống trở nên an lạc thoải mái.

    Đây cũng do mãnh lực của thiện chướng nghiệp mà mình đã kiến tạo lấn áp danh sắc sanh lên từ bất thiện sanh nghiệp, như làm cho sự khổ sở, vất vả thân tâm diệt mất.

    D - Upaghātakakamma (đoạn nghiệp) có định nghĩa trình bày như sau: "Kammantaraṃ vā kammānibbattakhandhasantānaṃ vā upaghātetīti: upaghātakaṃ".

    Nghiệp nào chen vào cắt đứt nghiệp khác và tiếp nối ngũ uẩn sanh lên từ nghiệp khác, nghiệp đó gọi là đoạn nghiệp.

    Gồm mười hai bất thiện nghiệp, hai mươi mốt thiện nghiệp là nghiệp chen vào cắt đứt nghiệp khác, làm cho dị thục của nghiệp đó chấm dứt hoàn toàn. Đoạn nghiệp có thực tánh khác với chướng nghiệp, tức chướng nghiệp là nghiệp lấn áp nghiệp khác và dị thục quả như chi phần thân thể không cho sanh lên hoặc không cho tăng trưởng lên, chứ không có mãnh lực làm cho chấm dứt hoàn toàn. Còn đoạn nghiệp là loại nghiệp cắt đứt hoàn toàn, tức nếu cắt đứt nghiệp nào rồi thì nghiệp đó mãi mãi không có khả năng cho quả sanh lên được. Nếu cắt đứt quả của nghiệp ám chỉ đến thân thể hay một bộ phận cơ thể nào của người đó diệt mất cho đến suốt đời sống; hoặc nếu không như vậy thì nghiệp đó cũng cắt đứt lấy mạng sống của người đó.

    Sự cắt đứt của đoạn nghiệp này có 2 loại:

    1- Cắt đứt sanh nghiệp khác để mãi mãi không có cơ hội cho quả (Kammantara upaghātaka).

    2- Cắt đứt danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp cho diệt mất (Kammanibbattakhandhasantāna upaghātaka).

    - Đoạn nghiệp cắt đứt sanh nghiệp khác để mãi mãi không có cơ hội cho quả. Có ba loại:

    - Thiện đoạn nghiệp cắt đứt bất thiện sanh nghiệp.

    - Thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện sanh nghiệp.

    - Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện sanh nghiệp.

    1- Thiện đoạn nghiệp cắt đứt bất thiện sanh nghiệp để mãi mãi không có cơ hội cho quả:

    Như trưởng lão Aṅgulimāla trước khi chứng đắc A La Hán đã từng là tướng cướp giết người vô số. Việc làm của trưởng lão Aígulimàla sẽ phải gặt quả rơi vào địa ngục chắc chắn. Nhưng sau đó trưởng lão Aígulimàla gặp được bậc Chánh Đẳng Giác điều ngự cho đến khi hồi tâm nhận thức được mới xuất gia thành vị tỳ khưu trong Phật Giáo, tu tiến Minh Sát nghiệp xứ cho đến khi chứng đắc A La Hán. Do mãnh lực của thiện Sơ Đạo mà Ngài Aígulimàla đã chứng đắc chính trong giai đoạn đầu, là thiện đoạn nghiệp cắt đứt bất thiện sanh nghiệp mà Ngài đã tạo ra trong kiếp này và từng tạo ra trong kiếp trước kia mãi mãi không có cơ hội cho quả.

    2- Thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện sanh nghiệp mãi mãi không có cơ hội cho quả:

    Như người đã từng kiến tạo thiện dục giới và thiện đáo đại rồi sau đó tu tiến Minh Sát chứng đắc A La Hán. Vì vậy thiện dục giới, thiện đáo đại đều không có khả năng cho quả để người đó sanh làm người, chư thiên hay Phạm Thiên được.

    Đây cũng do mãnh lực của A La Hán Đạo là thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện sanh nghiệp khác mãi mãi không có cơ hội cho quả tiếp tục nữa.

    Hay người tu thiền chứng đắc ngũ thiền sắc giới, khi người đó mệnh chung thì phải sanh lên cõi Phạm Thiên tứ thiền. Vì thế thiện sơ thiền, thiện nhị thiền, thiện tam thiền không còn có khả năng cho quả sanh lên các cõi Phạm Thiên sơ thiền, Phạm Thiên nhị thiền hay Phạm Thiên tam thiền được.

    Đây cũng do mãnh lực của thiện ngũ thiền là thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện nghiệp đáo đại thấp hơn không có cơ hội cho quả.

    Người nào tu tiến Chỉ Tịnh cho đến khi chứng đắc thiền vô sắc, khi mệnh chung cũng phải sanh lên cõi Phạm Thiên vô sắc. Cho nên đối với các thiền sắc giới không có khả năng cho quả sanh lên cõi Phạm Thiên sắc giới được.

    Đây cũng do mãnh lực của thiện vô sắc là thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện nghiệp sắc giới không có cơ hội cho quả.

    Trong thiện vô sắc giới đó thì thiền vô sắc cao cắt đứt thiền vô sắc thấp theo tuần tự, như thiền thức vô biên xứ cắt đứt thiền không vô biên xứ không cho có cơ hội cho quả… Trong điều này ám chỉ đến người đã đắc thiền bậc cao không có ái trước (Nikantitaịhà) đối với thiền bậc thấp hoặc cõi thấp trong lúc cận tử. Bởi vì thông thường vào lúc cận tử cho dù người đã đắc chứng thiền bậc cao đi nữa, nhưng nếu có ái trước (Nikantitaịhà). Tức vui thích hài lòng trong cõi hoặc thiền thấp thì thiền bậc cao mà mình đắc chứng cũng hoại đi.

    3 - Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện sanh nghiệp mãi mãi không cho có cơ hội cho quả:

    Như người đã tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ cho đến khi đắc thiền. Sau đó người ấy tạo ngũ nghịch vô gián nghiệp. Bất thiện ngũ nghịch vô gián nghiệp này là bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện đáo đại sanh nghiệp không cho có cơ hội cho quả để người ấy sanh lên Phạm Thiên giới được. Như Đề Bà Đạt Đa là người chứng đắc Thắng Trí, sau đó ông tạo nghiệp làm đọng máu bầm Phật và chia rẽ Tăng bị liệt vào nghiệp vô gián. Vì vậy, nghiệp vô gián này mới là bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt thiện nghiệp đáo đại của Đề Bà Đạt Đa không cho có cơ hội sanh lên Phạm Thiên giới mà ngược trở lại rơi vào địa ngục.

    - Đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc sanh lên từ sanh nghiệp cho diệt mất. Có bốn loại:

    - Thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là bất thiện dị thục quả.

    - Thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là thiện dị thục quả.

    - Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là thiện dị thục quả.

    - Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là bất thiện dị thục quả.

    1- Thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là bất thiện dị thục quả:

    Như người chết rồi sanh làm chúng sanh cõi địa ngục thì thân xác và sự sinh hoạt như thấy, nghe… của nhóm chúng sanh này đều là dị thục quả bất thiện cả. Nhưng thời gian sau chúng sanh địa ngục đó do nương vào ngọn lửa địa ngục mà nhớ đến thiện nghiệp mà mình đã từng làm rằng "Ta đã từng xuất gia trong Tăng Chúng, đã từng cúng dường y bát cho chư tăng hoặc từng phết vàng kim thân Đức Phật…". Hoặc nhờ vào Diêm Vương nhắc nhở cho nhớ lại những thiện nghiệp sai biệt mà mình đã từng tạo trữ. Trong lúc nhớ lại được thiện nghiệp thì tâm đại thiện sanh lên, chúng sanh địa ngục đó chết đi sanh làm người hoặc chư thiên liền tức thì.

    Đây cũng do tâm thiện sanh lên trong lúc nhớ lại được thiện nghiệp trước kia là thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả bất thiện. Hay người được sanh lên làm nhân loại nhưng là người nghèo khổ, bị bệnh tật hành hạ thường xuyên dù có chữa trị cũng không dứt, cảm giác sự khổ thân tâm, không từng được thấy, nghe, ngữi, nếm vị, xài vật dụng và nương ngụ trú xứ tốt đẹp, tất cả đều do dị thục quả bất thiện. Về sau có tâm tạo phước, có sự hiểu biết Phật Pháp, được khuyến nhủ và chỉ bảo rằng: "Việc sanh làm người nghèo khổ, không được gặp thấy điều tốt lành cũng do ta không từng tạo thiện thí trong kiếp trước. Và là người đau ốm bệnh tật thường xuyên cũng do không từng trì giới. Vì vậy, nên tinh cần nổ lực tạo trữ thiện thí, thiện giới tuỳ theo khả năng của mình". Người đó vâng lời chỉ bảo chuyên cần nổ lực tầm cầu tạo trữ thiện pháp cho phát sanh lên. Bằng cách vào chùa thường xuyên làm các công việc, phục vụ giúp đỡ cho tỳ khưu, sa di và nhất tâm phát nguyện thọ trì bát quan trai giới suốt đời. Người ấy còn sắp đặt các thùng nước bố thí cho người đi lại trên đường đến chùa…

    Khi đã kiến tạo thiện pháp sai biệt thường xuyên, từ đó mọi người đến chùa phát tâm cảm mến nên nhận được sự giúp đỡ của những người này bằng các trường hợp sai khác. Hoàn cảnh trước kia được thay thế bằng sự an nhàn và bệnh tật đang có cũng diệt đi.

    Đây cũng do thiện thí và thiện giới mà người đó đã làm trong chính kiếp này, là thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả bất thiện trong cõi vui được diệt mất.

    2- Thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả thiện:

    Như người thế tục đã chứng đắc A La Hán nhưng không xuất gia trong ngày ấy, thì mãnh lực của A La Hán Đạo sẽ là thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả thiện làm cho người đó chấm dứt mạng sống trong ngày ấy.

    Đây cũng do ân đức của A La Hán Đạo, A La Hán Quả là pháp cao quí không thể so sánh với hình tướng thế tục được. Bởi hình tướng thế tục chỉ đứng vững trong phẩm vị năm giới. Ví như mỡ của sư tử chúa chỉ bảo tồn được trong thùng bằng vàng, nếu chứa trong thùng loại khác thì sẽ bị khô cạn mất. Ví dụ trên như thế nào, thì ân đức đặc thù của A La Hán Đạo, A La Hán Quả cũng như thế đó. Người chứng A La Hán Đạo, A La Hán Quả trong hình tướng thế tục không thể nâng đở nổi phẩm vị A La Hán Đạo, A La Hán Quả được nên phải chấm dứt mạng sống ngay trong ngày ấy. Chỉ sau khi người đó xuất gia thành sa di hoặc tỳ khưu rồi thì mới bảo tồn đời sống tiếp tục được.

    3- Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả thiện:

    Thông thường các bộ phận sai biệt trong thân thể con người thuộc dị thục quả thiện và chính các bộ phận sai biệt này khi được thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm trong cảnh tốt đều là dị thục quả thiện. Nhưng thời gian sau, người này bị tai nạn như xe đụng, bị người hãm hại rơi từ trên cao xuống… làm cho gãy tay, gãy chân, mù mắt, điếc tai cho đến suốt đời.

    Đây cũng do bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả thiện. Nếu người đó chấm đứt mạng sống do tai nạn đã trình bày trên cũng gọi là bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả thiện; như cắt đứt sắc pháp (thân thể), danh pháp (tâm hữu phần) và nhãn thức dị thục quả thiện…

    4- Bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc dị thục quả bất thiện:

    Thông thường loài bàng sanh như con chó… thân thể và đời sống sinh hoạt của chúng được liệt vào dị thục quả bất thiện; ngoại trừ thân hình xinh đẹp và tâm nhãn thức dị thục quả thiện… sanh lên trong lúc thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm cảnh tốt. Sau đó con chó… này bị xe đụng, bị giết hoặc bị rơi xuống nước chết… Tất cả các việc này cũng do mãnh lực của bất thiện đoạn nghiệp từng sanh lên trong kiếp trước hoặc kiếp này nên bị cắt đứt mạng sống và thân thể, là dị thục quả bất thiện.

    - Lại nữa, đoạn nghiệp cắt đứt danh sắc là dị thục quả của nghiệp khác nữa, có ba loại

    - Cắt đứt dị thục quả của nghiệp khác rồi tự mình cũng không cho quả sanh lên và cũng không tạo cơ hội cho sanh nghiệp khác được cho quả.

    - Cắt đứt dị thục quả của nghiệp khác rồi tự mình cho quả sanh lên.

    - Cắt đứt dị thục quả của nghiệp khác rồi tạo cơ hội cho sanh nghiệp khác nữa được cho quả.

    Minh chứng điều thứ nhất

    Trưởng lão Cakkhupāla trong kiếp quá khứ từng làm thầy thuốc chữa trị mắt và đã làm hoại đôi mắt của người đến chữa trị. Do đó, bất thiện nghiệp mà trưởng lão Cakkhupāla đã làm nên quả trả lại cho đôi mắt của Ngài hoại đi. Nhưng bất thiện đoạn nghiệp không cho quả sanh lên tiếp tục nữa bởi trưởng lão Cakkhupāla đã chứng đắc A La Hán không còn tái sanh lại nữa. Chính vì thế bất thiện nghiệp này chỉ là dị thục quả của nghiệp khác mà thôi.

    Trưởng lão Moggallāna bị năm trăm tên cướp đánh đập cho đến khi Níp Bàn là do mãnh lực bất thiện mà Ngài đã từng đánh đập cha mẹ với ý định cho chết. Tức bất thiện đoạn nghiệp này cắt đứt dị thục quả của nghiệp khác chớ tự mình không cho quả được.

    Minh chứng điều thứ hai

    Một vị chư thiên tên Dussīmāra là tùy tùng của Ma Vương đã lấy hòn đá ném vào phía bên phải đầu của vị Thượng Thủ Thinh Văn vào thời kỳ bậc Chánh Đẳng Giác Kassapa. Đức vua Kalābu đã hành hạ đạo sĩ Khantivādī tiền kiếp là Bồ Tát cho đến chết. Dạ xoa Nanda cầm chùi đánh vào đầu Ngài Sārīputta lúc đang nhập thiền diệt và Devadatta đã hãm hại bậc Chánh Đẳng Giác. Cả bốn đối tượng này gặt quả ngay trong hiện tại, liền tức khắc bị đất rút chết rồi sanh vào vô gián địa ngục.

    Đây cũng do mãnh lực của bất thiện đoạn nghiệp cắt đứt đi dị thục quả của nghiệp khác, như làm cho đất rút rồi chính mình cho quả sanh vào Vô Gián địa ngục.

    Minh chứng điều thứ ba

    Vua Bimbisāra mang giày dép vào trong khuôn viên bảo tháp Xá Lợi Phật, do mãnh lực bất thiện này khi sanh vào dòng Sát Đế Lỵ, lòng bàn chân vua Bimbisāra đã bị cứa rách cho đến khi băng hà. Nhưng khi băng hà rồi thì thiện sanh nghiệp khác được có cơ hội cho quả cho vua Bimbisāra sanh lên làm chư thiên cõi Tứ Đại Thiên Vương. Tức bất thiện nghiệp cắt đứt dị thục quả của nghiệp khác, rồi tạo cơ hội cho sanh nghiệp khác nữa cho quả.

    NHÓM BỐN NGHIỆP CHO QUẢ THEO TUẦN TỰ (PĀKADĀNAPARIYAYACATUKKA)

    A- Garukamma (trọng nghiệp ) được định nghĩa như sau: "Garu! Karotīti: GarukaṃNghiệp nào cho quả sanh lên chắc chắn, nghiệp đó gọi là trọng nghiệp.

    Một lý khác nữa:

    "Kammantarehi patibāhituṃ asakkuneyyuttā garukaṃ kammanti: Garukakammam".

    Nghiệp cho quả chắc chắn bởi vì nghiệp khác không có khả năng ngăn chặn được mới gọi là trọng nghiệp. Tức là tà kiến tương ưng (Diṭṭhisampayutta) liên quan đến nghiệp tà kiến nhất định; sân căn liên quan đến nghiệp ngũ nghịch vô gián; chín nghiệp đáo đại. Gom lại thành mười lăm.

    Ghi chú: Đối với nghiệp thiện siêu thế cũng là trọng nghiệp. Nhưng trong nơi đây muốn nói đến nghiệp cho quả sanh lên trong kiếp thứ hai. Còn thiện siêu thế không có phận sự làm cho quả sanh lên mà chỉ có phận sự triệt tiêu sanh hữu theo thích ứng với sức mạnh của mình.

    Nghiệp được gọi là trọng nghiệp này, đề cập đến nghiệp cho quả chắc chắn có khả năng sanh liền trong kiếp thứ hai mà nghiệp khác không có khả năng ngăn chặn được. Nhưng không nhất định rằng trong tất cả trọng nghiệp với nhau sẽ không có khả năng ngăn chặn lại sự cho quả với nhau. Nghĩa là trọng nghiệp nào có sức mạnh mãnh liệt hơn trọng nghiệp khác thì trọng nghiệp đó sẽ là pháp cho quả. Còn các trọng nghiệp có sức mạnh yếu hơn thì không thành tựu việc cho quả mà chỉ hỗ trợ thôi. Nhưng dù không có cơ hội cho quả sanh lên riêng biệt nhưng nghiệp đó cũng được gọi là trọng nghiệp. Bởi vì nếu trọng nghiệp nặng hơn mình không có, thì trọng nghiệp đó cũng vẫn phải là pháp cho quả sanh lên trong kiếp thứ hai chắc chắn. Như người tạo nghiệp nhất định tà kiến nào đó, về sau tạo một loại nghiệp ngũ nghịch vô gián nữa. Khi thân hoại mệnh chung thì chính nghiệp tà kiến nhất định sẽ cho quả cho người đó sanh vào một trong những đại địa ngục. Bởi nghiệp nhất định tà kiến này nặng hơn nghiệp ngũ nghịch vô gián. Còn đối với năm nghiệp ngũ nghịch vô gián, thì nghiệp chia rẽ Tăng nặng nhất. Nếu định đặt rằng, người nào tạo cả năm nghiệp ngũ nghịch vô gián thì nghiệp chia rẽ Tăng sẽ cho quả với người đó, nghiệp còn lại sẽ là nghiệp hỗ trợ cho việc cho quả của nghiệp chia rẽ Tăng trở đi.

    Nghiệp nặng kế tiếp nghiệp chia rẽ Tăng là nghiệp làm đọng máu bầm Phật, kế tiếp nghiệp làm đọng máu bầm Phật là nghiệp giết A La Hán. Còn hai nghiệp giết cha, giết mẹ thì phải căn cứ vào ân đức, nếu ai là người có giới hạnh hơn thì giết người đó bị tội nặng hơn. Cả hai đều có giới hạnh bằng nhau hoặc không có giới hạnh như nhau, thì giết mẹ nặng hơn. Do nhân này trong sớ giải Tăng Chi Bộ Kinh mới trình bày rằng:

    "Dvīsupi sīlena vā dussīlena vā samānesu mātughātakova paṭisandhivasena vipaccati, mātā hi dukkarakāriṇī bahupakārā ca puttānanti".

    Nghĩa là: "Cho dù cả mẹ và cha có đức hạnh ngang nhau, là người có giới hay không có giới thì chính nghiệp giết mẹ cho quả tái tục. Bởi mẹ là người nhận lãnh gánh nặng khó có thể làm được và là người nuôi dưỡng con nhiều hơn".

    Chín nghiệp thiện đáo dại cũng như vậy, người đã đắc cả chín bậc thiền còn được gọi là thiền tám bậc hay thiền chín bậc. Trong thiền tám bậc hay thiền chín bậc này thì thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ là thiền cao hơn các bậc thiền khác. Vì vậy người đắc thiền mệnh chung thì thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ cho quả sanh lên cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thiền còn lại trở thành vô hiệu nghiệp, không thể ủng hộ trợ giúp trong việc cho quả của thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn đối với năm thiền sắc giới thì chính ngũ thiền sắc giới cho quả sanh lên cõi tứ thiền. Các thiền sắc giới còn lại cũng trở thành vô hiệu nghiệp.

    *

    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆC CHO QUẢ CỦA BẤT THIỆN TRỌNG NGHIỆP - THIỆN TRỌNG NGHIỆP

    Bất thiện trọng nghiệp cho dù bản thân không có cơ hội cho quả nhưng cũng có chức năng trì nghiệp. Còn thiện trọng nghiệp khi bản thân không có cơ hội cho quả thì sẽ là vô hiệu nghiệp không có chức năng trì nghiệp. Do nguyên nhân đã đề cập trên, bất thiện trọng nghiệp mới có tên gọi riêng biệt là nghiệp ngũ nghịch vô gián và nghiệp tà kiến nhất định. Còn đối với thiện trọng nghiệp thì không có tên gọi riêng biệt. Nghiệp ngũ nghịch vô gián "Pañcānantariyakamma" khi phân từ được như sau: Pañca + anantara + iya + kamma, pañca: 5, anantara: Cõi mà không gián đoạn sự chết, Iya: Cho quả, Kamma: Hành động.

    Nếu gom từ lại thành Pañcānantariyakamma 5 hành động cho quả không gián đoạn sự chết. Như Ngài giáo thọ sư Ỉìkà đã trình bày định nghĩa như sau:"Anantare niyuttaṃ kammaṃ: Anantariyakammaṃ".

    Nghiệp liên quan đến việc cho quả tái tục vào cõi không gián đoạn sự chết gọi là vô gián nghiệp.

    Nghiệp nhất định tà kiến "Niyatamicchaṭṭhikamma" khi phân từ được như sau: "Niyata + micchā +diṭṭhi + kamma. Niyata: Nhất định chắc chắn, Micchā: Sai lệch sự thật. Diṭṭhi: Sự thấy, Kamma: Hành động.

    Nếu gom từ lại thành Niyatamicchādiṭṭhikamma nghĩa là nghiệp thấy sai lệch sự thật cho quả nhất định không gián đoạn sự chết. Như Ngài giáo thọ sư Ṭīka đã trình bày định nghĩa như sau:

    "Micchā dassānaṃ: Micchādiṭṭhi". Thấy sai sự thật gọi là tà kiến.

    "Anantarabhave vipākadānato niyatā ca te micchādiṭṭhi cāti: Niyatamicchādiṭṭhi".

    Nghiệp nào cho quả chắc chắn nối tiếp nhau không gián đoạn sự chết do thấy sai sự thật, nghiệp đó gọi là nhất định tà kiến.

    *

    THÍCH GIẢI ĐIỀU ĐẶC BIỆT TRONG NGŨ NGHỊCH VÔ GIÁN NGHIỆP

    Người giết cha mẹ cho dù không biết đó là cha mẹ, mà cứ ngỡ là người khác đi nữa; sự giết đó thành tựu thì cũng gọi là nghiệp giết cha, giết mẹ. Trong sớ giải Tatiyapārājika trình bày rằng:

    "Người nào cố tình giết người khác hoặc giết loài bàng sanh bằng súng hoặc bằng dao đi nữa. Nhưng trong sự giết đó vô tình bắn trúng cha hoặc mẹ chết. Như vậy cũng bị liệt vào nghiệp giết cha, giết mẹ".

    Cha mẹ là bàng sanh mà con là người hoặc con là bàng sanh và cha mẹ là người; con giết cha mẹ trong hai trường hợp này không gọi là vô gián nghiệp. Nhưng loại nghiệp này cũng được liệt vào trọng nghiệp cho quả mãnh liệt như nhau.

    Người giết bậc A La Hán cho dù người bị giết trong lúc đó chưa đắc A La Hán và chưa chết liền đi nữa. Nhưng chính trong lúc đó, người bị giết phát triển Minh Sát và chứng đắc A La Hán rồi Níp Bàn; sự cố sát giết người này phạm vào nghiệp giết A La Hán.

    Cho dù người chủ tâm giết bậc Chánh Đẳng Giác bằng cách nào đi nữa, thì bậc Chánh Đẳng Giác cũng không thể vong mạng được, chỉ đọng máu bầm mà thôi. Bởi thường nhiên chư Phật Chánh Đẳng Giác không bao giờ bị vong mạng do hành động của người khác gây ra. Tương ứng với lời Đức Phật thuyết rằng: "Buddhànaṃ jìvitassa nasakkà kenaci antaràyo kàtum" "Dù cho người hay chư thiên nào đi nữa, gây vong mạng cho chư Phật Chánh Đẳng Giác hằng không thành tựu bao giờ"

    Như trong sự việc mà bậc Chánh Đẳng Giác nhận lãnh tai nạn, như sự việc mà Devadatta đã gây ra cho Đức Phật cũng được gọi là phạm vào nghiệp làm chảy máu Phật. Nghiệp làm chảy máu Phật này không thành tựu nghiệp sát sanh đi nữa nhưng cũng thành tựu nghiệp sân ác. Tức ý ác hạnh vì người đó cố tâm làm cho chết.

    Gọi là người xúi giục chia rẽ Tăng phải là tỳ khưu và người bị xúi giục cũng phải là tỳ khưu Tăng với nhau. Tỳ khưu Tăng sanh khởi sự chia rẽ nhau trong buổi lễ phát lồ (Uposatha) lúc hành Tăng Sự không hội hợp lại cùng nhau, phân chia thành mỗi nhóm. Khi sự kiện rõ ràng như vậy rồi, thì ngay trong lúc đó vị tỳ khưu xúi giục dù ở trong nhóm nào hoặc không ở trong nhóm nào thì cũng bị gọi là người phạm nghiệp chia rẽ Tăng.

    Điều này trình bày cho thấy sa di và cư sĩ đều không tạo nghiệp chia rẽ Tăng được. Nhưng nếu sa di hoặc cư sĩ nào xúi giục làm cho Chư Tăng chia rẽ nhau trong việc liên quan đến nghiệp chia rẽ Tăng hoặc trong việc khác đi nữa. Cho dù không gọi là nghiệp chia rẽ Tăng theo lý thực tánh nhưng cũng bị liệt vào trọng nghiệp cho quả mãnh liệt. Nếu gọi theo lý thông thường thì gọi là nghiệp chia rẽ Tăng cũng được. Riêng đối với nghiệp nhất định tà kiến sẽ được giải thích chi tiết liên quan đến tà kiến trong ý bất thiện nghiệp.

    B- Āsannakamma (cận tử nghiệp) được định nghĩa như sau: "Āsanne anussaritaṃ: Āsannaṃ" vā "Āsanne kataṃ: Āsannaṃ".

    Nhớ đến diều thiện hay bất thiện trong lúc cận tử gọi là cận tử nghiệp. Hoặc hành động thiện hay bất thiện trong lúc cận tử cũng gọi là cận tử nghiệp. Tức mười hai nghiệp bất thiện (trừ nghiệp nhất định tà kiến và nghiệp ngũ nghịch vô gián), tám nghiệp đại thiện (còn đối với nghiệp đáo đại chỉ thuần nhất là trọng nghiệp nên không được xếp vào nơi đây).

    Thích giải: Một số bất thiện nghiệp hay thiện nghiệp từng tạo trong thời gian đã qua mà ta không quan tâm đến, thậm chí đã quên mất đi. Nhưng vào lúc cận tử thì nhớ lại được, nếu là bất thiện đã từng làm thì lúc đó bất thiện tâm sẽ sanh khởi, bất thiện này nương vào chính sự ghi nhớ, gọi là bất thiện cận tử nghiệp. Nếu nhớ đến việc thiện đã từng làm lúc đó thiện tâm sẽ khởi hiện, thiện tâm này nương vào chính sự ghi nhớ, gọi là thiện cận tử nghiệp. Đây là sự thích giải định nghĩa theo: "Āsanne anussaritaṃ: Āsannaṃ".

    Hoặc có một số người chưa từng thực tâm tạo phước nay lại phát sanh đức tin muốn tạo trữ thiện pháp làm vốn liếng nương nhờ trong ngày vị lai. Liền kiến tạo thiện pháp như xuất gia, dâng y Kathina, xây dựng giảng đường, tạo giếng nước, xây cất trường học, học pháp, thọ bát quan trai, tu tiến Chỉ Tịnh, Minh Sát… Nhưng trong lúc đang kiến tạo thiện pháp thì có sự cố sanh lên làm cho người đó mệnh chung, hoặc khi kiến tạo thiện pháp hoàn chỉnh rồi thì sau đó không bao lâu mệnh chung; loại thiện nghiệp này được gọi là thiện cận tử nghiệp. Hoặc một số người hưởng sung sướng an lạc không nghĩ đến việc tạo trữ thiện pháp, đến khi bệnh hoạn cảm giác sợ hãi sự chết nên tìm kiếm chổ nương. Nhận thấy mình chưa có chổ nào để nương nhờ thì kinh sợ vì biết mình sẽ rơi vào khổ cảnh. Vì vậy, người đó vội vàng kiến tạo thiện pháp như bố thí, thỉnh Chư Tăng đến thọ trì giới, thính pháp, tu tiến Chỉ Tịnh, tu tiến Minh sát… Trong lúc đang tạo trữ thiện pháp đó thì mệnh chung hoặc đã tạo phước hoàn chỉnh rồi thì sau đó không bao lâu mệnh chung. Loại thiện nghiệp này cũng được gọi là thiện cận tử nghiệp.

    Còn đối với bất thiện cận tử nghiệp, như người cãi vả, chửi rủa, đánh đập, chém giết lẫn nhau; người bị đánh, bị chém, bị bắn chết trong lúc đó hay sau đó không bao lâu thì chết. Hoặc người đang hành động tà hạnh như sát sanh, trộm cắp… bất thình lình bị bắn chết hay do một nguyên nhân nào đi nữa. Tất cả những việc bất thiện này được gọi là bất thiện cận tử nghiệp.

    Hoặc một số người đang đắm nhiễm thỏa thích chơi bời trác táng, rượu chè la ó ồn ào, đang xem phim, coi cải lương… Bởi các hành động này đều liệt vào bất thiện nên trong lúc đó khởi sanh nhân cớ làm cho thiệt mạng, thì các việc làm trên đều được gọi là bất thiện cận tử nghiệp.

    Hoặc một vài nhóm tà kiến khi biết mình sẽ phải chết liền lập đàn tế lễ bằng cách giết các loài vật… đem cúng tế thần linh để khi chết mình được sanh về thiên đàng. Thực hiện xong việc làm mang tính cách bất thiện này thì người đó mệnh chung, hành động như thế cũng được gọi là bất thiện cận tử nghiệp.

    Đây là thích giải định nghĩa theo: "Āsanne kataṃ Āsannaṃ".

    C- Āciṇṇakamma (thường nghiệp) được dịnh nghĩa như sau: "Ācīyati punappanaṃ karīyatīti: Āciṇṇaṃ"

    Nghiệp nào mà người luôn tích trữ, nghiệp đó gọi là thường nghiệp. Tức mười hai bất thiện nghiệp, tám đại thiện nghiệp.

    Người thường tạo các ác hạnh sai biệt liên quan đến thân, ngữ, ý, dù để nuôi mạng hay không nuôi mạng đi nữa thì các hành động này cũng được gọi là bất thiện thường nghiệp.

    Người thường tạo phước như đặt bát hằng ngày, luôn thọ trì năm giới, tám giới, mười giới, hai trăm hai mươi bảy giới, thường được chỉ dạy và học tập trong Pháp Luật, tu tiến Chỉ Tịnh và Minh Sát. Các hành động này được gọi là thiện thường nghiệp.

    Lại nữa, đã tạo một ác hạnh nào dù chỉ một lần nhưng người đó thường xuyên nghĩ đến rồi phát sanh cắn rứt lương tâm, buồn phiền bực bội, hối hận… Cũng những ác hạnh đó ngược lại thì phát sanh sự hoan hỷ thích thú… Sự bực bội khó chịu hay sự thích thú thường sanh lên do nương vào suy tư đến hành động ác hạnh của mình đây cũng được gọi là bất thiện thường nghiệp.

    D- Kaṭattākamma (khinh tác nghiệp) được định nghĩa như sau: "Kaṭattā eva kammanti: Kaṭattākamma".

    Hành động được gọi là nghiệp bởi do đã làm xong rồi, vì vậy mới được gọi là khinh tác nghiệp. Tức mười hai nghiệp bất thiện, tám nghiệp đại thiện; nghĩa là thiện nghiệp và bất thiện nghiệp đã từng tạo trong kiếp trước kia như một loại hậu báo nghiệp. Các nghiệp này không được tính vào trọng nghiệp, cận tử nghiệp và thường nghiệp mà chỉ là loại nghiệp phổ thông. Bởi người làm không có sự chủ tâm không gắng sức hay không sẳn lòng làm. Sự kiện được đề cập như vậy cũng do từ "Eva" trong câu "Kaṭattā eva kammaṃ" là từ phủ nhận.

    Lại nữa, vẫn có thể xếp trọng nghiệp, cận tử nghiệp, thường nghiệp vào khinh tác nghiệp được, vì hành động đã làm xong rồi. Nhưng không được gọi là khinh tác nghiệp bởi vì nhóm nghiệp này có tên gọi riêng biệt. Và từ "Eva" được cấu trúc đó, là từ ngăn lại không cho 3 nhóm nghiệp này được gọi là khinh tác nghiệp.

    Cả bốn loại nghiệp đã đề cập trên Ngài giáo thọ sư Anuruddha trình bày đến sự cho quả tái tục như sanh làm chư thiên, bàng sanh… trong kiếp thứ hai theo tuần tự. Do đó mới gọi là "Pākadānapariyāyacatukka". Từ Pàka: Quả tái tục, Dàna: Cho, Pariyàya: Thời điểm hoặc tuần tự, Catukka: Có bốn loại. Khi gom ý nghĩa lại: Nghiệp cho quả tái tục theo tuần tự có bốn loại.

    Do đó, nếu người nào có bốn loại nghiệp thì trọng nghiệp sẽ là nghiệp sẽ cho quả tái tục. Nếu đắc thiền sẽ sanh làm Phạm Thiên còn tạo nghiệp ngũ nghịch vô gián hay nghiệp tà kiến nhất định thì sẽ sanh làm chúng sanh địa ngục, còn đối với các nghiệp còn lại không cho quả tái tục trong kiếp thứ hai mà chỉ cho quả trong thời bình nhật.

    Nếu người không có một loại trọng nghiệp nào, nghĩa là người không tạo nghiệp ngũ nghịch vô gián, không thấy sai thuộc tà kiến nhất định và cũng không đắc thiền. Tức phàm nhân bình thường không đắc Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm mà chỉ có ba nghiệp còn lại thì cận tử nghiệp sẽ là nghiệp cho quả tái tục sanh làm người, chư thiên, chúng sanh theo tương ứng với nghiệp và người trong kiếp thứ hai. Còn thường nghiệp và khinh tác nghiệp cả hai sẽ cho quả trong thời bình nhật.

    Nếu người không có trọng nghiệp và cận tử nghiệp mà chỉ có hai nghiệp còn lại thì thường nghiệp sẽ cho quả tái tục sanh làm người, chư thiên, chúng sanh khổ cảnh theo tương ứng với nghiệp và người trong kiếp thứ hai. Còn khinh tác nghiệp sẽ cho quả trong thời bình nhật .

    Nếu người nào không có cả ba: Trọng nghiệp, cận tử nghiệp, thường nghiệp. Nghĩa là loại người này chưa kịp tạo một loại ác hạnh hay thiện hạnh nào trong cuộc sống thì mệnh chung. Như vậy, chính khinh tác nghiệp sẽ cho quả tái tục sanh làm người, chư thiên, chúng sanh khổ cảnh theo tương ứng. Vì không có chúng sanh nào hiện hữu trong thế gian này mà không có khinh tác nghiệp.

    Lại nữa, giữa cận tử nghiệp và thường nghiệp cả hai nghiệp này không cần phải đề cập về việc cho quả trong kiếp thứ hai. Khi nhận xét về khía cạnh diễn tiến thông thường thì thường nghiệp có sức mạnh nhiều hơn cận tử nghiệp vì là nghiệp thường xuyên hành động. Vì vậy, trong sớ giải Thanh Tịnh Đạo và sớ giải Tăng Chi Bộ Kinh mới trình bày đến nghiệp cho quả theo tuần tự rằng:

    "Aparampi catubbidhaṃ kammaṃ yaṃ garukaṃ yaṃ bahulaṃ yadāsannaṃ kaṭatā vā pana kammanti". Một trường hợp khác nữa, nghiệp có bốn loại nói theo sự cho quả theo tuần tự:

    - Garukakamma: Trọng nghiệp.

    - Bahulakamma: Nghiệp hằng làm nhiều lần.

    - Āsannakamma: Cận tử nghiệp.

    - Kaṭattākamma: Nghiệp đã từng hành động trong kiếp trước.

    Cho dù thường nghiệp có sức mạnh nhiều hơn cận tử nghiệp, nhưng trong việc cho quả tái tục trong kiếp thứ hai thì cận tử nghiệp là nghiệp sanh lên lúc gần lâm chung thường quan trọng hơn nhiều. Thông thường thì người sắp lâm chung thì nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng một trong ba tướng cảnh sẽ hiển lộ trong đổng lực cận tử bằng mãnh lực của nghiệp cho quả tái tục trong kiếp thứ hai và là nghiệp có mãnh lực đem đến một trong ba tướng cảnh (Nimitta) cho hiển lộ lên được trong đổng lực cận tử. Chính cận tử nghiệp này sanh lên gần với đổng lực cận tử nên thường có cơ hội nhiều hơn thường nghiệp. Như người chăn bò lùa cả đàn bò có cả bò già lẫn bò non vào trong chuồng. Khi cả đàn bò vào chuồng rồi thì con bò già chậm chạp đi sau cùng lại đứng ngay sát cửa chuồng. Vừa rạng đông, người chăn bò mở cửa chuồng lùa bò ra thì con bò già ấy lại có cơ hội ra trước cả đàn mặc dù sức nó già yếu. Điều này như thế nào thì cận tử nghiệp nói về sức mạnh thì yếu hơn thường nghiệp thật, nhưng là nghiệp sanh lên gần với đổng lực cận tử và có khả năng làm cho một trong ba tướng cảnh (Nimitta) hiển lộ lên được. Từ đó, khẳng định được rằng, chính nghiệp này là nghiệp dẫn dắt chúng sanh tái tục trong cõi thứ hai. Do đó, trong Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammatthasaṅgaha) mới trình bày đến nghiệp cho quả theo tuần tự bằng cách nêu cận tử nghiệp lên trước thường nghiệp.

    Điều dẫn chứng nêu lên: Con bò già đứng gần sát cửa chuồng thường ra khỏi chuồng trước các con bò non đang đứng phía sau. Nhưng nếu con bò già đó không đủ sức mạnh ra khỏi chuồng thì các con bò khác đứng phía sau cũng có cơ hội ra khỏi chuồng trước con bò già. Dẫn chứng trên cho ta thấy: Cận tử nghiệp yếu sức mạnh thì không có khả năng đem đến một trong ba tướng cảnh (Nimitta) cho hiển lộ lên trong đổng lực cận tử được. Cho nên nếu cận tử nghiệp yếu sức mạnh thì cơ hội cho quả tái tục trong kiếp thứ hai phải là thường nghiệp đảm nhận vai trò làm cho một trong ba tướng cảnh hiển lộ lên trong đổng lực cận tử cho quả tái tục trong kiếp thứ hai. Như vậy thì thường nghiệp phải đứng thứ hai theo thứ tự và cận tử nghiệp xuống đứng thứ ba đúng theo sớ giải Thanh Tịnh Đạo và sớ giải Tăng Chi Bộ Kinh đã trình bày.

    Lại nữa, theo sớ giải Thanh Tịnh Đạo thì sự cho quả của nghiệp theo tuần tự bằng cách nêu thường nghiệp lên trước cận tử nghiệp để cho hiểu thêm được rằng: Cận tử nghiệp của người đó nếu yếu thì khinh tác nghiệp và thường nghiệp không có khả năng hỗ trợ cho cận tử nghiệp cho quả tái tục được. Do nhân này mới xuống tới chức năng của thường nghiệp cho quả tái tục bởi nhận được sự trợ giúp ủng hộ từ khinh tác nghiệp, chính là hậu báo nghiệp.

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.